Chuyên đề Mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hồ

MỞ ĐẦU Trong giai đoạn hiện nay, khi mà thực tiễn phát triển kinh tế của Việt Nam đang dần hội nhập với thế giới, sự phát triển của thị trường tài chính là một đòi hỏi tất yếu. Thị trường tài chính trực tiếp mà điển hình là thị trường chứng khoán, những năm gần đây đã được cung cấp các yếu tố như môi trường pháp lý , tổ chức trung gian hỗ trợ phát triển để tạo ra kênh huy động vốn mới cho nền kinh tế. Nhưng nó vẫn cần có thời gian phát triển ổn định để thực hiện chức năng này. Do vậy, nhiệm vụ hàng đầu mà nền kinh tế đặt ra là huy động vốn cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước đang đặt lên vai các ngân hàng thương mại (NHTM) - thị trường tài chính gián tiếp điển hình nhât, với tư cách là kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế . Sự ra đời của các ngân hàng 100% vốn nước ngoài ra đời làm cho quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết , trong đó sự giành giật thị phần từ nguồn vốn huy động từ dân cư đang có xu hướng giảm trong khối ngân hàng thương mại nhà nước so với các ngân hàng khác.Ngân hàng NHNo chi nhánh Tây Hồ nằm trong khối chi nhánh của một trong những ngân hàng thương mại nhà nước đứng ở tốp đầu nên vấn đề huy động vốn trong dân cư cũng được chi nhánh đặc biệt quan tâm. Vì những lý do trên, em đã chon đề tài: “Mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNo) chi nhánh Tây Hồ" làm đề tài cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm 3 chương: Chương 1: Hoạt động huy động vốn tiền gửi dân cư của ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Chương 3: Giải pháp tăng cường và một số kiến nghị về mở rộng huy động vốn tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG 1: MỞ RỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI DÂN CƯ Ở NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại 1.1.2. Các hoạt động của ngân hàng thương mại 1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn 1.1.2.2. Hoạt động tín dụng và đầu tư 1.1.2.3. Các hoạt động khác 1.2. Huy động tiền gửi dân cư ở NHTM 1.2.2. Vai trò huy động tiền gửi dân cư ở NHTM 1.2.2.1. Đặc điểm nguồn tiền gửi dân cư 1.2.2.2. Vai trò huy động tiền gửi dân cư của NHTM 1.2.3 Các hình thức huy động tiền gửi dân cư của ngân hàng thương mại 1.2.3.1. Huy động tiền gửi tiết tiết kiệm dân cư a. Theo kỳ hạn b. Theo loại tiền c. Theo phương thức trả lãi d. Theo phương thức nộp gốc 1.2.3.2. Huy động dưới hình thức phát hành giấy tờ có giá 1.2.3.3. Huy động dưới hình thức mở tài khoản thanh toán cá nhân 1.3. Mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở NHTM 1.3.1. Khái niệm mở rộng huy động tiền gửi dân cư của NHTM 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ mở rộng huy động tiền gửi dân cư 1.3.3. Các nhân tố tác động đến huy động tiền gửi dân cư của NHTM 1.3.3.1. Nhân tố khách quan 1.3.3.2. Nhân tố chủ quan CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG MỞ RỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI DÂN CƯ Ở NHNo CHI NHÁNH TÂY HỒ 2.1. Khái quát về NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.1.2. Bộ máy tổ chức của NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo chi nhánh Tây Hồ giai đoạn 2005- 2007 2.1.3.1. Tình hình huy động vốn của chi nhánh NHNo Tây Hồ 2.1.3.2. Tình hình sử dụng vốn của NHNo chi nhánh Tây Hồ Hoạt động cho vay Tình hình dư nợ của NHNo chi nhánh Tây Hồ Tình hình dư nợ theo thành phần kinh tế của NHNo chi nhánh Tây Hồ Hoạt động bảo lãnh Các hoạt động dịch vụ 2.2. Thực trạng mở rông huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.2.1. Cơ cấu huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.2.2. Tình hình mở rộng huy động tiết kiệm dân cư 2.2.3. Huy động tiền gửi dân cư thông qua phát hành giấy tờ có giá ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.3. Đánh giá huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.3.1. Những thành tựu đạt được 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI DÂN CƯ Ở NHNo CHI NHÁNH TÂY HỒ 3.1. Định hướng phát triển của NHNo chi nhánh Tây Hồ đến năm 2010 3.2. Giải pháp mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi dân cư 3.2.2. Mở rộng mạng lưới hoạt động 3.2.3. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng 3.3. Một số kiến nghị KẾT LUẬN

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Tây Hồ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền thống của ngân hàng, các hợp đồng bảo lãnh được thực hiện tốt cũng góp phần lớn vào thu nhập của ngân hàng. Sau đây là những số liệu về hoạt động bảo lãnh của chi nhánh. Bảng 2.4: Hoạt động bảo lãnh của NHNo chi nhánh Tây Hồ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 % tăng/giảm năm 06 so với 05 %Tăng/giảm năm 07 so với 06 1. Số món bảo lãnh Trong đó: 137 145 176 5.84% 21.38% Bảo lãnh dự thầu 92 105 120 14.13% 14.29% Bảo lãnh thực hiên hợp đồng 22 21 29 -4.55% 38.10% Bảo lãnh thanh toán 5 4 6 -20.00% 50.00% Bảo lãnh khác 18 15 21 -16.67% 40.00% 2. Giá trị bảo lãnh 22838.59 5543.95 23123.64 -75.73% 317.10% ( Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005- 2007) Những số liệu đã cung cấp ở trên cho ta thấy : Số món bảo lãnh của chi nhánh có xu hướng tăng dần : năm2006 tăng 5.84% so với năm 2005( đạt 145 món vay), và năm 2007 chi nhánh cũng thực hiện được 176 món vay( tăng 21.38% so với 2006) như vậy là tốc độ tăng cũng lớn dần lên qua các năm. Trong đó chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là các món thuộc bảo lãnh dự thầu. Xét về giá trị bảo lãnh thì năm 2006 chỉ đạt hơn 5 tỷ ( giảm 75.73% so với năm 2005) có thể là do năm 2006 giá trị các hợp đồng bảo lãnh là nhỏ, hơn nữa năm 2006 là năm mà hoạt động cho vay của chi nhánh có xu hướng tăng rất mạnh nên cũng tác động không nhỏ đến các hoạt động trung gian khác trong đó có hoạt động bảo lãnh. Đến năm 2007 giá trị bảo lãnh của chi nhánh đã tăng trở lại :Đạt 23123.64 Tr đồng( tăng 317% so với năm 2006). Đơn vị đã có các biện pháp thích hợp để cân bằng lại hoạt động bảo lãnh. Các hoạt động dịch vụ Đây là hoạt động mà ngân hàng thực hiện theo yêu cầu của khách hàng nhằm tăng tiện ích cho các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Đồng thời đây cũng là loại hình dịch vụ mang lại thu nhập và nâng cao tính cạnh tranh cho ngân hàng. Năm 1995 NHNo Hà Nội bắt đầu với hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ, là chi nhánh trực thuộc nên từ những năm đầu thành lập ở đây đã áp dụng các hoạt động trung gian này, đến giờ là chi nhánh trực thuộc NHNo chi nhánh Hồng Hà, Ngân hàng Tây Hồ vẫn tiếp tục chú trọng phát triển các hoạt động dịch vụ, mặc dù so với các đơn vị khác trong cùng nganh thì đối với chi nhánh đây vẫn còn là dịch vụ mới mẻ. + Hoạt động kinh doanh ngoại tệ Đồ thị 2.2: Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo chi nhánh Tây Hồ (Nguồn: Bảng kết quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHNo chi nhánh Tây hồ năm2005-2007) Xem xét tình hình kinh doanh ngoại tệ qua 3 năm ta thấy lãi thu từ hoạt động này có xu hướng giảm : năm 2007 chỉ đạt hơn 50 tr đồng (giảm 30% so với năm 2006) do chi phí tăng cao hơn nữa đây không phải là hoạt động thế mạnh của chi nhánh mà chỉ là cung cấp dịch vụ một cách còn thô sơ, cần có sự nâng cao hơn nữa về trình độ nghiệp vụ. + Hoạt động thanh toán quốc tế Trong hoạt động thanh toán quốc tế chi nhánh cung cấp các dịch vụ: Chuyển tiền ra nước ngoài, phát hành L/C, sửa đổi L/C, thanh toán L/C, các dịch vụ thu hộ chi hộ phục vụ xuất nhập khẩu. Bảng 2.5: Hoạt động thanh toán quốc tế của NHNo chi nhánh Tây Hồ Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Số tiền Tăng/giảm Số tiền Tăng/giảm Thu từ thanh toán quốc tế 350163.92 339659.3 -3.00% 332259 -2.18% Chi cho hoạt động thanh toán quốc tế 2.53 2.65 4.74% 5.56 109.81% Thu lãi từ hoạt động thanh toán quốc tế 350161.39 339656.65 -3.00% 332253 -2.18% ( Nguồn: bảng kết quả hoạt động thanh toán quốc tế ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005- 2007) Có thể nhận thấy lãi từ hoạt động thanh toán quốc tế đóng góp đáng kể hơn so với lãi từ kinh doanh ngoại tệ vào thu nhập từ hoạt động của chi nhánh do lượng L/C mà chi nhánh phuc vụ cho các đơn vị để đáp ứng nhu cầu thanh toán xuất nhập khẩu là lớn. Song nhìn vào bảng số liệu trên cũng đưa ta đi đến một kết luận là lãi thu từ hoạt động thanh toán ở chi nhánh có xu hướng giảm qua các năm: năm 2007 chỉ đạt 326.698 Tr đồng( giảm 3.06% so với năm 2006) .Điều đó có thể được giải thích do sư gia tăng về chi phí phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế, các vấn đề về biến động của tỷ giá, nhưng dù sao thì hoạt động này cũng đem lại một nguồn thu không nhỏ cho chi nhánh và quan trọng hơn đẩy mạnh được hoạt động này phát triển sẽ tạo điều kiện ngân hàng tiến gần hơn với xu hướng : tăng dần tỉ trọng của mảng hoạt động dịch vụ trong ngân hàng thay vì chỉ có hoạt động truyền thống là tín dụng … Các hoạt động khác Hiện nay, do đòi hỏi của nền kinh tế hiện đại cũng như là sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng , chi nhánh cũng tiến hành các hoạt động dịch vụ khác như: Chuyển tiền điện tử,mở tài khoản cá nhân, phát hành thẻ ATM, chi trả Western Union, đại lý thẻ tín dụng. Mặc dù các dịch vụ ngân hàng hiện đại chưa phải là thế mạnh của chi nhánh Tây Hồ cũng như của NHNo Việt Nam, nhưng hi vong rằng với định hướng phù hợp , hoạt động dịch vụ của chi nhánh sẽ đóng góp một phần lớn trong tổng lợi nhuận của chi nhánh. Có thể nói hoạt động kinh doanh của chi nhánh đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ song vẫn còn những khía cạnh cần phải khắc phục để có thể sánh với tầm vóc của hệ thộng NHNo Việt Nam để nâng cao sức cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động của mình. Điều đó thể hiện trực tiếp qua thu nhập của ngân hàng trong 3 năm từ 2005 đến 2007: Năm 2006 lợi nhuận của chi nhánh đạt được là 12714.33 triệu đồng, tăng 20.65% so với năm 2005, nhưng năm 2007 lợi nhuận giảm 22.38% so với năm 2006 (chỉ đạt 9868.98 triệu đồng). Nguyên nhân do trong năm 2007 thu nhập chỉ tăng 37.8% so với năm 2006 (đạt 73212.49 triệu), trong khi đó chi phí tăng tới 56.73% so với năm 2006 (63343.49 triệu), trong đóchi phí tăng cao nhất là chi phí về hoạt động huy động vốn tăng 52% so với 2006, chi phí dự phòng và chi phí bảo hiểm tiền gửi cũng tăng lên nhiều so với 2006, tiếp đến là chi về tài sản cũng tăng lên trong năm 2007. Những thay đổi về về lợi nhuận của chi nhánh phần nào đều đã phản ánh từ những hoạt động trên đây, nhưng nó cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan khác như chiến lược kinh doanh của ban lãnh đạo NHNo trong từng thời kỳ( ví dụ: tăng cường đầu tư ở một thời kỳ nào đó làm cho lợi nhuận tạm thời giảm đi). Với những thành quả đã đạt được , hoạt động kinh doanh của chi nhánh nếu phát huy được những thế mạnh sẵn có và khắc phục được những hạn chế, sẽ trở thành một mắt xích quan trọng của toàn hệ thống NHNoVN. Và trong khuôn khổ của chuyên đề này em xin đi xâu vào một hoạt động điển hình của ngân hàng là huy động vốn cụ thể là huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ. 2.2. Thực trạng mở rông huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Giai đoạn 2005-2007 từ phía nền kinh tế vĩ mô cũng tạo ra những thuận lợi và khó khăn với công tác huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ. Trước nhất là những thuận lợi: trong thời gian này nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng mạnh trong thời kỳ hội nhập, năm 2005 GDP đạt 8,4% và đến năm 2007 là 8,5% cao hơn mức bình quân 20 năm đổi mới( bình quân 7,5% năm). Năm 2006 và 2007 cũng là thời gian diễn ra nhiều sự kiện kinh tế quan trọng với nước ta, kim ngạch xuất nhập khẩu, nguồn vốn FDI và ODA đều tăng mạnh. Ngành ngân hàng Việt Nam cũng có những bước chuyển biến tích cực, luật các tổ chức tín dụng đã và đang dần hoàn thiện, tiến trình cổ phần hóa các NHTM quốc doanh tạo động lực mạnh mẽ, đòi hỏi các tổ chức tín dụng từng bước đổi mới để tăng tính cạnh tranh trong môi trường kinh doanh quốc tế. Bên cạnh những thuận lợi nền kinh tế cũng gặp rất nhiều khó khăn: Thiên tai lụt lội làm ảnh hưởng xấu tới hoạt động sản xuất kinh doanh của địa phương, sự biến động giá cả trong nước đặc biệt là giá vàng giá đô la biến động khó lường đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người dân, áp lực của hội nhập kinh tế quốc tế môi trường có nhiều sự cạnh tranh gay gắt. Hoạt động ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn khi các kênh huy động vốn ngày càng thu hẹp thị phần của ngân hàng. Việc Việt Nam gia nhập WTO cũng gây không ít thách thức đối với hệ thống ngân hàng mà đặc biệt là hệ thống NHNo Việt Nam khi mà bề dạy hoạt động trên địa bàn đô thị phát triển còn nhỏ và NHNo chi nhánh Tây Hồ cũng không năm ngoài những khó khăn đó. Sau đây là tình hình mở rộng của từng loại hình huy động tiền gửi dân cư của chi nhánh bao gồm: huy động tiết kiệm dân cư, phát hành giấy tờ có giá, tài khoản cá nhân. 2.2.1. Cơ cấu huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Do hình thức huy động tiền gửi thanh toán thông qua nghiệp vụ mở tài khoản thanh toán cá nhân cho khách hàng chưa thực sự phát triển ở NHNo chi nhánh Tây Hồ nên kết quả còn khiêm tốn. Do vậy bài này chỉ đề cập đến hai hình thức huy động đầu tiên. Bảng2.6: Cơ cấu huy động tiền gửi dân cư ơ NHNo chi nhánh Tây Hồ Đơn vị: Triệu đồng Năm năm 2005 năm 2006 năm 2007 Chỉ tiêu Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Nguồn vốn dân cư 176340 100% 287827 100% 208343 100% Tiết kiệm dân cư 134564 76.3% 230977 80.2% 155863 74.8% Phát hành GTCG 41776 23.7% 56580 19.7% 52480 25.2% (Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007) Đơn vị: triệu VND Đồ thị 2.3: Cơ cấu huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2005- 2007 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác huy động tiền gửi ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005- 2007) Qua bảng số liệu và bảng biểu ta thấy huy động tiền gửi dân cư ở chi nhánh có xu hướng tăng năm 2006 ( đạt gần 300 tỷ) so với năm 2005( đạt 176, 340 tỷ) xong năm 2007 lại chỉ đạt 208,343 tỷ giảm 38,1% so với năm 2006, dĩ như vậy không phải là tình hình huy động từ dân cư yếu kém đi mà do những chính sách chỉ đạo từ cấp trên đối với chi nhánh là đặc biệt chú tâm tới công tác này vào năm 2006. Xét về cơ cấu huy động tiền gửi dân cư ta thấy chiếm tỉ trọng lớn hơn là tiền tiết kiệm dân cư: năm 2006 là 80,2% và năm 2007 là 74,8%, đây cũng là điều dễ hiều vì tiết kiệm dân cư là loại hình truyền thống và phù hợp với trình độ của các ngân hàng Việt Nam nói chung và chi nhánh Tây Hồ nói riêng. Tiết kiệm dân cư năm 2006 cũng có mức tăng mạnh so với năm 2005 và đạt 230977 triệu VND. Có được mức tăng này do chi nhánh đã tích cực đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư bằng các biện pháp như mở rộng phạm vi và hình thức huy động. Ngoài ra khi phân tích về cơ cấu huy động tiền gửi dân cư còn có cơ cấu tiền gửi dân cư theo kỳ hạn. Tiết kiệm dân cư và phát hành giấy tờ có giá là 2 phương thức chủ yếu mà ngân hàng tiến hành huy động vốn từ dân cư. Để biết được lượng vốn huy động được từ những đối tượng này thì cần thiết phải đi sâu vào từng phương thức. 2.2.2. Tình hình mở rộng huy động tiết kiệm dân cư 2.2.2.1. Cơ cấu huy động tiết kiệm dân cư theo kỳ hạn Với chủ trương mở rộng nguồn vốn huy động dân cư bằng khả năng có thể chi nhánh ngày càng tạo cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn, sự đa dạng về kỳ hạn tiết kiệm cũng nằm trong chính sách đó Bảng2.7: Cơ cấu huy động tiết kiệm dân cư theo kỳ hạn ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007 Đơn vị: triệu VND Năm năm 2005 năm 2006 năm 2007 chỉ tiêu Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Không kỳ hạn 2373 2.4% 658 0.5% 2694 2.4% Kỳ hạn dưới 12 tháng 72009 71.8% 82383 60.8% 83726 75.8% Kỳ hạn trên 12 tháng 25962 25.9% 37110 27.4% 23971 21.7% Tiền gửi tiết kiệm dân cư 100344 100% 135515 100% 110391 100% ( Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007) Đồ thị 2.4:Cơ cấu huy động tiết kiệm dân cư theo kỳ hạn ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005- 2007 ( Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007) Từ bảng biểu trên ta thấy: Tiền gửi không kỳ hạn liên tục giảm qua các năm: năm 2005 chi nhánh huy động ở mức 2373 triệu VND, đến năm 2006 đã giảm xuống 658 triệu VND với một tốc độ khá lớn và đến năm 2007 chỉ còn 649 tỷ tương ứng giảm 1.3%. Sự biến động này do 2 nguyên nhân từ phía dân cư do nhu cầu hưởng lãi suất nên hầu hết đều tìm đến dịch vụ gửi tiền có kỳ hạn và thư hai là từ phía ngân hàng mặc dù đây là nguồn huy động có chi phí thấp nhưng do nhu cầu sử dụng vốn mà chi nhánh trong thời gian gần đây đã chú trọng hơn đến các loại tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn hơn , điều này cũng được phản ánh ở trên; năm 2005 tiết kiệm kỳ hạn dưới 12 tháng đạt 72009 triệu VND nhưng đến năm 2006 là 82383 Triệu( tăng 14,4% so với năm 2005) ,tỷ trọng của tiền gửi kỳ hạn cũng tăng: năm 2005 là 71,8% đến năm 2007 là 77,7%. Tiết kiệm kỳ hạn trên 12 tháng năm 2006 đạt 37110 triệu( chiếm 27,4%) và tăng so với năm 2005( 25962 triệu) nhưng chỉ tiêu này lai giảm vào năm 2007 cho thấy sự biến động không đều giữa các năm. Nhìn vào biểu đồ ta thấy chiếm tỷ trọng lớn hơn cả là tiền gửi có kỳ hạn , còn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là nhỏ không đáng kể. Tiền gửi có kỳ hạn lớn cũng là một lợi thế với chi nhánh bởi lẽ việc thuận lợi trong sử dụng nguồn vốn này để cho vay hoặc đầu tư. 2.2.2.2. Cơ cấu tiền gửi tiết kiêm theo hình thức huy động ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Bên cạnh hình thức huy động tiết kiệm thông thường, trong bối cảnh cạnh tranh nguồn vốn huy động giữa các ngân hàng hay giữa NHTM với các tổ chức tài chính trung gian khác các ngân hàng thời gian gần đây còn cho ra đời các hình thức tiết kiệm bậc thang, dự thưởng, các hình thức này cũng được ban lãnh đạo chi nhánh áp dụng từ rất sớm. Bảng2.8: Cơ cấu tiết kiệm dân cư theo hình thức huy động ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007 Đơn vị: triệu VND Năm 2005 2006 2007 Chỉ tiêu Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Doanh số Tỷ trọng Tiết kiệm dân cư 134564 100% 230977 100% 155863 100% Tiết kiệm thông thường 100344 74.6% 135515 58.7% 110391 70.8% Tiết kiệm bậc thang 34120 25.4% 95210 41.2% 45321 29.1% Tiết kiệm dự thưởng 100 0.1% 252 0.1% 151 0.1% ( Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007) Đồ thị2.5: Cơ cấu tiết kiệm dân cư theo loại hình huy động ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007 (Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi ở NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007) Số liệu trong bảng cho thấy các sản phẩm huy động tiền gửi dân cư của NHNo đã được mở rộng với các hình thức đa dạng hơn. Trước năm 2005 chỉ có một loại hình là huy động tiết kiệm thông thường, nhưng từ khi ra đời 2 sản phẩm mới này có nhiều ưu thế, đem lại cho khách hàng nhiều tiện ích nên đã được khách hàng quan tâm và tham gia. Mặc dù vậy thì tiết kiệm thông thường vẫn là hình thức huy động được lượng tiền gửi lớn nhất từ khách hàng. Tỷ trọng tiết kiệm thông thường năm 2005 là 74,6%, năm 2006 thì tỷ trọng này giảm còn 58,7% và đến năm 2007 đạt 71% có tăng so với năm 2006 song vẫn thấp hơn so với năm 2005 về tỷ trọng. Tuy nhiên xét về lượng thì huy động tiết kiệm vẫn có xu hướng tăng qua các năm . Lý giải cho sự thay đổi trên là chi nhánh vẫn chủ trương khai thác triệt để nguồn tiết kiệm dân cư song trên cơ sở áp dụng nhiều hình thức khác nhau bên cạnh hình thức truyền thống là tiết kiệm thông thường. Hình thức tiết kiệm thứ 2 là tiết kiệm bậc thang có xu hướng tăng mạnh vào năm 2006 đạt 95210 triệu( tăng 179% so với năm 2005) đây là do trong năm 2006 hình thức này bắt đầu được đối tượng dân cư ở địa bàn quận cũng như khu vực lân cận hưởng ứng nhiệt tình. Có sự chuyển hướng này là do khách hàng đã nhận thấy được những tiện ích mà các hình thức mới mang lại. 2.2.2.3. Huy động tiết kiệm thông thường ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Đây là hình thức huy động các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng của mọi đối tượng công dân Việt Nam và công dân nước ngoài có thời hạn lưu trú hợp pháp tại Việt Nam. Loại hình này có nhiều kỳ hạn rất linh hoạt như: không kỳ hạn, có kỳ hạn 01 tháng, có kỳ hạn 02, 03, 06,09, 12, 18, 24, và trên 24 tháng, tương ứng với mỗi kỳ hạn và loại tiền thì có mức lãi suất phù hợp để khách hàng lựa chọn. Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, nếu mà hết hạn khách hàng chưa đến rút gốc thì cả gốc và lãi sẽ được nhập gốc và chuyển sang kỳ hạn mới tương ứng với mỗi kỳ hạn, áp dụng lãi suất hiện hành cho kỳ hạn mới. Với các khoản tiền gửi từ 6 tháng trở lên ngân hàng áp dụng nhiều hình thức trả lãi khác nhau: trả lãi hàng tháng, trả lãi 3 tháng một lần, và bội số của 3 tháng. Khi gửi tiền theo hình thức nay khách hàng sẽ được cấp một cuốn sổ tiết kiệm, nếu cần tiền khi chưa đến hạn thì khách hàng có thể dùng sổ này để vay, thế chấp, cầm cố, chiết khấu hoặc rút vốn trước hạn. Lãi suất cho vay= lãi suất trên sổ tiết kiệm + tối thiểu 2%/ tháng Khi rút trước hạn thì khách hàng được hưởng lãi suất như sau: Nếu thời hạn gửi thực nhỏ hơn 2/3 thời gian cam kết thì hưởng lãi không kỳ hạn. Nếu thời gian thực gửi bằng 2/3 thời gian cam kết trở lên thì khách hàng được hưởn lãi suất bằng 75% lãi suất cùng kỳ hạn tại thời điểm rút vốn. Đây là hình thức huy động tiết kiệm dân cư phổ biến nhất ở NHNo chi nhánh Tây Hồ. Do tính linh hoạt về kỳ hạn, lãi suất, số tiền gửi nên hình thức tiết kiệm này thu hút được nhiều khách hàng và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng số tiền gửi huy động từ dân cư qua nhiều năm của chi nhánh. Lãi suất tiết kiệm thông thường: hiện nay, NHNo chi nhánh Tây Hồ đang huy động tiết kiệm với biểu lãi suất sau: Bảng2.9: Lãi suất huy động tiết kiệm thông thường( VND, USD) tại NHNo chi nhánh Tây Hồ từ ngày 1/11/2007 Đơn vị : %/ tháng hoặc % / năm Kỳ hạn gửi VND( %/ tháng) USD( %/ năm) Không kỳ hạn 0,25 1,25 Kỳ hạn 01 tháng 0,6 3,80 Kỳ hạn 02 tháng 0,62 4,00 Kỳ hạn 03 tháng 0,63 4,20 Kỳ hạn 06 tháng 0.65 4,35 Kỳ hạn 09 tháng 0.68 4,50 Kỳ hạn 12 tháng 0,70 5,00 Kỳ hạn 18 tháng 0,74 5,20 Kỳ hạn 24 tháng 0,77 5,30 Kỳ hạn trên 24 tháng 0,78 5,40 (Nguồn: Biểu lãi suất của phòng kế toán giao dịch tại NHNo chi nhánh Tây Hồ từ ngày 1/11/2007) Bảng 2.10: Tình hình huy động tiết kiệm thông thường theo loại tiền tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005-2007 Đơn vị: triệu VND Năm năm 2005 năm 2006 năm 2007 Chỉ tiêu Doanh số Tỷ trọng % Doanh số Tỷ trọng % Doanh số Tỷ trọng % Tiết kiệm thông thường 100344 100% 135515 100% 110391 100% Nội tệ 30806 30.7% 58678 43.3% 52436 47.5% Ngoại tệ 69538 69.3% 76837 56.7% 57955 52.5% ( Nguồn: Báo cáo huy động tiền gửi tại NHNo chi nhánh Tây Hồ năm 2005- 2007) Nhìn vào bảng trên ta thấy tiền gửi tiết kiệm có sự biến đổi không đều : tăng lên trong năm 2006( Tăng 35171 triệu so với năm 2005) nhưng đến năm 2007 lượng tiết kiệm thông thường chỉ đạt 110391 triệu ( giảm 22,75% so với năm 2006). Nguyên nhân là từ năm 2006 chi nhánh đã triển khai nhiều hình thức hấp dẫn nên thu hút được khách hàng tham gia nên tiền gửi nói chung có xu hướng tăng song huy động tiết kiệm thông thường lại có sự biến động phức tạp và có xu hướng giảm. Tiết kiệm huy động bằng ngoại tệ có sự biến động mạnh hơn nội tệ do những biến động của đồng đô la trong thời gian vừa qua. Trước tình hình tín dụng ở Mỹ đang biến động xấu và đồng tiền nước này đang rất khó nắm bắt về xu thế của nó nên huy động tiết kiệm bằng VND có xu hướng tăng so với USD ở các ngân hàng và chi nhánh Tây Hồ cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Việc tìm hiểu về hình thức huy động tiết kiệm thứ 2 cũng sẽ phần nào lý giải thêm cho tình hình huy động tiết kiệm dân cư ở chi nhánh trong 3 năm qua 2.2.2.4. Huy động tiết kiệm bậc thang ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Tiết kiệm bậc thang là hình thức tiết kiệm mà khách hàng được hưởng lãi tùy theo thời gian gửi. Với hình thức này khách hàng chỉ cần gửi tiền gốc một lần vào sổ tiết kiệm nhưng có thể được rút gốc vào bất cứ lúc nào, ngân hàng sẽ trả lãi tương ứng với phần gốc đó. Đến hạn nếu khách hàng không đến lĩnh, ngân hàng sẽ nhập lãi vào gốc và được hưởng lãi suất tương ứng với các bậc tương ứng tại thời điểm chuyển. Đây là sản phẩm tiền gửi mới được ngân hàng triển khai từ năm 2004 nhưng đã thu hút được lượng lớn khách hàng gửi tiền do những tiện ích về lãi suất và cách rút gốc linh hoạt. Ngân hàng đã nhanh chóng đưa tiết kiệm bậc thang bằng VND, USD vào bổ sung cho danh mục sản phẩm tiền gửi đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Bảng 2.11: Lãi suất huy động tiết kiệm bậc thang tại NHNo chi nhánh Tây Hồ từ 1/11/2007 Bậc Thời gian gửi VND( %/ tháng) USD(%/ năm) 1 Dưới 01 tháng 0,25 1,25 2 Từ 01T đến dưới 03T 0,63 3,80 3 Từ 06T đến dưới 12T 0,65 4,20 4 Từ 12T đến dưới 18T 0,70 4,50 5 Từ 18T đến dưới 24T 0,74 5,10 6 Trên 24T 0,76 5,20 7 0,78 5,50 (Nguồn: Biểu lãi suất của phòng kế toán giao dịch tại NHNo chi nhánh Tây Hồ từ 1/11/2007) Có thể nói hình thức tiết kiệm này tuy còn rất mới mẻ song được sự chỉ đạo từ NHNo Việt Nam chi nhánh cũng đã kịp thời đưa nó vào hoạt động với các kỳ hạn và lãi suất linh hoạt. Từ bảng cơ cấu huy động tiết kiệm dân cư ta thấy Quy mô và lượng tiền từ hình thức tiết kiệm bậc thang có su hướng ngay càng tăng . Đặc biệt là lượng tăng đột biến năm 2006( đạt 95210 triệu) tăng hơn gấp đôi so với năm 2005, vì vậy lượng huy đông từ hình thức nay vào năm 2007 giảm đi sẽ không kết luận rằng hình thức này không hiệu quả mà do kết quả năm 2006 vượt ngoài dự kiến của chi nhánh. Mặc dù năm 2006 TTCK Việt Nam vô cùng sôi động nhưng không vì thế mà lượng huy động từ trong dân của chi nhánh giảm đi chứng minh cho một điều rằng NHNo nói chung và chi nhánh Tây Hồ nói riêng đã có cách thức huy động vốn dân cư khá hiệu quả và huy động tiết kiệm bậc thang là một ví dụ. 2.2.2.5. Huy động tiết kiệm dự thưởng ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Với phương châm “Agribank mang phồn thịnh đến với khách hàng”, ngày 15/11/2004 NHNo Việt Nam phát hành đợt 1 tiết kiệm dự thưởng bằng vàng “ 3 chữ A” và quà tặng khuyến mại. Từ đó đến nay đã thu được kết quả khả quan. NHNo huy động tiết kiệm dự thưởng với tất cả khách hàng là cá nhân tự nguyện tham gia tiết kiệm dự thưởng và không rút tiền trước hạn. Khi khách hàng gửi tiền tùy theo là đồng VND hay USD, ngân hàng phát một sổ tiết kiệm có kỳ hạn ghi danh và có dấu với dòng chữ “ Dự thưởng toàn quốc” trên bìa sổ tiết kiệm đó. Kèm theo sổ tiết kiệm khách hàng được nhận phiếu tiết kiệm dự thưởng do NHNo phát hành. NHNo Việt Nam sẽ phối hợp với công ty xổ số kiến thiết thủ đô tổ chức quay số trúng thưởng tại Hà Nội theo hình thức quay số. Khách hàng trúng thưởng sẽ được nhận giải thưởng rất có giá trị là miếng vàng “3 chữ A”, thổng số giải thưởng là 1145 với giá trị là 320 cây vàng. Ngoài ra , khách hàng gửi từ 1 tỷ VND hoặc 60000 USD được tặng quà khuyến mại ngay khi gửi. Cũng như tiết kiệm thông thường, khách hàng gửi tiền tiết kiệm dự thưởng có thể vay cầm cố bằng sổ tiết kiệm dự thưởng tại chi nhánh nơi gửi tiền với lãi suất ưu đãi. Dưới đây là mức chi phí huy động tiết kiệm dự thưởng của NHNo chi nhánh Tây Hồ Bảng 2.12: Lãi suất huy động tiết kiệm dự thưởng tại NHNo chi nhánh Tây Hồ đến 1/8/2007 Kỳ hạn gửi VND(%/ tháng) USD( %/ năm) 07 tháng 0,67 4,5 13 tháng 0,73 5,0 24 tháng 0,74 5,2 ( Nguồn: biểu lãi suất phòng kế toán giao dịch NHNo chi nhánh Tây Hồ đến 1/8/2007) Qua 4 năm triển khai sản phẩm mới tiết kiệm dự thưởng bằng vàng “ 3 chữ A” NHNo chi nhánh Tây Hồ đã huy động được một lương tiền song còn rất nhỏ (từ 100 đến 200tr) so với tổng nguồn huy động từ dân cư một phần do phạm vi hoạt động cũng như là quy mô mới chỉ dừng lại ở chi nhánh cấp 2, hơn nữa hình thức huy động tiết kiệm này để đi vào hoạt động ngân hàng phải tốn chi phí lớn cho quảng cáo, chi phí quản lý và đặc biệt là chi phí cho giải thưởng nên lãi suất thực mà ngân hàng phải trả cao hơn lãi suất danh nghĩa. Những phân tích ở trên đã phác họa được phần nào tình hình huy động tiết kiệm dân cư ở chi nhánh những kết quả đó cũng ghi nhận những nỗ lực của chi nhánh trong hoạt động thu hút nguồn tiền của dân cư phục vụ cho kinh doanh và cũng là để khẳng định cho tên tuổi của NHNo. Nhưng thật là thiếu sót khi không nhắc đến một hình thức huy động dân cư phát hành giấy tờ có giá khi ngân hàng chủ động huy động cho hoạt động kinh doanh. 2.2.3. Huy động tiền gửi dân cư thông qua phát hành giấy tờ có giá ở NHNo chi nhánh Tây Hồ Là hình thức huy động vốn linh hoạt nhằm giải quyết những nhu cầu về vốn tức thời của ngân hàng. Căn cứ vào từng thời điểm và nhu cầu vốn tại từng thời điểm thì ngân hàng sẽ đưa ra hình thức huy động này. Trong giai đoạn 2005-2007 NHNo chi nhánh Tây Hồ đã tích cực sử dụng hình thức huy động này với kết quả như sau: Năm 2005 đạt 41776 triệu( chiếm 23.7% tổng nguồn huy động từ dân cư) Năm 2006 đạt mức 56580 triệu , chiếm 19,7% tổng nguồn huy động từ dân cư Năm 2007 lượng này giảm đi và đạt 52480 triệu song lại có mức tăng lên về tỉ trọng trong tổng nguồn là 25,2% Lượng tiền từ phát hành giấy tờ có giá tăng mạnh vào năm 2006 cho thấy phương thức huy động vốn này ở chi nhánh là khá hiệu quả, được người dân ủng hộ và nó cũng thể hiện uy tín của ngân hàng đối với khách hàng là dân cư trên địa bàn quận, đóng góp không nhỏ vào việc gia tăng nguồn vốn huy động trong thời kỳ này. Hình thức phát hành giấy tờ có giá ở NHNo chi nhánh Tây Hồ được đông đảo người dân ủng hộ một phần do lãi suất được tính trên cơ sở lãi suất thị trường vốn ngắn hạn tại thời điểm phát hành, phù hợp với chính sách lãi suất của nhà nước, đảm bảo hài hòa quyền lợi của người mua giấy tờ có giá và người vay vốn. Nhờ đó mà nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong dân chúng được gửi vào ngân hàng thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá ở NHNo Việt Nam nói chung và NHNo chi nhánh Tây Hồ nói riêng. Thông qua phát hành giấy tờ có giá NHTM đã có được lượng vốn lớn chủ động đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, tăng hệ số sử dụng vốn, tăng tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn . Nhưng nhược điểm lớn của hình thức này là lãi suất huy động binh quân thường cao nên không tính toán chi tiết đầu ra thì nguy cơ bị lỗ rất lớn bao gồm: tiếp thị, quảng cáo, nộp bảo hiểm tiền gửi, quy định về trữ lượng dự trữ bắt buộc… Có thể nói trong 3 năm từ 2005 đến 2007 hoạt động huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ diễn ra khá sôi nổi và đã đạt được những kết quả cụ thể như đã phân tích ở trên về các cách thức mà chi nhánh áp dụng nhằm mở rộng nguồn vốn này trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giưa các ngân hàng : các loại hình huy động tiết kiệm, các kỳ hạn được áp dụng , từ đó sẽ giúp chúng ta có thể đánh giá chính xác hơn về hoạt động huy động tiền gửi dân cư ở chi nhánh. 2.3. Đánh giá huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 2.3.1. Những thành tựu đạt được Trong giai đoạn 2005- 2007 NHNo chi nhánh Tây Hồ đã nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác huy động tiền gửi dân cư. Do nguồn tiền gửi dân cư có tính ổn định cao và thường có kỳ hạn dài. Từ đó ngân hàng đang chú trọng và tìm nhiều biện pháp đẩy mạnh huy động nguồn vốn này.Chính vì vậy ngân hàng đã đạt được một số thành tựu đáng kể sau: Tiền gửi dân cư tăng trưởng khá cao năm 2006,2007 so với năm 2005. Đặc biệt trong năm 2006 lượng tiền huy động từ dân cư đạt 287828 triệu VND. Có được kết quả này do chi nhánh đã làm tốt công tác khách hàng và không ngừng mở rộng mạng lưới phục vụ không chỉ bó hẹp trong địa bàn quận mà chi nhánh luôn chủ động tìm đến nguồn khách hàng ở các vùng lân cận. Có thể nói mục tiêu của công tác mở rộng huy động tiền gửi dân cư là tăng số lượng tiền huy động đã có kết quả khả quan ở chi nhanh và sẽ là cơ sở cho việc thực hiện các hoạt động kinh doanh sinh lời khác. Thứ hai về số lượng khách hàng cá nhân tìm đến với chi nhánh ngày càng tăng lên. Tính đến năm 2007 đã có trên 5000 khách hàng mở tài khoản để gửi tiền tại chi nhánh và đồng thời với các hoạt động khác như vay nợ, giao dịch, tăng hơn 30% so với năm 2005. Chi nhánh đã thực hiện những chính sách đúng đắn do chi nhánh Hồng Hà chỉ thị trong hoạt động mở rộng huy động vốn từ đối tượng dân cư, vì thế mà không chỉ có sự tăng lên về số lượng khách hàng mà còn đa dạng về thành phần khách hàng: có đủ mọi lứa tuổi, không chỉ là bó hẹp với đối tượng đã về hưu hay là các hộ nông dân- những đối tượng đặc trưng của NHNo. Có được kết quả đó là do : Ngân hàng từng bước tiến hành đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi dân cư. Trước hết ngân hàng đã đa dạng hóa các loại kỳ hạn khác nhau, các hình thức trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ, đa dạng hóa các loại tiền huy động. Bên cạnh đó mặc dù mới chỉ triển khai được vài năm song các hình thức huy động mới( tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng) đã thu hút được sự quan tâm của khách hàng với những ưu việt của nó là sự rút gốc linh hoạt.Từ đó tạo cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn hơn nâng cao khả năng cạnh tranh với các tổ chức tài chính khác trong việc thu hút lượng tiền vốn tam thời nhàn rỗi của dân cư cho phát triển kinh tế. Tiếp theo là về loại tiền huy động: Trong một nền kinh tế hội nhập và phát triển thì sự tồn tại và lưu thông của ngoại tệ ở một quốc gia là điều tất yếu, theo đó việc huy động vốn bằng USD ở chi nhánh Tây Hồ cũng được thực hiện và đạt hiệu quả cao. Cụ thể năm 2007 huy động được 52,5 tỷ bằng USD tăng 31% so với năm 2005, chủ yếu là đối tượng cá nhân là Việt Kiều. Sở dĩ có được những kết quả trên là do ngân hàng đã chú trọng đến việc đào tạo, bối dưỡng và tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên trong chi nhánh có nhu cầu nâng cao trình độ chuyên môn.Nói động lực từ phía nhân sự với hoạt động huy động tiền gửi dân cư của chi nhánh phải nói đến sự tài tinh sáng tạo của đôi ngũ lãnh đạo, điển hình là Giám đốc chi nhánh:ông Vũ Văn Lý với tuổi đời và tuổi nghề trong lĩnh vực tài chính, giám đốc đã mạnh dạn tìm tòi và đưa vào thực tiện nhiều sáng kiến cho công tác huy động tiền gửi dân cư: đó là huy động tiêt kiệm USD được đảm bảo bằng VND đã thu hút được đông đảo khách hàng đồng thời cũng khẳng định thêm tiếng nói của chi nhánh trong hệ thống, đây cũng là tấm gương cho các cán bộ nhân viên trong chi nhánh.. Do vậy mà khách hàng có thêm sự lựa chọn khi muốn gửi tiền ở chi nhánh. Số lượng tài khoản giao dịch ở chi nhánh Tây Hồ trong những năm gần đây đã có những cải thiện đáng kể, nó tăng lên cùng với sự tăng lên về số lượng khách hàng bao gồm cả tài khoản giao dịch và tài khoản tiền gửi tiết kiệm đạt 5320 tài khoản. Nhưng một yếu tố không thể thiếu khi nói đến sự hỗ trợ đắc lực cho sự gia tăng các tài khoản giao dịch là công nghệ ngân hàng. Được sự quan tâm từ chi nhánh Hồng Hà cũng như của NHNo Việt Nam, công tác tin học của chi nhánh cũng phát triển nhanh theo kịp yêu cầu về phát triển dịch vụ mới của NHNo Việt Nam. Toàn bộ các giao dịch tại chi nhánh đã được thực hiện theo chương trình hiện đại hóa, sử dụng hệ thống IPCAS trong các giao dịch với khách hàng và giao dịch nội bộ, hệ thống máy tính và máy in, thiết bị được lắp đặt đầy đủ theo kế hoạch của trung tâm công nghệ thông tin. Trong thời gian sắp tới, cụ thể là đầu năm 2008 sau khi chính thức đi vào hoạt động trên cương vị là chi nhánh cấp 1 thì chi nhánh Tây Hồ cũng sẽ đưa vào hoạt động chương trình điện tử liên ngân hàng CITAD, Phone- banking, thông tin báo cáo 477…Nhờ đó các nghiệp vụ như dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union, dịch vụ tài trợ tự động Phone- banking, nghiệp vụ thẻ được triển khai ngày càng tốt hơn. Bên cạnh những thành tích đạt được thì chi nhánh cũng không tránh khỏi một vài hạn chế 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1. Hạn chế Mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả huy động tiền gửi dân cư thì ở chi nhánh vẫn còn các mặt tồn tại sau: Tiền gửi dân cư tuy có tốc độ tăng trưởng khá cao song độ lớn của tốc độ tăng lại có xu hướng giảm năm 2007 so với năm 2006. Điều này chứng tỏ đã có một sự dịch chuyển vốn không nhỏ trong dân cư khi mà ở thời điểm nhạy cảm này thị trường bất động sản và TTCK đều rất nóng bỏng. Trong khi chiến lược phát triển theo đúng tinh thần chỉ đạo của NHNo Việt Nam là phải hướng công tác huy động vào đối tượng dân cư vì đây là nguồn tiền tương đối ổn định và lâu dài. Hơn nữa số lượng khách hàng tuy có sự cải thiện nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng: Quận Tây Hồ trong tương lai sẽ trở thành trung tâm kinh tế của thành phố, cùng với thương hiệu của NHNo từ nhiều năm nay, nếu tận dụng được những lợi thế đó thì lượng vốn huy động từ dân cư sẽ có ý nghĩa quan trọng hơn bao giờ hết với hoạt động kinh doanh của chi nhánh trong điều kiện sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Các hình thức huy động tuy có được đa dạng song vẫn còn đơn điệu, nghèo nàn và chưa thực sự hấp dẫn để thu hút tối đa lượng tiền tích lũy trong dân cư. Cơ bản vẫn sử dụng các hình thức huy động truyền thống bằng các thể thức tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá. Các hình thức huy động mới áp dụng còn chậm, chưa triển khai một số hình thức mà các NHTM trên thế giới đã áp dụng: tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm nhân thọ… Nguyên nhân của những mặt còn hạn chế kể trên có thể được lý giải như sau: 2.3.2.2. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan Tâm lý của người gửi tiền trên địa bàn: tâm lý người dân trên địa bàn Hà Nội rất phức tạp. Một bộ phận dân cư bị hút theo TTCK năm 2006,và thị trường bất động sản cuối năm 2007. Đây chính là những nguyên nhân khiến cho NHNo chi nhánh Tây Hồ hay phần lớn các ngân hàng trên địa bàn thủ đô khó khăn trong huy động vốn dân cư Xu hướng tiêu sài của giới trẻ Việt Nam: đặc biệt là trên các thành phố lớn một hiện tượng của giới trẻ hiện nay là cơn ghiền mua sắm họ thích tiêu xài hơn là tích lũy. Kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh trong những năm qua đã làm nên một lớp trẻ giàu có nhưng không quan tâm đến việc tích lũy. Xu hướng này có ảnh hưởng không nhỏ đến lượng vốn tiềm năng mà đáng lẽ ngân hàng sẽ huy động được. Bên cạnh đó tâm lý dùng tiền mặt của dân cư trên địa bàn còn một phần do thủ tục thanh toán qua ngân hàng còn chưa thực sự đơn giản, gây tâm lý e ngại cho người dân khi tìm đến với ngân hàng. Ngoài ra, một số văn bản nhà nước của ngành, của hệ thống NHNo Việt Nam còn chưa bổ sung hay chỉnh sửa phù hợp với hiện tại, gây khó khăn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nguyên nhân chủ quan Công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm dịch vụ và các nghiệp vụ ngân hàng tuy trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và mang lại hiệu quả nhất định song vẫn còn nhiều hạn chế ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Các sản phẩm dịch vụ và nghiệp vụ ngân hàng mới, nhiều tiện ích tuy đã được triển khai tới tận phòng giao dịch nhưng hiện nay vẫn còn rất ít khách hàng sử dụng, một phần là do cán bộ tại phòng giao dich chưa nắm chắc các nghiệp vụ, gây tâm lý không tin tưởng của khách hàng với các nghiệp vụ này. Hiệu quả của chính sách khách hàng trong huy động tiền gửi dân cư còn nhiều thiếu sót. Đặc biệt người dân sau khi gửi tiền còn thiếu thông tin vế sự thay đổi số dư, lãi suất, tỷ giá… Nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong dân cư còn khá lớn mà thời gian giao dịch của ngân hàng lại bó hẹp trong giờ hành chính, đã làm giảm đáng kể về nhu cầu sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Mặt bằng công nghệ so với thế giới còn lạc hậu. Hệ thống thông tin chưa phát triển đồng bộ, tự động hóa thấp, hầu như chưa thiết lập hệ thống quản lý “ rủi ro hợp lý” và chưa có chiến lược kinh doanh hiệu quả bền vững. Huy động tiền gửi dân cư một hoạt động cơ bản và cốt yếu để ngân hàng tiến hành kinh doanh sinh lời. Trên đây đã thể hiện những diễn biến cơ bản về hoạt động này ở NHNo chi nhánh Tây Hồ trong những năm vừa qua. Hơn bất kỳ ai , chi nhánh hiểu được tầm quan trọng của việc mở rộng huy động tiền gửi dân cư do vậy quá trình định hướng phát triển trong thời gian tới và các biện pháp để mở rộng hoạt động này sẽ có ý nghĩa quyết định với sự phát triển của chi nhánh để hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HUY ĐỘNG TIỀN GỬI DÂN CƯ Ở NHNo CHI NHÁNH TÂY HỒ 3.1. Định hướng phát triển của NHNo chi nhánh Tây Hồ đến năm 2010 Theo chủ trương đường lối phát triển kinh tế 10 năm 2002-2011 của đảng ta là: " Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại.... trong đó có đề cập đến đẩy mạnh phát triển trong ngành dịch vụ đóng vai trò trọng tâm. Trong những năm qua, NHNo Tây Hồ cũng như các ngân hàng khác trong và ngoài hệ thống đang nỗ lực từng bước mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tiếp cận với mọi đối tượng khách hàng ở nhiều thành phần kinh tế khác nhau: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần... Hoạt động tín dụng diễn ra vô cùng sôi động cùng với làn sóng đầu tư mạnh mẽ trong nền kinh tế cùng cac dịch vụ ngân hàng khác như kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế....Với sự quan tâm của nhà nước với ngành ngân hàng nói chung và NHNo Việt nam nói riêng trong đó có chi nhánh Tây Hồ đã đạt những thành quả nổi bật: Tổng dư nợ cho vay liên tục tăng qua các năm với tốc độ tăng trung bình đạt trên 10% và các dịch vụ khác để đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước với tốc độ trên 8% .Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân hàng, mục tiêu của NHNo Tây Hồ là tiếp tục phấn đấu trở thành 1 NHTM hàng đầu trong hệ thống NHNo . Ngân hàng đã kiên trì với định hướng phát triển là: tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức và cán bộ, cải tiến nâng cao chất lượng với khâu kế toán, nâng cao chất lượng cán bộ tham mưu tại trụ sở, tập trung đào tạo trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ nhân viên, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ tin học, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ, bổ sung quy chế điều hành với từng cấp quản lý tại ngân hàng vừa đảm bảo thực hiện đúng quy trình tác nghiệp, vừa xác định rõ công việc và trách nhiệm của mỗi cán bộ nhân viên. Coi trọng công tác huy động vốn, đặc biệt nguồn vốn huy động từ dân cư, nguồn vốn trung và dài hạn để tạo thế ổn định. Đồng thời đẩy mạnh quan hệ đối ngoại nhằm thu hút nguồn vốn uỷ thác đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Chú trọng đầu tư theo hướng chuyển dich cơ cấu kinh tế nâng cao tỉ trọng ngành dịch vụ. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm tín dụng và dịch vụ ngân hàng cũng như các đối tượng khách hàng để nâng cao tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ. Tập trung nâng cao chất lượng tín dụng, có chính sách tín dụng hợp lý để giảm đến mức tối thiểu rủi ro tín dụng. Tăng tường năng lực tài chính thông qua việc đảm bảo chênh lệch lãi suất cơ bản dương và thực hiện lãi suất tập trung tại trụ sở chính. Áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt cả về huy động và cho vay trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Kiện toàn cơ chế khoán tài chính đến từng người lao động. Trước tiên ngân hàng đặt ra mục tiêu phấn đấu cho năm 2010 như sau: -Tổng nguồn vốn tăng: 30% đạt trên 900 tỷ đồng - Tổng dư nợ tăng 20% đạt 304,38 tỷ đồng -Nợ quá hạn duy trì dưới:0.5% - Tỉ lệ cho vay trung và dài hạn đạt 50% - Thanh toán quốc tế tăng 40% doanh số hoạt động - Thu dịch vụ chiếm 20% doanh số hoạt động - Chênh lệch lãi suất đạt 0.4% Để đạt được các chỉ tiêu trên và nhất là cải thiện công tác huy động tiền gửi dân cư, NHNo chi nhánh Tây Hồ có thể tham khảo các giải pháp sau 3.2. Giải pháp mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ 3.2.1. Đa dạng hóa các hình thức huy động tiền gửi dân cư Đối tượng dân cư bao gồm nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội, họ gửi tiền vào ngân hàng với nhiều mục đích khác nhau nên nhu cầu của họ đối với sản phẩm dịch vụ của ngân hàng cũng khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngân hàng có một danh mục các sản phẩm tiền gửi với sự đa dạng về kỳ hạn, lãi suất. Thực tế là hình thức huy động của chi nhánh vẫn còn nghèo nàn, đơn điệu. Ngoài tiết kiệm bậc thang được triển khai từ năm 2004 thu được một số kết quả đáng khích lệ thì hầu như ngân hàng chỉ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm tiết kiệm thông thường, các hình thức còn lại như tiết kiệm dự thưởng, phát hành giấy tờ có giá không được tiến hành thường xuyên do chi phí huy động cao ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Để cải thiện tình hình này ngân hàng có thể áp dụng các hình thức huy động mới Ø Hình thức rút hẹn: Thực tế nhiều người chưa biết sử dụng một khoản tiền vào lúc nào, nếu gửi tiền không kỳ hạn thì họ sẽ bị thiệt về mặt tài chính vì lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thường rất thấp, thậm chí có thời kỳ khách hàng không trả lãi cho tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. Ngược lại, nếu gửi có kỳ hạn từ 1 đến 2 năm thì hưởng lãi suất sẽ cao nhưng bị động về thời gian sử dụng. Vây nên ngân hàng tìm cách đưa ra phương thức vừa thuận tiện cho khách hàng, mà ngân hàng cũng chủ động, kế hoạch được nguồn vốn của mình, đó là hình thức gửi rút hẹn. Yêu cầu đặt ra là: + Khách hàng phải báo trước cho ngân hàng một khoảng thời gian nhất định( từ 5 đến 10 ngày) nếu không bị phạt một khoản tiền nhất định + Ngân hàng phải tính toán đưa ra mức lãi suất có kỳ hạn sát với thời hạn khách hàng gửi mà về hiệu quả kinh tế của ngân hàng vẫn được bảo đảm. Ø Tiết kiệm kiểu lễ nghi: là hình thức tiết kiệm khi tặng cho bạn thân, con cái, vợ chồng… để chúc mừng những điều tốt lành nhân ngày lễ, sinh nhật… với số tiền bị giới hạn bởi điều luật về cho tặng đã được NHCT Thành phố Thượng Hải – Trung Quốc thực hiện năm 1991. Dễ hiểu là: đời sống vật chất càng cao thì đời sống tinh thần càng phát triển. Phong tục chúc mừng nhau nhân ngày lễ tết, sinh nhật bằng một khoản tiền nhất định khi đó ngân hàng nghĩ đến nhu cầu của khách hàng đáp ứng bằng hình thức: gửi sổ tiết kiệm lễ nghi. Ø Tiết kiệm vị thành niên: Mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 triệu trẻ em ra đời và có khoảng 10 triệu vị thành niên. Ở tuổi này chúng chưa có thu nhập để gửi tiết kiệm, thay vào đó bố mẹ chúng lại chấp nhận dành một khoản tiết kiệm cho con mình để có thể bảo đảm có một khoản tiền trong tương lai cho con họ đi học đại học, du học… Đó là những nhu cầu cấp thiết cho khách hàng mà ngân hàng phải tìm cách khai thác. Điều này yêu cầu ngân hàng phải có lực lượng cán bộ đủ mạnh về số lượng, luôn tiếp cận các bệnh viện để giới thiệu, tiếp cận khách hàng là “ trẻ sơ sinh” và cha mẹ chúng. Ø Tiết kiệm nhân thọ: Người già luôn lo cho bản thân, con cái về cuộc sống hàng ngày, những rủi ro khi bệnh tật, ốm yếu… Họ nghĩ đến việc để dành một số tiền nhất định đáp ứng nhu cầu lúc già yếu. Họ nghĩ đến trường hợp: trong gia đình gửi tiền nếu vì lý do nào đó mà không có thu nhập để gửi nhưng hết kỳ hạn họ vẫn muốn nhận được đủ số tiền quy định cho cả kỳ hạn đó. Hình thức này tương tự như bảo hiểm nhân thọ, yêu cầu ngân hàng phải có hệ thống rộng khắp để làm dịch vụ cho nhiều khách hàng, điều kiện thuận lợi và phát triển hình thức này trong dân cư. Tiết kiệm một nơi, rút nhiều nơi; yêu cầu thiết bị ngân hàng và các chương trình quản lý phải đáp ứng được. Tiết kiệm theo mật mã: tức là dùng mật mã để người gửi tiền tự đánh ký hiệu mật mã cho số tài khoản của mình, cán bộ ngân hàng cũng không biết được ký hiệu mật mã và khi người gửi tiền ngoài việc điền các yêu cầu vào giấy đề nghị rút tiền còn phải đánh vào máy đúng ký hiệu của số tiền đó, máy chỉ xuất tiền khi đúng ký hiệu mật. Hình thức tiết kiệm này có độ an toàn cao hơn, phù hợp với khách hàng có khoản tiền thu nhập nhàn rỗi lớn và muốn giữ bí mật về số tiền gửi vào ngân hàng. Tiết kiệm rút gốc linh hoạt: là một hình thức tiết kiệm có kỳ hạn nhưng khách hàng được quyền rút gốc làm nhiều lần tùy theo nhu cầu sử dụng của mình. Thường vì nhu cầu này chủ yếu phục vụ nhu cầu rút một phần gốc trước hạn để sử dụng với mục đích chi tiêu không nằm trong kế hoạch của khách hàng nên lãi suất quy định cho loại tiền gửi này thấp hơn tiền gửi tiết kiệm thông thường. Phần gốc khách hàng rút trước hạn sẽ hưởng lãi suất không kỳ hạn, phần gốc còn lãi vẫn hưởng lãi suất theo kỳ hạn ghi trên sổ tiết kiệm. Trong thời hạn của khoản tiết kiệm đó, khách hàng chỉ được quyền rút mà không có quyền gửi thêm vào chính sổ tiết kiệm đó. Khi sổ tiết kiệm đến hạn rút gốc cuối cùng mà khách hàng không rút thì toàn bộ số gốc còn lại và lãi được hưởng sẽ được chuyển tiếp qua kỳ hạn mới theo quy định của ngân hàng. 3.2.2. Mở rộng mạng lưới hoạt động Để có thể tạo sự thuận lợi cho người dân gửi tiền vào ngân hàng và đón đầu cho sự “ đổ bộ” sắp tới của các ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam kể từ ngày 1/4/2007, việc cạnh tranh về sự lớn mạnh giữa các ngân hàng trong nước thì vấn đề mở rộng mạng lưới phòng giao dịch trên địa bàn chính là cuộc đua mở rộng thị phần. Theo các chuyên gia tài chính thì sức mạnh lớn nhất của các NHTM quốc doanh trong đó có NHNo chi nhánh Tây Hồ để thắng thế các nhà đầu tư nước ngoài là mạng lưới giao dịch và sự am hiểu dân cư địa phương. Như vậy nếu không tranh thủ mở rộng mạng lưới giao dịch thì các ngân hàng sẽ bỏ qua nhiều cơ hội tốt. Điều này có nghĩa là: việc mở rộng mạng lưới hoạt động là việc làm cấp thiết và cần có sự chỉ đạo của NHNo cấp trên. Trong thời gian không xa nữa ( đầu năm 2008) sẽ trở thành chi nhánh câp 1,để xứng tầm với cương vị mới thì việc mở rộng mạng lưới ở NHNo chi nhánh Tây Hồ là cần thiết. Để thu hút thêm khách hàng dân cư vốn đang có nhiều lựa chọn trong kế hoạch đầu tư của mình thì ngân hàng nên mở rộng mạng lưới giao dịch của mình, thực hiện phân đoạn thị trường với từng nhóm khách hàng khác nhau. 3.2.3. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Khi khách hàng có ý định đến gửi tiền hoặc giao dịch tại ngân hàng thì một trong số điều đầu tiên họ nhìn nhận để đánh giá ngân hàng là cơ sở vật chất và mức độ hiện đại. Hiện nay ngân hàng thực hiện các dịch vụ như: chuyển tiền điện tử, phát hành thẻ ATM, trả tiền kiều hối, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế… Trong thực tế đã phần nào đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp dân cư trong xã hội tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế. Đi đôi với vấn đề này thì việc hiện đại hóa công nghệ thông tin, hoàn thiện đường truyền thanh toán điện tử đến các điểm giao dịch và giữa các ngân hàng. + Đẩy mạnh đổi mới trang thiết bị ngân hàng theo hướng hiện đại, đơn giản hóa các bước giao dịch với khách hàng “giao dịch một cửa”. + Công nghệ thanh toán không dùng tiền mặt: triển khai các hình thức thanh toán thẻ: mở rộng đầu tư mạng lưới máy rút tiền tự động ATM để tạo sự thuận lợi cho khách hàng có nhu cầu rút tiền mặt để chi tiêu, mở rộng mạng lưới chấp nhận thanh toán thẻ tại các trung tâm mua sắm, quầy hàng POS… + Xây dựng một hệ thống thông tin tư liệu hoàn chỉnh, an toàn, tiện lợi để cung cấp cho khách hàng: phone- banking, home- banking, internet- banking, PC banking… Áp dụng công nghệ thông tin vào ngân hàng không những tăng tiện ích cho khách hàng, không những giảm chi phí về đầu tư con người, máy móc tài sản cố định, mặt bằng giao dịch mà vẫn có thể thu hút thêm nguồn tiền gửi cho ngân hàng. Việc thực hiện được các giải pháp trên phù hợp hiệu quả sẽ cải thiện được tình hình huy động tiền gửi dân cư ở ngân hàng song chưa đủ nếu không có cả những chính sách từ nền kinh tế vĩ mô. Sau đây là một số kiến nghị. 3.3. Một số kiến nghị Do tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng, nhiều quan hệ xã hội phát sinh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có điều chỉnh bằng pháp luật để tạo ra môi trường pháp lý ổn định cho sự phát triển nền kinh tế. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan mà hệ thống pháp luật nước ta chưa thực sự đồng bộ, chưa trở thành chỗ dựa pháp lý cho các chủ thể trong nền kinh tế. Do đó xin kiến nghị với chính phủ cần có những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo luật pháp phải được thực hiện một cách nhất quán và triệt để. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng một lĩnh vực hết sức nhạy cảm và có vai trò quan trọng với nền kinh tế thì yêu cầu tăng cường pháp chế trên lĩnh vực ngân hàng là cần thiết. Chính phủ cần ban hành những văn bản pháp luật quy định và hướng dẫn thi hành những điều luật mới phù hợp với tình hình kinh tế- xã hội trong và ngoài nước. Nhà nước với các cơ quan chức năng quyền lực của mình thông qua lập pháp, lập quỹ phải xây dựng một môi trường pháp lý đảm bảo tính động bộ và ổn định nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và đáp ứng yêu cầu nguyện vọng chung của người bỏ vốn đầu tư là mong muốn có một hệ thống pháp lý rõ ràng, đầy đủ và bình đẳng. Khi ban hành các văn bản liên quan tới lĩnh vực ngân hàng phải đồng bộ, phù hợp, không được mâu thuẫn, khó khăn cho việc thực hiện. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các quy chế, tiêu chuẩn cho hệ thống thanh toán. Các quy chế bảo mật, đảm bảo an toàn cho qua trình thanh toán, các quy trình nghiệp vụ có liên quan đến thanh toán điện tử. Nhà nước cần có giải pháp đồng bộ, vừa khuyến khích động viên nhưng vừa có tính hướng dẫn bắt buộc một số cá nhân, một số lĩnh vực có liên quan, có điều kiện mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng, cơ quan thuế, công ty điện , công ty cấp nước. Có chính sách khuyến khích với hệ thống NHTM trong nước để về lâu dài có đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài và cũng là để tằng cường hoạt động của trung gian tài chính lớn nhất này. KẾT LUẬN Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn tăng trưởng cao, sự phát triển cũng tương đối ổn định, đã và đang khẳng định vị thế trên trường quốc tế và tiến sâu vào hội nhập kinh tế thế giới. Và hệ quả của sự phát triển ấy là đời sống người dân không ngừng được cải thiện, nhu cầu tích lũy cũng từ đó mà tăng lên sẽ là cơ hội cho các ngân hàng thương mại tiếp cận với nguồn vốn này, NHNo chi nhánh Tây Hồ cũng không phải nằm ngoài ngoại lệ đó.Trên đây đã tổng kết một cách khá chi tiết về tình hình mở rộng huy động tiền gửi dân cư ở NHNo chi nhánh Tây Hồ từ năm 2005- 2007, trong đó đã đạt được những thành công nhất định trong việc thu hút nguồn vốn từ dân cư phục vụ cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh, với các phương thức để mở rộng bao gồm : sự đa dạng về hình thức huy động, kỳ hạn gửi tiền cũng như chính sách lãi suất linh hoạt. Thời gian vừa qua, NHNo chi nhánh Tây Hồ trong và ngoài hệ thống đã từng bước cải thiện tình hình huy động tiền gửi từ dân cư trong giai đoạn hội nhập và cạnh tranh gay gắt , đòi hỏi phải nắm bắt và nhận thức rõ vai trò của nguồn vốn này. Được sự quan tâm của nhà nước đối với ngành ngân hàng mà cụ thể dưới sự chỉ đạo của ban lãnh đạo NHNo Việt Nam, trên cơ sở nền tảng sẵn có, với cả những thuận lợi về vị trí địa lý kinh tế, sự hỗ trợ về khoa học công nghệ và những định hướng đúng đắn thì hoạt động huy động vốn nói chung và hoạt động huy động tiền gửi dân cư nói riêng cuả NHNo chi nhánh Tây Hồ sẽ tiếp tục tăng trưởng và phục vụ đắc lực cho hoạt động kinh doanh cũng như góp phần khẳng định chỗ đứng cho NHNo trong hệ thống NHTM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH10.doc
Tài liệu liên quan