Các sinh viên hiện nay ra trường xin được một chỗ lầm việc là rất khó. Trong khi đó nước đội ngũ cán bộ còn thiếu về kiến thức, năng lực quản lý. Nhưng các sinh viên ra trường lại không có việc làm, một phần do sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu, một phần do các cơ quan nhà nước thừa cán bộ nhưng lực lượng này lại thiếu hụt kiến thức, lực lượng này không biết đưa họ lầm công việc gì. Một lý do nưa là các cơ quan Nhà nước không thấy được sự cần thiết cho sự nâng cao kiến thức của nhân viên mình. Một số sinh viên sau khi ra trường lại không về quê mà bám ở các thành phố lớn, do chính sách chưa đủ hấp dẫn cho các đối tượng phục vụ ở vùng sâu, vùng xa, ở đây hộ không có điều kiện phát huy được tiềm năng của mình. Do vậy chính sách đầu ra của các trường Đại học cần được hỗ trợ của Nhà nước để đội ngũ này phục vụ tốt cho đất nước.
23 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề môn học - Khoa Khoa học Quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu 1: Phân biệt các mô hình quản lý chất lượng: ISO-9000, Mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM), Hệ thống thực hành quản lý tốt (GMP), Hệ thống phân tích, xác định kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP), Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base, Hệ thống quản lý chất lượng 5S ?
Các mô hình quản lý chất lượng ra đời nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về chất lượng sản phẩm, chất lượng quản lý. Vậy vì sao phải quan tâm đến chất lượng? Câu trả lời lời đó là: Chất lượng và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ với nhau, chất lượng nhằm thoả mãn yêu cầu với các sản phẩm đòi hỏi ngày càng khắt khe trong xã hội văn minh, chất lượng là điều kiện để toàn cầu hoá, để cạnh tranh găy gắt v.v Để thoả mãn các yêu cầu này có rất nhiều các mô hình quản lý chất lượng ra đời, nhưng có những mô hình được phổ biến và áp dụng rộng rãi hơn cả đó là: Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO-9000, Mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM), Hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP), Hệ thống phân tích, xác định các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP), Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base, Hệ thống quản lý chất lượng 5S v.v Để phân biệt các mô hình quản lý chất lượng trên, trước hết ta tìm hiểu từng mô hình một.
1. ISO-9000:
Vậy ISO-9000 là gì ? ISO-9000 là bộ tiêu chuẩn do tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO (International Standard organization), ban hành lần đầu vào năm 1987 nhằm mục đích đưa ra một mô hình được chấp nhận ở mức độ quốc tế về hệ thống chất lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh,dịch vụ kể cả dịch vụ hành chính do cơ quan nhà nước thực hiện. Trong bộ tiêu chuẩn ISO-9000 có những tiêu chuẩn cụ thể cho từng hệ thống chất lượng như:
- ISO-9001: Tiêu chuẩn về hệ thống bảo đảm chất lượng trong thiết kế, triển khai, sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
- ISO-9002: Hệ thống chất lượng-mô hình đảm bảo chất lượng trong sản xuất, lắp đặt và dịch vụ.
- ISO-9003: Hệ thống chất lượng-mô hình bảo đảm chất lượng trong kiểm tra và thử nghiệm cuối cùng.
Theo quan niệm chất lượng của ISO: Chất lượng là tổng hợp các đặc điểm của sản phẩm hoặc dịch vụ để để đáp ứng các nhu cầu đã được nêu ra hoặc hàm ý. Một cách cụ thể hơn định nghĩa này có thể phát biểu: Chất lượng là một trạng thái động liên quan đến sản phẩm, dịch vụ, con người trong quá trình và môi trường đáp ứng hoặc vượt quá kỳ vọng.
Cách tiếp cận của bộ tiêu chuẩn ISO-9000: Họ cho rằng chất lượng sản phẩm và chất lượng quản trị có mối quan hệ nhân quả, chất lượng sản phẩm do quản trị quyết định, chất lượng quản trị là nội dung chủ yếu của quản lý chất lượng. Phương châm của ISO-9000 là làm đúng ngay từ đầu, lấy phòng ngừa làm phương châm chính.Về chi phí là phòng ngừa các lãng phí bằng cách lập kế hoạch và xem xét điều chỉnh trong suốt quá trình. Họ cho rằng tiêu chuẩn của họ là điều kiện cần thiết để tạo ra hệ thống “mua bán tin cậy’ trên thị trường trong nước và quốc tế và đó là giấy thông hành để vượt qua các rào cản thương mại trên thị trường.
Bộ tiêu chuẩn này được xây dựng trên triết lý cơ bản như: Thiết lập hệ thống quản lý chất lượng hợp lý nhằm tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng. Bộ tiêu chuẩn ISO-9000 là các tiêu chuẩn về hệ thống bảo đảm chất lượng, chứ nó không phải là tiêu chuẩn kỹ thuật về sản phẩm.Bộ tiêu chuẩn này đưa ra những hướng để xây dựng một hệ thống chất lượng có hiệu quả chứ không áp đặt một hệ thống chất lượng đối từng doanh nghiệp, hệ thống quản lý dựa trên mô hình quản lý theo quá trình và lấy phòng ngừa làm phương châm chính.
Hiện nay, ISO-9000 phiên bản năm 2000 có những cải tiến về hệ thống chất lượng. Theo quy định của ISO tất cả các tiêu chuẩn quốc tế cần phải được xem xét lại 5 năm một lần chính vì vậy lần sửa đổi thứ ba này được dự định ban hành tiêu chuẩn ISO-9000 phiên bản năm 2000 chính thức vào cuối năm 2000 trong đó có cách tiếp cận mới, cấu trúc mới, yêu cầu mới. Sự ra đời của phiên bản ISO-9000 năm 2000 vừa tạo điều kiện thuận lợi cũng như thách thức với các doanh nghiệp nước ta do yêu cầu đòi hỏi cao. Để tồn tại và phát triển cần cải tiến cập nhật kiến thức hệ thống theo tiêu chuẩn quy định đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
2. Mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM):
Theo mô hình này thì họ cho rằng: Chất lượng là sự cảm nhận của khách hàng chứ không phải sự cảm nhận của ban quản lý. Mặc dầu TQM lấy khách hàng làm gốc nhưng lại tập trung vào những người tham gia làm ra chất lượng. Tất cả mọi người trong hệ thống đều đóng góp một vai trò quan trọng và mọi người phải biết tầm quan trọng của mình đối với toàn cơ quan và phải có trách nhiệm với vai trò đó. Họ cho rằng chất lượng không chỉ là trách nhiệm của một bộ phận mà là trách nhiệm của toàn thể nhân viên trong tổ chức đó. Thuật ngữ TQM chính là đã đề cập tới nỗ lực của toàn công ty để đạt được chất lượng cao.
Mục tiêu của TQM: Đó là hướng tới khách hàng, thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng vì vậy mục tiêu hàng đầu là cải tiến liên tục chất lượng sản phẩm và dịch vụ, cải tiến hệ thống.
Nguyên lý của quản lý chất lượng toàn diện: Tập trung vào khách hàng, vì khách hàng là đối tượng phục vụ chính của doanh nghiệp, phải xác định khách hàng là ai. Ngoài ra, còn phải thoả mãn các mối quan hệ khác như cổ đông, công nhân, nhà đầu tư .v.v. Phải tìm hiểu các nhu cầu của họ cũng như của khách hàng. Thứ hai, đó là tập trung vào quản lý quá trình sản xuất. Quản lý toàn diện hướng tới quản lý, kiểm soát mọi công đoạn của toàn bộ quá trình, mọi khâu trong quá trình thực hiện, kết hợp có trình tự các yếu tố con người, nguyên liệu, phương tiện, máy móc. Qúa trình này phải được kiểm soát, quản lý một cách chặt chẽ và có kế hoạch. Tiếp theo, phải huy động mọi người tham gia như quan điểm trên đã trình bày. Đó là, phải xây dựng đội ngũ nhân viên có năng lực, phải hiểu rõ trách nhiệm, lôi kéo mọi thành phần tham gia. Nội dung chủ yếu là cải tiến liên tục thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng, rỡ bỏ mọi trở ngại trên con đường đạt đến mục tiêu đó. Xuất phát từ nội dung đó thì muốn thành công thì phải có quản lý chiến lược, tài năng lãnh đạo, cải tiến liên tục, huy động đào tạo nguồn nhân lực, phải có thời gian và lòng kiên trì .v.v
3. Hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP):
Hệ thống thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practice) là hệ thống đảm bảo chất lượng, vệ sinh, an toàn áp dụng cơ sở sản xuất chế biến thực phẩm và dược phẩm. Hệ thống này đưa ra các yêu cầu nhằm kiểm soát tất cả các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành chất lượng sản phẩm từ thiết kế, xây lắp nhà xưởng, thiết bị dụng cụ chế biến, quá trình chế biến, bao gói, bảo quản, con người, môi trường hoạt động. Yêu cầu cụ thể như nhà xưởng phải thoáng mát, sạch sẽ, không gây nhiễm bẩn vào sản phẩm. Phương tiện chế biến phải an toàn vệ sinh, chiếu sáng, thông gió, máy móc, thiết bị sản xuất bảo đảm bảo. Sức khoẻ người lao động phải được khám định kỳ, điều trị kịp thời các loại bệnh tật, ngoài ra việc xử lý chất thải phải được kiểm soát, bảo quản.
4. Hệ thống phân tích, xác định kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP):
Riêng về thực phẩm, nếu không áp dụng HACCP thì hầu như không được quốc tế thừa nhận. Nước Nhật Bản trước đây không ủng hộ HACCP lắm nhưng cũng phải bỏ ra 2 triệu USD để học tập cách áp dụng HACCP vào sản xuất thực phẩm, thuỷ sản. HACCP là viết tắt của các từ tiếng Anh: Hazards Anlysis of Critical Control Points; Nội dung chính là: Phân tích các mối nguy hại, xác định các điểm kiểm soát tới hạn, xác lập ngưỡng tới hạn, thiết lập hệ thống giám sát các diểm kiểm soát tới hạn, xác định các hoạt động khắc phục, xác định thủ tục thẩm định, thiết lập hệ thống hồ sơ tài liệu. Như vậy, HACCP chỉ giải quyết những điểm quan trọng nhất. HACCP phải dựa trên nền tảng có một nề nếp quản lý tốt, tức là phải áp dụng được GMP. Vì vậy việc áp dụng GMP là điều kiện tiên quyết với một cơ sở khi áp dụng HACCP. Chính vì vậy, hệ thống HACCP sẽ tập trung chủ yếu vào kiểm soát các yếu tố mang tính công nghệ của quá trình sản xuất.
5. Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base:
Việc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế ISO-9000 có thể là quá cao đối với doanh nghiệp mới bắt đầu thực hiện các biện pháp quản lý chất lượng nhất là đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Vì vậy có thể áp dụng hệ thống quản lý chất lượng Q-Base. Nó có cùng nguyên lý với ISO-9000, nhưng đơn giản hơn và rất dễ áp dụng, nó có thể là bước đi chuẩn bị cho việc áp dụng ISO-9000.
6. Hệ thống quản lý chất lượng 5S:
Đó là một hệ thống quản lý huy động tất cả mọi thành viên của ông ty tham vào việc quản trị chất lương từ cấp cơ sở. 5S là 5 chữ đầu của tiếng Nhật có ý nghĩa là:
- SEIRI (Sàng lọc): Phân loại các đồ vật tại nơi làm việc và loại ra các đồ vật không cần thiêt.
-SEITON (Sắp xếp): Xắp xếp các đồ vật theo thứ tự để dễ lấy, dễ sử dụng khi cần thiết, tránh lãng phí thời gian.
- SEISO (Sạch sẽ): Luôn giữ vệ sinh nơi làm việc từ sàn nhà, bàn làm việc, máy móc luôn sạch sẽ và luôn được bảo dưỡng.
- SEIKETSU (Săn sóc): Thương xuyên duy trì tiêu chuẩn cao về vệ sinh và trật tự nơi làm việc.
- SHITSUKE (Sẵn sằng): Giáo dục mọi người tự giác thực hiệ vệ sinh an toàn, duy trì thói quen tốt biến nó thành thói quen làm việc và văn hoá công ty.
5S là cơ sở nền tảng cho quá trình quản trị chất lượng ở cấp cao hơn, nó là sự khởi đầu cho một hệ thống, là cơ sở nền tảng của chương trình cải tiến năng suất chất lượng. Mục tiêu của nó đó là không hư hỏng, không lãng phí, không chậm chễ, không tổn thương, không mệt mỏi, không ô nhiễm.
Từ các nội dung trên ta có thể rút ra một số đặc trưng của từng mô hình để phân biệt mô các hình quản lý chất lượng có tính chất tương đối đó là:
- ISO-9000: Họ cho rằng chất lượng sản phẩm là do quản trị chất lượng quyết định cho nên nó là một hệ thống các tiêu chuẩn quản lý chất lượng bao gồm từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất trên cơ sở tiêu chuẩn hoá chặt chẽ từng khâu, nó nhấn mạnh đến vấn đề tiết kiệm chi phí. Nó là một hệ thống tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng chứ nó không phải là tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật về sản phẩm. Nó hướng và đề cao vai trò của các nhà quản lý, trong sản xuất lấy phương châm phòng ngừa là chính, tránh lãng phí.
- Mô hình quản lý chât lượng toàn diện (TQM): Mô hình này chú trọng vào khách hàng lấy khách hàng làm phương châm chính nhưng lại chú ý vào những người làm ra chất lượng. Toàn bộ hệ thống từ các nhà quản lý lãnh đạo, các nhân viên tất cả phải nỗ lực và trách nhiệm cho toàn công ty. Mô hình này lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu, tất cả mọi hiệu quả đều hướng vào kinh doanh, lấy mục tiêu của công ty làm mục tiêu chung. Đây là mô hình được áp dụng rất nhiều trên thế giới và có thể là cao nhất hiện nay.
- Hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP): Nó chỉ áp dụng trong lĩnh vực trong chế biến thực phẩm và dược phẩm. Mô hình này đưa ra một mô hình bảo đảm chất lượng vệ sinh, an toàn trong sản xuất như vệ sinh phương tiện chế biến, phân xưởng chế biến, sức khoẻ người lao động, bảo quản, xử lý chất thải, phân phối sản phẩm.v.v
- Hệ thống phân tích, xác định kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP): GMP là điều kiện tiên quyết đối với một cơ sở khi tiến hành áp dụng HACCP. Vì vậy, hệ thống HACCP sẽ tập trung chủ yếu vào các yếu tố mang tính công nghệ của quá trình sản xuất và các khâu trọng yếu. Các yêu cầu đảm bảo an toàn HCCP là rất khắt khe.
- Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base: Nó cũng là một hệ thống các tiêu chuẩn tương tự như ISO-9000 nhưng đơn giản hơn và dễ áp dụng hơn. Cho nên nó phù hợp với các doanh nhiệp nhỏ và các doanh nghiệp mới thành lập. Có thể coi đây là bước chuẩn bị để áp dụng ISO-9000.
- 5S: Đây là hình thức quản lý huy động tất cả mọi thành viên của công ty tham gia. Nó là cơ sở nền tảng cho việc áp dụng quản trị chất lượng ở cấp cao hơn, nó là cơ sở của chương trình cải tiến năng suất chất lượng, là sự khởi đầu cho một hệ thống. Việc quản lý nhằm gọn gàng nhà xưởng tổ chức, con người để dễ nhận ra lãng phí, cải tiến năng suất.
Câu 2. Nhà nước có vai trò gì trong việc đưa ra các mô hìmh quản lý chất lượng vào doanh nghiệp Việt Nam? Vai trò đó đã được thực hiện như thế nào?
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh độc lập trên thị trường. Vì vậy, các doanh nghiệp không ngừng tăng năng suất và chất lượng để tồn tại và phát triển. Nhưng nhà nước phải có những vai trò trong việc đưa các mô hình quản lý chất lượng vào các doanh nghiệp. Để từ đó giám sát, khuyến khích, tạo điều kiện cho quản lý chất lượng của doanh ngiệp ngày càng cao, hướng tới hội nhập vào thị trường thế giới.
Vai trò Nhà nước trong việc đưa các mô hình quản lý chât lượng vào doanh nghiệp doanh nghiệp Việt Nam:
- Trước mắt đưa các mô hình quản lý chất lượng phổ biến hiện nay trên thế giới được nhiều nước áp dụng như ISO-9000, TQM, Q-Base, HACC... vào ngay các doanh nghiệp có điều kiện về vốn, các ứu thế sẵn có trên thị trường để nhanh chóng hội nhập vào khu vực và trên thị trường quốc tế.
- Nhà nước có các chính sách hỗ trợ như vốn, giảm thuế, kinh phí cho các doanh nghiệp mới áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. Các chính sách này nó sẽ khuyến khích các doanh nghiệp nhanh chóng xây dựng cho riêng mình một mô hình quản lý chất lượng phù hợp. Điều này cũng tạo ra rất nhiều băn khoăn cho các doanh nghiệp, họ chờ đợi các chính sách của nhà nước. Họ gặp khó khăn trong vấn đề về vốn trong quá trình triển khai áp dụng, xây dựng một mô hình quản lý chất lượng. Do đó những hỗ trợ của Nhà nước là rất cần thiết.
- Nhà nước thành lập các công ty tư vấn, các trung tâm tư vấn về vấn đề quản trị chất lượng. Để từ đó tư vấn cho các doanh nghiệp nhà nước nên áp dụng hình thức quản lý chất lượng nào cho phù với ngành nghề kinh doanh của mình để phù hợp và có hiệu quả nhất. Vấn đề về chất lượng rất còn mơ hồ đối với một số doanh nghiệp. Có các trung tâm tư vấn, các công ty tư vấn sẽ giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về vấn đề chất lượng, thấy được tầm quan trọng của việc áp dụng một mô hình quản lý chất lượng sản phẩm. Tư vấn cho họ nên áp dụng mô hình nào mô hình nào là quan trọng nhất.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về chất lượng cho các trung tâm, các địa phương và hỗ trợ đào tạo về quản trị chất lượng cho các doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nước cũng như doanh nghiệp rất yếu về quản lý chất lượng. Do vậy để nâng cao sự hiểu biết cũng như các vấn đề về quản lý, các kế hoạch các chương trình phát triển về chất lượng trong tương lai phải đào tạo đội ngũ này thành các cán bộ có năng lực, có trách nhiệm, các chuyên gia trong vấn đề này.
- Nhà nước tăng cường hợp tác quốc tế với các tổ chức quốc tế về chất lượng, cấp giấy phép hành nghề cho các tổ chức có uy tín hoạt động tư vấn, cấp giấy chứng nhận chất lượng. Hợp tác quốc tế để mở rộng và nâng cao các mô hình quản lý chất lượng khác nhau để từ đó thâm nhập các thị trường khu vực khác nhau trên thế giới.
- Nhà nước đầu tư cho các chương trình, đề tài nghiên cứu, các ứng dụng về quản lý chất lượng. Xây dựng một mô hình quản lý chất lượng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước phải có các chiến lược, chương trình riêng cho mình từ việc giáo dục đào tạo về vấn đề chất lượng trong các trường đại học, xây dựng một bộ tiêu chuẩn riêng phù hợp với sự phát triển hiện nay.
- Nhà nứơc tổ chức quản lý phát huy hiệu quả, hiệu lực của bộ máy của nhà nước về quản trị chất lượng. Đó là các tổng cục, các cục về đo lường chất lượng, xây đựng tiêu chuẩn nhà nước, tiêu chuẩn nghành với một số sản phẩm quan trọng. Bộ máy quản lý hiện nay làm việc rất có hiệu quả, nhưng các tiêu chuẩn còn chồng chéo chưa thống nhất, việc sản xuất hàng giả còn rất nhiều gây lo lắng cho khách hàng. Do vậy Nhà nước phải tăng cường quản lý về chất lượng trên thị trường, kiểm soát kiểm tra ngắt gao để từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong những năm vừa qua nước ta đã có rất nhiều cố gắng và có vai trò rất lớn trong việc đưa các mô hình quản lý chất lượng vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Những việc cụ thể của Nhà nước đã và đang hoạt động cụ thể như:
- Việt Nam đã là thành viên của ISO-900 từ năm 1977, hiện nay bộ tiêu chuẩn này đã có 90 nước tham gia.Năm 1993, Tiêu chuẩn Việt Nam được 61 ban kỹ thuật và 10 tiểu ban kỹ thuật soạn thảo dựa trên sự hướng dẫn của ISO/IEC. Năm 1997 trung tâm đào tạo chuyên giới thiệu về ISO-9000 và TQM được thành lập. Mạng lưới tổ chưc đào tạo về chất lượng (QUALIMENT) Với các thành viên của nó là các Trung tâm đào tạo, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEDEC), hội thử nghiệm VINATEST và công ty Hải Long 2 (QUACET) Hàng năm, QUALIMENT tổ chức hàng trăm lớp đào tạo.
- Năm 1988, Việt Nam trở thành thành viên của Uỷ ban tiêu chuẩn hoá về thực phẩm quốc tế (CODEX) do WHO và FAO thành lập. Năm 1994, Uỷ ban CODEX Việt Nam được thành lập.
- Từ năm 1992, Việt Nam đã tham gia Diễn đạt tiêu chuẩn hoá khu vực Châu á-Thái Bình Dương (PASC).
- Việc áp dụng HACCP, Việt Nam đã được xếp một trong 25 nước thuộc nhóm 1 xuất khẩu thuỷ sản vào EC.
- Nhà nước mình thành lập các tổng cục, như tổng cục đo lường chất lượng Việt Nam. Cấp giấy phép hoạt động cho các tổ chức như :BVQI (Anh), QMS và SGC (Ô-xtrây-li-a), AFAO (Pháp), TUV (Đức), BM Trad (Thái lan), CQC (Trung Quốc)
.
Câu 3: Trình bày các giải pháp cơ bản để xây dựng mô hình quản lý chất lượng phù hợp với doanh nghiệp Việt Nam?
Như đã trình bày ở trên, trong bối cảnh nước ta tham gia nền kinh tế mở, để hàng hoá nước ta xâm nhập thị trường khu vực và quốc tế thì chúng ta phải thay đổi nhận thức, tiếp cận và xây dựng một mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam. Để hàng hoá Việt Nam có được sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Xuất phát từ các doanh nghiệp Việt Nam thường là nhỏ, năng lực quản lý yếu, khả năng đầu tư công nghệ còn hạn chế, sự lạc hậu về nhà xưởng, trang thiết bị, hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin, hoạt động Marketing còn phiến diện, đặc biệt là mô hình quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã hằng ngày cản trở rất lớn đến sự phát triển. Nhận thấy được điều đó, Đảng và Nhà nước đã nâng cao nhận thức cho từng cán bộ quản lý về chất lượng. Vấn đề sở hữu trong khu vực Nhà nước chưa được giải quyết triệt để, tổ chức cán bộ cồng kềnh, công nhân đông nhưng kiến thưc tay nghề kém, cũng được chú ý. Từ những vấn đề trên ta phải thay đổi giải quyết các vấn quản lý chất lượng sản phẩm, áp dụng mô hình quản lý chất lượng tiên tiến, phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam. Vậy thế nào là mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam: Đó phải là mô hình quản lý có tính thực thi cao, có tính đến đặc điểm sản phẩm kinh doanh (tiêu dùng nội địa hay xuất khẩu), là mô hình hoàn chỉnh, hướng về cách quản lý tiên tiến, nhưng có phân ra từng khâu, từng giai đoạn nhằm khuyến khích mọi doanh nghiệp mạnh dạn áp dụng.
Một số giải pháp như:
- Giải pháp vĩ mô:
+ Nhanh chóng xây dựng chính sách và chiến lược chất lượng của Việt Nam hướng ra xuất khẩu cho giai đoạn đầu của thế kỷ 21:
Như chúng ta đã biết, các doanh nghiệp hiện nay đang nhanh chóng áp các mô hình quản lý chất lượng phù hợp với các doanh nghiệp mình để cạnh tranh với các sản phẩm trên thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Nhưng hiên nay ngoài một số doanh nghiệp áp dụng thành công và đang hoạt động rất tốt còn có các doanh nghiệp còn rất nhiều vướng mắc như vấn đề về quản lý, về vốn, hoặc lựa chọn mô hình cho thích hợp. Nứơc ta đang có rất nhiều biện pháp cố gắng để giải quyết vấn đề này. Ngoài những cố gắng đó Nhà nước còn có các chương trình kế hoạch sau năm 2000 đó là giai đoạn tăng tốc, đó là đưa Việt Nam có được sự phát triển cao về chất lượng, hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh “ngang tài, ngang sức” trên thị trường quốc tế, nâng cao uy tín hàng Việt Nam. Ngoài ra còn nâng cao bồi dưỡng dân trí về chất lượng, nâng cao kiến thức về tay nghề lao động, hoàn thiện cơ chế chính sách cho công cuộc đổi mới kinh tế và xã hội, phát triển các ngành công nghiệp để từ đó có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ.
+ Cải tiến công tác quản lý cấp Nhà nước về công tác quản lý chất lượng, thể hiện rõ trách nhiệm vĩ mô của Nhà nước về vấn đề chất lượng:
Nhà nước phải có sự phân công rõ ràng, chặt chẽ hơn giữa các bộ phận quản lý của Nhà nước, các ban ngành, tiếp tục cải cách hành chính, giảm thủ tục, nâng cao trách nhiệm lãnh đạo trong các tổ chức. Nhà nước lập ra các tổ chức riêng rẽ về quản lý chất lượng như các tổng cục đo lường, các hội bảo vệ quyền lợi cho người khách hàng, tổ chức hội đồng quốc gia trực thuộc chính phủ để tư vấn cho Nhà nước về chất lượng, đưa vào các mô hình quản lý chất lượng có hiệu quả nhất, tạo sự thúc đẩy trong cạnh tranh.
+ Phát động và thúc đẩy hơn nữa phong trào chất lượng, nâng cao hơn nữa hiệu quả của giải thưởng chất lượng:
Phong trào chất lượng hiện nay đang lên rất cao, rất manh mẽ trong các doanh nghiệp. Cùng với sự tham gia của quốc tế, hàng loạt các hội thảo về chất lượng, về việc quản lý chất lượng trong các nghành các lĩnh vực tạo một phong trào sôi nổi, tích cực thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm và thực hiện tốt các quy định chất lượng, đặc biệt là giải thưởng chất lượng hàng năm được duy trì. Tuy nhiên, các tiêu chí của giải thưởng chất lượng có xu hướng tiến tới mô hình quản trị chất lượng toàn diện (TQM). Còn phong trào chung lại xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO-9000. Vì vậy, để giải thưởng chất lượng Việt Nam trở thành phong trao nòng cốt của phong trào chất lượng nước ta, để các doanh nghiệp đạt giải thưởng chất lượng Việt Nam thật xứng đáng là các doanh nghiệp tiêu biểu về chất lượng, năng suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh, cần có những cải tiến hơn nữa trong việc tổ chức chất lượng hàng năm, để thực sự giải thượng có nề nếp và có chất lượng, phản ánh đúng thực chất năng lực và ưu thế của các doanh nghiệp đoạt giải.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo chất lượng nhằm nâng cao sự hiểu biết và ý thưc chất lượng không những cho các doanh nghiệp mà cho cả người tiêu dùng, cho toàn xã hội:
Để chất lượng trở thành mối quan tâm hàng đầu trong các doanh nghiệp và thực sự đi vào đời sống, tạo đà thúc đẩy sự phát triển “tăng tốc” cho nền kinh tế Việt Nam và cho xã hội Việt Nam trong giai đoạn đầu của thế kỷ 21 và sự phát triển bền vững trong tương lai:
Cách đây vài năm cứ nhắc đến các mô hình quản lý chất lượng như ISO-9000, TQM ...các khách hàng, thậm chí cả một số doanh nghiệp không hiểu nó là cái gì. Nay nhận thức về vấn đề quản trị chất lượng đã được thay đổi nhưng cũng còn rất nhiều vấn đề. Nhà nước đã mở hàng trăm lớp bồi dưỡng, lớp ngắn hạn về vấn đề chất lượng trên khắp đất nước cho các cán bộ quản lý, các cơ quan Nhà nước, các cán bộ giảng dạy các trường Đại học. Mặt khác trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, truyền hình, các khẩu hiệu đã và đang nâng cao nhận thức của người dân về chất lượng. Các hội thảo khoa học, các diễn đàn bàn về vấn đề này đã được diễn ra phần nào giúp các doanh nghiệp có được cái nhìn cần thiết cần áp dụng một mô hình cần thiết nào đó cho doanh nghiệp mình. Những kết quả đó không thể phủ nhận song một thực tế cho thấy tốc độ các doanh nghiệp tiến hành xây dựng các mô hình quản lý chất lượng còn chậm. Đó là do các doanh nghiệp thiếu vốn, các khoá học ít thu hút được các giám đốc theo học, nội dung học rất chung chung, chất lượng đào tạo không cao. Nhận thức được tầm quan trọng về vấn đề giáo dục đào tạo, chỉ có thể qua đào tạo, giáo dục con người mới có đủ năng lực cống hiến cho tổ chức, cho đơn vị mình. Do đó phải tăng cường giáo dục tuyên truyền mở rộng hơn nữa cho toàn xã hội về vấn đề chất lượng qua các khoá học, tuyên truyền trên phương tiên thông tin đại chúng. Khuyến khích, hướng dẫn, tạo điều kiện cho các trường Đại học nghiên cứu xây dựng các chương trình đào tạo về hệ thống Quản lý chất lượng. Mở các lớp tập huấn cho các cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, cán bộ quản lý Nhà nước, nhanh chóng hình thành đội ngũ chuyên gia đầu đàn về lĩnh vực này để quảng bá, giảng dạy, tư vấn.
+ Nhà nước có chính sách về vốn, nguồn tài trợ để khuyến khích cho các doanh nghiệp xây dựng mô hình quản lý chất lượng mới phù hợp với đặc trưng và nguồn lực của mình. Cần có chính sách thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp mới xây dựng mô hình quản lý chất lượng trong một thời gian nhất định:
Như chúng ta đã biết một khó khăn trong vấn đề tiến độ xây dựng các mô hình quản lý chất lượng còn chậm là vấn đề về vốn. Vì vậy Nhà nước cần có các chính sách như thuế, đào tạo, tư vấn cho doanh nghiệp... hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Vì mục đích kinh doanh lâu dài, vì sự sống còn và phát triển bắt buộc các doanh nghiệp trước sau vẫn phải xây dựng cho mình một mô hình quản lý chất lượng. Do đó các chính sách của Nhà nước sẽ tạo đà cho việc thành công cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng mô hình quản lý chất lượng.
+ Nhà nước đẩy manh hơn nữa việc cải tiến hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp hoạt động, đảm bảo quyền lợi cho cả người tiêu dùng và người kinh doanh, tạo ra sân chơi và luật cho chơi thực sự công bằng và thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nói chung và cho lĩnh vực quản lý chất lượng nói riêng:
Trong thời kỳ mở cửa, việc cải cách các chính sách cũng như luật pháp cho phù hợp là một điều cấp bách, như luật doanh nghiệp, luật đầu tư. Điều này cũng ảnh hưởng đến vấn đề quản lý chất lượng sản phẩm. Như khi mở cửa chúng ta đã cho phép các tổ chức tư vấn, chứng nhận về quản lý chất lượng, nó như là một bứớc thúc đẩy trong việc thâm nhập thị trường thế giới. Các kinh nghiệm nước ngoài qua các chuyên gia tư vấn đã nâng cao sự hiểu biết các vấn đề này, từ đó có những biện pháp, chính sách cải cách cho phù hợp với điều kiện nước ta.
+ Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế mặt thương mại dịch vụ, nhất là trong phạm vi các nước ASEAN, Nhà nước cần đẩy mạnh việc triển khai các chính sách của các hiệp định giữa các nước khi được ký kết:
Nước ta cần trao đổi thông tin, hợp tác thượng mại với nhiều nước. Các doanh nghiệp cần chuẩn bị tinh thần và điều kiện thâm nhập thị trường quốc tế, gần đây nhất là chuẩn bị ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Điều này mở ra những thách thức và cơ hội cho các doanh nghiệp nứơc ta, thúc đẩy sự hợp tác về vấn đề chất lượng, cũng như không ngừng nâng cao chất lượng cho sản phẩm Việt Nam.
- Các giải pháp vi mô:
+ Tăng cường nhận thức và cam kết cho lãnh đạo doanh nghiệp đối với việc xây dựng mô hình quản lý chất lượng của doanh nghiệp mình:
Không ai khác trước hết phải là các nhà lãnh đạo nhận thức đựơc vấn đề về chất lượng. Muốn xây dựng thành công mô hình quản lý chất lượng, lãnh đạo cần có nhận thức đúng đắn về các vấn đề về chất lượng, xác định mục tiêu xây dựng mô hình quản lý chất lượng, cải tiến hệ thống quản lý của hệ thống, tăng cường giáo dục cho từng nhân viên về tầm quan trọng của quản lý chất lượng. Sự đồng tâm cam kết của các nhà lãnh đạo nó sẽ tạo ra một môi trường thuận lợi, thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm với vấn đề chất lượng, nó là điều kiện tiên quyết cho sự thành công trong việc xây dựng một mô hình quản lý chất lượng.
+ Mở rộng việc giáo dục và đào tạo về mô hình quản lý chất lượng đến mọi nhân viên trong tổ chức:
Như trong mô hình quản lý TQM đã đề cập vai trò của nhân viên vô cùng quan trọng, đó là những con người làm nên chất lượng sản phẩm. Nếu họ thấy được trách nhiệm, mục tiêu họ sẽ nỗ lực đóng góp sức mình vào mục tiêu chung đó. Cho nên cơ cần giáo dục đào tạo cho từng thành viên trong tổ chức về vấn đề chất lượng.
+ Thay đổi lại cơ cấu tổ chức doanh nghiệp theo hướng nhấn mạnh vai trò của chất lượng trong doanh nghiệp:
Để tăng cường sự quan tâm đến chất lượng các doanh nghiệp cần có phòng quản lý chất lượng và phòng kiểm tra để giám sát bảo vệ uy tín sản phẩm cũng như lòng tin với khách hàng. Xác định lại cơ cấu của các phòng ban sao cho liên hệ với nhau một cách linh hoạt và có hiệu quả. Các nhà lãnh đạo cần có sự kiểm tra nghiêm ngặt nhằm đem lại cho công ty hiệu quả cao nhất và cho lợi ích của khách hàng, xã hội.
+ Chuẩn bị lực lượng nòng cốt cho chương trình quản lý và cải tiến chất lượng. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu để đánh giá chất lượng nội bộ, đồng thời đào tạo cán bộ đánh giá chất lượng nội bộ trong doanh nghiệp:
Tất cả các thành viên trong tổ chức phải hiểu được tầm quan trọng của chất lượng, nhưng phải cần có một đội ngũ cán bộ nhân viên vừa có sự hiểu biết sâu sắc, vưa phải có trình độ chuyên sâu, trình độ kỹ thuật, trình đọ tổ chức, có tâm huyết có năng lực. Đội ngũ này phải có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ phụ trách phòng ban, cán bộ công đoàn, đoàn thể, nhân viên.Đội ngũ này sẽ là lực lượng chính quản lý chất lượng, nâng cao chất lượng, cải tiến chất lượng, lao động sáng tạo trung thành với chiến lược của doanh nghiệp.
+ Cần cấp bách tiến hành việc xây dựng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Đồng thời luôn quan tâm đến việc cải tiến mô nình, cải tiến hệ thống quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp theo xu thế phất triển chung của nền kinh tế thế giới:
Với sự cạnh tranh khốc liệt hiện nay các doanh nghiệp nên xây dựng các mô hình quản lý chất lượng cho doanh nghiêp mình. Doanh nghiêp nào đã xây dựng xong cần cố các chính sách duy trì và cải tiến như doanh nghiệp nào đã áp dụng ISO-9000 cần phải có sự cải tiến theo phiên bản 2000 hoặc áp dụng mô hình quản lý chất lượng TQM. Xây dựng, duy trì, cải tiến là những việc làm thường xuyên liên tục của các doanh nghiệp.
+ Doanh nghiệp cần có kế hoạch từng bước đầu tư kỹ thuật, đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ và có hướng đào tạo nguồn nhân lực cho kế hoạch phát triển lâu dài:
Xây dựng mô hình quản lý chất lượng không có nghĩa phải thay đổi công nghệ, nhưng muốn duy trì sự cạnh tranh trên thị trường phải có kế hoạch đầu tư kỹ thuật, đổi mới trang thiết bị, đặc biệt trong thời đại công nghệ hiện nay thay đổi từng ngày. Thay đổi công nghệ phải phù hợp với sự hạn hẹp về nguồn vốn, nâng cao tay nghề cho công nhân kỹ thuật, cải tiến các chương trình quản lý chất lượng.
Trên đây là các giải pháp cơ bản nhất cho việc xây dựng các mô hình quản lý chất lượng sản phẩm phù hợp với Việt Nam. Đó chỉ là các giải pháp chủ yếu, để nâng cao chất lượng cần có sự cố gắng của mọi cá nhân, mọi tổ chức và của Nhà nước để chất lượng hàng Việt Nam, tiêu chuẩn hàng Việt Nam ngày càng đựơc nâng cao góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Câu 4: Để nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học hiện nay cần phải làm gì ?
Hình thành và phát triển hệ thống đào tạo đại học ở nước ta.
Thực ra, ở Việt Nam vào thế kỷ thứ 11 năm 1076 trường Đại học đầu tiên đã được thành lập ở Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, Quốc Tử Giám là nơi hội tụ văn nhân, nho sĩ cả nước, nơi đào tạo tuyển chọn nhân tài cho cả nước. Cách mạng tháng tám thành công, các trường Đại học lần lượt được thành lập ở ba trung tâm: Chiến khu Việt Bắc, trung tâm Thanh-Nghệ và khu học xá trung ương (đặt tại Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc).
Kháng chiến thắng lợi, ngày 4.6.1956, Chính phủ ra quyết định 2184/TC thành lập 5 trường Đại học là: ĐH Tổng hợp, ĐH Sư phạm, ĐH Bách khoa, ĐH Y-Dược, ĐH Nông lâm. Hiện nay, nước ta có 158 trường Đại học và cao đẳng, có 2 Đại học Quốc gia, 3 Đại học khu vực là những Đại học lớn đa lĩnh vực đào tạo, có 16 trường Đại học dân lập, 4 trường Cao đẳng bán công. Năm học 1999-2000 hệ thống Đại học cao đẳng nước ta có 893.754 sinh viên, 30.909 giảng viên trong đó có 342 giáo sư, 1.240 phó giáo sư, 4.710 tiến sĩ và 6.802 thạc sĩ. Đội ngũ nay đa phần phấn đấu xây dựng nhà trường sánh vai các trường tiên tiến trên thế giới.
Tình hình đo lường, đánh giá chất lượng đào tạo nước ta hiện nay.
Nước ta chưa có công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào về hệ thống hoặc tiêu chí hoặc một bộ công cụ hoàn chỉnh có đủ cơ sở khoa học để đảm bảo chất lượng đào tạo và có thể dụng để kiểm tra và thẩm định công nhận chất lượng giáo dục Đại học.
Bộ Giáo dục-Đào tạo đã có xây dựng những tiêu chí thi đua cho các trường Đại học và bản thân một số trường Đại học cũng tự xây đựng các chỉ tiêu thi đua riêng để đánh giá một số hoạt động về đào tạo, khoa học công nghệ, kế hoạch, tổ chức v.v..
Sự phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam và của khu vực Châu á-Thái Bình Dương đòi hỏi giáo dục Đại học Việt Nam cần có những kế hoạch chiến lược để nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội. Đồng thời có thể hội nhập vào các mạng lưới đảm bảo chất lượng trên toàn thế giới. Việc đầu tư nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chuẩn, tiêu chí làm thước đo đánh giá chất lượng đào tạo các trường Đại học Việt Nam là một đòi hỏi cấp thiết và cũng là điều kiện cơ bản để đảm bảo chất lượng đào tạo và đưa giáo dục Đại học Việt Nam hoà nhập vào khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu của giáo dục Việt Nam đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất, năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc (Luật Giáo dục, điều2, chương 1).
Những điểm phân tích ở trên đòi hỏi phải có một quan điểm phù hợp với chất lượng giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới. Quan điểm này phải bao hàm mục tiêu rất cao cả, toàn diện và biện chứng của giáo dục đại học Việt Nam, vừa đón đầu những thách thức giáo dục đại học thế giới vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.
Để có thể thẩm định chất lượng giáo dục đại học trong từng thời kỳ cần xác lập một hệ thống các tiêu chí trong tất cả các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ xã hội của từng trường đại học. Hệ thống các tiêu chí này được cụ thể hoá bằng nhiều chỉ tiêu, số thực hiện trong toàn bộ quy trình đào tạo “Đầu vào”, “Quá trình đào tạo” và “Đầu ra” trong tất cả các lĩnh vực giáo dục đại học: Giảng dạy, nghiên cứu, học tập, cán bộ giảng dạy, sinh viên, tài chính, cơ sở vật chất v.v..
Chất lượng đào tạo các trường Đại học có thể tác động theo mô hình sau:
Các yếu tố đầu vào
Đầu ra
Quá trình đào tạo
Các yếu tố môi trường trường
Các chính sách khuyến khích
Các biện pháp can thiệp
Hiện nay đã có trung tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục-Đại học Quốc gia Hà Nội đang nhận đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo dùng cho các trường đại học Việt Nam”. Được xây dựng theo mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM), và hệ thống chiến lược quản lý chất lượng (SQM). Bao gồm 66 tiêu chí, được phân theo nguyên tắc “Quá trình”: Đầu vào, quá trình đào tạo, đầu ra. Song song với các tiêu chí này nó còn được chia theo lĩnh vực như:
- Cơ cấu tổ chức trường Đai học và hệ thống văn bản pháp quy.
- Đội ngũ cán bộ.
- Giảng dạy và học tập.
- Nghiên cứu khoa học.
- Cơ sở vật chất.
- Tài chính.
- Dịch vụ tư vấn và chuyển giao công nghệ.
- Quan hệ quốc tế.
3. Các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường Đại học ở nước ta hiện nay.
Việc xây dựng một mô hình quản lý chất lượng cho giáo dục Đại học Việt Nam là rất bức thiết. Nhưng mô hình quản lý chất lượng cho giáo dục phải phù hợp với đặc thù của nghành giáo dục, phù hợp với yêu cầu, quan điểm của Đảng, với truyền thống văn hoá của nước ta. Nhưng trong quá trình hoàn thiện bộ tiêu chuẩn này chúng ta cần đưa ra các giải pháp, kế hoạch trong thời gian tới để nâng cao chất lượng đầo tạo.
Như đã trình bày ở trên để nâng cao chất lượng đào tạo phải quản lý chất lượng theo “Quá trình”: “Đầu vào”, “Quá trình đào tạo”, “Đầu ra” song song với quản lý chất lượng theo lĩnh vực như: Thi tuyển,giảng dạy, sinh viên, cơ sở vật chất, tài chính, nghiên cứu khoa học v.v.. Căn cứ vào những điều này có thể đưa ra các giải pháp cơ bản sau:
3.1. Nâng cao chất lượng đào tạo ở cấp phổ thông, cải cách thi tuyển vào các trường Đại học.
Chất lượng đào tạo ở cấp đại học nó liên quan đến vấn đề đầu vào, nó là cơ sở để nghiên cứu học tập được cao hơn. Do đó nâng cao chất lượng ở cấp phổ thông là một điều tiên quyết cho sự nâng cao chất lượng ở bậc học Đại học. Hiện nay các học sinh phổ thông cứ chủ yếu chú ý vào ôn thi đại vào các dịp chuẩn bị thi đại học mà không biết rằng kiến thức là tổng hợp cả quá trình học tập chứ không phải chỉ chăm chú học vào cuối năm là được. Nâng cao chất lượng bằng cách nâng cao đội ngũ giáo viên, cải cách hệ thống quản lý, cải cách bộ giáo khoa, cải cách kiến thức, cải cách việc kiểm tra thi cử, nâng cao ý thức học tập của học sinh, tập cho học sinh khả năng tự nghiên cứu, tự đọc, tự học, tránh học lệch chỉ chú ý vào các môn chính phục vụ cho thi cử.
Hiện nay việc thi cử Đại học còn rất nhiều bất cập như đề thi, việc đi lại, hệ thống địa điểm thi, coi thi, lệ phí thi, chấm thi, quản lý việc thi cử, quy chế thi v.v.. Do vậy cải cách thi cử là một việc lầm cấp thiết đòi hỏi các nhà quản lý giáo dục, các trường Đại học cần có các biện pháp thích hợp hơn nữa trong vấn đề tuyển sinh.
3.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng têu cầu phát triển và chế độ chính sách giáo dục.
3.2.1. Vấn đề về tuyển dụng biên chế.
Hiện nay các trường Đại học có một đội ngũ giáo viên trẻ đang giảng dạy có lòng nhiệt tình và hăng say nghiên cứu nhưng vẫn có một lỗ hổng lớn về kiến thức do rất nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân cơ chế tuyển dụng không được tốt. Một số trường căn cứ vào điểm của sinh viên trong trường để tuyển dụng, dẫn đến một hiện tượng nâng đỡ cá nhân này do vậy không tuyển được các thanh viên xuất sắc nhất. Việc nhận giáo viên mới thông qua thi cử cũng có các vấn đề. Do vậy cần có những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo viên mới như tăng mặt bằng chung về kiến thức, trình độ để nâng cao sự tự đào tạo, khi nhận vào trường cũng có các khoá học bổ sung kiến thức thêm.
3.2.2. Đào tạo bồi dưỡng cán bộ giảng dạy.
Các trường Đại học hiện nay có đội ngũ giáo viên rất đông đảo, trong đó có khoảng 342 giáo sư, 1240 phó giáo sư, 4710 tiến sĩ, 6802 thạc sĩ là lực lượng đang đóng góp cho nền giáo dục nước ta. Nhưng có một số giáo viên có tuổi có kiến thức cơ bản vững vàng nhưng kiến thức về tin học và ngoại ngữ không được tốt do sự thay đổi nhanh chóng của bên ngoài về lĩnh vực này. Giáo viên trẻ thì kinh nghiệm, kiến thức còn rỗng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà trường.
Do vậy, chúng ta nâng cao chất lượng giáo viên bằng nhiều cách như cử các giáo viên có khả năng đi học và khuyến khích các cá nhân tự du học ở các trường Đại học lớn trên thế giới. Bồi dưỡng trong nước bằng các khoá học, lớp học cao hơn. Tăng cường khả năng tự nhiên cứu, tự nâng cao kiến thức của mỗi người.
3.2.3. Đổi mới phương pháp giảng dạy.
Phương pháp giảng dạy phổ biến hiện nay của các trường man nặng tính lý thuyết, không phát huy được khả năng nghiên cứu và thực tế của sinh viên. Do đo sinh viên ra trường rất bỡ ngỡ với công việc thực tế, cần có một thời gian mới thích ứng được công việc. Do vậy cần có một cuộc cách mạng về cải cách phương pháp giảng dạy như giáo viên cho các tình huống thực tế cách sing viên buộc phải động não, suy nghĩ, vồ vập vào thực tế. Nhà trường nên tổ chức các chuyến đi thực tế để sinh viên có được cái nhìn thực tế hơn về công việc mình đang học và sẽ làm.
3.2.4. Các chế độ chính sách cho giáo viên Đại học.
Trình độ đòi hòi ngày càng cao, nhưng phương tiện trang bị cho giáo viên còn thiếu. Giáo viên tự trang bị cho mình bằng cách mua sách, mua tài liệu, tự học rất tốn kém nhưng không có chế độ gì cho vấn đề này. Lương không đáp ứng được nhu cầu buộc giáo viên phải dạy thêm bên ngoài. Do vậy Nhà nứơc cần có các chính sách hỗ trợ hơn nữa trong vấn đề này. Như trợ cấp thêm cho giáo viên,có các chính sách về nhà cửa, bảo hiểm. Tận dụng đội ngũ giáo viên đã về hưu có sức khoẻ, có lòng nhiệt tình tham gia tiếp tục giảng dạy.
3.3. Nâng cao hệ thống quản lý.
Một biện pháp rất quan trọng đó là công tác quản lý. Sự quản lý có tác động rất lớn đến vấn đề đào tạo trong nhà trường. Sự quan tâm từ trên bộ, các trường, phòng, ban, khoa là rất cần thiết. Việc này hiện nay thực hiện không được tốt. Ví dụ như có hiện tượng các khoa rất quan tâm đến sinh viên về vấn đề chung, nhưng các phòng, ban nhà trường, hội ,đoàn vấn đề nay không được tốt. Sinh viên nội trú thì sinh hoạt thiêú thốn nước, vệ sinh; thư viện không tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên nghiên cứu, đoàn có ít các hoạt động để sinh viên tham gia. Những vấn đề này sẽ có những hạn chế rất lớn cho việc học tập nghiên cứu của sinh viên. Do vậy đổi mới cơ chế quản lý là một việc làm cấp thiết.
3.4. Tạo mọi điều kiện cho sinh viên học tập, nghiên cứu.
Sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục Đại học nói riêng rất đựơc sự quan tâm của nhà nước. Nhưng vấn còn nhiều vấn đề phải quan tâm hơn nữa, tạo điều kiện tốt nhất cho sinh viên, nghiên cứu sinh. Có các chính sách ưu đãi hơn nữa cho các sinh viên nghèo, con gia đình chính sách bằng các khoản trợ cấp, học bổng... Bồi dưỡng nâng cao khả năng nghiên cứu cho các sinh viên, giao cho sinh viên và giáo viên cùng hoàn thành các đề tài để tăng khả năng tự nghiên cứu.
3.5. Tăng cường hợp tác quan hệ hợp tác quốc tế.
Hiện nay nước ta hợp tác với rất nhiều nứơc trên thế giới về lĩnh vực giáo dục. Điều nay phục vụ rất lớn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Chúng ta hợp tác với các tổ chức, các nước như, ESCAP - APEC (Uỷ ban kinh tế và xã hội châu á - Thái Bình Dương), các tổ chưc của Liên hợp quốc UNESCO, FAO, UNICEF, các nước như Hà Lan, Bỉ, Pháp, úc... Đào tạo cho Lào, Campuchia, Ăngôla, Cônggô... Các tổ chức, các nước này hỗ trợ rất lớn cho chúng ta như cấp học bổng, mở các lớp đào tạo, cử chuyên gia giúp đỡ nước ta. Hỗ trợ về phương tiện, công nghệ cho các trường Đại học.
3.6. Nâng cao cơ sở vật chất, tài chính.
Hiện nay cơ sở vật chất các trường chúng ta còn thua kém các nước rất nhiều, phương tiện giảng dạy thiếu thốn. Do vậy phải đầu tư hơn nữa về vấn đề này. Các phòng nghe nhìn, các phòng vi tính tra cứu tài liệu, thiết bị chiếu sáng. Phải trang bị các thiết bị này để nâng cao chất lượng đào tạo nghiên cứu, học tập của sinh viên. Đời sống của sinh viên còn nhiều khó khăn như vấn đề về nhà cửa, tài liệu, sinh hoạt vui chơi, giải trí. Do vậy, cần có sự quan tâm hơn nữa của các cấp.
3.7. Hoàn thiện bộ giáo trình tài liệu.
Các trường hiện nay học tập và giảng dạy một số môn không có tài liệu chính thức, trường nọ học tài liệu trường kia, tài liệu không thống nhất trong các trường, thay đổi liên tục gây một số trở ngại cho việc nghiên cứu học tập của sinh viên. Do vậy, Bộ Giáo dục - Đào tạo phối hợp các trường Đại học tổ chức họp bàn thống nhất các môn học, môn nào chung cho các trường, các khối trường, môn nào do trường tự biên soạn để nâng cao tính đặc thù của từng trường. Có chính sách hỗ trợ về giá cho sinh viên vì hiệh nay các trường tự biên soạn giáo trình phục vụ giảng dạy cho trường mình nên số lượng xuất bản rất ít, do vậy giá thành rất cao nhiều sinh viên nghèo không có tiền mua sách phục vụ cho việc học tập thi cử của mình.
3.8. Nâng các trường Đại học thành các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ.
Đội ngũ giảng dạy ở các trường Đại học có trình độ cao có khả năng nghiên cứu, các trường lại là nơi hợp tác nghiên cứu với rất nhiều tổ chức và các nước trên thế giới. Do vậy để tận dụng và nâng cao ưu thế này cần các trường cần xây dựng cho mình một mô hình nghiên cứu tư vấn các vấn đề về khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, nghiên cứu các chương trình các dự án, các dịch vụ tư vấn cho các tổ chức, các doanh nghiệp để tăng thêm tài chính, khả năng nghiên cứu của mình. Đưa chất lượng giáo dục Đại học Việt Nam sánh vai các trường Đại học nổi tiếng trên thế giới.
3.9. Có các chính sách về việc làm của sinh viên sau khi ra trường.
Các sinh viên hiện nay ra trường xin được một chỗ lầm việc là rất khó. Trong khi đó nước đội ngũ cán bộ còn thiếu về kiến thức, năng lực quản lý. Nhưng các sinh viên ra trường lại không có việc làm, một phần do sinh viên chưa đáp ứng được yêu cầu, một phần do các cơ quan nhà nước thừa cán bộ nhưng lực lượng này lại thiếu hụt kiến thức, lực lượng này không biết đưa họ lầm công việc gì. Một lý do nưa là các cơ quan Nhà nước không thấy được sự cần thiết cho sự nâng cao kiến thức của nhân viên mình. Một số sinh viên sau khi ra trường lại không về quê mà bám ở các thành phố lớn, do chính sách chưa đủ hấp dẫn cho các đối tượng phục vụ ở vùng sâu, vùng xa, ở đây hộ không có điều kiện phát huy được tiềm năng của mình. Do vậy chính sách đầu ra của các trường Đại học cần được hỗ trợ của Nhà nước để đội ngũ này phục vụ tốt cho đất nước.
Câu 1: Phân biệt các mô hình quản lý chất lượng: ISO-9000, Mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM), Hệ thống thực hành quản lý tốt (GMP), Hệ thống phân tích, xác định kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP), Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base, Hệ thống quản lý chất lượng 5S ?
1. ISO-9000:
2. Mô hình quản lý chất lượng toàn diện (TQM):
3. Hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP):
4. Hệ thống phân tích, xác định kiểm soát các điểm nguy hại trọng yếu trong quá trình chế biến thực phẩm (HACCP):
5. Hệ thống quản lý chất lượng Q-Base:
6. Hệ thống quản lý chất lượng 5S:
Câu 2. Nhà nước có vai trò gì trong việc đưa ra các mô hìmh quản lý chất lượng vào doanh nghiệp Việt Nam? Vai trò đó đã được thực hiện như thế nào?
Câu 3: Trình bày các giải pháp cơ bản để xây dựng mô hình quản lý chất lượng phù hợp với doanh nghiệp Việt Nam?
Câu 4: Để nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường đại học hiện nay cần phải làm gì ?
1. Hình thành và phát triển hệ thống đào tạo đại học ở nước ta.
2. Tình hình đo lường, đánh giá chất lượng đào tạo nước ta hiện nay.
3. Các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cho các trường Đại học ở nước ta hiện nay.
3.1. Nâng cao chất lượng đào tạo ở cấp phổ thông, cải cách thi tuyển vào các trường Đại học.
3.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đáp ứng têu cầu phát triển và chế độ chính sách giáo dục.
3.3. Nâng cao hệ thống quản lý.
3.4. Tạo mọi điều kiện cho sinh viên học tập, nghiên cứu.
3.5. Tăng cường hợp tác quan hệ hợp tác quốc tế.
3.6. Nâng cao cơ sở vật chất, tài chính.
3.7. Hoàn thiện bộ giáo trình tài liệu.
3.8. Nâng các trường Đại học thành các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ.
3.9. Có các chính sách về việc làm của sinh viên sau khi ra trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV337.doc