Chuyên đề Một số biện pháp cải thiện quy trình nhập khẩu sách báo cảu công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam

Trong những năm qua, Công ty đã quan tâm đến hoạt động này song việc nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện một cách hợp lý. Với quy mô hoạt động không nhỏ, song Công ty vẫn chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác nghiên cứu thị trường. Hiện nay, việc nghiên cứu thị trường do các phòng nhập khẩu thực hiện một cách riêng biệt. Điều này khiến cho các thông tin được thu thập thiếu tính hệ thống và đồng bộ. Hơn nữa, nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ lại rộng, vừa phải nghiên cứu nhu cầu, vừa phải tìm đối tác cũng như nghiên cứu các hợp đồng kinh tế. Do đó không đủ thời gian để tập trung vào công tác tổ chức thu thập thông tin nghiên cứu thị trường. Để hoạt động nghiên cứu thị trường trở thành có hệ thống, Công ty cần thiết lập một bộ phận chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, tạo điều kiện để mở rộng các cơ hội kinh doanh của Công ty. Trên cơ sở tổ chức bộ máy hiện đại, Công ty nên thành lập riêng một phòng marketing hoặc có thể ghép với phòng công nghệ thông tin mới đuợc lập vì hiện phòng này còn ít nhân lực. Bộ phận nghiên cứu thị trường có 3 đến 4 nhân viên thực hiện trong đó phân công thành hai khu vực, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Do hoạt động của công ty chủ yếu là nhập khẩu nên ở khu vực thị trường nước ngoài lại chia thành thị trường đã có quan hệ và thị trường mới. Bộ phận này không chỉ tiến hành nghiên cứu , kiểm tra các thông tin thực sự về khả năng tài chính, năng lực kỹ thuật, kinh nghiệm, uy tín.của các đối tác truyền thống mà còn nghiên cứu thị trường tiềm năng mới. đồng thời bộ phận này cũng phải tiến hành nghiên cứu các vấn đề kinh tế- chính trị- xã hội, môi trường luật pháp của các nước xuất khẩu, xúc tiến nghiên cứu các chế độ chính sách , các phong tục tập quán có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của các nước này. Trên cơ sở đó mở rộng thị trường nhập khẩu, mở rộng mối quan hệ bạn hàng với các nhà cung cấp tiềm năng và tìm ra những điểm thuận lợi cho việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp hợp đồng sau này. Bộ phận này cũng kiêm luôn chức năng lập kế hoạch, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cho toàn Công ty nói chung và kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Để việc xây dựng kế hoạch được thuận lợi cần bố trí một nhân viên tổng hợp , xử lý các số liệu từ bộ phận nghiên cứu thị trường cũng như từ các bộ phận khác trong Công ty.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp cải thiện quy trình nhập khẩu sách báo cảu công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh quân của người dân nên tiềm năng nhập khẩu sách báo thực sự vẫn chưa được khai thác nhiều. Hơn nữa, nạn vi phạm bản quyền tác giả vẫn diễn ra tràn lan, một cuốn sách nước ngoài sau khi được nhà xuất bản của Việt Nam dịch và in ấn sẽ rẻ được chục lần so với cuốn sách được nhập về. Tuy vậy, do đó hoạt động lâu năm, có kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực nhập khẩu xuất bản phẩm, lại là một doanh nghiệp nhà nước được hưởng những ưu đãi nhất định nên công ty đã xây dựng được cho mình một mạng lưới khách hàng ổn định được phân làm hai nhóm khách hàng thường xuyên (nhóm 1) và nhóm khách hàng mua buôn và mua lẻ (nhóm 2). BẢNG 2: CƠ CẤU KHÁCH HÀNG TRONG NƯỚC Khách hàng 2003 2004 2005 2006 2007 DT (1000 USD) Tỷ trọng (%) DT (1000 USD) Tỷ trọng (%) DT (1000 USD) Tỷ trọng (%) DT (1000 USD) Tỷ trọng (%) DT (1000 USD) Tỷ trọng (%) Nhóm 1 812 33 856 33 600 22 528 21 612 23 Nhóm 2 1670 67 1738 67 2150 78 2046 79 2100 77 Tổng cộng 2482 100 2594 100 2750 100 2574 100 2712 100 (Nguồn: Báo cáo tổng kết cuối năm 2003-2007 của Xunhasaba) Qua bảng 2 ta thấy thị trường nhóm 1, nhóm 2 là khu vực thay đổi thất thường. Mức tăng giảm kim nghạch nhập khẩu của nhóm này hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường. Nhóm khách hàng này của Xunhasaba chủ yếu là những công ty, những dự án nước ngoài, cửa hàng, cá nhân. Sức mua của những nhóm khách hàng này đang có chiều hướng gia tăng cả về kim nghạch và tỷ trọng do họ đặt mua sách nhiều hơn và giá bán cho nhóm khách hàng này linh hoạt hơn nhóm 1. Tỷ trọng sách chiếm trên 60% tổng kim nghạch của nhóm, lợi nhuận thu được tương đối cao. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của Công ty. Tuy nhiên, tính thất thường của nhóm thường xuyên đe doạ hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, xu thế cạnh tranh trên thị trường sách báo nói chung và trên lĩnh vực sách nhập khẩu nói riêng diễn ra ngày càng gay gắt. 4. Các yếu tố đánh giá quy trình nhập khẩu của Xunhasaba: 4.1. Bảo đảm thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu Đầu tiên, để quy trình nhập khẩu sách diễn ra thuận lợi phải nắm rõ được nhu cầu thực chất của khách hàng để từ đó tìm ra các nhà cung cấp cho phù hợp. Nhu cầu này có thể tìm hiểu bằng nhiều phương pháp khác nhau để có thể tận dụng được hết các khả năng sẵn có của mình.Tận dụng lợi thế đi trước của mình trong lĩnh vực nhập khẩu sách báo, Xunhasaba đã có các mối quan hệ bạn hàng lâu năm, dễ dàng tiếp xúc nắm bắt nhu cầu của họ. Hơn nữa, các cán bộ nhập khẩu còn thường xuyên cập nhật tình hình thông tin trong nước về mọi lĩnh vực qua Internet, qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng tại các cửa hàng sách ngoại văn. Các cán bộ ở các phòng ban khác cũng tích cực thu thập thông tin cung cấp cho phòng nhập khẩu, nắm được nhu cầu bạn đọc. Trong công tác chuẩn bị kí kết hợp đồng để công việc diễn ra thuận lợi thì Xunhasaba đã chuẩn bị đầy đủ thông tin về khách hàng mà công ty có ý định đi tới ký kết hợp đồng. Các cán bộ Xunhasaba đã tự đánh giá trung thực về mức độ thuận lợi khi làm công tác nhập khẩu ( điểm trung bình là 4.5 trên thang điểm 5 mức độ từ rất khó khăn đến rất thuận lợi). Điều đó thể hiện sự hài lòng trong công tác nhập khẩu của các cán bộ, bảng tổng hợp đánh giá do phó phòng nhập khẩu sách Trịnh Tráng hoàn thành. 4.2. Tổng thời gian thực hiện quy trình: Quy trình nhập khẩu sách cúa Xunhasaba nói riêng và quy trình nhập khẩu sách báo nói chung tương đối đơn giản vì các lô hàng nhập về thường có giá trị không lớn lắm, lại được ưu đãi bởi nhà nước, hơn nữa Xunhasaba lại có nhiều năm kinh nghiệm trong việc nhập khẩu sách báo. Vì vậy tổng thời gian thực hiện một quy trình nhập khẩu của Xunhasaba khá ngắn, thời gian chủ yếu của quy trình nằm ở khâu vận chuyển. Đối với những lô sách mà khách hàng có nhu cầu cần gấp, Xunhasaba sẽ dùng vận tải hàng không, rút ngắn thời gian vận chuyển. Thời gian thực hiện quy trình thường bị kéo dài hơn bình thường khi đối tác không có sẵn hàng bán trong khi vẫn nhận đơn đặt mua của Xunhasaba. Sách báo bị thất lạc trong quá trình vận chuyển cũng là nguyên nhân thường thấy, kéo dài thời gian quy trình nhập khẩu của Xunhasaba. Thời gian nhập khẩu sách bằng đường hàng không thường từ 1 tuần đến 2 tuần, còn bằng đường biển có thể mất vài tháng. So với thời gian nhập khẩu sách báo trung bình của ngành, so sánh với công ty đối trọng như công ty Nam Hoàng thì tồng thời gian thực hiện quy trình của công ty Xunhasaba tương đuơng với ngành, công ty không đạt được ưu thế về thời gian thực hiện quy trình. 4.3. Phối hợp các bước trong quy trình: Các bước trong quy trình nhập khẩu của Xunhasaba đuợc phối hợp chặt chẽ, hạn chế tối đa rủi ro. Các cán bộ nhập khẩu của Xunhasaba có trình độ chuyên môn vững, nắm rõ trình tự thực hiện của các bước, đuợc truyền đạt một cách đầy đủ và bài bản quy trình nhập khẩu nên việc thực hiện các bước trong quy trình khá nhịp nhàng, trôi chảy. Từ đó khiến cả quy trình nhập khẩu được vận hành nhuần nhuyễn, các bước thực hiện vừa rõ ràng lại vừa ăn khớp nhau. Việc phân công thực hiện các bước, các khâu, công đoạn cũng đuợc phân chia rõ ràng giữa các cán bộ, tránh được tình trạng chồng chéo khi thực hiện, giảm thiểu chi phí về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp. Chi phí phát sinh trong quy trình nhập khẩu sách báo khi chuyển từ bước này sang bước tiếp của công ty không đáng kể vì các cán bộ nhập khẩu đã có nhiều năm kinh nghiệm, có nhiều mối quan hệ thân quen với các bên liên quan nên hoạt động rất thuận lợi. 4.4. Mức độ hoàn thành mỗi bước trong quy trình: Kỳ vọng tại mỗi bước của quy trình nhập khẩu sách báo được các cán bộ hiểu rõ nên họ đều cố gắng đạt được, thậm chí làm tốt hơn mong đợi. Điều đó đuợc thể hiện khi thời gian nhập khẩu giảm đi rõ rệt, hàng đến tay khách nhanh hơn từ đó nâng cao, mở rộng quan hệ khách hàng, đối tác giúp quy trình ngày càng đuợc hoàn thiện. Khâu nghiên cứu thị truờng của Xunhasaba vẫn đang trong quá trình hoàn thiện và đổi mới, vẫn chưa có phương thức sáng tạo nào thay thế các phương thức thu thập số liệu truyền thống của Công ty nên bước này còn có phần bị động. Quy trình nhập khẩu sách báo của Xunhasaba tuy tương đối đơn giản nhưng đuợc thực hiện bài bản và tỉ mỉ, vì vậy mức độ hoàn thành các bước của quy trình đều đạt tiêu chuẩn do Công ty để ra. 4.5. Mức độ hài lòng của khách hàng: Ngoài những khách hàng lâu năm như các thư viện, các trường đại học vẫn thường xuyên đặt sách từ Xunhasaba do uy tín và chất lượng hàng hóa, còn có nhiều khách lẻ đến đặt mua sách. Tùy vào yêu cầu của khách hàng về thời gian, giá cả, các cán bộ của phòng nhập khẩu sách giải đáp thắc mắc và tư vấn giải đáp trực tiếp cho họ về các vấn đề liên quan đến sách họ cần. Xunhasaba còn gửi các báo giá định kì với giá tốt nhất, kịp thời nhất, giúp khách hàng thấy vô cùng tiện lợi. Dựa vào các cuộc phỏng vấn trực tiếp do sinh viên thực tập thực hiện với các khách hàng đến đặt sách trực tiếp tại Xunhasaba và một số thư viện như thư viện Quân Đội, thư viện trường đại học Kinh tế quốc dân, viện hạt nhân, viện quốc tế Mỹ. Cho thấy các khách hàng đều hài lòng với dịch vụ của Xunhasaba, từ khâu đặt hàng đến lúc nhận hàng. Mọi thắc mắc của khách hàng đều được các cán bộ của phòng nhập khẩu sách giải đáp rõ ràng đầy đủ, khách hàng luôn yên tâm vì nhận được sách đúng ý mình, và kết quả là những khách hàng này nếu có đặt mua sách nhập khẩu đều lại tiếp tục đến với Xunhasaba (tỷ lệ khách hàng đặt sách sau lần đặt thứ nhất là 84% - sổ tay theo dõi. Phó phòng Trịnh Tráng) 5. Các yếu tố ảnh hưởng quy trình nhập khẩu của Xunhasaba 5.1. Các nhân tố văn hóa xã hội , thị hiếu tiêu dùng: Các nhân tố văn hoá-xã hội ảnh hưởng, tác động đến hoạt động nhập khẩu xuất bản phẩm bao gồm: lối sống, tập quán, tôn giáo, ngôn ngữ, thị hiếu người tiêu dùng v. v... Các nhân tố văn hoá - xã hội hình thành nên các loại hình khác nhau của nhu cầu thị trường, làm nền tảng cho sự xuất hiện thị hiếu tiêu dùng xuất bản phẩm và sự tăng trưởng của các thị trường mới. Đồng thời, xu hướng vận động của các yếu tố văn hóa - xã hội cũng phản ánh những tác động do các điều kiện về kinh tế, khoa học-công nghệ đưa lại, làm nẩy sinh nhu cầu nhận thông tin, nhu cầu về xuất bản phẩm nhập khẩu. Ngày nay, công nghệ thông tin đang phát triển cực kỳ nhanh chóng, đem đến những tiến bộ khoa học công nghệ lớn lao. Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm phải căn cứ vào các nhân tố văn hóa-xã hội; các nhu cầu của khách hàng và thị trường trong nước, nghiên cứu thị trường nhập khẩu, để từ đó đưa ra quyết định nhập khẩu xuất bản phẩm thích hợp. Chính vì vậy, doanh nghiệp chỉ có thể kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm thành công khi có những hiểu biết đầy đủ về nhu cầu văn hoá xã hội, trước tiên của bạn đọc trong nước. Đây là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng quy trình nhập khẩu sách báo của Xunhasaba, từ khâu nghiên cứu thị truờng, là cơ sở để đưa ra giải pháp ở chương 3. Ngoài nguyên nhân khách quan nói trên, nguyên nhân chủ quan là các cán bộ nhập khẩu sách báo của công ty không có đủ thời gian và kỹ năng chuyên môn về marketing để đầu tư thực hiện kĩ chức năng này mà thường căn cứ vào xu hướng văn hóa xã hội nói chung, từ nguồn thông tin thứ cấp nên vẫn còn phụ thuộc nhiều, chưa chủ động trong bước nghiên cứu thị trường của quy trình nhập khẩu. 5.2. Các nhân tố về chính sách của Nhà nước và luật pháp: Mỗi quốc gia đều có thể chế luật pháp riêng và chính các yếu tố luật pháp lại tác động có tính quyết định đến các hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Luật pháp chi phối các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm nói riêng. Luật pháp từng quốc gia, dù theo chế độ xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa, đều quy định cụ thể các lĩnh vực nào, mặt hàng nào được phép và không được nhập khẩu, xuất khẩu. Nhìn chung, ta có thể thấy những tác động của các yếu tố cơ bản về luật pháp dưới đây: Quy định về bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ. Quy định về giá cả, các loại thuế đánh vào sách báo và băng đĩa dưới dạng sách. Quy định về nội dung xuất bản phẩm nhập khẩu,... Quy định ưu đãi với một số xuất bản phẩm dành cho các đối tượng ưu tiên... Như vậy, một mặt các yếu tố luật pháp có thể tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất bản phẩm. Nhưng mặt khác, để bảo vệ độc lập, chủ quyền và sự ổn định chính trị của đất nước, luật pháp có thể đặt ra những rào chắn ngăn cản và hạn chế khả năng của doanh nghiệp xuất bản phẩm trong việc khai thác và mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trên thị trường quốc tế. 5.3. Nhu cầu khách hàng và trình độ dân trí: Do sự phát triển của công nghệ thông tin, khoa học, giáo dục... xu hướng chung của thế giới hiện đại vào đầu thế kỷ XXI nói chung, ở nước ta cũng như nhiều nước khác, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao. Các nhà khoa học và người dân ngày càng có nhu cầu nâng cao tầm hiểu biết của mình bằng cách trau dồi kiến thức. Một trong những nguồn cung cấp các thông tin mới nhất là sách báo ngoại nhập. Từ ngày đất nước ta Đổi Mới, Mở Cửa, các Viện nghiên cứu, các nhà khoa học có nhu cầu rất lớn về thông tin khoa học qua các ấn phẩm sách báo như các tạp chí “Scientific American” của Mỹ; French Enginering Industries ra bằng tiếng Anh của Pháp; L’ Universitaire; Science et la Vie; các ấn phẩm của nhóm xuất bản Mc Graw Hill v.v... Các giới nghiên cứu kinh tế, doanh nghiệp, ngoại giao, văn hoá nước ta cũng thường đọc các báo Far Western Economic Rewiew, Times, Life, Business Week, Newsweek, N.Y. Herard Tribune, Financial Times, Le Monde Diplomatique, Le Figaro, L’ Express, v.v... Các nhà nghiên cứu thời trang, mỹ phẩm thường đặt nhập khẩu các loại báo Elle, Femmes d’ Aujourd’hui, Marie Claire, Lui v.v... Các báo chí khoa học kỹ thuật, khoa học nhân văn bằng các thứ tiếng Anh, Nga, Trung, Nhật, Đức v.v... cũng được nhiều bạn đọc, chú ý khai thác thông tin. Cũng phải nói đến các Đại sứ quán các nước và Văn phòng các tổ chức Liên hiệp quốc và các cơ quan NGO ở Việt Nam đặt nhập khẩu báo chí, sách qua các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm nước ta. Đặc biệt, các thư viện lớn và các Viện nghiên cứu, các trường đại học lớn, các Tổng Công ty, các doanh nghiệp... đòi hỏi phải để trang bị lại, bổ sung, cập nhật từ các nguồn tài liệu sách báo nước ngoài, kết hợp với Internet, để có thể nắm bắt những thông tin khoa học mới nhất trong mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ và khoa học xã hội-nhân văn, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đó là đòi hỏi tất yếu của bất cứ một nước, một cộng đồng dân tộc nào muốn đi tắt, đón đầu, đuổi kịp và vượt lên về khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hoá trong toàn cầu hoá, kinh tế tri thức trong những thập niên cạnh tranh phát triển trí tuệ hiện nay. Do đó, nhu cầu sách báo, xuất bản phẩm nhập khẩu ngày càng tăng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất bản phẩm mở rộng kinh doanh. Công ty Xunhasaba còn chưa có nhiều biện pháp kích nhu cầu thị trường, tuyên truyền văn hóa đọc cho đa số người dân mà vẫn chỉ tập trung đa số thời gian vào việc phục vụ phân đoạn thị trường nhỏ hẹp, đây là cơ sở để đề xuất giải pháp ở chương 3. 5.4. Ảnh hưởng do mối quan hệ bạn hàng: Đối với các khách hàng, Xunhasaba đã lập ra được sự tín nhiệm cho họ nên công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Điều này có được không chỉ vì bề dày lịch sử 50 năm hoạt động của công ty, mà còn do tiếp xúc thực tế giữa khách hàng và các cán bộ trong công ty. Do có sự tin tưởng lẫn nhau trong giao dịch buôn bán sách bái nên sẽ diễn ra nhanh hơn và đơn giản hơn nhiều. Đồng thời Xunhasaba cũng lập được mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng, tạo mối quan hệ thường xuyên, gửi thiệp đến cho họ những ngày đặc biệt, khiến họ trở thành nhà cung cấp “trung thành” cho mình. Từ đó giảm bớt đuợc chi phí thời gian cho công việc ký kết hợp đồng nhập khẩu, đàm phán giá cả v.v.. Trong các mối quan hệ, Xunhasaba mà đại diện là các cán bộ nhập khẩu của mình đã thể hiện tính năng động, nhiệt tình, phong cách làm việc hiện đại, trình độ ngoại ngữ cao. Chiếm được cảm tình của đối tác và khách hàng, Xunhasaba đã giúp quy trình nhập khẩu sách báo của mình ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Tuy nhiên Xunhasaba vẫn chỉ dựa vào mối quan hệ các bạn hàng cũ lâu năm, các nhà cung cấp thường xuyên, chưa có sự mở rộng hợp tác, liên kết hợp tác nên công ty còn thể hiện sự bị động trong việc hợp tác xuất bản sách. 5.5. Ảnh hưởng tổ chức quy trình làm việc Quy trình nhập khẩu sách báo của Xunhasaba được chỉ đạo bởi cấp quản lý và lãnh đạo, tận dụng các lợi thế và kinh nghiệm của công ty. Quan hệ giữa các cấp quản lý rất rõ ràng về mặt thông tin, giữa các phòng vẫn thường xuyên trao đổi với nhau để làm rõ hơn quy trình nhập khẩu. Sự trao đổi dọc giữa giám đốc với các trưởng phòng, rồi thông qua truởng phòng truyển đạt đến nhân viên đuợc thực hiện rất rõ ràng, chính xác, vì vậy việc thực hiện các bước trong quy trình nhập khẩu luôn đáp ứng kỳ vọng, phòng nhập khẩu sách luôn được tuyên dương trong công ty. Tuy nhiên, do chưa có riêng biệt một phòng marketing của công ty nên việc truyền đạt thông tin nghiên cứu thị trường đôi khi vẫn như một ma trận thông tin, khiến nảy sinh nhiều thắc mắc. Điều này là cơ sở để đề xuất giải pháp thành lập một phòng marketing hoặc phòng có chức năng tương tự để truyền đạt thông tin rõ ràng, nhất quán trong tổ chức ( giải pháp do chú Bình – kế toán trưởng công ty Xunhasaba đề xuất trong cuộc họp cuối năm 2007) Chương 3 : Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu sách báo của công ty Xunhasaba ˜&™ 1. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY XUNHASABA TRONG NHỮNG NĂM TỚI . Việt Nam là một nước nông nghiệp, giầu nguồn nhân lực có trình độ học vấn, giầu tài nguyên thiên nhiên; nhưng trải qua chiến tranh lâu dài chống thực dân, đế quốc xâm lược, nhiều thiên tai, nên kinh tế còn nghèo, kém phát triển; nhưng có ổn định về chính trị, có tốc độ tăng trưởng vào loại cao trong khu vực và các nước đang phát triển. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đó xác định: “Mục tiêu tổng quát của Chiến lược 10 năm 2001-2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá... đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc tế được nâng cao” Đảng CSVN. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng. Lưu hành nội bộ. Tháng 7/2000, tr. 58. . Chủ trương của Đảng, Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh Đổi Mới, Mở Cửa, đa phương hoá quan hệ thương mại, đẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện môi trường luật pháp, khuyến khích đầu tư... cho nên Việt Nam vẫn là thị trường hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đường lối của Nhà nước “Việt Nam là bạn với tất cả các nước”; sự hợp tác, giao lưu với các nước, các tổ chức quốc tế về văn hoá, khoa học kỹ thuật v.v... đặc biệt thông qua trao đổi sách báo tạo môi trường thuận lợi cho Xunhasaba. Là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong lĩnh vực văn hoá thông tin, XUNHASABA đang có một cơ hội kinh doanh với thị trường nước ngoài rộng lớn cho cả lĩnh vực xuất và nhập khẩu xuất bản phẩm, đặc biệt là thị trường Anh, Mỹ, Pháp, Nga, Nhật, EU, Trung Quốc và các nước ASEAN. Đây là các thị trường đầy tiềm năng và thường dành cho Việt Nam nhiều ưu đói trong quan hệ thương mại. Nhu cầu lớn của các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học, các thư viện lớn, các trường đại học và nhân dân nước ta về trao đổi thông tin nhằm tiếp cận trình độ khoa học công nghệ cao, trình độ quản lý tiên tiến của các nước trên thế giới ngày càng tăng cao. Song song với nhu cầu về sách báo ngoại văn nước ngoài, khả năng sử dụng ngoại ngữ của số đông người lao động tăng lên rõ rệt. Đây là thuận lợi cơ bản cho sự nghiệp kinh doanh của XUNHASABA. 1.1. Chiến lược kinh doanh của Xunhasaba. Vấn đề đặt ra, trước hết cần nghiên cứu định hướng chiến lược kinh doanh. Thực tế cho đến nay XUNHASABA vẫn chưa xây dựng được chiến lược lâu dài có tính khả thi, nhằm định hướng cho sự phát triển trong tương lai của XUNHASABA. Nhìn chung XUNHASABA có đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, nhiệt huyết. Tuy nhiên về nghiệp vụ hoạt động kinh doanh còn nặng về kinh nghiệm, thiếu sự hợp tác với nhau dễ dẫn đến tình trạng manh mún, cục bộ trong toàn bộ khâu kinh doanh chung của toàn Công ty. Tình trạng nhất thời, ăn xổi, được đến đâu hay đến đó vẫn phổ biến trong hoạt động kinh doanh, kể cả trong quản lý, điều hành. Phải chăng đây là yếu điểm đối với tiến trình phát triển của một Công ty có thâm niên trong kinh doanh xuất nhập khẩu xuất bản phẩm như XUNHASABA. Căn cứ vào đường lối phát triển đất nước do Đại hội IX của Đảng đề ra và chính sách của Nhà nước lãnh đạo XUNHASABA cần giao cho các phòng ban xây dựng chiến lược kinh doanh với tầm nhìn trung hạn 5 năm và dài hạn 10 năm hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sách báo, văn hoá phẩm của đơn vị mình. Chúng Tôi xin phép bước đầu bàn về định hướng chiến lược trong 5 năm tới (2008-2013) của XUNHASABA dưới đây: 1.2. Về mở rộng kinh doanh, phát triển thị trường. - Cùng với đà phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước, mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ xuất bản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu. Công tác nghiên cứu thị trường cần được chú trọng hơn nữa, cả về thị trường trong nước lẫn thị trường nước ngoài. Cần phân tích những thị trường trọng điểm trong từng giai đoạn để tập trung ưu tiên cả về phương diện cán bộ chuyên môn và đầu tư ngân sách, nhằm khắc phục tình trạng làm việc theo kinh nghiệm như hiện nay. - Riêng về nhập khẩu, với tư thế một doanh nghiệp nhà nước XUNHASABA cần xác định một chiến lược nhập sách báo, xuất bản phẩm trung hạn, dài hạn với những nước nào, nhà cung cấp quốc tế nào, thế mạnh, yếu của họ ra sao; mặt khác, ngoài các khách hàng chủ yếu, thường xuyên thuộc nhóm 1 (như đó phân tích ở Chương 2, gồm 5 đơn vị: thị trường thông tin KHXH & NV QG, Thư viện quốc gia, Viện khoa học Việt Nam, thị trường tư liệu KH&CN QG, Công ty phát hành báo chí TW); còn có khả năng phát triển chào hàng đến các cơ quan, viện nghiên cứu, trường đại học nào nữa trong nước để bổ sung sách báo, văn hoá phẩm điện tử đa dạng, trên cơ sở mối quan hệ và thông tin quốc tế của XUNHASABA. - Cần mở rộng kinh doanh bằng cách thông tin, chào hàng đến các đối tượng khách hàng có thế mạnh về hoạt động sản xuất-kinh doanh là các Tổng Công Ty quốc doanh trong nước, các Liên doanh với nước ngoài ở Việt Nam; kể cả các doanh nghiệp tư nhân, tuy nhỏ nhưng rất đông và rất cần những tri thức hiện đại quốc tế thông qua sách báo nước ngoài. Trong tương lai gần, theo chúng Tôi, các nhà kinh doanh và cá nhân các nhà khoa học tự nhiên và nhân văn sẽ là nhóm đối tượng khách hàng lớn của Xunhasaba. - Đa dạng hoá các mặt hàng xuất bản phẩm trong kinh doanh, tiếp cận nhanh với hệ thống thông tin đa phương tiện, qua đó tạo lập doanh nghiệp có đầy đủ khả năng đáp ứng tốt mọi nhu cầu về xuất bản phẩm, sách báo cho khách hàng trong và ngoài nước. Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, Internet..., trên phạm vi toàn cầu cho thấy hiện tượng tăng sách báo điện tử, giảm sách báo in ấn theo công nghệ truyền thống, nhất là đối với các nước phát triển. Mặc dù thông tin đa phương tiện không thể nào thay thế hoàn toàn sách báo truyền thống, nhưng sách báo điện tử, multimedia... đang phát triển cực kỳ nhanh nhạy. Cán bộ kinh doanh xuất bản phẩm không những cần biết kinh doanh sách báo điện tử, mà còn phải biết nắm vững nội dung nhằm có thể nhập, phổ biến loại sách báo này theo đúng qui định của pháp luật nước ta. Đó là cái khó của việc kinh doanh xuất bản phẩm điện tử. - Mở rộng, phát triển các đại lý tiêu thụ xuất bản phẩm nhập khẩu của XUNHASABA trong nước, tiến tới mỗi thành phố lớn, đô thị trong nước ít nhất có một đại lý của XUNHASABA để mọi bạn trẻ, các nhà khoa học, quản lý có điều kiện tiếp cận với các thông tin khoa học tiên tiến của thế giới, góp phần vào việc CNH-HĐH nông thôn theo đường lối của Đảng. - Phấn đấu khẳng định vững chắc vị trí của XUNHASABA trên thị trường buôn bán sách báo quốc tế, có khả năng cạnh tranh với các hãng kinh doanh xuất bản phẩm trong khu vực. Nghiên cứu củng cố, khai thác các khả năng của các thị trường truyền thống như Anh, Đức, Mỹ, Pháp, Nhật, đồng thời xây dựng các biện pháp tích cực mở rộng các thị trường Nga, Trung Quốc, EU, ASEAN, Ấn Độ v.v... Vấn đề tham gia hội chợ quốc tế cũng cần nghiên cứu một cách khoa học, chiến lược. Nên tập trung những cán bộ nghiệp vụ giỏi và kinh phí cho những hội chợ quan trọng, có nhiều tiềm năng kết hợp xuất và nhập trong cùng một hội chợ để nâng cao hiệu quả của những đoàn đi công tác nước ngoài. 1.3. Về tổ chức quản lý và chuyên môn nghiệp vụ. - Xây dựng và hoàn thiện phương pháp và phong cách quản lý khoa học và quy trình nghiệp vụ kinh doanh, nhằm đạt tới hiệu quả cao, nâng cao sức cạnh tranh về giá cả và chất lượng dịch vụ văn minh, hiện đại của XUNHASABA. - Hoàn thiện bộ máy quản lý kinh doanh theo hướng tinh giảm, gọn nhẹ, tránh chồng chéo, ít khâu trung gian, bảo đảm khả năng huy động toàn bộ tiềm lực của bộ máy trong những thời điểm cần thiết trong quá trình hoạt động kinh doanh. Hoàn thiện quy trình kinh doanh, giảm thiểu thời gian đưa xuất bản phẩm nhập khẩu vào lưu thông. - Thành lập bộ phận marketing, bộ phận ứng dụng cụng nghệ tin học, xõy dựng và ban hành quy chế quản lý và hoạt động của bộ phận này với mục đích có tác dụng hỗ trọ cao nhất cho hoạt động kinh doanh. - Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân viên có trình độ đại học và biết ít nhất một ngoại ngữ, có kiến thức kinh doanh tổng hợp, có ý thức về chính trị, văn hoá, xã hội và hiểu biết rõ về đặc điểm kinh doanh xuất bản phẩm của XUNHASABA. - Công ty đã xây dựng được trang “website Xunhasaba”. Đội ngũ cán bộ chuyên trách xuất nhập khẩu sách báo phải bắt buộc nâng cao, tiến đến thành thạo sử dụng tiếng Anh và các ngoại ngữ quốc tế phổ biến; thành thạo sử dụng Internet và thanh toỏn quốc tế để giao dịch trực tiếp trên thương trường xuất bản phẩm quốc tế, từng bước phát triển mạng lưới bán hàng trên mạng cả trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó, lãnh đạo nghiên cứu, điều chỉnh và xây dựng chiến lược kinh doanh xuất bản phẩm để liên kết đồng bộ toàn cơ quan trao đổi, bàn bạc chung, tiến tới nhất trí, trình Bộ duyệt và tổ chức sáng tạo thực thi chiến lược kinh doanh trung hạn và dài hạn đó. Bước vào thế kỷ XXI, việc xây dựng chiến lược như thế thực cần thiết. Vì đã nhiều năm, vị trí thuận lợi của Xunhasaba là được độc quyền kinh doanh xuất bản phẩm, vốn không có đối thủ cạnh tranh; đồng thời là một trong những đơn vị hàng đầu của Bộ Văn hoá Thông tin. Trong khi Nhà nước ta đang xoá bỏ dần thế độc quyền kinh doanh, Xunhasaba cần xây dựng chiến lược kinh doanh xuất nhập khẩu xuất bản phẩm đồng bộ để tự điều chỉnh, thích ứng với điều kiện thị trường cạnh tranh trong phạm vi luật pháp cho phép. Đó là những suy nghĩ bước đầu về định hướng lâu dài cho sự phát triển sống còn của XUNHASABA trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHẬP KHẨU SÁCH BÁO CỦA CÔNG TY XUNHASABA 2.1. Cơ sở đưa ra các giải pháp Đối với văn hoá và nền kinh tế tri thức. “Đất nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới, thế và lực đã khác trước nhiều, tuy nhiên hiện nay nước ta vẫn là một trong những nước nghèo... Trong lúc các nước tiên tiến trên thế giới đó hoàn thành hai cuộc cách mạng công nghiệp và đang thực hiện cuộc cách mạng thông tin, thì nước ta mới bắt đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hoá [... ... ]. Trong thời đại cách mạng thông tin hiện nay, chúng ta không có sự lựa chọn nào khác là phải tiếp cận nhanh chóng với tri thức và công nghệ mới nhất của thời đại để hiện đại hoá nền kinh tế, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng từng bước hình thành nền kinh tế tri thức, có năng lực cạnh tranh với giá trị gia tăng ngày càng cao" Lê Khả Phiêu. Sách đã dẫn trên. tr. 173. . Phát triển dựa vào tri thức và công nghệ cao, đòi hỏi phải có vốn đầu tư và trước tiên là đầu tư phát triển nguồn lực con người, những người chủ sáng tạo tương lai của đất nước để tạo ra được động lực thực sự, tạo môi trường thuận lợi cho tri thức và công nghệ cao phát triển. Muốn phát triển nguồn nhân lực từ thế hệ trẻ, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, trong những năm 2001-2010 phải tăng mạnh đầu tư của toàn xã hội cho giáo dục đào tạo và nghiên cứu, ứng dụng khoa học theo hướng nhập khẩu sách báo về thông tin-khoa học, đồng thời với nhập khẩu công nghệ hiện đại, đáp ứng cho sự phát triển kinh tế đất nước. Yếu tố quyết định thúc đẩy nước ta đi nhanh vào kinh tế tri thức là trỡnh độ dân trí cao, có nguồn nhân lực trẻ mạnh về trí tuệ và khoa học công nghệ. Ta thấy rằng trong nhập khẩu sách báo cần chú ý đến tính văn hóa xã hội sao cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển đất nước, phục vụ tốt các công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy. Tuy nhiên do tính chất đặc thù của ngành sách báo, nội dung loại hàng hóa đặc biệt này đòi hỏi phải phù hợp văn hóa thuần phong mỹ tục của Việt Nam. Do vậy việc nhập khẩu sách báo phải đảm bảo về mặt nội dung tư tuởng, chính trị, văn hóa. Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận, hoạt động nhập khẩu còn phải bảo đảm yêu cầu"Tiết kiệm và hiệu quả cao trong sử dụng vốn nhập khẩu", "Bảo vệ thúc đẩy kinh doanh xuất bản phẩm trong nước phát triển". Mục tiêu hàng đầu của việc nhập khẩu sách báo là chất lượng và tính cập nhật cao của sách báo nhập khẩu, giúp bạn đọc tiếp cận được với những tư liệu quý giá của nước ngoài. Như vây, việc đưa ra giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu nói chúng và đặc biệt đối với quy trình nhập khẩu sách báo nói riêng tại Công ty xuất nhập khẩu hàng sách báo Việt Nam phải dựa trên nguyên tác chủ yếu sau: Đảm bảo chất lượng và mức độ cập nhật của sách báo. Tiết kiệm và hiệu quả cao trong sử dụng vốn nhập khẩu, phù hợp với khả năng và đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tuân thủ theo đúng phương hướng, chiến lược phát triển tổng thể của ngành xuất bản phẩm, chiến lược của công ty Xunhasaba. Tuân thủ chặt chẽ các quy định có liên quan của Nhà nước. Giải quyết được một số khâu còn hay gặp vướng mắc khi tiến hành thực hiện quy trình nhập khẩu sách báo. 2.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu sách báo Việt Nam. a) Giải pháp hoàn thiện nghiên cứu thị trường. Nghiên cứu thị trường là hoạt động đầu tiên của quá trình kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Mục tiêu của công tác này là xác định cho được khu vực nào là thị trường có triển vọng nhất đối với hàng hoá của Công ty, với khả năng là bao nhiêu, bán với phương thức nào và hàng hoá cần có những ứng thích gì trước những đòi hỏi của thị trường. Đây là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường, so sánh, phân tích các số liệu đó để rút ra kết luận. Những kết luận này là cơ sở để lãnh đạo Công ty đưa ra quyết định đúng lập kế hoạch Marketing. Trong những năm qua, Công ty đã quan tâm đến hoạt động này song việc nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện một cách hợp lý. Với quy mô hoạt động không nhỏ, song Công ty vẫn chưa có bộ phận chuyên trách làm công tác nghiên cứu thị trường. Hiện nay, việc nghiên cứu thị trường do các phòng nhập khẩu thực hiện một cách riêng biệt. Điều này khiến cho các thông tin được thu thập thiếu tính hệ thống và đồng bộ. Hơn nữa, nhiệm vụ của các phòng nghiệp vụ lại rộng, vừa phải nghiên cứu nhu cầu, vừa phải tìm đối tác cũng như nghiên cứu các hợp đồng kinh tế. Do đó không đủ thời gian để tập trung vào công tác tổ chức thu thập thông tin nghiên cứu thị trường. Để hoạt động nghiên cứu thị trường trở thành có hệ thống, Công ty cần thiết lập một bộ phận chuyên làm công tác nghiên cứu thị trường, tạo điều kiện để mở rộng các cơ hội kinh doanh của Công ty. Trên cơ sở tổ chức bộ máy hiện đại, Công ty nên thành lập riêng một phòng marketing hoặc có thể ghép với phòng công nghệ thông tin mới đuợc lập vì hiện phòng này còn ít nhân lực. Bộ phận nghiên cứu thị trường có 3 đến 4 nhân viên thực hiện trong đó phân công thành hai khu vực, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Do hoạt động của công ty chủ yếu là nhập khẩu nên ở khu vực thị trường nước ngoài lại chia thành thị trường đã có quan hệ và thị trường mới. Bộ phận này không chỉ tiến hành nghiên cứu , kiểm tra các thông tin thực sự về khả năng tài chính, năng lực kỹ thuật, kinh nghiệm, uy tín...của các đối tác truyền thống mà còn nghiên cứu thị trường tiềm năng mới. đồng thời bộ phận này cũng phải tiến hành nghiên cứu các vấn đề kinh tế- chính trị- xã hội, môi trường luật pháp của các nước xuất khẩu, xúc tiến nghiên cứu các chế độ chính sách , các phong tục tập quán có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu của các nước này. Trên cơ sở đó mở rộng thị trường nhập khẩu, mở rộng mối quan hệ bạn hàng với các nhà cung cấp tiềm năng và tìm ra những điểm thuận lợi cho việc giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng và giải quyết các tranh chấp hợp đồng sau này. Bộ phận này cũng kiêm luôn chức năng lập kế hoạch, có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cho toàn Công ty nói chung và kế hoạch kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Để việc xây dựng kế hoạch được thuận lợi cần bố trí một nhân viên tổng hợp , xử lý các số liệu từ bộ phận nghiên cứu thị trường cũng như từ các bộ phận khác trong Công ty. Việc nghiên cứu thị trường có thể được tiến hành theo 2 phương pháp, nghiên cứu tại Công ty thông qua các tài liệu hoặc nghiên cứu tại hiện trường bằng các chuyến đi thực tế. Bộ phận này sẽ tổng hợp , phân tích và dự báo qua các tài liệu thu thập được như các tạp chí chuyên nghành, các đơn đạt hàng, các chào hàng, các hội chợ, triển lãm...hoặc từ các thông tin của chi nhánh, văn phòng đại diện gửi về và cử cán bộ ra nươc ngoài khảo sát thực tế. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định, tuỳ vào mục tiêu nghiên cứu mà Công ty nên lựa chọn việc nghiên cứu tại bàn hay nghiên cứu tại hiện trường. Dù công tác tiến hành nghiên cứu thị trường có tiến hành theo phương pháp nào thì Công ty cũng nên tổ chức quy trình nghiên cứu thị trường một cách hoàn thiện và đồng bộ hơn để có thể đưa ra những kết quả chính xác trong hoạt động kinh doanh của mình.Quy trình nghiên cứu thị trường đề xuất cụ thể như sau: XÂY DỰNG MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CÁC BƯỚC THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG PHÂN TÍCH ĐỐI TƯỢNG VÀ LỰA CHỌN MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU THU THẬP THÔNG TIN XỬ LÝ THÔNG TIN PHÂN TÍCH KHAI THÁC CÔNG SUẤT THỊ TRƯỜNG PHÂN TÍCH ĐỐI THỦ CẠNH TRANH PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN CHỦNG LOẠI HÀNG NHẬP DỰ BÁO THỊ TRƯỜNG Trong việc nghiên cứu thị trường, Công ty nên xác định cho mình một thị trường nhập khẩu trọng điểm, thị trường mà phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của Công ty. Hiện nay, mặc dù đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều nhà xuất bản và các công ty xuất nhập khẩu sách báo trên thế giới nhưng Công ty vẫn chưa xác định cho mình được thị trường nhập khẩu trọng điểm. Đây là một điểm hạn chế tới hoạt động kinh doanh của Công ty. Xác định được thị trường nhập khẩu trọng điểm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty trong việc nhập khẩu một khối lượng lớn hàng hoá với gía cả ổn định, khả năng thanh toán thuận tiện. Bên cạnh đó, Công ty có thể tranh thủ tối đa các thông tin trợ giúp về kỹ thuật từ phía các nhà cung cấp để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ chuyên viên kỹ thuật của Công ty nói riêng và Ngành nói chúng. Mặt khác, để nhập khẩu nâng cao chất lượng phục vụ cho các đơn vị trong ngành xuất bản phẩm và đạt được mục tiêu trong giai đoạn 2006- 2010, ngoài việc lựa chọn thị trường trọng điểm, Công ty cấn phải theo dõi tình hình chung trên thị trường văn hóa phẩm để có thể phát hiện và lựa chọn bạn hàng mới. Công ty cần mở rộng thị trường nhập khẩu để chủ động ký kết hợp đồng với các hãng trực tiếp sản xuất , hạn chế giao dịch với các đại diện trung gian, từ đó tiết kiệm được chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. b) Giải pháp hoàn thiện công tác giao dịch, đàm phán Trong việc kinh doanh hàng hoá nhập khẩu nói chung và đặc biệt là nhập khẩu sách báo nói riêng, người tham gia kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về nghiệp vụ ngoại thương, về kỹ thuật chuyên ngành và cả kiến thức xã hội. Đặc biệt trong việc giao dịch và đàm phán với đối tác nước ngoài, người kinh doanh phải có kinh nghiệm, nghệ thuật giao tiếp. Trong giao tiếp, nếu không có kinh nghiệm sẽ không đánh giá đúng về đối tác có thể dẫn các quyết định sai lầm. Chính vì vậy, các cán bộ kinh doanh nhập khẩu của Công ty Xuất nhập khẩu sách báo phải trau dồi bản thân về nghiệp vụ, kinh nhiệm đàm phán. Người tham gia đàm phán phải có bản lĩnh, nẵm vững các quy tắc trong đàm phán, các Luật pháp Quốc gia và Quốc tế và phải có khả năng quyết định nhanh chóng, chính xác. Giao dịch, đàm phán có vai trò quan trọng trong việc xác lập và ký kết hợp đồng. Song hiện nay đa số các đối tác của Công ty đều là những bạn hàng cũ, quen thuộc do đó công tác này không được Công ty chú ý đến nhiều. Hầu hết các giao dịch đàm phán được thực hiện bởi nhân viên của các phòng ban mà chưa có sự phối hợp với nhau. Để hoàn thiện công tác này, Công ty nên có sự phối hợp giữa các phòng, tạo nên một tổ chuyên làm công tác đàm phán. Trong đàm phán, người đàm phán phải dấu kỹ bối cảnh của mình và tìm hiểu kỹ bối cảnh của đối tác càng nhiều các tôt. Thời gian dành cho đàm phán cũng phải cân nhắc kỹ lưỡng, cần quan sát thái độ của đối phương để ra quyết định. Có như vậy, Công ty sẽ đạt được mục tiêu của mình mà không bị áp đặt những điều khoản bất lợi. Mỗi công ty, mỗi cá nhân khi tiến hành đàm phán đều có những sách lược của riêng mình. Tuy vậy, Công ty vẫn có thể tham khảo các sách lược sau: - Trong đàm phán phải tạo ra sự cạnh tranh, người đàm phán phải thông tin cho đối tác biết họ không phải là bạn hàng duy nhất. Côngty có thể kết hợp với bất cứ đối tác nào nếu họ đáp ứng tốt các yêu cầu đặt ra. Cần chia nhỏ mục tiêu của mình để từng bước tiến tới, nắm được tâm lý đối phương cho tới khi đạt được toàn bộ mục tiêu. Khi nêu yêu cầu của mình với đối tác cần thể hiện mục tiêu cao để hai bên thoả hiệp. - Không bộc lộ những suy nghĩ của mình để đối phương biết, chủ động gây áp lực và tránh việc thoả thuận nhanh chóng. Song cũng tuỳ cơ ứng biến làm cho đối phương nhượng bộ từng bước mà vẫn giữ được thể diện cho họ. Sau các bước thực hiện, Công ty nên lập bảng ghi nhớ những điều khoản quan trọng mà hai bên đã đạt được để tiếp tục bàn sâu hơn cho đến khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, biên bản ghi nhớ này không có gía trị pháp lý, nó chỉ có giúp cho Côngty có thể luôn nắm bắt được vấn đề chủ động trước những bước đi tiếp theo của đối tác. c) Mở rộng nguồn vốn. Để thực hiện quy trình nhập khẩu xuất bản phẩm phục vụ CNH-HĐH đất nước trong xu thế toàn cầu hoá, kinh tế tri thức theo đường lối của Đảng, rất cần tăng nguồn vốn để mở rộng kinh doanh, giảm bớt khó khăn khi thực hiện quy trình nhập khẩu. XUNHASABA có nguồn vốn không lớn vào khoảng trên 7 tỷ VNĐ, chủ yếu lại là tài sản cố định theo số liệu năm 2006. Còn các cơ quan, đơn vị đặt hàng thường theo nguyên tắc gửi tiền đặt hàng trước hàng năm, khi sách báo nhập về Xunhasaba mới thanh toán cho bên bán. Trong điều kiện hoạt động thiếu vốn như vậy, nên Xunhasaba thường phải dành nhiều ưu tiên, thậm chí còn bị lệ thuộc vào phía đặt hàng. Muốn phát triển sự nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm, quảng cáo, tuyên truyền, triển lãm, mở thêm các cửa hàng đại lý ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, kể cả việc liên kết xuất bản sách nước ngoài tốt ở trong nước, v.v... đặc biệt là cải thiện quy trình nhập khẩu của mình, Xunhasaba rất cần đến vốn. Hiện nay Công ty Xunhasaba ở Hà Nội chỉ có một ngôi nhà chính vừa dùng làm trụ sở, vừa để làm kho hàng, còn các cửa hàng bán lẻ đều phải đi thuê hoặc liên kết hoạt động. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta ngày càng phát triển, nhu cầu sách báo nước ngoài của các cơ quan và nhân dân ngày càng lớn, khách hàng là các cơ quan, tổ chức quốc tế, các liên doanh với nước ngoài, khách nước ngoài vào Việt Nam ngày càng tăng. Vấn đề mở rộng các hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm của XUNHASABA đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội là tất yếu. Đó đến thời điểm cần có tăng nguồn vốn để mở rộng kinh doanh hàng nhập khẩu có thể theo 3 hướng sau đây: Một là, tiếp tục phát triển nguồn vốn đặt hàng trước của các cơ quan trong nước như trước đây. Hai là, đề nghị với Bộ VHTT bổ sung nguồn vốn nhà nước để tạo cho Xunhasaba chủ động trong mở rộng kinh doanh, hoặc xin được vay vốn dài hạn của ngân hàng trong nước hay quốc tế theo chế độ ưu đãi. Ba là, cho phép vay vốn hoặc đóng góp cổ phần của cán bộ, công nhân viên trong phạm vi Công ty. Đó là những suy nghĩ bước đầu, xin để tham khảo. d) Quảng cáo, tuyên truyền triển lãm. Trong nền kinh tế thị trường, môi trường cạnh tranh thì quảng cáo, tuyên truyền, triển lãm càng có vai trò quan trọng để kích thích tiêu dùng; thông qua tiêu dùng mà kích thích sự phát triển sáng tạo mới, sản xuất mới, nâng cao chất lượng, mẫu mó sản phẩm ngày càng tốt hơn, hoàn chỉnh hơn. Xunhasaba cần tăng cường tuyên truyền, triển lãm không chỉ ở Hà Nội và các thành phố lớn, mà cả ở các tỉnh để người cần sách báo nhập khẩu có thể tìm mua, kể cả gửi phiếu điều tra nhu cầu sách báo nhập đến các nhà khoa học, các thày cô giáo và những bạn đọc quan tâm đến tri thức tiên tiến của nhân loại. Đặc biệt với quảng cáo, cần tăng cường quảng cáo các xuất bản phẩm tốt, lành mạnh nhập khẩu trên các báo chí, phát thanh truyền hình, các panô quảng cáo, các tờ gấp, tranh ảnh quảng cáo, tiếp thị v.v... Dĩ nhiên, việc tham gia các Hội chợ sách báo nước ngoài; quảng cáo, tiếp thị sách báo xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trên Internet là rất cần thiết vì phần lớn các gia đình đều quen thu thập thông tin, mua bán qua mạng Internet; nhưng xin không bàn thêm, vì đề tài này chỉ liên quan đến sách báo nhập khẩu. Xunhasaba cũng cần phối hợp với hệ thống hoạt động của ngành bưu điện trên cả nước để đáp ứng tốt mọi nhu cầu về xuất bản phẩm nhập khẩu của nhân dân. Cách làm đó tuy lợi nhuận không nhiều, lặt vặt, nhưng “rộng đồng thu lại” sẽ nhiều hơn những món thu lớn, và cao hơn sẽ đạt được mục tiêu phổ cập tri thức tiến bộ của nhân loại đến với khách hàng ở mọi cơ sở là những người đang mày mò kiến thức để góp phần CHN-HĐH đất nước ở các địa phương. Phương thức phục vụ thuận tiện như thế sẽ làm cho nhu cầu của khách hàng đối với các xuất bản phẩm nhập khẩu với thời gian sẽ được tăng dần. Tất nhiên, do đó vai trò và uy tín của Xunhasaba sẽ được ngày càng mở rộng trong xã hội. e) Hợp tác xuất bản sách. Từ khi Nhà nước ta Đổi Mới, Mở Cửa, chủ trương Việt nam là bạn của các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia mỗi nước; nhất là từ khi nước ta trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ngày 28/7/1995 Tổng Cục Thống Kê. Sách: “Tư liệu kinh tế bảy nước thành viên ASEAN. Nxb. Thống Kờ, H. 1996, tr. 5. , việc sử dụng, học tiếng Anh trở nên phổ biến. Nhu cầu nhập khẩu sách học tiếng Anh và các lọai sách báo khoa học công nghệ của các nước trên thế giới tăng cao. Nghiên cứu liên kết hợp tác xuất bản sách nước ngoài tại Việt Nam với các nhà xuất bản có uy tín trên thế giới, sau khi đã nghiên cứu kỹ về nội dung, chất lượng sách; xin Cục Xuất bản cấp giấy phép xuất bản, nhằm đưa nhiều loại sách hữu ích, lành mạnh của nước ngoài theo giá hợp lý vào với thị trường Việt Nam, cung cấp cho người đọc nhiều loại sách nước ngoài có chất lượng in ấn tốt trong nước, giá cả hợp lý, phù hợp với thực trạng thu nhập của nhân dân ta. Làm được điều đó còn gúp phần đấu tranh chống nạn ăn cắp bản quyền, sách nhái, sách dịch, photocopy đang lan tràn, không quản lý nổi hiện nay. Xunhasaba cần mạnh dạn tìm kiếm thêm đối tác, nâng cao năng lực, trình độ để mở rộng hợp tác xuất bản sách . f) Quản lý nhà nước. Công việc kinh doanh văn hoá phẩm của XUNHASABA như trên đã nói vừa mang tính chất của một doanh nghiệp phải tính đến lợi nhuận, lỗ lãi, mang tính cạnh tranh; mặt khác lại cần phải đảm bảo đúng qui định của Luật báo chí, Luật xuất bản một cách nghiêm túc, nhằm không để lọt một xuất bản phẩm đồi truỵ, độc hại, phản động đến khách hàng. Chỉ một cuốn sách, một bài báo có nội dung xấu lọt lưới sẽ xoá bỏ cả một quá trình kinh doanh tốt. Vì vậy, việc phối hợp kiểm tra sách báo ngoại văn mới nhập khẩu của các cơ quan quản lý Nhà nước là rất cần thiết. Thực tế cho thấy nhu cầu về sách báo ngoại văn trong nước ngày càng tăng cao đó khiến cho một số tổ chức, công ty trong nước lao vào kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu sách. Gần đây xuất hiện tình hình “nới lỏng” việc cho phép một số doanh nghiệp “có đủ chức năng?!” được nhập khẩu sách báo ngoại văn trực tiếp từ nước ngoài. Điều này, một mặt trước tiên ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Xunhasaba là cơ quan được giao độc quyền nhập sách báo nước ngoài. Mặt khác, còn gây ra sự rối loạn về quản lý nhà nước: trong khi lâu nay Cục xuất bản chỉ xem xét danh mục tên từng lô sách xin phép nhập (được dịch ra tiếng Việt) của Xunhasaba; Cục Xuất bản cho phép kèm theo công văn ghi rõ “đề nghị Xunhasaba tổ chức thẩm định nội dung trước khi lưu hành”. Như vậy quả bóng lại được đá về Công ty để vừa đá bóng vừa thổi còi. Còn Cục Xuất bản được phân công quản lý nhà nước lại không có trách nhiệm gì trước nội dung của sách báo nhập khẩu. Vấn đề đặt ra là: Hoặc là Cục xuất bản Bộ VHTT cần thành lập bộ phận chuyên trách thẩm định sách báo ngoại văn, với các chuyên gia giỏi về ngoại ngữ, với những lĩnh vực chuyên môn rất rộng (chắc là khó thực hiện. Hoặc là bỏ hình thức xin phép “nhập từng lô sách theo chuyến”, để giao cho phép chính Xunhasaba phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về thẩm định nội dung sách báo nhập khẩu. Đồng thời các cơ quan văn hoá tư tưởng, an ninh vẫn kết hợp kiểm tra nghiêm túc về mặt quản lý nhà nước nhằm phát hiện nội dung không được phép, trước khi cho phép phát hành theo qui định của Luật xuất bản và Luật báo chí nước CHXHCN Việt Nam. g) Về giá cả và giảm cước phí. Hiện nay đó xuất hiện một số cửa hàng, cụng ty nhập sách báo nước ngoài, thực tế đang cạnh tranh với Xunhasaba. Vấn đề xác định giá cả hợp lý dựa trên giảm chi phí lưu thông, giảm cước phí nhận hàng từ nước ngoài là cần thiết. Với các đối tượng khách hàng truyền thống, mua thường xuyên, cần ưu tiên giảm giá cả theo chiết khấu số lượng và cả chiết khấu giá theo mặt hàng mới đặt thêm. h) Về chính sách thuế và hải quan. Theo văn bản của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Luật thuế giá trị gia tăng thì báo, tạp chí là mặt hàng thuộc nhóm đối tượng không chịu thuế VAT (Điều 4, khoản 13 Nghị định 28/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 của Chính Phủ và Thông tư số 89/1998/TT-BTC ngày 27/6/1998). Nhưng biểu thuế VAT áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu do Tổng cục Hải quan ban hành ngày 29/12/1998 lại quy định sách, báo, tạp chí nhập khẩu chịu mức thuế VAT 10%. Điều này gây ra khó khăn rất lớn đối với Xunhasaba.. Nhưng năm 2006 , theo số liệu của XUNHASABA, mức chênh lệch giữa thuế doanh thu và thuế VAT là 3,2 tỷ đồng. Điều bất hợp lý này đó đẩy giá sách báo nhập khẩu tăng lên đột ngột, khiến Công ty có nguy cơ phá sản. Sau nhiều lần kiến nghị với các cơ quan có trách nhiệm; tháng 5/1999 biểu thuế VAT mới quy định: báo, tạp chí nhập khẩu không phải chịu thuế VAT; còn sách nhập khẩu thuộc nhóm chịu thuế VAT là 5% !? Vấn đề đặt ra là, với bất kỳ chính sách mới nào, các nhà hoạch định chính sách cần nghiên cứu kỹ trước khi đưa vào áp dụng, tránh cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm đặc thù lâm vào nguy cơ phá sản, không thể thực hiện được nhiệm vụ chính trị của mình. Do đó, xin được kiến nghị với nhà nước xếp cỏc loại sách nhập khẩu vốn nằm trong khung thuế nhập 0% trước kia, vào nhóm mặt hàng không chịu thuế VAT. Công ty Xunhasaba hiện nay và lâu dài vẫn là nhà cung cấp sách báo được tín nhiệm của các cơ quan và bạn đọc trong và ngoài nước. Vấn đề là đấu tranh xây dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh; mở rộng nguồn vốn, thị trường kinh doanh xuất bản phẩm ngoại văn đến khắp các tỉnh, thành phố, nhằm nâng cao, phát triển hiệu quả kinh doanh xuất bản phẩm, cung cấp nhiều sách báo mới nhất, tiến bộ, lành mạnh của các nước trên thế giới đến với khách hàng trong nước. Xunhasaba làm tốt điều đó chính là góp phần đưa tri thức khoa học tiên tiến phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp hoá, hội nhập vào xu thế toàn cầu hoá, kinh tế tri thức của nhân loại./. * * * KẾT LUẬN ˜&™ Trong những năm 2002-2006, công ty Xunhasaba đã hoạt động kinh doanh nhập khẩu có hiệu quả, bước đầu khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, xứng đáng là doanh nghiệp hàng đầu trong cả nứoc thực hiện chức năng xuất nhập khẩu sách báo và thực hiện tuyên truyền đối ngoại thông qua xuất bản phẩm. Những xuất bản phẩm nhập khẩu đó góp phần quan trọng trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đó là việc cung cấp, trao đổi thông tin kịp thời, có giá trị trong nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, ngoại giao, văn hoá, xã hội... phục vụ tốt nhu cầu của đông đảo đọc giả trong nước. Hoạt động nhập khẩu xuất bản phẩm của Xunhasaba đó và sẽ là một kênh giao lưu văn hoá cũng như khoa học kỹ thuật quan trọng, giới thiệu những tiến bộ mới của nhân loại. Sự đa dạng của xuất bản phẩm nhập khẩu phục vụ ngày một tốt hơn nhu cầu của đội ngũ trí thức - lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước. Có thể nói, hoạt động kinh doanh nhập khẩu sách báo của Xunhasaba đó đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt, góp phần tăng thu cho ngân sách nhà nước và hiệu quả xã hội trong việc mở mang dân trí, phát triển sự nghiệp khoa học kỹ thuật – công nghệ giáo dục và đào tạo. Đó cũng là nền tảng của một quốc gia văn minh, tiến bộ và phát triển. Chưa thể bằng lòng với những thành quả đạt được, Xunhasaba còn phải tiếp tục đầu tư trí tuệ tập thể, tập trung nguồn lực của mình để ngày càng khẳng định vị trí, uy tín trên thương trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đó tin tưởng giao phó. Cuối cùng, với những ý kiến đề xuất chân thành, xây dựng của mình, tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ bé nhằm hoàn thiện hơn nữa quy trình nhập khẩu xuất bản phẩm của công ty Xunhasaba trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO ˜&™ GS. PTS. Tô Xuân Dân. Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế. Nxb. Thống kê, H, 1998. Báo Nhân Dân ngày 20/4/2001: Văn kiện Đại hội lần thứ IX Đảng CSVN. Báo cáo tài chính của Xunhasaba năm 2002-2007. website: www.xunhasaba.com.vn Nguyễn Duy Bột, Đinh Xuân Thính. Thương mại quốc tế. Nxb. Thống Kê, Hà Nội, 1996. Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Nxb. CTQG, Hà Nội 1994: Nghị định 81-CP ngày 8/11/1993 của Chính Phủ. Đảng CSVN. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng. Lưu hành nội bộ. Tháng 7/2000. Giáo trình: Kinh tế ngoại thương. Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1994. Giáo trình: Phân tích hoạt động kinh doanh. Nxb. Thống Kê và Trường ĐHNT xuất bản. Hà Nội, 1998. Nguyễn văn Lê. Tâm lý học kinh doanh... Nxb.Trẻ,TP. HCM, 1994. Bùi Xuân Lưu, Vũ Hữu Tửu. Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ ngoại thương. NXB. GD và Trường ĐH ngoại thương. Hà Nội, 1993. Nguyễn thị Mơ, Hoàng Ngọc Thiết. Giáo trình pháp luật trong kinh tế đối ngoại. Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1997. Lê Khả Phiêu. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc...Nxb. CTQG. H, 2000. Trần Chí Thanh. Tổ chức và nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế. Nxb. Thống kê, Hà Nội, 1994. Đinh Xuân Trình. Sổ tay thanh toán quốc tế trong ngoại thương. Trường Đại Học Ngoại Thương xuất bản. Hà Nội, 1992. Tư liệu kinh tế 7 nước thành viên ASEAN. Nxb. Thống kê; H, 1996. Từ điển Tiếng Việt. Hoàng Phê (chủ biên), Nxb. KHXH, Hà Nội 1988. Văn bản pháp quy về văn hoá-thông tin. T4. Bộ VHTT xuất bản, H.1996: Luật Báo Chí (2.1.1990); Luật Xuất Bản (19.7.1993). Nghị định của Chính Phủ số 79 CP ngày 6/11/1993. Và tham khảo một số báo, tạp chí kinh tế, văn hoá khác./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26436.doc
Tài liệu liên quan