Bước sang thế kỷ mới, Việt nam đang cựa mình lớn dậy, hoà nhập vào nên kinh tế khu vực và thế giới. Cơ hội và thách thức đang mở rộng ra trước mắt chúng ta. Những cơ hội và thách thức này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải luôn luôn cố gắng để đi đúng con đường mình đã vạch ra. Nó khiến cho mỗi doanh nghiệp phải tự đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để hoạt động có hiệu quả nhất? Đem lại lợi nhuận cao nhất?
Muốn hoạt động có hiệu quả thì mỗi doanh nghiệp phải biết quản lý và sử dụng đồng vốn của mình bỏ ra một cách tốt nhất. Từ đó sẽ mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp ngày càng cao.
Với đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3 Hà Nội”, báo cáo đã trình bày những lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn và sự vận dụng những lý luận đó vào thực tiễn ở Công ty Xây dựng số 3 (thuộc Tổng Công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội.)
Thời gian thực tập ở Công ty là cơ hội để em nắm bắt, xâm nhập thực tế, củng cố những kiến thức, lý luận đã lĩnh hội được ở trường. Từ đó có sự so sánh với thực tế và cùng với quan điểm của bản thân em đã mạnh dạn đưa ra một số nhận xét, kiến nghị với mong muốn góp phần hoàn thiện thêm công tác quản lý và sử dụng vốn ở Công ty Xây dựng số 3.
Vì thời gian thực tập không nhiều, cộng với trình độ lý luận còn hạn chế nên mặc dù đã nhận được sự giúp đỡ của Cô giáo hướng dẫn, các bác, các cô phòng kế toán Công ty song rất có thể báo cáo này đã không tránh được những sai sót. Vì vậy, em mong nhận được sự chỉ bảo để hiểu biết của em được đầy đủ hơn.
75 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3 Hà Nôi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh của Công ty trong năm 2001 chỉ tạo ra được 0,715 đồng doanh thu. Sức sản xuất của vốn toàn bộ của Công ty năm 2001 giảm 19% so với năm 2000.
Vòng quay của vốn giảm dẫn tới khả năng sinh lời giảm , cụ thể là :
- Nếu tính theo vốn toàn bộ:
Năm 2000 một đồng vốn toàn bộ tạo ra được 0,118 đồng lợi nhuận ròng. Năm 2001 một đồng vốn toàn bộ chỉ tạo ra được 0,069 đồng lợi nhuận ròng (giảm 41,5% so với năm trước).
- Nếu tính theo vốn chủ sở hữu:
Năm 2000 một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra được 0,151 đồng lợi nhuận ròng. Năm 2001 một đồng vốn chủ sở hữu chỉ tạo ra được 0,077 đồng lợi nhuận ròng (giảm 49% so với năm trước).
Như vậy, có thể thấy rằng Công ty đã không giữ được mức ổn định mà có xu hướng giảm khá nhanh.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Biểu số 12: Các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định.
Chỉ tiêu
2000
2001
Chênh lệch
Mức
Tỷ lệ (%)
1. Nguyên giá bình quân TSCĐ
6.720
6.771
51
0,77
2. Sức sản xuất TSCĐ
3,45
3,8
0,35
10,1
3. Suất hao phí TSCĐ
0,29
0,26
-0,03
-10,3
4. Sức sinh lời TSCĐ
0,46
0,36
-0,1
-21,7
5. VCĐ bình quân
18.502
23..528
5.025
27,2
6. Sức sinh lời vốn cố định
0,17
0,11
-0,06
-35,3
Qua biểu trên, ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty trong năm 2001 giảm 25,3% so với năm trước, cụ thể:
- Năm 2000, bình quân cứ một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được 0,17 đồnglợi nhuận ròng.
- Năm 2001, trung bình một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ chỉ tạo ra được 0,11 đồng lợi nhuận ròng.
Như chúng ta đã biết, tài sản cố định là bộ phận chính của vốn cố định cho nên để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta phải đánh giá các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
Về sức sản xuất của tài sản cố định.
Qua biểu trên ta thấy hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty trong năm 2001 giảm 35,3% so với năm 2000. Cụ thể :
- Năm 2000, bình quân cứ một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ tạo ra được 0,17 đồng lợi nhuận ròng.
- Năm 2001, trung bình một đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất kinh doanh trong kỳ chỉ tạo ra được 0,11 đồng lợi nhuận ròng.
Việc sử dụng vốn cố định kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả sử dụng vốn toàn bộ của Công ty giảm.
Như chúng ta đã biết, tài sản cố định là bộ phận chính của vốn cố định cho nên, để tránh hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp ta phải đánh giá chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng tài sản cố định.
Về sức sản xuất của tài sản cố định.
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, sức sản xuất tài sản cố định của Công ty năm 2001 tuy chưa lớn nhưng đã tăng so với năm 2000. Năm 2000, một đồng nguyên giá tài sản cố định bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại 3,45 đồng doanh thu thì năm 2001 đã đem lại 3,8 đồng, tăng 10,1%.
Suất hao phí tài sản cố định là chỉ tiêu nghịch đảo của chi tiêu sức sản xuất tài sản cố định. Nó cho biết để tao ra được một đồng doanh thu thì Công ty phải đầu tư bao nhiêu đồng vốn cố định.
Nếu năm 2001, sức sản xuất tài sản cố định của Công ty không đổi thì nguyên giá tài sản cố định cần sử dụng sẽ là :
25.729 x 0,29 = 7.461 triệu đồng
Như vây, Công ty đã tiết kiệm được:
7.461 – 6.771 = 690 triệu đồng.
Về sức sinh lời của tài sản cố định.
Một đồng nguyên giá tài sản cố định năm 2001 đem lại 0,36 đồng lợi nhuận ít hơn 0,1 đồng so với năm 2000 (giảm 21,7%). Nguyên nhân là do các chi phí tăng lên làm giảm lợi nhuận của Công ty nên mặc dù sức sản xuất tài sản cố định tăng nhưng khả năng sinh lời lại giảm đáng kể.
Nếu mức sinh lời tài sản cố đinh không thay đổi so với năm 2000 thì mức nguyên giá tài sản cố định năm 2001, Công ty có thể tạo ra khoản lợi nhuận ròng là:
6.771 x 0,46 = 3.114 triệu đồng.
Thực tế lợi nhuận thu được năm 2001 của Công ty là 2.470 triệu đồng. Như vậy, do sức sinh lời tài sản cố định giảm đã làm lợi nhuận của Công ty giảm 644 triệu đồng (20,7%).
Sức sinh lời tài sản cố định giảm là nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định của Công ty.
3.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Chỉ tiêu
2000
2001
Chênh lệch
Tuyệt đối
(%)
1. VLĐ bình quân
18.073
16.711
-1.361
7,5
2. Hệ số đảm nhận VLĐ
0,77
0,65
-0,12
3. Sức sinh lời VLĐ
0,17
0,14
-0,03
17,6
4. Số vòng quay VLĐ
1,38
1,54
0,26
20,3
5. Thời gian một vòng quay VLĐ
260
17,0
-48
17
- Số vòng quay vốn lưu động:
Chỉ tiêu này biểu hiện mỗi đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh có thể mang lại bao nhiêu đồng doanh thu hay nói cách khác, mỗi đồng vốn lưu động của Công ty luân chuyển được bao nhiêu vòng trong kỳ.
Số vòng quay vốn lưu động năm 2001 là 1,54 vòng tăng so với năm 2000 là 0,26 vòng ứng với tỷ lệ tăng 20,3% làm cho số ngày của một vòng luân chuyển năm 2001(233 ngày ) giảm đi 48 ngày so với năm 2000.
Nếu tốc độ luân chuyển vốn lưu động không đổi so với kỳ trước thì để đạt được tổng số doanh thu thuần ở năm 2001 Công ty cần một lượng vốn lưu động là:
Tổng doanh thu thuần năm 2001 25.729
------------------------------------------ = ----------- = 20.101
Số vòng luân chuyển năm 2000 1,28
Như vậy, trong năm do tốc độ luân chuyển vốn tăng nên Công ty đã tiết kiệm một lượng vốn lưu động là:
20.101 – 16.711 = 3.389 đồng
- Hệ số đảm nhận vốn lưu động năm 2000 là 0,17, năm 2001 là 0,65, giảm 0,12 so với trước. Có nghĩa là so với năm 2000, để có một đồng doanh thu, trong năm 2000 Công ty đã tiết kiệm được 0,12 đồng vốn lưu động.
- Sức sinh lời vốn lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động theo lợi ích cuối cùng, do đó nó nhiều khi tăng giảm không cùng chiều, cùng tốc độ như chỉ tiêu số vòng quay vốn lưu động.
Sức sinh lời vốn lưu động năm 2000 là 0,17 đồng lợi nhuận/1 đồng doanh thu.
Sức sinh lời vốn lưu động năm 2001 là 0,14 đồng lợi nhuận/1 đồng doanh thu, giảm 17,6%.
Nếu sức sinh lời vốn lưu động không đổi so với năm trước, thì số vốn lưu động bình quân năm 2001, Công ty có thể thu được mức lợi nhuận là :
Vốn lưu động bình quân năm 2001 . Hệ số sinh lời vốn lưu động năm 2000 = 16.711 x 0,17 = 2.840 triệu đồng.
Tức là lớn hơn thực tế thu được là 370 triệu đồng.
Ngược lại, nếu sức sinh lời vốn lưu động không đổi thì để đạt được mức lợi nhuận ròng năm 2001, Công ty cần một lượng vốn lưu động là:
LN năm 2001 2.470
----------------------------------- = -------------- = 532 triệu đồng
Sức sinh lời VLĐ năm 2000 0,17
Do sức sinh lời vốn lưu động giảm nên Công ty đã sử dụng lãng phí một lượng vốn lưu động là:
16.711 – 14.532 = 2.178 triệu đồng
Tóm lại, hiệu quả quản lý, sử dụng cả vốn cố định và vốn lưu động của Công ty Xây dựng số 3 trong năm 2001 đều giảm là nguyên nhân dẫn tới hiệu quả sử dụng vốn nói chung của Công ty kém hơn so với năm trước.
4. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
4.1. Những kết quả đạt được của Công ty Xây dựng số 3.
Công ty Xây dựng số 3 Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước, hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp đã khẳng định mình bằng kết quả kinh doanh ngày một khả quan, uy tín của Công ty ngày càng được đánh giá cao bởi chất lượng các công trình. Thực tế cho thấy trong những năm qua Công ty làm ăn có lãi và hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, công tác quản lý sử dụng vốn ngày càng được quan tâm. Mặc dù, một số chi tiêu không gia tăng cùng với sự tăng thêm về vốn nhưng xét đến hiệu quả cuối cùng là làm gia tăng lợi nhuận cho Công ty thì tình hình sử dụng vốn của Công ty là khá tốt.
Năm 2001 tốc độ tăng của doanh thu là 10,9% trong khi tốc độ giảm của lợi nhuận là 46.67% so với năm 2000. Với tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao hơn doanh thu có thể khẳng định Công ty đang làm ăn có hiệu quả . Trong công tác quản lý vốn cố định và vốn lưu động. Công ty cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của Công ty tỏ ra rất tốt, mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cao hơn rất nhiều so với mức doanh lợi toàn bộ vốn, đòn bẩy tài chính đã phát huy tác dụng trong việc sử dụng vốn tại Công ty.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty đã cố gắng đầu tư các trang thiết bị máy móc hiện đại, nâng cao trình độ cán bộ, công nhân, nâng cao chất lượng công trình... Chính vì vậy, trong những năm qua Công ty đã chúng thầu vào nhiều công trình lớn, vị trí của Công ty ngày càng được khẳng định trong lĩnh vực xây dựng, giải quyết công ăn việc làm cho 366 cán bộ công nhân viên của Công ty với mức thu nhập bình quân tương đối cao, doanh thu và lợi nhuận của Công ty không ngừng được tăng lên.
Ngoài ra Công ty còn có đội ngũ cán bộ năng động có trình độ quản lý, chỉ đạo thi công chặt chẽ và đội ngũ công nhân lành nghề. Điều này đã góp phần không nhỏ vào kết quả mà Công ty đã đạt được ngày hôm nay.
4.2. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế:
- Nguyên nhân chủ quan.
Công ty đầu tư vào tài sản cố định tương đối lớn nhưng năng lực sản xuất của tài sản cố định vẫn thấp, số khấu hao của tổng tài sản cố định là trên 46%. Trong nền kinh tế thị trường giá cả thường xuyên biến động, hiện tượng hao mòn vô hình thường xuyên xảy ra. Công ty vẫn chưa có kế hoạch đánh giá và đánh giá lại tài sản để xác định giá trị thực của tài sản cố định.
Kế hoạch huy động vốn của Công ty chưa cụ thể và chưa sát với nhu cầu thực tế. Vì thết việc tìm nguồn tài trợ của Công ty đôi khi không mang tính đến chi phí sử dụng vốn, các khoản phải thu chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tài sản lưu động, vốn của Công ty bị chiếm dụng nhiều, điều này làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Năm 2001 các khoản phải thu của Công ty tăng trên 10 tỷ đồng làm vốn kinh doanh bị ứ đọng nhiều trong khâu thanh toán. Nguyên nhân của tình trạng trên là do việc quyết toán các hạng mục công trình đã hoàn thành bị kéo dài, thời gian hoàn vốn dài đã đẩy số lãi tiền vay mà Công ty phải trả lên cao dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn bị ảnh hưởng. Vì vậy bên cạnh việc mở rộng thị trường, tham gia đấu thầu nhiều công trình xây dựng mới, Công ty cần phải chú trọng tới khâu thanh toán vốn.
Trong công tác quản lý giá trị sản phẩm dở dang. Đặc thù của ngành xây dựng cơ bản là vốn lưu động trong khâu sản xuất chủ yếu nằm ở sản phẩm dở dang. Vì vậy tốc độ luân chuyển vốn lưu động trong khâu này phụ thuộc nhiều vào công tác quản lý sản phẩm dở dang. Thực tế hiện nay ở Công ty thường xuyên xảy ra tình trạng công trình thường phải ngùng thi công do thay đổi thiết kế của chủ đầu tư hoặc phía chủ đầu tư thiếu vốn.
Quá trình thu mua dự trữ nguyên vật liệu của Công ty còn nhiều điểm bất hợp lý, định kỳ Công ty chưa tiến hành phân loại vật tư, đánh giá vật tư để đưa ra những giải pháp phù hợp.
Công tác phân tích tài chính và phân tích hoạt động kinh tế của Cong ty chưa thực sự được quan tâm, công tác này chỉ mới được thực hiện trên một số chỉ tiêu về mặt tài chính còn các mặt khác chưa được thực hiện, Công ty chưa tìm thấy nguyên nhân của sự phát triển và hạn chế, vì thế nhiều quyết định quản lý chưa phù hợp đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty. Nếu công ty thực hiện tốt công tác phân tích tài chính và phân tích hoạt động kinh tế thì hiệu quả sử dụng vốn cuả Công ty sẽ được nâng cao hơn nữa.
- Nguyên nhân khách quan:
Thực tế hiện nay cho thấy hầu hết các công trình lớn có vốn đầu tư trong nước và các công trình có vốn đầu tư nước ngoài là do các ban tư vấn và các nhà thầu chính nước ngoài đảm nhận. Công ty chỉ tham gia vói tư cách là nhà thầu phụ. Nguyên nhân chính của sự không thắng thầu của các doanh nghiệp Việt nam trong đấu thầu quốc tế lại xuất phát từ chính cách đấu thầu của nước ta, hầu hết các hồ sơ mời thầu do phía tư vấn nước ngoài chuẩn bị , các nhà tư vấn đã lợi dụng kẽ hở trong quy chế đấu thầu của nước ta để chia công trình thành các gói thầu quá lớn, với các yêu cầu rất cao làm cho các nhà thầu Việt Nam không thể dự thầu độc lập nên hầu hết các nhà thầu nước ngoài đều trúng thầu với vai trò là nhà thầu chính, các nhà thầu Việt Nam chỉ được cam kết là nhà thầu phụ nhưng khi cam kết đó không được thực hiện thì cũng chưa có cơ chế nào xử lý. Vì vậy, Nhà nước cần quan tâm tới công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đấu thầu.
Qua phân tích tình hình quản lý vốn và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của Công ty, ta thấy trong năm 2001 việc quản lý và sử dụng vốn của Công ty chưa đạt kết quả tốt, hiệu quả sử dụng vốn của Công ty giảm về nhiều mặt: Hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động cũng đều giảm có thể nhận thấy trong quá trình quản lý và sử dụng vốn của Công ty còn một số tồn tại chủ yếu sau:
- Vấn đề đầu tiên cần giải quyết của Công ty là lượng tiền khách hàng nợ chưa trả quá lớn. Số tiền còn phải thu hồi từ các chủ đầu tư trở về các công trình mà Công ty đã hoàn thành nhưng chưa thanh toán hết cho Công ty lên tới 10.725 triệu đồng gây ứ đọng vốn. Tình trạng này khiến cho doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc triển khai các công trình mới.
- Hệ số sử dụng máy móc thiết bị chuyên dùng vào thi công còn thấp. Công ty vẫn chưa phát huy được hết năng lực máy móc thiết bị của mình vào sản xuất. Trong năm, còn nhiều thời gian máy móc thiết bị ngưng hoạt động do thiếu công trình lớn cần sử dụng tới thiết bị chuyên dùng. Sức sản xuất TSCĐ chỉ đạt 3,8 đồng doanh thu/ 1 đồng nguyên giá.
Công ty có một hệ thống máy móc thiết bị thi công đồng bộ như các thiết bị cần cẩu, máy đào, máy ủi, ô tô, máy dầm... có giá trị rất lớn. Tuy nhiên, các công trình thi công cơ sở hạ tầng, các công trình quy mô lớn trong năm Công ty nhận được không nhiều mà chủ yếu là các công trình có quy mô vừa và nhỏ nên Công ty khó phát huy được thế mạnh của mình.
vốn lưu động của doanh nghiệp. Phương pháp này đảm bảo tính hợp lý nhưng việc tính toán tương đối phức tạp.
- Phương pháp gián tiếp: Dựa vào thống kê kinh nghiệm đẻ xác định nhu cầu vốn lưu động, có thể chia làm hai trường hợp sau:
+ Dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trong ngành để xác định nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp mình.
+ Dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động ở kỳ trước của doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn lưu động cho thời kỳ tiếp theo, đồng thời xam xét tới tình hình thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh và sự cải tiến tổ chức sử dụng vốn lưu động để xác định toàn bộ nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết.
- Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, nếu dự đoán các chỉ tiêu tương đối chính xác thì sẽ xác định được nhu cầu gần đúng với phương pháp trực tiếp.
Năm 2001, sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta chưa kịp hồi phục so với những năm trước. Xây dựng lại là một ngành kinh tế chịu ảnh hưởng lớn của chu kỳ phát triển kinh tế. Kinh tế suy sụp dẫn đến Nhà nước tam ngừng đầu tư rất nhiều dự án, các nhà đầu tư nước ngoài rút vốn về nước, các nhà đầu tư trong nước cũng gặp khó khăn ... Cầu về xây dựng giảm tức là các công ty kinh doanh xây dựng, trong đó có Công ty Xây dựng số 3, gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm công việc, đấu thầu thi công công trình hơn những năm trước. Trước sự đã phải chấp nhận giảm lợi nhuận để giảm giá thành, góp phần nâng cao khả năng thắng lợi trong đấu thầu.
Mặt khác, các chủ đầu tư cũng lâm vào khó khăn kinh tế là nguyên nhân dẫn tới việc chậm thanh toán nốt số tiền về các công trình mà Công ty chưa hiệu quả, số vốn bị chiếm dụng lớn.
Một lý do nữa là việc cạnh tranh trong đấu thầu còn nhiều bất cập. Mặc dù Công ty có đủ năng lực để thực hiện các công trình lớn nhưng do nhiều lý do khác nhau nên Công ty chưa nhận được nhiều các công trình quan trọng. Đó là một bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Chương ba:
một số phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng số 3.
1.Những phương hướng chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty xây dựng số 3(từ năm 2000 đến năm 2001);
1.1. Mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh để nhận được nhiều hơn nữa các công trình thi công có quy mô lớn.
Trước tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm, để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn buộc Công ty phải tìm biện pháp tăng doanh thu. Thị trường của doanh nghiệp ở đây chính là tập hợp khách hàng hiện tại và tiềm năng của doanh nghiệp. Nói cách khác, thị trường đối với doanh nghiệp chính là số cầu loại sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Mở rộng thị trường có nghĩa là tìm kiếm thu hút thêm khách hàng trên thị trường hiện có, tìm thị trường mục tiêu mới mở rộng phạm vi thị trường trên những địa bàn mới, đan dạng hoá đối tượng xây dựng... nhờ vậy có các biện pháp về kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất, nhân lực, marketing... nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu các công trình có quy mô lớn, từ đó tạo ra nhiều doanh thu và lợi nhuận hơn.
1.2. Chú trọng hơn nữa công tác quản lý vốn lưu động, đặc biệt là việc thu hồi công nợ.
Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc vào sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Tồn tại chủ yếu của Công ty nằm trong khâu quản lý vốn lưu động, khoản phải thu lớn làm chậm tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Chính vì vậy, Công ty phải tăng cường các biện pháp quản lý vốn lưu động, thu hồi các khoản phải thu, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động như sau:
- Xác định đúng nhu cầu vốn lưu động cần thiết cho từng kỳ sản xuất.
- Tổ chức tốt quá trình thanh toán, tránh và giảm các khoản nợ đến hạn hoặc quá hạn chưa đòi được.
- Tổ chức quá trình thu mua dự trữ nhằm đảm bảo hạ giá thành thu mua vật tư, tránh ứ đọng vốn.
- Quản lý chặt chẽ việc tiêu dùng vật tư.
- Tổ chức hợp lý quá trình lao động.
- Xây dựng quan hệ tốt đối với các bạn hàng.
1.3. Phấn đấu giảm tối thiểu các khoản chi phí, nhằm tăng lợi nhuận của công ty.
Như đã phân tích ở phần một số chỉ tiêu đánh gía hiệu quả sử dụng vốn, mặc dù doanh thu thuần của Công ty năm 2001 tăng so với năm 2000 nhưng lợi nhuận ròng lại giảm đi. Đó là do chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng với tỷ lệ tăng của doanh thu thuần. Vì vậy Công ty cần có các biện pháp để giảm chi phí trong sản xuất kinh doanh. Có thể sử dụng một số biện pháp sau:
- Xây dựng định mức tiêu dùng nguyên vật liệu.
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm của công nhân viên bằng hình thức khoán gọn và khuyến khích vật chất.
2.Một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn của công ty xây dựng số 3.
2.1.Nâng cao hơn nữa năng lực thắng thầu trong đấu thầu xây dựng đặc biệt đối với các công trình có gía trị lớn.
Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế là rất lớn. Nhà nước đã có kế hoạch hàng năm trích một phần ngân sách cho xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, trong đó các công trình thi công xây lắp chiếm tỷ trọng lớn. Bên cạnh đó Nhà nước cũng có chính sách khuyến khích các chủ đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Do đó, cơ hội cho các doanh nghiệp xây dựng ở nước ta không phải là ít. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt trước sự xuất hiện của các công ty xây dựng trong nước. Để đứng vững và phát triển được trong cơ chế thị trường, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự nỗ lực vươn lên bằng chính khả năng, sức lực của mình.
Nhằm sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn vốn đầu tư trong nước cũng như vốn nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác tốt tài nguyên , tiềm năng lao động và chống mọi hành vi tham ô lãng phí trong hoạt động đầu tư xây dựng, các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước, quy mô lớn (thuộc nhóm A, B) đều phải sử dụng phương thức đấu thầu công khai để làm đảm bảo sự công bằng. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với công ty.
Đấu thầu là quá trình lưa chọn nhà thầu đáp ứng được tốt nhất các yêu cầu của bên mời thầu trên coư sở cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu. So với phương thức tự làm và phương thức giao thầu, phương thức đấu thầu có những ưu điểm nổi trội mang lại lợi ích to lớn cho cả chủ đầu tư và các nhà thầu. Chính vì vậy, Công ty phải tìm cách để luôn luôn là nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư một cách tốt nhất.
Ta biết rằng, việc đánh giá xếp hạng để lựa chọn nhà thầu được thực hiên thông qua so sánh các hồ sơ dự thầu, dựa vào các tiêu chuẩn về kỹ thuật, chất lượng, về kinh nghiệm, về tài chính, giá cả và tiến bộ thi công. Để nhận thầu được nhiều công trình, mang lại doanh thu và lợi nhuận cao. Để nhận thầu được nhiều công trình, mang lại doanh thu và lợi nhuận cao, Công ty tự hoàn thiện mình trên nhiều phương diện:
- Nâng cao năng lực máy móc thiết bị.
Công ty phải đầu tư có trọng điểm, không ngừng nâng cao khả năng về kỹ thuật và công nghệ sản xuất, giữ cho mình ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ khác. Máy móc thiết bị hiện đại là lợi thế của doanh nghiệp trong cạnh tranh với các nhà thầu khác. Bởi vì, máy móc thiết bị hiện đại dễ dàng đáp ứng các đòi hỏi cao về kỹ thuật, đảm bảo chất lượng công trình thi công, an toàn cho người lao động và vệ sinh môi trường hơn các máy móc thiết bị lạc hậu. Hiện tại, Công ty có một số máy móc thiết bị đã sử dụng trong một thời gian dài giá trị còn lại cần thu hồi khá ít. Vì vậy, đổi mới trang thiết bị là một yêu cầu cấp bách đối với Công ty nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường.
- Nâng cao trình độ của cán bộ kinh tế – kỹ thuật trong lập hồ sơ dự thâu.
Công việc lập hồ sơ dự thầu thuộc trách nhiệm của các nhà thầu, bên mời thầu không được có bất cứ sự gợi ý riêng cho nhà thầu nào. Mặt khác, bên nhà thầu tiến hành xếp hạng các nhà thầu căn cứ vào kết quả đánh giá các hồ sơ dự thầu. Một hồ sơ đầy đủ, hợp lệ với các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công... hợp lý và khả thi là một trong các điều kiện cần thiết để Công ty chiến thắng trong đấu thầu.
Để lập hồ sơ dự thầu có luận chứng khoa học và có sức thuyết phục, Công ty phải tập trung lực lượng cán bộ công nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ cao. Đội ngũ cán bộ của Công ty cần phải thường xuyên được đào tạo thêm, cập nhật kiến thức về lĩnh vực chuyên môn, lĩnh vực lập hồ sơ... để có được đội ngũ giàu năng lực, bản lĩnh và biết phán đoán tình thế để đưa ra được các giải pháp thích hợp cho mọi tình huống. Bên cạnh đó. trong những công việc nhất định không thuộc chuyên môn của Công ty hoặc lĩnh vực còn thiếu cán bộ giỏi thì Công ty có thể thuê tư vấn có uy tín, kinh nghiệm giúp đỡ.
- Nâng cao năng lực tổ chức.
Sản xuất xây dựng mang tính tổng hợp, cơ cấu sản xuất phức tạp với nhiều thành phần công việc xen kẽ và ảnh hưởng lẫn nhau, thường có nhiều đơn vị tham gia xây dựng một công trình. Một đặc điểm nữa của sản xuất xây dựng là nó thiếu tính ổn định, luôn bị biến động theo địa điểm xây dựng và giai đoạn xây dựng. Do đó, công tác tổ chức, quản lý trên công trường rất phức tạp, thiếu ổn định, nhiều khó khăn khi phối hợp hoạt động của các nhóm lao động làm việc khác nhau trên cùng một hạng mục công trình.
Năng lực tổ chức trong xây dựng thể hiện ở việc tổ chức quá trình sản xuất, bố trí sắp xếp lao động bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đúng tiến độ và đúng chất lượng. Với những công trình có quy mô lớn, kết cấu và yêu cầu phức tạp càng đòi hỏi năng lực tổ chức cao. Lãnh đạo và đội ngũ cán bộ quản lý của Công ty phải không ngừng trau dồi, nâng cao năng lực tổ chức. Để làm tốt việc này chú ý :
+ Đúc rút kinh nghiệm thực tế từ những công trình đã thi công.
+ Nắm chắc yêu cầu của công việc cần thực hiện và điều kiện thi công cụ thể.
+ Nắm chắc lực lượng của đơn vị, có kế hoạch bố trí hợp lý và điều phối lực lượng thiết bị.
+Vận dụng phương pháp sơ đồ mạng PERT vào lập tiến độ thi công...
Năng lực tổ chức của Công ty phải được thể hiện rõ trong tài liệugiải trình các biện pháp thực hiện. Nó là một trong những tài liệu quan trọng thuyết phục bên mời thầu khi các nhà thầu bỏ giá thầu tương đương nhau.
- Tích cực thu thập thông tin phục vụ cho công tác kế hoạch và đấu thầu.
Thông tin là một trong những yếu tố sống còn đối với mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Thông tin kịp thời, chính xác giúp nhà doanh nghiệp có kế hoạch về nguồn lực, tổ chức để có thể nắm bắt được các cơ hội kinh doanh cũng như hạn chế rủi ro xảy đến với mình. Đối với doanh nghiệp xây dựng, thông tin càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thông tin chính xác, kịp thời giúp doanh nghiệp có sự nhìn nhận đánh giá đúng đắn về đối tượng đấu thầu, bên mời thầu và các nhà thầu khác. Trên cơ sở đó đánh giá đúng các mặt mạnh, mặt yếu và phương hướng chiến lược của các nhà thầu khác, những toan tính của họ đối với đối tượng đấu thầu. Những thông tin thu được hết sức quý báu, làm định hướng để Công ty lập hồ sơ của mình cho phù hợp với yêu cầu của nhà đầu tư, vượt trội hơn đối thủ trong những chỉ tiêu quan trọng.
Để nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu, Công ty cần tăng cường và củng cố mối quan hệ với các cơ quan thuộc Bộ xây dựng, các cơ quan trong ngành và các đơn vị trong Tổng công ty, các đơn vị liên quan nhằm nâng cao chất lượng thông tin thu được. Qua đó, nắm bắt nhu cầu xây dựng trong năm tới. Ngoài ra, thông tinh từ các mối quan hệ rộng rãi giúp Công ty dự báo được xu hướng biến động của giá cả, thị trường các yếu tố sản xuất, từ đó có thể xác định giá bỏ thầu hợp lý nhất. Sự chuẩn bị càng chu đáo với những thông tin có chất lượng thị xác suất trúng thầu càng cao.
- Tăng cường quảng cáo, giới thiệu hình ảnh, kinh nghiêm sản xuất của Công ty dựa trên năng lực ưu thế thực sự của mình.
Kinh nghiệm, uy tín cũng là một trong những tiêu chuẩn để đánh giá nhà thầu khi tham gia dự thầu. Ngoài ra, nó tạo điều kiện cho Công ty có cơ hội tham gia các cuộc đấu thầu hạn chế hay chỉ định thầu. Công ty có thể tổ chức các hôij nghị trao đổi kinh nghiệm, các khoá đào tạo cán bộ kỹ thuật, quản lý với các chuyen gia giàu kinh nghiêm... hoặc cũng có thể sử dụng các phương tiện như báo chí, truyền hình để giới thiệu hình ảnh và sản phẩm của Công ty.
2.2. Xây dựng và áp dụng các giải pháp nhằm xử lý tốt hơn và hạn chế lượng vốn bị các chủ đầu tư chiếm dụng.
Các khoản phải thu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn lưu động của Công ty, gây ảnh hưởng đến tốc độ luân chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn. Cuối năm 2001, lượng vốn bị chiếm dụng của Công ty lên tới gần 11 tỷ đồng chiếm 78,8% tổng vốn lưu động. Đây chủ yếu là lượng vốn do ngân sách nhà nước và các đối tác chưa thanh toán các công trình đã hoàn thành.
Để giải quyết tình trạng này, trước tiên Công ty phải tìm biện pháp thu hồi nhanh chóng lượng vốn bị chiếm dụng, sau đó cần hạn chế tình trạng này ngay từ những khâu đầu tiên.
Đối với các khoản phải thu của Công ty hiện nay:
- Giao trách nhiệm theo dõi, đốc thúc việc thanh toán các khoản nợ này cho một cá nhân cụ thể: kế toán trưởng giao trách nhiệm mỗi nhân viên kế toán phụ trách một tài khoản công nợ, theo dõi và liên hệ với các chủ công trình để đôn đốc việc thanh toán đối với một số khoản nợ. Đối với những công trình do ngân sách Nhà nước cấp vốn cũng cần có những biện pháp cụ thể để được thanh toán nhanh chóng. Mặt khác, có chế độ khuyến khích vật chất thích đáng nếu cá nhân nào thu được nợ, đặc biệt là các khoản nợ khó đòi. Mặc dù việc thanh toán các khoản nợ không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của Công ty mà còn phụ thuộc vào yếu tố khách quan là thiện chí và tình hình tài chính bên A và ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, khuyến khích vật chất vẫn là động lực thúc đẩy cá nhân làm việc nhiệt tình và có hiệu quả hơn.
- Đối với các khoản nợ khó đòi, Công ty có thể thu hồi bằng cách tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp nợ hoặc mua tài sản cố định của họ. Khi quyết định mua lại tài sản cố định của họ cần nghiên cứu kỹ giá trị của tài sản đó có tương xứng hoặc gần tương xứng với khoản nợ không, nếu tài sản là máy móc thiết bị thì phải sử dụng được, không quá lạc hậu và phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tất nhiên, doanh nghiệp phải chịu tốn kém thêm chi phí thực hiện giải pháp này nhưng bù lại doanh nghiệp có thể thu hồi được phần nào số nợ khá đòi.
- Bên cạnh đó, trong tương lai không xa, ở Việt Nam sẽ phổ biến dịch vụ “mua nơ” do các ngân hàng, các tổ chức tài chính hoặc các công ty mua nợ cung cấp. Công ty có thể sử dụng dịch vụ này để huy động vốn, giảm các khoản phải thu khi cần thiết bằng cách bán các khoản phải thu cho các tổ chức này. Bên mua nợ sẽ có trách nhiệm thu hồi các khoản nợ của Công ty theo các chứng từ đã mua và chịu mọi rủi ro khi gặp các khoản nợ khó đòi.
Bên cạnh việc có nguồn tài chính nhu mong muốn, mua nợ còn giảm rủi ro cho doanh nghiệp khi khách hàng chịu tiền, bởi công ty mua nợ sẽ phải kiểm tra vị thế tài chính của khách hàng trước khi mua chứng từ bán hàng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chi phí cho dịch vụ này khá cao bởi nó bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí kiểm tra tư cách tín dụng của khách hàng hay những rủi ro không thu hồi được nợ.
Khi ký kết hợp đồng xây dựng công trình.
Mỗi công trình xây dựng thường có giá trị rất lớn và Công ty phải ứng trước ít nhất là 50% vốn đầu tư để mua nguyên vật liệu và xây dựng. Chính vị vây, trước khi ký hợp đồng, Công ty cần điều tra, nghiên cứu kỹ các vấn đề liên quan đến chủ đầu tư, nguồn vốn đầu tư để đảm bảo sẽ được thanh toán đúng hạn sau khi hoàn thành công trình.
- Tìm hiểu rõ nguồn gốc của vốn đầu tư xây dựng công trình.
+Nếu vốn đầu tư do một cá nhân hay một tổ chức bỏ ra, Công ty cần phải xem xét tình hình tài chính và khả năng thanh toán của họ thông qua:
*Báo cáo tài chính: Công ty có thể đề nghị bên A cung cấp thông tin tài chính như là bảng cân đối tài sản, báo cáo kết quả kinh doanh và xem xét các chỉ tiêu tài chính của họ như tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất thanh toán, tỷ suất tự tài trợ ... để đánh giá khả năng tài trợ cho công trình đầu tư của họ.
* Ngân hàng: Công ty có thể tham khảo tình hình tài chính của bên A thông qua ngân hàng bên A đặt tài khoản. Ngân hàng thường phải điều tra tình hình tài chính và khả năng thanh toán thế chấp của mỗi doanh nghiệp trước khi cho vay. Ngoài ra, ngân hàng có quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp khác nhau nên bản thân ngân hàng cũng có khá đầy đủ thông tin về tình hình tín dụng của các doanh nghiệp.
* Nếu vốn đầu tư do nhà nước cấp hay do một tổ chức nước ngoài tài trợ, công ty cần tìm hiểu quyết định cấp vốn và các khâu cấp vốn. Thông qua đó, công ty tìm cách tiếp cận với nguồn vốn một cách nhanh nhất, hạn chế qua các khâu trung gian làm phát sinh những khoản chi phí không đáng có.
- Tìm hiểu về chủ đầu tư:
+ Tìm hiểu phẩm chất, tư cách tín dụng của chủ đầu tư:lịch sử thanh toán của bên A với các doanh nghiệp khác, trong quá khứ khách hàng có trả tiền đúng hạn hay không, bao nhiêu lần khách hàng gây rắc rối trong việc trả tiền.
+ Xem các tài sản có thể thế chấp của bên A.
+ Xem xét khả năng phát triển của khách hàng trong tương lai.
- Trong hợp đồng ký kết xây dựng , công ty cần chú ý quy định rõ các điều khoản về mức tiền ứng trước, thời hạn thanh toán, phương thức thanh toán và các điều khoản về mức phạt thanh toán chậm so với quy định; công ty cũng có thể áp dụng hình thức chiết khấu nếu bên A thanh toán trước thời gian.
2.3. Nâng cao hệ số sử dụng máy móc thiết bị bằng cách bán, cho thuê mua và đi thuê mua trên cơ sở cân đối năng lực máy móc thiết bị với nhiệm vụ sản xuất nhằm phát huy ưu thế về công nghệ trong cạnh tranh của công ty.
Công ty Xây dựng số 3 có định hướng luôn luôn là một trong những đơn vị hàng đầu của ngành xây dựng Hà Nội. Hệ thống thiết bị của Công ty hiện nay là khá đồng bộ và hiện đại. Tuy nhiên, thời gian một vòng đời của các thiết bị thi công xây dựng này thường rất dài và một số thiết bị ít được sử dụng. Để đẩy nhanh tốc độ đổi mới máy móc thiết bị, luôn theo kịp thời đại, đồng thời cùng lượng vốn sẵn có Công ty có thể mua thêm máy móc thiết bị bằng hình thức thuê tài chính.
2.3.1. Cơ sở của biện pháp.
Thuê tài chính là một biện pháp trung hay dài hạn theo hợp đồng. Khi công ty tiến hành thuê tài chính một tài sản thì họ có quyền sử dụng tài sản đó như thoả thuận và phải thanh toán tiền thuê theo định kỳ cho người có tài sản. Thời hạn thuê tài sản chiếm phần lớn đời sống hữu ích của tài sản. Tức là công ty có thể sử dụng tài sản trong một thời gian dài và thanh toán làm nhiều lần. Những đặc điểm căn bản của thêu mua được thể hiện trong sơ đồ sau:
Người cho thuê
(chủ sở hữu)
Người thuê
(người sở hữu)
*Người cho thuê: * Người thuê:
- Có tài sản, thiết bị sẵn sàng -Trả tiền cho người cho thuê.
để cho thuê. Có quyền sử dụng tài sản.
- Nhận tiền thuê do người - Có trách nhiêm bảoquản,
người thuê trả. bảo trì tài sản.
- Được hưởng còn lại của tài sản.
Thuận lợi của công ty khi sử dụng hình thức này:
- Thuê mua tài chính giúp doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu về công nghệ vì thông qua nó công ty có thể thay thế những thiết bị lạc hậu bằng những thiết bị hiện đại.
- Với một khoản tiền chỉ đủ mua một thiết bị theo thể thức thanh toán ngay, công ty có thể có quyền sử dụng lâu dài với một thiết bị khác có giá trị lớn hơn hay với số thiết bị nhiều hơn, đáp ứng được nhiều nhu cầu về sản xuất hơn.
- Thuê mua không cần có bảo lãnh như khi vay mua và nó không làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp có cơ hội tốt hơn để huy động các nguồn vốn khác khi cần thiết.
- Các khoản tiền thuê làm giảm thuế lợi tức, do đó đem lại cho công ty phần lợi nhuận do hoãn thuế hay còn gọi là giảm trừ thuế trên tiền thuê.
- Hết thời hạn hợp đồng, nếu công ty quản lý sử dụng tài sản tốt thì giá trị thực tế của tài sản có thể lớn hơn so với gía trị còn lại dự kiến trong hợp đồng, công ty có thể mua lại hoặc bán (nếu bán được giá cao hơn) để hưởng phần chênh lệch.
Hình thức thuê tài chính có đặc điểm tương tự như mua trả góp, tuy nhiên nếu sử dụng hình thức mua trả góp thì thời gian đổi mới công nghệ của công ty vẫn dài và công ty có thể bị mất quyền sở hữu tài sản vào đúng thời điểm kết thúc hợp đồng nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán.
2.3.2. Nội dung của biện pháp.
Trước tiên, công ty cần thống kê, xếp loại các thiết bị theo nguyên giá, giá trị còn lại và theo mức độ phục vụ, mức độ đóng góp của tài sản đó vào sản xuất kinh doanh của công ty. Sau đó, dựa vào chiến lược phát triển và nhiệm vụ sản xuất trong kế hoạch dài hạn của công ty và những chỉnh đổi cho phù hợp với nhu cầu thị trương, phù hợp với xu thế thời đại, để có thể phân loại máy móc thiết bị của công ty theo các tiêu chí sau:
- Vai trò của thiết bị đó trong định hướng chiến lược của Công ty, nó có mang lại lợi thế tuyệt đối cho công ty trước các đối thủ cạnh tranh hay không, nếu có khả năng dẫn đầu thị trương trong thời gian bao lâu.
- Những thiết bị thừa,ít được sử dụng: những thiết bị nào chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Trên cơ sở đó công ty có biện pháp xử lý một cách thích hợp đối với từng loại:
- Bán hoặc cho thuê đối với những thiết bị thừa, không mang tính chất chiến lược. Công ty sử dụng số tiền bán tài sản này để mua thiết bị khác hiện đại và phù hợp hơn với hoạt động sản xuất của mình bằng hình thức thuê mua. Trên cơ sở đó, hoàn thiện hệ thống máy móc thiết bị thi công hiện đại theo hướng trở thành doanh nghiệp dẫn đầu thị trường về công nghệ xây dựng, đủ sức đáp ứng yêu cầu thi công tất cả các loại quy mô công trình.
- Giữ lại những tài sản mang tính chiến lược trong cạnh tranh đấu thầu xây dựng đối với thị trường Việt Nam.
- Mặt khác, công ty cũng có thể bán tài sản có giá trị lớn cho một chế định tài chính để lấy tiền mặt, sau đó thuê mua lại chính tài sản đó. Hình thức này gọi là bán và tái thuê.
Như vậy, do không phải thanh toán ngay nên công ty có thể sử dụng số tiền bán thiết bị còn lại để đầu tư vào thiết bị khác. Thêm vào đó, máy móc thiết bị nhanh được đổi mới hơn do thời hạn hợp đồng thuê ngắn hơn vòng đời của thiết bị. Ngoài ra, trong thời gian nhàn rỗi của máy móc thiết bị, công ty có thể cho đơn vị khác thuê lại, tiền cho thuê thu được sẽ bù đắp phần nào chi phí thêu và làm tăng lợi nhuận của công ty.
Tuy nhiên, trước khi quyết định thuê tài chính hay mua một thiết bị, công ty cân nhắc kỹ xem việc thuê mua có thực sự mang lại lợi ích cho công ty không đối với từng tài sản. Bởi vì, hình thức này cũng có những bất lợi như chi phí thuê mua thường cao hơn chi phí vay vốn do công ty cho thuê mua thu lợi nhuận, công ty lại không được hưởng giá trị còn lại của tài sản... Phương pháp cơ bản để lựa chọn nên mua tài sản bằng vốn tự có hay vốn vay hay sử dụng hình thức tín dụng thuê mua là tính toán NPV, IRR của từng phương án, sau đó lựa chon phương án có lợi hơn.
2.4. Xây dựng và hoàn thiện các biện pháp kinh tế nhằm giải quyết hài hoà lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, khuyến khích mọi thành viên trong công ty hoàn thành công việc của mình hiệu quả nhất.
- Bằng các hình thức khuyến khích vật chất thông qua tiền lương, tiền thưởng và kích thích tinh thần động viên cán bộ , nhân viên, công nhân nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động, tiết kiệm chi phí. Song song với việc tăng cường kỷ luật, giám sát quá trình lao động, sản xuất.
- Đa dạng hoá các hình thức khoán nhằm nâng cao tính độc lập, tự chủ của các đội xây dựng. Có nhiều hình thức khoán mà công ty có thể sử dụng như:
+Khoán gọn chi phí nhân công cho đội xây dựng.
+ Khoán chi phí nhân công và vật liệu chủ yếu.
+ Khoán công tác thu mua nguyên vật liệu.
+ Khoán theo tỷ lệ nộp khoán...
Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, doanh nghiệp phải tăng cường quản lý mới phát huy được ưu điểm đảm bảo việc giao khoán đạt hiệu quả.
Tính hiệu quả của các giải pháp đặt ra.
Việc áp dụng các giải pháp trình bày ở trên sẽ đem lại cho công ty những kết quả nhất định tuỳ thuộc vào tình hình thực tế. Những biện pháp làm tăng khả năng cạnh tranh tuy không cho thấy trước được những kết quả cụ thể. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thấy rằng nếu doanh nghiệp thành công trong việc áp dụng các giải pháp này thì sẽ tạo được nhiều việc làm hơn cho người lao động, tạo thêm thu nhập cho họ, lợi nhuận của công ty cũng tăng lên. Bên cạnh đó uy tín của doanh nghiệp cũng ngày càng được củng cố.
Các biện pháp khác nói chung đều nhằm mục đích làm giảm chi phí, giảm lượng vốn không sinh lời, tăng lợi nhuận của công ty. Vì vậy, ta chỉ xét tính hiệu quả của một trường hợp cụ thể sau đây để làm thí dụ.
Nhờ áp dụng các biện pháp nhằm xử lý và hạn chế lượng vốn bị các chủ đầu tư chiếm dụng, số vòng quay vốn lưu động của công ty giảm. Như vậy, mỗi đồng vốn lưu động sẽ luân chuyển được nhiều vòng hơn trong một kỳ, tức là doanh thu mang lại từ một đồng vốn lưu động sẽ tăng lên. Hay để có được doanh thu của năm 2001 thì công ty chỉ phải bỏ ra một lượng vốn lưu động ít hơn.
Giả sử, các khoản thu của công ty đầu và cuối năm 2001 được xử lý tốt hơn làm giảm một nửa còn 5.276.173.360 đồng, khi đó vốn lưu động sẽ còn là 11.435.525.899 đồng. Khi đó ta có bảng các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động như sau: (Đơn vị : VNĐ).
Chỉ tiêu
Năm 2001 (ban đầu)
Năm 2001 (mới)
1.VLĐ bình quân
11.711
11.435
2. Hệ số đảm nhận VLĐ
0,65
0,44
3. Sức sinh lời của VLĐ
0,14
0,21
4. Số vòng quay VLĐ
1,54
2,25
5. Thời gian một vòng quay
233
160
Qua bảng trên ta thấy số vòng quay vốn lưu động lúc này sẽ là 2,25 vòng tăng lên 0,71 vòng so với trước ứng với tỷ lệ tăng 46,1% làm cho số vong luân chuyển giảm 73 ngày so với trước.
Hệ số đảm nhận vốn lưu động mới là 0,44 giảm 0,21 so với trước. Như vậy, so với trước đây để có một đồng doanh thu, sau khi áp dụng các biện pháp quản lý vốn, công ty đã tiết kiệm được 0,21 đồng vốn lưu động.
Sức sinh lời vốn lưu động năm 2001(ban đầu) là 0,14 đồng LN/1đồng DT.
Sức sinh lời vốn lưu động (mới) là 0,21 đồng LN/1 đồng DT, tăng 0,07 đồng.
4.1.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3 Hà Nội.
Hiệu quả sử dụng vốn là biểu hiện của năng lực sản xuất kinh doanh, là thước đo so sánh giữa chi phí bỏ ra và lợi nhuận thu lại của doanh nghiệp. Khi phân tích hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3 tôi thấy mặc dù Công ty đã đạt được một số kết quả đáng kể trong việc quản lý và sử dụng vốn nhưng so với mục tiêu đề ra còn quá thấp. Nhằm khai thác sử dụng triệt để hơn nữa các nguồn lực của Công ty tôi xin đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3.
- Nâng cấp đổi mới thiết bị máy móc vì đối với hoạt động xây dựng cơ bản thì máy móc, thiết bị thi công đóng vai trò sống còn đối với doanh nghiệp. Thực tế tại Công ty Xây dựng số3 cho thấy mặc dù Công ty vẫn chú trọng đầu tư vào máy móc thiết bị nhưng năng lực sản xuất của tài sản cố định của Công ty còn thấp, một số thiết bị máy móc đã trở lên lạc hậu, số khấu hao chung của các loại tài sản cố định đã chiếm 46%. Cùng với việc đầu tư đổi mới tài sản cố định Công ty cũng cần phải cân nhắc việc đầu tư những trang thiết bị lớn hiện đại đáp ứng nhu cầu sản xuất và nâng cao chất lượng cũng như mỹ quan của các công trình. Nhưng do địa bàn thường xuyên phải điều chuyển thiết bị, việc làm này cũng tuơng đối tốn kém vì thế Công ty cần xem xét giữa việc điều chuyển và thuê sử dụng. Đối với tài sản có tần suất hoạt động cao Công ty phải chú trọng đầu tư sửa chữa kết hợp với việc xem xét một số phương án về thuê tài chính. Vì hiện nay ở nước ta loại hình tài trợ này cũng có một bước phát triển đáng kể.
Bên cạnh việc đầu tư đổi mới thiết bị, Công ty cần tiến hành thanh lý, nhượng bán tài sản cố định không cần dùng hoặc đã khấu hao hết để thu hội vốn nhằm tái đầu tư vào tài sản cố định bổ xung cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho việc cất giữ bảo quản tài sản cố định đó.
- Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản cố định. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả thường xuyên biến đổi, hiện tượng hao mòn vô hình thường xuyên xảy ra. Việc thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản giúp cho Công ty xác định mức khấu hao và thời gian khấu hao hợp lý để thu hồi vốn, xử lý kịp thời những tài sản cố định bị mất giá để chống sự thất thoát vốn.
- Lập kế hoạch đầu tư phù hợp với nhu cầu sử dụng thực tế. Vì vậy thực tế chô thấy trong một số năm vừa qua tại Công ty có một số tài sản cố định được đầu tư vượt so với nhu cầu sử dụng từ đó làm cho hiệu quả sử dụng của tài sản cố định bị giảm, hàm lượng vốn cố định trong mỗi đồng doanh thu tăng lên điều này đã ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty, gây nên hiện tượng lãng phí vốn cố định.
- Công ty phải quản lý chặt chẽ tài sản cố định và nên phân cấp quản lý tài sản cố định cho từng bộ phận trong Công ty nhằm nâng cao trách nhiệm vật chất trong việc chấp hành nội quy, quy chế sử dụng tài sản, giảm tối đa thời gian ngừng việc giữa ca hoặc ngừng việc do sửa chữa tài sản cố định. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng bộ phận và cá nhân trong việc sử dụng và đảm bảo tài sản cố định, quy định rõ quy chế thưởng phạt nhằm khuyến khích và nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên. Sử dụng tốt các đòn bảy kinh tế này sẽ có ý nghĩa quan trọng trọng việc nâng cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
- Công ty phải thường xuyên nâng cao trình độ tay nghề của công nhân sản xuất và mở các lớp bồi dưỡng kiến thức, thi tay nghề , thi nâng bậc cho công nhân, có chế độ khuyến khích đối với các thợ giỏi.
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Trong cơ cấu vốn của Công ty Xây dựng số 3 hiện nay vốn lưu động chiếm tỷ trọng tương đối lớn, việc đặc thù của hoạt động xây dựng cơ bản là chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, vốn bị ứng đọng nhiều ở các sản phẩm dở dang, các khoản phải thu...Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn lưa động tôi xin đề xuất một số giải pháp sau:
- Xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn lưu động phù hợp với kế hoạch sản xuất kinh doanh. Đây là một giải pháp tài chính rất quan trọng với việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty.
Trước tiên Công ty cần xác định nhu cầu vốn tối thiểu cho hoạt động sản xuất kinh doanh, có kế hoạch huy động hợp lý các nguồn bổ xung. Nếu xác định nhu cầu vốn thiếu sẽ gây đến tình trạng thiếu vốn , Công ty sẽ gặp khó khăn, kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ bị ngưng trệ, nhưng nếu xác định nhu cầu vốn thừa sẽ gây đến lãng phí vốn, giảm tốc độ luân chuyển của vốn. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản hay khi trúng thầu các công trình, phòng kế hoạch phải vạch ra kế hoạch sản lượng, như cầu vật tư, kế hoạch chi tiết cho từng hạng mục công trình để phòng tài vụ lấy đó làm cơ sở xác định nhu cầu vốn lưu động cho từng giai đoạn. Nhờ đó đảm bảo cho quá trình thi công được đều đặn kế hoạch không gây lãng phí về vốn hoặc thiếu vốn.
- Hoàn tất các thủ tục thanh toán, nhanh chóng thu hồi cáca khoản phải thu. Với Công ty Xây dựng số 3 các khoản phải thu chiếm tỷ trọng rất lớn trong cơ cấu tài sản lưu động khoảng trên 60%. Đây là một khoản vốn lưu động rất lớn nằm lại trong khâu thanh toán. Vì vậy rút ngắn thời gian thu hồi lại Công ty sẽ giảm được rất nhiều các khoản vay ngắn hạn, đồng thời đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
Với các công trình có vốn ngân sách quá trình thanh toán vốn sẽ diễn ra chậm do phải chờ vốn cấp theo chỉ tiêu của Nhà nước hoặc chỉ tiêu của bộ, ngành. Còn với công trình vốn tự có thì thời gian thanh toán vốn của các hạng mục công trình này luôn đòi hỏi thời gian thi công nhanh, chất lượng, giá trị thẩm mỹ của công trình phải đạt ở mức cao.
Để thúc đẩy nhanh quá trình thu hồi vốn Công ty cần thực hiện tốt công tác hoàn thiện hồ sơ thanh toán, quyết toán giá trị các công trình với phía chủ đầu tư hoặc với nhà thầu chính. Để xác định khối lượng thi công được nhanh chóng và thống nhất Công ty phải lưu lại toàn bộ hồ sơ về những thay đổi liên quan tới từng công trình, hạng mục công trình làm cơ sở cho việc xác định khối lượng thi công.
- Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động , giảm bớt giá trị sản xuất kinh doanh dở dang. Với đặc điểm hoạt động của Công ty Xây dựng số 3 vốn lưu động trong khâu sản xuất chủ yếu nằm ở giá trị sản phẩm dở dang. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động ở khâu này chịu ảnh hưởng của nhiêu nguyên nhân thuộc về đặc thù của ngành xây dựng nhu chu kỳ sản xuất kinh doanh dài, giá trị công trình lớn và các nguyên nhân chủ quan khác mà việc tìm hiểu các nguyên nhân này cá thể cho phép Công ty đưa ra các giải pháp thúc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn lưu động.
- Công ty cần cải tiến các khâu của quá trình cung ứng nguyên vật liệu, bảo quản nguyên vật liệu. Kế hoạch thu mua dự trữ nguyên vật liệu phải phù hợp với yêu cầu của kế hoạch sản xuất kinh doanh đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên vật liệu cho quá trình thi công. Công ty cần theo dõi sát sao tình hình giá cả, khả năng nguồn cung ứng để có kế hoạch dự phòng các nguồn cung ứng thay thế phục vụ tốt nhu cầu sản xuất kinh doanh trong mọi trường hợp.
- Phải hoàn thiện bộ máy quản lý và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ. Công tác tổ chức bộ máy quản lý có tác động rất lớn tới sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty cần hoàn thiện công tác tổ chức quản lý trên cơ sở bộ máy quản lý tinh giảm, gọn nhẹ, làm việc có hiệu quảy, tránh tình trạng bộ máy quản lý cồng kềnh gây tác động không tốt tới tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong bộ máy quản lý cần có sự phân định rõ ràng về quyền hạn trách nhiệm phù hợp với trình độ và khả năng của mọi người để họ có thể phát huy được những thế mạnh của họ.
- Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và công tác phân tích tài chính. Vì vậy, trong thời gian tới, Công ty cần hoàn thiện công tác phân tích tài chính, có dế hoạch đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ tài chính cho cán bộ của phòng tài chính kế toán để họ luôn nắm được chính sách chế độ mới giúp cho công tác quản lý tài chính của Công ty được hoàn thiện và luôn đúng với các chế độ chính sách của Nhà nước.
Đối với Nhà nước:
- Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế đấu thầu, tiếp tục sửa đổi bổ sung hoàn thiện quy chế đấu thầu đáp ứng yêu cầu phát triển của lĩnh vực xây dựng trong giai đoạn mới. Nhà nước cần đề cao các yêu cầu về mặt kỹ thuật trong hồ sơ đấu thầu hơn là vấn đề giá để giúp các doanh nghiệp Nhà nước có điều kiện hơn trong đấu thầu quốc tế. Việc phân chia gói thầu cho một dự án phải hợp lý để khai thác được tiềm năng trong nước tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước có thể dự thầu độc lập. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các nhà thầu Việt Nam, điều này chưa được Chính Phủ quy định trong quy chế đấu thầu.
- Nhà nước cần có sự quan tâm tới công tác đào tạo cán bộ đấu thầu. Đối với nước ta đấu thầu vẫn còn là lĩnh vực khá mới mẻ, trong khi công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác đấu thầu như mở các lớp tập huấn, các trung tâm đào tạo cán bộ đấu thầu để các doanh nghiệp có điều kiện cử cán bộ đi học, từng bước nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ đấu thâu.
Kết luận
Bước sang thế kỷ mới, Việt nam đang cựa mình lớn dậy, hoà nhập vào nên kinh tế khu vực và thế giới. Cơ hội và thách thức đang mở rộng ra trước mắt chúng ta. Những cơ hội và thách thức này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải luôn luôn cố gắng để đi đúng con đường mình đã vạch ra. Nó khiến cho mỗi doanh nghiệp phải tự đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để hoạt động có hiệu quả nhất? Đem lại lợi nhuận cao nhất?
Muốn hoạt động có hiệu quả thì mỗi doanh nghiệp phải biết quản lý và sử dụng đồng vốn của mình bỏ ra một cách tốt nhất. Từ đó sẽ mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp ngày càng cao.
Với đề tài “Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty Xây dựng số 3 Hà Nội”, báo cáo đã trình bày những lý luận cơ bản về vốn và hiệu quả sử dụng vốn và sự vận dụng những lý luận đó vào thực tiễn ở Công ty Xây dựng số 3 (thuộc Tổng Công ty đầu tư và phát triển nhà Hà Nội.)
Thời gian thực tập ở Công ty là cơ hội để em nắm bắt, xâm nhập thực tế, củng cố những kiến thức, lý luận đã lĩnh hội được ở trường. Từ đó có sự so sánh với thực tế và cùng với quan điểm của bản thân em đã mạnh dạn đưa ra một số nhận xét, kiến nghị với mong muốn góp phần hoàn thiện thêm công tác quản lý và sử dụng vốn ở Công ty Xây dựng số 3.
Vì thời gian thực tập không nhiều, cộng với trình độ lý luận còn hạn chế nên mặc dù đã nhận được sự giúp đỡ của Cô giáo hướng dẫn, các bác, các cô phòng kế toán Công ty song rất có thể báo cáo này đã không tránh được những sai sót. Vì vậy, em mong nhận được sự chỉ bảo để hiểu biết của em được đầy đủ hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Lê Phong Châu và các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng Tài chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân , cùng toàn thể Công ty Xây dựng số 3 Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo này .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36765.doc