Chuyên đề Một số biện pháp nhằm ổn định giá trị đồng euro và một số vấn đề đối với Việt Nam

Trong nhiều năm đồng USD, luôn là đồng tiền chính mà các quốc gia trên thế giới sử dụng để làm dự trữ ngoại tệ tính bằng USD, Đồng DM chiếm 12,8% và Flance Pháp chiếm 1,2% trong khi đồng yên Nhật chiếm 4,9%. Thật khó có thể dự đoán chính xác các nước sẽ chuyển sang dự trữ quốc gia bằng đồng euro như thế nào? Phải mất thời gian bao lâu để chuyển đổi? các nước duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái gắn chặt với đồng USD hoặc số tiền tệ trong đó USD là chủ đạo, sự dịch chuyển này sẽ không diễn ra trên một diện rộng, các nước có quan hệ mật thiết với Mỹ vẫn gắn với đồng USD tuy nhiên các nước này sẽ dần dần đa dạng hoá quan hệ dự trữ ngoại tệ để tránh sự lệ thuộc lớn vào đồng đô la Mỹ. Mức độ chuyển dịch dự trữ sang đồng euro của mỗi nước là khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ kinh tế của họ với EU ngoài ra còn phụ thuộc vào khả năng kinh tế của EU và biến đồng tiền của đồng euro trên thực tệ. Cơ chế khẳng định rằng, nếu diễn ra sự dịch chuyển dự trữ ngoại tệ USD sang euro thì quá trình này cũng chỉ diễn ra từ từ mà thôi, ngân hàng Nhà nước sẽ tránh bán số lượng lớn USD để mua euro trong một thời gian ngắn vì nó sẽ làm giảm giá trị của khoản dự trữ bằng USD còn lại do USD giảm giá và gày các xáo trộn lớn. Dự trữ ngoại tệ bằng đồng euro có tăng lên? một nguyên tắc cơ bản là một đồng tiền muốn có vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại tệ thì quốc gia phát hành nó phải trong tình trạng thiếu hụt tài khoản vãng lai. Nói cách khác, nếu các khoản dự trữ bằng đồng tiền tăng lên thì khả năng cung cấp ngoại tệ đó cũng tăng lên. Mỹ đã đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này trong nhiều năm qua với những khoản thâm hụt tài khoản vãng lai.

doc30 trang | Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 662 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm ổn định giá trị đồng euro và một số vấn đề đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở xa là nửa chiến tranh không bị huỷ diệt kinh tế trái lại đã tận dụng làm giàu nhờ chiến tranh. Trong khi đó Nhật Bản và Tây Âu gặp khó khăn trong công cuộc phục hồi kinh tế sau chiến tranh. Vì vậy đã bị tê liệt thuộc vào Mỹ. Các quốc gia châu Âu muốn phát triển kinh tế đồng thời dần thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ và có một nền hoà bình bền vững các quốc gia châu Âu đã liên kết lại với nhau khởi đầu bằng cộng đồng than thép châu Âu (CECA) ra đời từ hiệp định Paris 18/04/1951 gồm 6 nước: Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Ý và Lucxembua. Các nước tham gia vào CECA đều mong muốn có được những lợi ích riêng. Tuy nhiên, nguyên tắc xây dựng cộng đồng là bình đẳng và hợp tác đã tạo được một sức hấp dẫn lớn, dư luận châu Âu tin tưởng cùng việc thành lập cộng đồng châu Âu sẽ đưa các nước thành viên lên một bước phát triển mới. CECA có thể coi đây là thị trường chung của 2 mặt hàng than và thép (2 mặt hàng quan trọng lúc đó ở châu Âu). Sau một thời gian ngắn CECA đã đem lại được những lợi ích kinh tế chính trị đã khiến chính phủ các nước thành viên tiếp tục phát triển con đường đã chọn. Ngày 25-3-1957 cộng đồng kinh tế châu Âu EEC và cộng đồng nguyên tử ra đời bằng hiệp định Roma có hiệu lực từ ngày 1-1-1958 EEC gồm tất cả các thành viên của CECA. 1961 Anh, Ireland và Đan Mạch làm đơn xin gia nhập EEC. Với Anh, để có thể phát triển nền công nghiệp của mình, phải tham gia vào EEC thì mới thâm nhập được vào thị trường giàu có ở châu Âu. Đan Mạch tham gia với mong muốn tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp của mình và để có điều kiện phát triển nền công nghiệp. Còn Ireland tham gia với mong muốn giảm phụ thuộc vào nông nghiệp Anh và có điều kiện phát triển tiềm năng của các nhà máy công nghiệp. Song do Pháp muốn xây dựng trục phát triển Pháp - Đức và sợ rằng Anh sẽ cạnh tranh địa vị của Pháp trong EEC, ngoài ra Pháp cũng sợ quan hệ Anh - Mỹ sẽ làm tăng tính ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu vì vậy Pháp đã thuyết phục Đức phủ quyết Anh nhập, và đương nhiên hai nước Đan Mạch và Ireland nộp đơn cùng đợt cũng không được xem xét. ngày 1-7-1967 cộng đồng châu Âu (EC) chính thức ra đời dựa trên sự hợp nhất của CECA, EEC và CEEA. Nhìn thấy các lợi ích thu được cộng đồng châu Âu đã được nhiều nước xin gia nhập năm 1973 kết nạp Anh, Đan Mạch, Ireland đưa tổng số thành viên từ 6 lên 9 nước. Năm 1981 Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10 tiếp đó Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lần lượt trở thành thành viên của cộng đồng châu Âu đưa lên 12 thành viên. Áo, Thuỵ Điển và Phần Lan là thành viên của EFTA (hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu) do quan hệ kinh tế giữa EC và EFTA được xúc tiến mạnh mẽ và 3 nước này lần lượt trở thành thành viên của EC vào 1989, 1991 và 1992. Qua các lần mở rộng cộng đồng châu Âu đã lớn mạnh lên tuy nhiên càng mở rộng nhiều thành viên hơn thì quá trình tham khảo, phối hợp sẽ phức tạp hơn, trong nhiều vấn đề lợi ích sẽ khó dung hoà hơn. Hội nghị Maas Trich 12/1991 đã chuẩn y hiệp ước thống nhất châu Âu đã mở đầu cho sự thống nhất về kinh tế, chính trị, tiền tệ ở châu Âu. Theo hiệp ước Maas Trich 7-2-1992 cộng đồng châu Âu EC đổi thành liên minh châu Âu EU, EU-15 chính thức vận hành vào ngày 1-1-1993. Quá trình hình thành và phát triển hơn 40 năm qua liên minh châu Âu đã đặt được những thành tựu đáng kể, đã xây dựng được mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước thành viên và xây dựng và phát triển mối quan hệ với các nước ngoài cộng đồng, đã tạo ra được thị trường chung về hàng hoá và dịch vụ. Song mục tiêu của liên minh châu Âu là thống nhất châu Âu bằng con đường hoà bình, bằng sức hấp dẫn của hợp tác và liên kết quốc tế. Thực tế liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hoá và dịch vụ. Song để thị trường chung trở nên thống nhất hơn cần phải có một đồng tiền chung lưu hành trong thị trường đó, đây cũng là điều kiện phát triển liên kết cao hơn sang lĩnh vực đầu tư tiền tệ. Chính vì vậy mà liên minh tiền tệ châu Âu EMU ra đời mà nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành đồng tiền chung trong toàn khối. Hội nghị thượng đỉnh Maas Trich nội dung chính đã được chính thức hoá trong hiệp ước Maas Trich (ký 7-2-1992), dự án về đồng tiền chung châu Âu mới được chính thức hoá và cụ thể hoá, hiệp ước này đã khẳng định chính thức các công việc chuẩn bị cho ra đời đồng tiền chung duy nhất trong khuôn khổ xây dựng liên minh tiền tệ ba giai đoạn và 5 tiêu thức gia nhập làm căn cứ các nước mong muốn và có đủ điều kiện gia nhập khối EURO. Liên minh tiền tệ châu Âu EMU là tiến trình hoà nhập các chính sách kinh tế và tiền tệ của các nước thành viên EU, là khâu không thể thiếu được trong quá trình chuẩn bị cho ra đời đồng tiền chung châu Âu. 2. Liên minh tiền tệ châu Âu EMU 2.1 Quá trình hình thành của EMU Liên minh KT tiền tệ châu Âu EMU là sản phẩm trực tiếp của hiệp ước Maas Trich 7-2-1992, giai đoạn mới của tiến trình liên kết châu Âu. Thực ra tiến trình xây dựng EMU đã được đề cập từ rất sớm, với những bước thăng trầm nhất định. Ngay từ hiệp ước Rome một số điều khoản đã được đề cập đến có liên quan tới hợp tác các chính sách tiền tệ, các chính sách hối đoái và trong lĩnh vực này. Và lúc đó, người ta đã tranh luận về vấn đề: một thị trường chung không biên giới phải được củng cố bằng một đồng tiền chung. Nhưng trên thực tế chỉ đến sau năm 1971 các nước châu Âu mới thực sự quan tâm vì trước đó tiền tệ của các nước này vẫn được cố định với đồng USD trong hệ thống Bretton Woods. Năm 1971 hệ thống Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ các đồng tiền châu Âu được thả nổi hoàn toàn. Thay đổi tự do theo cung cầu trên thị trường, không làm cho tỷ giá của các nước này ổn định hơn, mà trái lại càng thêm trao đảo mạnh (do đầu cơ tiền tệ ngày càng ra tăng và sự chu chuyển về vốn mạnh mẽ giữa các nước xuất phát từ sự khác biệt về lãi suất) thêm vào đó là sự giảm giá của đồng USD làm các nước châu Âu co cụm lại gần nhau trong vấn đề tiền tệ, khi đồng USD giảm giá thì dự trữ quốc gia bằng đồng USD sẽ giảm xuống buộc các nước phải tăng dự trữ để đảm bảo giá trị thực tế của dự trữ quốc giá cùng với sự mất giá của USD, đã thúc đẩy họ tìm một đồng tiền khác ổn định hơn làm cơ sở thay cho đồng USD ngày một mất giá. Năm 1969, một cuộc họp cấp cao của EEC đã yêu cầu những vị Bộ trưởng Bộ Tài chính của mình cùng với Uỷ ban của cộng đồng phác thảo ra một kế hoạch từng bước tiến tới liên minh kinh tế - tiền tệ. Năm 1970 nhóm làm việc dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Luychămbua lúc đó là Pierre Werner đã đưa ra một kế hoạch đầy tham vọng: "Thực hiện liên minh tiền tệ" trong vòng 10 năm (được gọi là kế hoạch Werner) nội dung của kế hoạch có nhiều điểm giống với Hiệp ước Maastricht. Nhưng kế hoạch này đã thiếu một tiền đề tiên quyết để thành công. Không như hiệp ước Maastricht, nó không được ký kết ràng buộc như một hiệp ước được phê duyệt và có giá trị pháp lý như một công ước quốc tế, trái lại trong từng công đoạn của nó với tất cả các chi tiết đều phải được quyết định mới. Chính vì vậy kế hoạch này đã thất bại ở giai đoạn thứ 2. Cùng với hàng loạt các biến cố xảy ra trong tình hình kinh tế chính trị lúc đó đã làm tan kế hoạch này. Cuối những năm 1970 trước sự suy thoái về kinh tế kéo dài đặc biệt là trước thế sút kém của một cộng đồng châu Âu phân tán về thị trường tiền tệ, trong so sánh với Mỹ và Nhật, đồng thời cùng với việc đồng USD tiếp tục giảm giá trong cuối những năm 70. Các thành viên châu Âu lại một lần nữa cùng nhau thử sức trong vấn đề liên kết tiền tệ. Theo sáng kiến của Tổng thống Pháp Giseard de Stanh và thủ tướng Đức Helmut Schmidt, hệ thống tiền tệ châu Âu đã ra đời 13-3-1978 (EMS). Mục đích của EMS là duy trì tỷ giá cố định trong toàn khối và tỷ giá của cả khối sẽ thay đổi theo thị trường. Đó thực chất là một hệ thống thả nổi có điều tiết. Cùng với sự ra đời của EMS là sự ra đời của đơn vị tiền tệ châu Âu dòng ECU (1978) đây thực chất là một "giỏ tiền tệ". Giá trị của đồng Ecu tương đương với một số lượng cố định các đồng tiền trong cộng đồng. Số lượng này lại được xác định tuỳ thuộc vào tiềm lực kinh tế của mỗi nước. Đồng ECU cũng có chức năng nhất định như tính toán, thanh toán, dự trữ... Song rất hạn chế trong một phạm vi nhất định, là đơn vị tính toán đồng ECU là cơ sở tính tỷ giá giữa các đồng tiền trong cộng đồng, đồng thời nó còn là cơ sở xác định ngân sách cộng đồng, thuế, giá cả nông nghiệp. Là phương tiện thanh toán, đồng ECU là cơ sở xác định và thanh toán các khoản nợ của các ngân hàng trung ương khi các ngân hàng này phải tiến hành các can thiệp để giữ tỷ giá trong giới hạn quy định trên thực tế đồng ECU không phải là một đồng tiền thực sự, mà là một đồng tiền nặng vô danh nghĩa. Thành tích lớn nhất đạt được của EMS là tạo ra được một vùng tiền ổn định, giảm được các rủi ro do sự biến động của đồng USD, và đồng Yên Nhật, giúp các nước châu Âu giảm được lạm phát. Nhưng đến 1992 EMS đã xụp đổ, một mặt là do những nguyên nhân kinh tế khách quan, một mặt là do những thiếu sót về tính chất và cơ cấu trong chính bản thân EMS một trong những lý do đó là sự biến đổi kinh tế trong hệ thống rất nhanh, và sự biến đổi này không tương ứng nhau giữa các nước, dẫn tới mâu thuẫn với tỷ giá cố định trong hệ thống EMS và mâu thuẫn đã bùng nổ, phá vỡ thế ổn định. Hệ thống tiền tệ châu Âu bộc lộ những hạn chế trong lúc cục diện thế giới 2 cực đã chấm dứt, vấn đề chính trị đã gác lại, các thế lực đều dồn sức chuẩn bị lực lượng để giành địa vị tối ưu trong tương lai, chủ yếu là chạy đua xây dựng củng cố thế lực và kinh tế, cục diện 2 cực chấm dứt, những trật tự mới đang dần hình thành xu hướng hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ hình thành các khu vực kinh tế trong bối cảnh đó, cộng đồng châu Âu tuy đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình liên kết. Song hầu hết các mặt cộng đồng châu Âu còn thua kém Mỹ, Nhật. Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với các trung tâm, khu vực kinh tế trong giai đoạn mới. Trước hết các nước châu Âu phải thống nhất chặt chẽ hơn để tạo ra một sức mạnh tổng hợp, đáp ứng những cơ hội và thách thức mới. Trước tình hình đó, 1989 báo của J.Delors - Chủ tịch uỷ ban châu Âu lúc đó đã ra đời, và vạch ra những điều kiện và chương trình cụ thể của một liên minh kinh tế - tiền tệ. Hiệp ước Maastricht ra đời chính thức hoá dự án về đồng tiền chung. Khẳng định quá trình xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU) gồm 3 giai đoạn và xác định nội dung công việc cụ thể của từng giai đoạn. * Giai đoạn 1 từ 1-7-1990 đến 31-12-1993 nhiệm vụ của giai đoạn này là phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế giữa các nước, giúp các nước đạt được các chỉ tiêu để ra nhập khu vực đồng EURO cụ thể hoàn chỉnh thị trường chung châu Âu đặc biệt là hoàn chỉnh quá trình lưu thông và tự do vốn, đặt nền kinh tế quốc gia dưới sự giám rất nhiều bèn, phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước trong phạm vi "uỷ ban thống đốc của ngân hàng trung ương để ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền". * Giai đoạn 2: từ 1-1-1994 đến 1-1-1999 nhiệm vụ của giai đoạn này là tiếp tục phối hợp chính sách kinh tế, tiền tệ nhưng ở mức cao hơn, để chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của đồng Euro. Trong giai đoạn này các tiêu thức gia nhập EMU. Sẽ được rà soát lại một cách kỹ lưỡng giữa các nước để đến cuối giai đoạn này có thể quyết định cụ thể nước nào sẽ gia nhập EMU đồng thời thành lập viện tiền tệ châu Âu, với nhiệm vụ thực hiện một số chính sách tiền tệ chung để ổn định giá cả tạo điều kiện chuẩn bị cho sự ra đời và vận hành đồng Euro. Đây là bước chuyển tiếp để đưa ngân hàng trung ương châu Âu ECB và hoạt động ở cuối giai đoạn này. * Giai đoạn 3 là từ 1-1-1999 đến 30-6-2002 với nội dung cho ra đời đồng Euro, công bố tỷ giá chuyển đổi chính thức giữa đồng Euro và các đồng tiền quốc gia. Thứ ba là ECB chính thức vận hành và chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ của liên minh. Quá trình chuẩn bị, thể hiện quyết tâm cao của các nước thành viên nhằm xây dựng thành công EMU với nội dung chính là tạo ra một đồng tiền chung (đồng Euro) và một chính sách tiền tệ thống nhất. Trước khi đi vào tìm hiểu về chính sách tiền tệ châu Âu và đồng Euro ta tìm hiểu qua về các tiêu thức ra nhập khu vực khu vực đồng Euro. 2.2. Các tiêu thức gia nhập khu vực đồng Euro Hiệp ước Maastricht (7-2-1999) đã quy định năm tiêu thức làm căn cứ xác định các nước mong muốn và có khả năng ra nhập khối Euro, đó là: 1) Bội chi ngân sách phải thấp hơn 3% GDP 2) Mức dư nợ nhà nước không vượt quá 60% GDP 3) Mức độ ổn định tỷ giá: có ít nhất 2 năm tuân thủ chế độ tỷ giá và mức biến động tỷ giá do hệ thống tiền tệ châu Âu quy định 4) Lạm phát không vượt quá 1,5% so với trung bình của 3 nước có mức thấp nhất 5) Lãi suất dài hạn không vượt quá 2% mức bình quân của 3 nước thấp nhất. Theo các tiêu thức trên, đến ngày 2-5-1998 đã có 14 nước trong EU, 15 đạt các tiêu chuẩn, riêng Hy Lạp không đạt, trong đó có 8 nước Anh, Thuỵ Điện và Đan Mạch do hưởng quy chế riêng tạm thời không tham gia vào khu vực đồng Euro trong đợt 1. 2.3. Chính sách tiền tệ của liên minh châu Âu 2.3.1. Giới thiệu khái quát về NHTWCA (ECB) Bộ máy điều hành chính sách tiền tệ thống nhất châu Âu là NHTW châu Âu và hệ thống NHTW các nước thành viên trong đó NHTW châu Âu chịu trách nhiệm về hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất châu Âu. Theo hiệp ước Maastricht và các văn bản có giá trị pháp lý khác của EU, khẳng định chính thức rằng ECB hoàn toàn chịu trách nhiệm về chính tiền tệ chung của khối Euro từ 1-1-1999. Ngân hàng TW châu Âu chính thức được xác định ra đời ngày 1-7-1998, nhưng trách nhiệm hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất bắt đầu từ 1-1-1999. Tiền thân của ECB là viện tiền tệ châu Âu, trụ sở của ECB đặt tại Francfort. ECB được cơ cấu gồm có hội đồng thống đốc có chức năng hoạch định chính sách, dưới hội đồng thống đốc có ban giám đốc. Trong ban giám đốc có 1 thống đốc và 5 thành viên, ban giám đốc có chức năng điều hành chính sách tiền tệ châu Âu thông qua hoạt động của hệ thống NHTW thành viên, nguyên tắc áp dụng trong ban giám đốc là nguyên tắc nhất trí tập thể, trong trường hợp số phiếu ngang nhau, phiếu của thống đốc sẽ có quyền quyết định. Tháng 5-1998 Hội đồng kinh tế tiền tệ châu Âu bỏ phiếu bầu thống đốc của EBC. Ông Wim Duisenberg, quốc tịch Hà Lan, nguyên thống đốc NHTW Hà Lan, đang đương chức Giám đốc viện tiền tệ châu Âu đã chúng cử thống đốc NHTW châu Âu với 50 phiếu thuận, 1 phiếu trống, 5 phiếu trắng. 2.3.2. Vị trí của ECB và mục tiêu, cơ chế, công cụ vận hành chính sách tiền tệ châu Âu. Từ ngày 1-1-1999 trong toàn khối EURO 11 chỉ có một chính sách tiền tệ chung, bằng đồng Euro do NHTW châu Âu đảm nhiệm ECB hoàn toàn độc lập với các nhà nước thành viên và uỷ ban châu Âu trong việc hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất. Điều này vừa ngăn cản hữu hiệu việc lạm dụng tiền tệ để tài trợ cho các mục tiêu quân sự chính trị, nguồn gốc của lạm phát, bất ổn tiền tệ vừa đảm bảo cho đồng Euro mạnh và ổn định. Tính chất không thể bãi nhiệm chức thống đốc ECB, nhiệm kỳ 8 năm đảm bảo tính độc lập thực sự cho ECB trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối. Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ thống nhất châu Âu được xác định rõ ràng là ổn định giá cả. Qua ổn định giá cả góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp. Việc công khai mục tiêu ổn định giá cả như là mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ châu Âu, không phụ thuộc vào bất kỳ sự can thiệp nào, trong bất kỳ trường hợp nào đã khẳng định tính độc lập của ECB. Về mặt nghiệp vụ ECB phải xác định các mục tiêu trung gian mang tính kỹ thuật như khối lượng tiền phát hành, tỷ giá, lãi suất... các mục tiêu trung gian hoàn toàn do ECB độc lập xác định. Các công cụ chủ yếu ECB được sử dụng để đạt được mục tiêu là nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ cho vay bù đắp thâm hụt thường xuyên. Bên cạnh đó, hệ thống các cơ chế vận hành cần thiết đã được các nhà hoạch định chính sách thiết kế khá đầy đủ như chế độ đổi tiền, cơ chế thanh toán, cơ chế tỷ giá với các nước ngoài khối trong hệ thống tiền tệ châu Âu mới (EMR II), cơ chế giám sát tài chính công và ngân sách lành mạnh, cơ chế báo động khi một nước có sự vi phạm các tiêu thức hội nhập đã cam kết, cơ chế phạt khi có vi phạm kỷ luật ngân sách hoặc luật tài chính... cùng với việc thống nhất chính sách tiền tệ là việc cho ra đời và đưa vào lưu thông đồng tiền chung trong toàn khối đây là nội dung quan trọng trong việc xây dựng liên minh tiền tệ châu Âu. Việc phát hành đồng tiền chung cũng như xây dựng liên minh tiền tệ châu Âu sẽ có những ảnh hưởng lớn không chỉ đối với các nước trong liên minh. Và trên thực tế bằng quyết tâm cao của liên minh châu Âu. Sau một quá trình chuẩn bị lâu dài đồng tiền chung đã chính thức ra đời và tham gia vào quá trình lưu thông tiền tệ hơn hai năm qua. III. Đồng tiền chung châu Âu (đồng EURO) 1. Cơ sở ra đời của đồng Euro EURO ra đời trên cơ sở đồng Euro, EMS và có một quá trình chuẩn bị lâu dài, công phu về mọi phương diện kinh tế, chính trị, tài chính và tiền tệ. EURO ra đời có đầy đủ cơ sở hợp pháp như một đồng tiền thực thụ. 1.1. Cơ sở pháp lý Đồng EURO là đồng tiền thực thụ và hợp pháp có đầy đủ tư cách pháp lý, là kết quả của các thoả hiệp, cam kết giữa các chính phủ thành viên EU. Cơ sở pháp lý cho sự ra đời của đồng Euro là hệ thống các văn bản pháp quy của liên minh, cao nhất là Hiệp ước (Hiệp ước Maastricht) và các nghị quyết có liên quan được nghị viện châu Âu, uỷ ban châu Âu, Hội đồng châu Âu, Hội đồng các Bộ trưởng kinh tế tài chính châu Âu phê chuẩn. Bên cạnh đó là hệ thống pháp luật của mỗi nhà nước thành viên phải ban hành các văn bản luật và dưới luật cần thiết khác đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lý cho đồng Euro ra đời và thay thế hợp pháp, vĩnh viễn các đồng tiền quốc gia đã lưu hành từ bao đời nay. Đồng Euro có cơ quan điều hành độc lập và chịu trách nhiệm là ngân hàng TW châu Âu (ECB). 1.2. Cơ sở khoa học kỹ thuật cho việc lưu hành đồng Euro. 1.2.1. Các quy định cơ bản * Tỷ giá chuyển đổi Tỷ giá chính thức của các đồng tiền của các nước thành viên được xác định theo cơ chế tỷ giá cũ (ERM I) được công bố vào 5/1998 được sử dụng như tỷ giá chuyển đổi song phương cho các nước thành viên tham gia từ ngày 1-1-1999. * Tuần lễ chuyển đổi: kéo dài 3 ngày rưỡi tính từ đầu giờ chiều ngày 31-12-1998, sau khi tỷ giá chuyển đổi chính tức EURO/ECU và EURO/NCU được thông báo, đến trước thời gian mở cửa của các thị trường tài chính ngày làm việc đầu tiên trong năm 11-1-1999. Một "Uỷ ban tuần lễ chuyển đổi" được thành lập "nhằm kiểm soát các khâu chuẩn bị cuối cùng cho việc xuất hiện đồng EURO". Các đối tượng sử dụng đồng Euro ngay trong tuần lễ chuyển đổi là: các công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, thị trường liên ngân hàng, mọi hoạt động của ngân hàng trung ương châu Âu về các chính sách tiền tệ và giao dịch ngoại hối được sử dụng đồng Euro. * Nguyên tắc làm tròn số trong quá trình chuyển đổi Tỷ giá chuyển đổi có 5 chữ số thập phân. Số tiền phải trả tính trên cơ sở tỷ lệ chuyển đổi sẽ được làm tròn tới hai chữ số thập phân theo nguyên tắc 5 thêm, 4 bỏ. Nguyên tắc này được áp dụng trong các giao dịch chuyển đổi tiền mặt, các giao dịch mua bán, các giao dịch chứng khoán và các khoản nợ. Tuy nhiên có một số quốc gia vẫn sử dụng nguyên tắc làm tròn như đối với nước mình là Đức, Áo, Hà Lan. * Nguyên tắc không - không: Việc sử dụng đồng Euro trong giai đoạn quá độ theo nguyên tắc không bắt buộc, không ngăn cấm đối với cả các nước trong và ngoài khối trong việc sử dụng đồng Euro. Có nghĩa là không có sự hạn chế nào trong việc sử dụng đồng tiền mới. Theo nguyên tắc này ngụ ý rằng các bên tham gia hợp đồng không có quyền bắt buộc đối tác sử dụng đồng Euro nếu không có một thoả thuận vào đồng ý của bên đối tác. Đối với các hợp tác đang tồn tại, đơn vị tính toán vẫn là đồng tiền quốc gia và được duy trì cho đến 1-1-2002, trừ khi các bên có sự nhất trí sử dụng đồng Euro hoặc các trường hợp ngoại lệ khác. Đối với các hợp đồng được ký kết trong giai đoạn quá độ, việc sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán, tuỳ vào thoả thuận của hai bên tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên có một số ngoại lệ là các ngân hàng phải chấp nhận thanh toán các đồng tiền được đề nghị thanh toán. Nhà nước có thể quy định toàn bộ số dư nợ hiện hành của mình mà không cần có sự nhất trí của người cho vay và tương tự với các trường hợp vay khác, ngoài ra nhà nước còn có thể thay thế đơn vị tính toán trên thị trường tài chính của mình. 1.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) Hội dồng châu Âu tại Amsterdam tháng 6-1997 đã thông qua quyết định hình thành cơ chế tỷ giá mới thay thế cho hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) hiện hành, trên cơ sở đó viện tiền tệ châu Âu (EMI) đã chuẩn bị một thoả ước về cơ chế tỷ giá mới giữa các nước thành viên khu vực đồng Euro và các nước thành viên ngoài khu vực có nội dung như sau: * Việc tham gia vào EMR II là tự nguyện đối với tất cả các nước thành viên không thuộc khu vực đồng Euro. Tuy nhiên quy định đối với tất cả các ngân hàng của các nước thành viên. Dù nước đó có tham gia vào EMR II hay không miễn là thành viên của EU thì các ngân hàng này đều phải: - Báo cáo thường xuyên các hoạt động can thiệp hối đoái và các hoạt động hối đoái khác. - Cần có sự chấp nhận của ngân hàng trung ương ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên không tham gia khác về các hoạt động can thiệp hoặc các giao dịch lớn bằng các đồng tiền quốc gia vượt quá mức độ giới hạn đã được thoả thuận và có thể ảnh hưởng tới hoạt động thị trường hối đoái. * Tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền quốc gia (NCU) trong cơ chế EMR II với đồng Euro được ECB xác định với biên độ giao động cho phép là +1,5% (tuy nhiên biên độ này có thể thu hẹp trong quá trình hội tụ kinh tế để tham gia vào khu vực đồng tiện chung của 4 nước thành viên còn lại trong quan hệ tỷ giá đồng Euro được gọi là đồng yết giá. Với năm chữ số thập phân có giá trị. * Để đảm bảo tỷ giá nằm trong biên độ này ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên ngoài khu vực đồng Euro thực hiện sự can thiệp không hạn chế và tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của nó đến mục tiêu ổn định giá cả. Trong những trường hợp có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu này, ECB và các ngân hàng nhà nước có quyền ngừng can thiệp (Điều này trái với nguyên tắc can thiệp tự động trong cơ chế tỷ giá của EMS). Nền tảng cốt lõi cho sự ổn định tỷ giá là sự ổn định kinh tế vĩ mô, vì vậy nó không thể tách rời cố gắng điều chỉnh kinh tế để hội nhập của các nước thành viên còn lại trong giai đoạn quá độ. * Hệ thống thanh toán Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng Euro để thực hiện các giao dịch nội địa, một số các nước có hai hệ thống thanh toán: Hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) và hệ thống thanh toán bù trừ. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc gia, các nước thành viên có thể lựa chọn các phương thức thanh toán sau: - Tiếp tục sử dụng hình thức ngân hàng đại lý, nhưng chỉ lựa chọn một đại lý tại một trung tâm với một tài khoản đồng Euro để hoạch toán các khoản giao dịch bằng đồng Euro với tất cả các thành viên khác. - Tạm thời duy trì cơ chế hiện hành với một tài khoản được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hoạch toán các giao dịch với quốc gia đó. - Thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) được nối mạng với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ TARGET hoặc thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội ngân hàng khu vực EURO (EBA). TARGET: là trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU nó được nối mạng trực tiếp với 15 trung tâm thanh toán quốc gia (RTGS), cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiện được trong một ngày. Hệ thống này bắt đầu hoạt động vào tháng 11-1998. Sau khi hoàn thành các hệ thống pháp lý và đạt được thoả thuận của 15 nước thành viên. Hệ thống TARGET thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối lượng lớn. 1.2.2. Cơ sở khoa học cho sự ra đời của đồng Euro Đồng Euro ra đời theo một lịch trình được thiết kế hợp lý, thận trọng, thích hợp với sự vận động từ thấp tới cao. Về mặt kỹ thuật sự ra đời của đồng Euro được chuẩn bị kỹ càng, không vội vàng đột ngột, khởi đầu bằng việc sáng lập đơn vị tiền tệ của cộng đồng trên cơ sở tập hợp các đồng tiền quốc gia thành viên hay gọi là "rổ tiền tệ (ECU, 1975), tiếp theo là thành lập và vận hành hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS, 1978) và quá trình triển khai liên minh tiền tệ theo 3 giai đoạn với các nội dung cụ thể cho từng giai đoạn để tạo lập các điều kiện cần thiết cho sự ra đời một đồng tiền chung và vận hành thống nhất một chính sách tiền tệ. Một thị trường chung rộng lớn như EU cần được tăng cường sức mạnh bằng việc lưu hành 1 đồng tiền chung đó cũng là lôgíc phát triển của tự nhiên. Đồng thời chính sức mạnh của thị trường thống nhất đó tạo cơ sở kinh tế cho sự ra đời của đồng Euro mạnh và ổn định chẳng thế mà ông Stuart Eizenstat, thứ trưởng phụ trách các vấn đề kinh tế Mỹ đã phát biểu "Đồng Euro ra đời là một phần của tiến trình phát triển EU có về chiều rộng và chiều sâu, là sự mở rộng của thị trường duy nhất". 2. Quá trình ra đời đồng Euro Ý đồ cho ra đời đồng Euro có từ rất sớm ngay trong hiệp ước Rome thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC-1957) đã được đề cập đến, và nó luôn trở thành chủ đề được lặp đi lặp lại trong các chương trình nghị sự châu Âu được cụ thể hoá qua các báo cáo chính thức như Werner (1970), Delors (1989) những tranh luận về đồng tiền chung châu Âu đã làm khuấy động đời sống kinh tế xã hội nhiều thập kỷ qua. Qua các bước đi hợp lý như sự ra đời của đơn vị tiền tệ ECU, hệ thống tiền tệ châu Âu EMS là các mốc quan trọng trong quá trình ra đời đồng Euro. Tuy nhiên phải đến hội nghị Maastricht (12/1991) mà nội dung chính thức của nó được chính thức hoá. Trong hiệp ước Maastricht (7-2-1992) dự án về đồng tiền chung mới được cụ thể hoá. Hiệp ước đã khẳng định chính thức công chuẩn bị cho sự ra đời đồng tiền chung duy nhất châu Âu trong khuôn khổ xây dựng liên minh tiền tệ châu Âu. Ba giai đoạn và quy định năm tiêu thức hội nhập làm căn cứ xác định các nước có mong muốn và khả năng tham gia EURO. EMU là tiến trình hội nhập các chính sách kinh tế và tiền tệ của các nước thành viên EU là khâu không thể thiếu được trong sự chuẩn bị ra đời đồng tiền chung châu Âu. Cụ thể là tháng 5/1998 châu Âu chuẩn y 11 nước tham gia về khu vực EURO đợt 1 bằng việc phê duyệt quy chế 9/4/98 và đã quy định chính thức ngày vận hành EMU và lưu hành đồng Euro là ngày 1-1-1999. * Quy định tỷ giá chuyển đổi song phương vĩnh viễn giữa các đồng bản tệ của 11 quốc gia thành viên với nhau. * Bầu thống đốc ngân hàng trung ương châu Âu nhận trách nhiệm hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ châu Âu từ 1-6-1998 nhưng chính thức nhận trách nhiệm vào 1-1-1999. * Ngày 31-12-1998 ECB công bố tỷ giá chuyển đổi chính thức, giữa đồng tiền quốc gia sang đồng Euro, tỷ giá này được công bố 1 lần, không bao giờ thay đổi sau khi công bố. * Ngày 1-1-1999, EMU chính thức vận hành và EURO chính thức ra đời và lưu hành với tư cách là 1 đồng tiền thực thụ, chung và duy nhất cho EU-11. Tuy nhiên thời điểm trao đổi đầu tiên chính thức là ngày 4-1-1999 ngày làm việc đầu tiên của năm tài chính. Quá trình ra đời và đi vào lưu thông của đồng Euro có thể chia làm 3 giai đoạn sau Quá trình hình thành đồng euro bao gồm 3 giai đoạn: * Giai đoạn 1: Từ 1 – 1 – 1990 đến 1993: Tháng 6 – 1989 Hội đồng châu âu quyết định rằng giai đoạn thứ nhất của EMU bắt đầu từ ngày 1 – 7 – 1990. Đây là thời điểm các hạn chế đối với sự di chuyển vốn giữa các nước thành viên được xoá bỏ. Các NHNN đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc đảm bảo phối hợp chính sách tiền tệ của các nước thành viên nhằm ổn định giá cả. Sự chuẩn bị cho EMU thật sự bắt đầu: các vấn đề liên quan đến sự ra đời của đồng tiền chung được xác định, đồng thời một chương trình hành động đến cuối năm 1993 được thành lập. Sự kiện quan trọng nhất trong giai đoạn này là hiệp ước Maastricht thể hiện cụ thể ý tưởng thành lập liên minh kinh tế tiền tệ Châu Âu. * Giai đoạn 2: Từ 1994 – 1999 cùng với sự ra đời của Viện tiền tệ Châu âu EMI, giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 1 – 1 – 1994 EMI không có trách nhiệm thực hiện chính sách tiền tệ cũng như can thiệp vào thị trường hối đoái trong liên minh. Hai nhiệm vụ chủ yếu của EMI: - Thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các NHNN trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. - Chuẩn bị cho việc hình thành hệ thống NHTW Châu âu và Liên minh tiền tệ Châu Âu như: xác định tên của các đơn vị tiền tệ, quyết định tỷ giá chuyển đổi, xác định hội đồng quản trị, ban giám đốc của NHTW Châu âu, xây dựng các hệ thống kiểm tra các thủ tục ra đời của đồng euro . * Giai đoạn 3: Từ 1 – 1 – 1999: Liên minh tiền tệ Châu âu bắt đầu đi vào hoạt động cùng với việc thực hiện chính sách tiền tệ chung thống nhất và lưu hành đồng tiền chung trong toàn khối có thể chia làm hai bước: Bước 1: Từ 1 – 1 – 1999 đến 30 – 6 – 2002: đây là giai đoạn quá độ đầu euro đã ra đời và đi vào lưu thông tồn tại song song với các đồng tiền quốc gia, thông qua tỉ giá chuyển đổi được công bố. Lưu thông chủ yếu trong lĩnh vực không dùng tiền mặt. Bước 2: Từ 1 – 1 – 2002 đến 30 – 6 – 2002: đây là quá trình thu đổi các đồng tiền quốc gia sau đó đồng euro chính thức thay thế các đồng tiền quốc gia trong toàn khối. 3. Cơ sở xác định giá trị của đồng euro. Giá trị của đồng tiền trước hết được quyết định bởi thực lực kinh tế của nước phát hành. Giá trị nội bộ của đồng tiền được quyết định bởi tình trạng biến động giá trị sản xuất quốc dân của nước đó, còn giá trị bên ngoài của đồng tiền thì được quyết định bởi tình trạng thu chi quốc tế (cán cân thanh toán) của nước đó. Đồng euro là đồng tiền chung của toàn khối vì vậy giá trị của đồng euro được quyết định bởi thực lực kinh tế của toàn khối và tình trạng cán cân thanh toán của các nước trong khối với các nước ngoài khối quyết định. Trong hiệp ước Maastricht và hiệp ước Amsterdam đã quy định vào ngày trước khi đồng euro đi vào sử dụng 31 – 12 – 1998, giá trị của đồng euro ngang với giá trị của đồng ecu, nghĩa là tỉ giá hối đoái euro\ecu 1.1. Do vậy, giá trị của đồng euro được xác định thông qua giá trị của đồng ecu. Giá trị của đồng ecu do 15 đồng tiền quốc gia của EU bình quân lại sau khi đã tính thêm như công thức: Trong đó: di là giá trị của đồng tiền quốc gia ai là hệ số thêm của đồng tiền quốc gia Hệ số thêm vào dùng để bình quân được xác định theo địa vị ngoại thương và giá trị sản xuất quốc dân nhiều, ít của các nước thành viên. Như vây, đồng euro trước khi ra đời đã có cơ sở xác định rõ ràng, điều này góp phần giúp đồng euro có thể trụ vững trên thi trường quốc tế. 4. Chức năng của đồng euro. - Chức năng là phương tiện trao đổi - Chức năng là phương tiện thanh toán - Chức năng phương tiện cất giữ giá trị - Chức năng tiền tệ quốc tế 5. Hình thái vật chất của đồng euro Đồng euro được thể hiện dưới hai hình thái: Tiền giấy và tiền xu theo những đặc điểm yêu cầu kỹ thuật và hình thức đã được hội đồng Châu Âu họp tháng 12 năm 1995 và Amsterdam tháng 6 năm1997 chính thức phê duyệt như sau: * Về tiền giấy: Có bẩy loại tiền giấy: loại 5 euro màu ghi, loại 10 euro màu đỏ, 20 euro màu xanh lơ, 50 euro màu da cam, loại 100 euro màu xanh lá cây, loại 200 euro màu vàng, 500 uero màu tím. Các tờ giấy bạc euro có hai mặt, một mặt mang biểu tượng quốc gia, mặt kia thể hiện biểu tượng chung của liên minh mang tính chất bắt buộc phải có như: Tên gọi thống nhất là “euro”, chữ ký của thống đốc ECB, và chữ viết tắt của ngân hàng Châu Âu bằng năm thứ tiếng: ECB, BCE, EZB, EKT, EKP. Giấy bạc euro do ngân hàng nhà nước thành viên chịu trách nhiệm in. * Về tiền kim loại: Có tám loại tất cả đều hình tròn, với các kích cỡ khác nhau, độ dày mỏng, nặng nhẹ khác nhau trong đó loại 1,2,5 cent màu đồng , loại 10,20,50 màu vàng, loại 1 và 2 euro có 2 màu: ở giữa màu trắng do ba lớp kim loại tạo lên (đồng kền\/kền/đồng kền ), vành ngoài màu đồng thau. Ngược lại đồng 2 euro ở giữa màu vàng, được tạo bởi ba lớp: Đồng thau/kền/đồng thau, vành ngoài màu trắng làm bằng hợp kim đồng kền. Với số lượng dự tính không ít hơn 13 tỷ tiền giấy và 70 tỷ tiền kim loại sẽ đi vào lưu thông từ ngay 1/1/2002. Công việc in và đúc là cái nặng nề cả về số lượng và các yêu cầu an toàn: Như chống làm giả cũng như mức độ tiện lợi cho việc sử dụng đồng tiền cho mọi đối tượng, kể cả người mù lẫn máy rút tiền tự động. Công việc in và đúc do các ngân hàng trung ương nước thành viên thực hiện. 6. Vị trí quốc tế của đồng euro. Sự ra đời của đồng euro sẽ góp phần cải thiện sự ổn định của hệ thống tiền tệ thế giới, đồng thời là yếu tố cơ bản là nhân tố cơ bản làm thay đổi vị trí kinh tế – tiền tệ – tài chính quốc tế. Đồng euro ra đời sẽ tạo ra một cuộc cạnh tranh quyết liệt với đồng USD và đồng Yên Nhật trên tất cả các lĩnh vực có sự tham gia của tiền tệ. Sự kiện này đã đưa Châu Âu lên một tầm cao mới. Trước hết, việc thống nhất tiền tệ sẽ mang đến Châu Âu một sức mạnh mới , sức mạnh có được từ sự đoàn kết. Thống nhất tiền tệ tổng hợp sức mạnh của cả Châu Âu thành một khối, tạo cho Châu Âu một vị thế mới hùng mạnh hơn trên thị trường quốc tế để tiến vào thế kỷ 21 với sức cạnh tranh ngang ngửa với Mỹ, vượt xa Nhật bản . Thật vậy, nếu GDP của Mỹ và của EMU tương đương nhau đều chiếm 19% GDP toàn cầu, Nhật bản chiếm 8%, đồng ECU trước đây và EURO ngày nay chiếm 26% dự trữ ngoại tệ trên toàn thế giới , chiếm 31% trong giao dịch quốc tế. Để thấy được vị trí quốc tế của đồng uero chúng ta xem xét những tác động chủ yếu của nó đối với nền kinh tế các nước EU cũng như thế thế giới nói chung. 6.1. Đối với các nước trong khối EU. Đồng EURO ra đời gây ra tác động đáng kể cho khối cho khối EU, sự kiện này đưa Châu Âu nên một tầm cao mới. - Trước hết, việc thống nhất tiền tệ sẽ mang đến cho Châu Âu một sức mạnh mới, sức mạnh có được từ đoàn kết, thống nhất tiền tệ tổng hợp sức mạnh và tiền năng của cả Châu Âu vào một khối tạo cho Châu Âu một vị thế mới hùng mạnh hơn. - Hai là, lưu hành đồng tiền chung duy nhất cùng với vận hành liên minh kinh tế tiền tệ đã đưa Châu Âu đến đỉnh cao của sự phát triển xét trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế. Nếu như trước đây, Châu Âu được mệnh danh là Châu lục già cỗi, thiếu sự thống nhất cao trong cạnh tranh quốc tế, thì sự ra đời của Đồng EURO là một trong những yếu tố cơ bản giúp Châu Âu vững vàng trên con đường toàn cầu hoá nền kinh tế và đủ sức đương đầu với cuộc cạnh tranh quyết liệt với các nền kinh tế quốc gia, khu vực khác trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Để thấy rõ hơn ta đi vào xem xét những lợi ích cơ bản do Đồng EURO mang lại cho các quốc gia thành viên. 6.1.1. Thị trường Châu Âu sẽ trở nên thực sự đồng nhất và có hiệu quả hơn. Từ ngày 1/1/1999 trong toàn cõi EURO LAND, giá cả của mọi hàng hoá và dịch vụ sẽ được tính toán và biểu thị bằng một đồng tiền duy nhất đồng EURO, đồng EURO thay thế các đồng bản tệ trong thị trường vốn thị trường chứng khoán Châu Âu. Do vậy, cạnh tranh trên thị trường thương mại, thị trường vốn và thị trường chứng khoán sẽ quyết liệt hơn. Đồng thời do thống nhất giá, phạm vi thị trường cũng được mở rộng hơn. Người tiêu dùng trong khu vực, các nhà đầu tư trong và ngoài khối dễ dàng so sánh hiệu quả đầu tư của các phương án đầu tư giữa các nước trong khu vực EURO vì vậy họ sẽ có những quyết định tiêu dùng ở thị trường nào có lợi nhất cũng như đầu tư ở đâu sẽ có hiệu quả nhất. Không còn bất kỳ ràng buộc địa lý hoặc tiền tệ nào cản trở họ. Do vậy, tổng nhu cầu nội bộ trong khối sẽ tăng, sẽ kích thích sản xuất và đầu tư, đẩy mạnh lưu thông vốn và hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo dự tính, nhờ có EURO, tăng trưởng kinh tế EU tăng thêm từ 0,5 đến 1% năm. Song cũng nhờ có sự tác động của đồng EURO thị trường Châu Âu thống nhất hơn, điều kiện cạnh tranh quyết liệt hơn. Trong điều kiện đó, các công ty EU muốn tồn tại và phát triển sẽ phải cơ cấu lại, trong đó xu hướng sát nhập quy mô lớn sẽ diễn ra mạnh hơn. Đây sẽ là bước khởi đầu cho cuộc cách mạng về năng suất lao động, tiền đề quan trọng cho việc tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường thế giới. 6.1.2. Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối. EURO sẽ làm biến mất các nghiệp vụ giao dịch ngoại hối trực tiếp giữa các đồng tiền nội bộ khối với nhau hoặc các giao dịch gián tiếp qua USD. Đối với các cá nhân, các tổ chức tham gia hoạt động thương mại, đầu tư trong khối EU sẽ tiết kiệm khoản chi phí chuyển đổi giữa các đồng NEU khi họ có hoặc lúc họ cần. Về mặt tài chính khoản chi phí nàylà chênh lệch giữa giá mua ngoại tệ khi họ cần, trừ đi giá bán ngoại tệ khi họ có. Vì các ngân hàng, các tổ chức tài chính thu mua và cung cấp ngoại tệ theo nguyên tắc: M = , B = hay mua dẻ, bán đắt, do vậy các nhà đầu tư, các thương gia phải mua đắt bán dẻ trong các giao dịch hoán đổi ngoại tệ. Ước tính khoản chi phí này trong toàn khối hàng năm nên tới 20 – 25 tỷ EU ( khoảng 0,4% GDP toàn liên minh). Ngoài TK chi phí về mặt tài chính có thể tính được còn có các chi phí khác không kém phần quan trọng như thời gian, chi phí cơ hội... 6.1.3. Giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro. Đối với các nhà đầu tư, các thương nhân hay bất kỳ ai có thu nhập tương lai bằng đồng ngoại tệ luôn luôn tồn tại rủi ro ngoại hối. Để tránh các rủi ro này họ phải tiến hành các hoạt động bảo hiểm rủi ro ngoại hối và thay vào đó phải chịu chi phí bảo hiểm đó. Khi các đồng tiền bản tệ vĩnh viễn rút khỏi lưu thông nhường chỗ cho một đồng tiền duy nhất tại các nước trong khối thì các rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền bản tệcũ theo đó cũng tự động mất đi. 6.1.4. Khuyến khích đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế. Do các nước tham gia EMU phải tôn trọng tiêu chuẩn hội tụ về lãi suất: Lãi suất dài hạn không được cao hơn 2% so với mức bình quân của ba nước có mức lãi suất thấp nhất. Nên lãi suất các nước sau khi tham gia khu vực đồng EURO có xu hướng giảm so với trước. Đồng thời độ chênh lệch lãi suất so với trước giữa các nước cũng đang thu hẹp, từ 500 điểm xuống 200 điểmlà mức cao nhất được phép. Những yếu tố trên sẽ làm tăng tốc độ luân chuyển các luồng vốn trong nội bộ khối và làm tăng lượng vốn đầu tư cho nền kinh tế. Tóm lại từ xem xét các lợi ích đem lại cho các nước thành viên trên. Ta thấy sự ra đời của đồng EURO có tác động lớn đến các thành viên tham gia. Nhờ các lợi ích trên ( thị trường Châu Âu trở lên đồng nhất, cạnh tranh quyết liệt và lành mạnh hơn, tiết kiệm các chi phí giao dịch ngoại hối, giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro ngoại hối, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn, tăng lượng vốn đầu tư, đơn giản hoá việc tính toán các dự án đầu tư so sánh chi phí thu nhập, lời lỗ các dự án đầu tư xây dựng ở các nước cũng như các phương án kinh doanh trong nội bộ khối). Từ đó sẽ thúc đẩy tăng cường hoạt động thương mại, đầu tư trong toàn khối. Cũng như hấp dẫn thu hút các nhà kinh doanh, các nhà đầu tư bên ngoài tham gia vào hoạt động đầu tư, kinh doanh của khu vực đồng tiền chung. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích những tác động tiêu cực các nước thành viên tham gia khu vực đồng EURO cũng phải chịu các chi phí mất mát như đầu tư thiết bị, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, thông tin... và hy sinh quyền tối cao về đồng tiền quốc gia và chính sách tiền tệ quốc gia. Để hạn chế tối thiểu các tác động tiêu cực các quốc gia thành viên cần tích cực tìm các biện pháp khắc phục như dùng các chính sách lương, trợ cấp, tài khoá để thay thế chính sách tiền tệ trước đây... Để đạt được kỳ vọng của Châu Âu vào việc cho ra đời và lưu hành đồng tiền chung duy nhất để tăng cường sự ổn định tiền tệ và ổn định kinh tế vĩ mô. Từ đó khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế cao, hạn chế thất nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới... Để Châu Âu trở nên hùng mạnh tiến bước cùng thế giới trong tương lai với xu thế phát triển hợp tác quốc tế hoá và toàn cầu hoá. 6.2. Đối với nền kinh tế thế giới. Sự ra đời của đồng EURO một đồng tiền thống nhất Châu Âu là một sự kiện có tầm quan trọng trong lịch sử đối với hệ thống tài chính toàn cầu. Sự ra đời của hệ thống tiền tệ Châu Âu 1/1/1999 đã làm thay đổi trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại và tài chính thế giới. Tuy nhiên EURO mới chỉ tồn tại dưới hình thức là đồng tiền của các quốc gia hoạt động thông qua tỷ giá chuyển đổi được quy định và đến ngày 1/1/2002 đồng EURO chính thức là đồng tiền duy nhất lưu hành trên Châu Âu. Điều này sẽ tạo cho nó một sức mạnh trên thị trường tài chính tiền tệ, thương mại thế giới. Sau đây chúng ta xem xét trên một vài lĩnh vực cụ thể. 6.2.1. Trên thị trường tài chính. EURO tham gia vào lưu thông tiền tệ sẽ tác động đến những nước có sử dụng EURO nói riêng và đối với cả thế giới nói chung, trước hết là trên thị trường tài chính. Trong thanh toán quốc tế, đồng tiền này sẽ được sử dụng rộng rãi trong toàn liên minh. Hiện nay giao dịch trong nội bộ liên minh chiếm 60% tổng ngoại thương của toàn bộ các nước thành viên do đó việc sử dụng euro sẽ mang lại lợi ích tức thì qua việc giảm chi phí chuyển đổi cũng như tránh được rủi ro. Việc sử dụng euro cũng sẽ sớm được mở rộng ra ngoài biên giới EU. Các nước trong khu vực đồng franc Châu Phi (CFA) quy định tỉ giá đồng tiền trên cơ sở đồng franc của Pháp sẽ sử dụng đồng euro trước nhất, sau đó sẽ đến các nước Trung và Đông Âu, vì phần lớn các nước này định giá đồng tiền nước mình theo đồng DM. Sau nữa là các nước Địa Trung Hải sẽ sử dụng euro, vì các nước này có quan hệ kinh tế gắn bó với EU, nhất là trong bối cảnh tiến tới khu vực mậu dịch năm 2011. Đồng euro cũng sẽ được sử dụng ở Châu Á vì quan hệ kinh tế giữa EU và Châu lục này đang ngày càng được phát triển . Vai trò của euro trong dự trữ cũn rất quan trọng. Theo khảo sát của IMF, cho tới hết năm 1996 tổng dự trữ của toàn thế giới vào khoảng 1600 tỷ USD trong đó 58,6% là bằng USD, 25,8% bằng ECU, 7,1% bằng JPY. Dự trữ của EU chiếm 30% tổng dự trữ thế giới cao cấp gấp 6 lần của Mỹ và 2 lần Nhật Bản. Khối lượng tiền này hiện đang là đồng tiền của các nước thành viên EU và sẽ được chuyển sang đồng euro. EU cũng sẽ tăng dự trữ bằng đồng euro để can thiệp trên thị trường ngoại hối. Ngoài EU, nhiều nước khác cũng sẽ chuyển một phần dự trữ ngoại tệ của mình từ USD sang euro để bớt lệ thuộc vào đồng USD. Sự ra đời của euro còn làm đa dạng hoá các thị trường chứng khoán. Tỷ lệ chứng khoán tư nhân được phát hành bằng các đồng tiền Châu Âu năm 1981 là 13 đã tăng lên 37%. Các đồng tiền Châu Âu trong trái phiếu quốc tế đã tăng lên gấp đôi và hiện nay đạt tới 37%. Ngay sau khi đồng euro ra đời các nước trong liên minh tiền tệ Châu Âu sẽ phát hành trái phiếu nợ nhà nước bằng đồng euro, nhiều nước thành viên EMU trong đó có Pháp đã có ý định chuyển đổi toàn bộ số nợ nhà nước sang đồng euro ngay từ 1/1/1999. Đến năm 2002, toàn bộ số nợ nhà nước của các nước thành viên EMU sẽ được chuyển sang euro. Kết quả là ở Châu Âu sẽ hình thành một tổ chức phát hành và kinh doanh chứng khoán khổng lồ. Trên thực tế, ngay sau khi đồng euro ra đời, nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới đã tiến hành buôn bán bắng euro, và có lẽ thị trường hối phiếu sử dụng euro sẽ là thị trường lớn nhất thế giới. 6.2.2. Tác động của euro đến hệ thống tiền tệ quốc tế. Với tiềm lực kinh tế mà nó đại diện, đồng euro có thể trở thành một đồng tiền mạnh, ngang với đồng tiền USD. Điều này sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các nước EU 11 như đồng USD đã mang lại cho Mỹ những lợi ích từ trước tới nay. Hiệp định Bretton Woods (1944) đã quy định hệ thống tỉ giá cố định dựa trên cơ sở việc chuyển đổi USD ra vàng theo giá 35USD/1 ouce vàng, Mỹ trở thành quốc gia của đồng tiền dự trữ. Trong những năm 1960, ở hầu hết các nước thâm hụt và thặng dư tài khoản vãng lai được cân đối thông việc điều chuyển dự trữ (dự trữ ngoại tệ ra vàng). Trong khi đó, Mỹ sử dụng USD, do đó các nguồn tiền này trở thành khoản dự trữ của các quốc gia khác. Năm 1971, hệ thống Bretton Woods sụp đổ, song việc sử dụng đồng USD trong các hoạt động kinh tế thế giới đã trở thành thông dụng. Hơn thế, nền kinh tế Mỹ vẫn luôn phát triển và luôn có ảnh hưởng lớn tới nền kinh tế thế giới do đó đồng đô - la Mỹ ngày càng trở nên mạnh và thông dụng. Sự ra đời của đồng euro sẽ thúc đẩy hệ thống tiền tệ quốc tế phát triển theo hướng đa cực, trong đó các phương thức hợp tác giữa các cực tiền tệ quan trọng là yếu tố bảo đảm cho sự ổn định toàn câu. Euro ra đời sẽ làm cho vai trò độc tôn của USD giảm đi đáng kể. Thế giới sẽ bớt lệ thuộc hơn vào đồng USD, rủi ro về biến động tỷ giá sẽ được phân tán, hệ thống tiền tệ thế giới do vậy sẽ có cơ sở ổn định hơn. Đến cuối năm 1995, có 56,4% dự trữ ngoại tệ quốc tế USD, 25,8% bằng ECU và 7,1% bằng JPY. Tỷ trọng sử dụng USD, ECU, JPY trong tổng các giao dịch trên thị trường ngoại hối thế giới tháng 4 năm 1995 tương ứng 41,5%, 35% và 12%; trong tổng kim ngạch buôn bán quốc tế năm 1992 là 48%, 31% và 5%. Euro ra đời còn được coi như một nhân tố mới góp phần chuyển dịch sự cân bằng của hệ thống tiền tệ toàn cầu hướng về một thế giới tiền tệ 3 cực euro, đô - la và yên Nhật. Sự thống trị riêng “hoàng đế USD” trong thế giới tiền tệ sẽ sớm chấm dứt. Euro đã ra đời, yên Nhật đã được kích hoạt và sẽ trở nên tích cực hơn. Ba đồng tiền này sẽ cùng vươn tới hoàn thiện chức năng tiền tệ quốc tế của mình và nhờ đó, thế giới sẽ cùng hưởng lợi. Không ai có thể dự báo một cách chính xác mức độ sử dụng euro trên các thị trường. Nhưng euro có đủ điều kiện để trở thành đồng tiền có độ tin cậy cao, có cơ sở của những chính sách kinh tế lành mạnh, đảm bảo sự tồn tại lâu bền của Công ước ổn định và tăng trưởng, nhất là euro lại được quản lý bởi NHTW Châu Âu độc lập chỉ có một mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả và nắm bắt giữ một số lượng dự trữ khổng lồ. Vào ngày 1/1/1999, theo công bố của NHTW Châu Âu, tổng dự trữ mà nó và hệ thống các NHTW các nước thành viên EMU nắm giữ, có toàn quyền sử dụng hoặc can thiệp khi cần thiết để thực hiện mục tiêu được giao đã lên tới 327 tỷ euro, trong khi đó có gần 100 tỷ euro bằng vàng. Một đồng tiền như vậy sẽ nhanh chóng chiếm được lòng t in của thị trường, của t hế giới và nhất định sẽ được c ộng đồng quốc tế, nhất là các thương gia sử dụng rộng rãi. Khi đó, euro sẽ góp phần lập lại cân bằng cho hệ thống tiền tệ quốc tế vốn đang bị mất cân đối nghiêm trọng do sự lệ thuộc quá mức vào USD. Đương nhiêm, đồng euro ra đời không với mục đích “Lật đổ” ngai vàng của đồng đô la Mỹ, nhưng hy vọng cùng với sự xuất hiện của nhất tốt tích cực này, thế giới sẽ tránh được “vấn đề đô la” theo cách nói giàu hình tượng của cựu Bộ trưởng ngân khố Mỹ, james Connlly “đô la là đồng tiền của chúng tôi nhưng vấn đề thuộc về các bạn 6.2.3. Tác động tới dự quốc tế. Trong nhiều năm đồng USD, luôn là đồng tiền chính mà các quốc gia trên thế giới sử dụng để làm dự trữ ngoại tệ tính bằng USD, Đồng DM chiếm 12,8% và Flance Pháp chiếm 1,2% trong khi đồng yên Nhật chiếm 4,9%. Thật khó có thể dự đoán chính xác các nước sẽ chuyển sang dự trữ quốc gia bằng đồng euro như thế nào? Phải mất thời gian bao lâu để chuyển đổi? các nước duy trì cơ chế tỷ giá hối đoái gắn chặt với đồng USD hoặc số tiền tệ trong đó USD là chủ đạo, sự dịch chuyển này sẽ không diễn ra trên một diện rộng, các nước có quan hệ mật thiết với Mỹ vẫn gắn với đồng USD tuy nhiên các nước này sẽ dần dần đa dạng hoá quan hệ dự trữ ngoại tệ để tránh sự lệ thuộc lớn vào đồng đô la Mỹ. Mức độ chuyển dịch dự trữ sang đồng euro của mỗi nước là khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ kinh tế của họ với EU ngoài ra còn phụ thuộc vào khả năng kinh tế của EU và biến đồng tiền của đồng euro trên thực tệ. Cơ chế khẳng định rằng, nếu diễn ra sự dịch chuyển dự trữ ngoại tệ USD sang euro thì quá trình này cũng chỉ diễn ra từ từ mà thôi, ngân hàng Nhà nước sẽ tránh bán số lượng lớn USD để mua euro trong một thời gian ngắn vì nó sẽ làm giảm giá trị của khoản dự trữ bằng USD còn lại do USD giảm giá và gày các xáo trộn lớn. Dự trữ ngoại tệ bằng đồng euro có tăng lên? một nguyên tắc cơ bản là một đồng tiền muốn có vai trò quan trọng trong dự trữ ngoại tệ thì quốc gia phát hành nó phải trong tình trạng thiếu hụt tài khoản vãng lai. Nói cách khác, nếu các khoản dự trữ bằng đồng tiền tăng lên thì khả năng cung cấp ngoại tệ đó cũng tăng lên. Mỹ đã đảm bảo tuân thủ nguyên tắc này trong nhiều năm qua với những khoản thâm hụt tài khoản vãng lai. * Đối với Việt Nam. Việt Nam là quốc gia có quan hệ kinh tế với các nước EU và Châu Âu từ lâu đời, Châu Âu là thị trường truyền thống của nhiều mặt hàng xuất khẩu Việt Nam như may mặc, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra còn có các quan hệ vay nợ, Viện trợ... Việt Nam là nước được EU đi vào hoạt động sẽ có nhiều ảnh hưởng đối với quan hệ Việt Nam euro. Lời mở đầu 1 1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài 1 2. Phương pháp nghiên cứu và tóm tắt nội dung chuyên đề. 2 Chương I: Tổng quan về liên minh tiền tệ châu Âu và đồng EURO 3 I. Liên kết kinh tế quốc tế 3 II. Liên minh tiền tệ châu Âu 4 1. Tổng quan về liên minh châu Âu (EU) 4 2. Liên minh tiền tệ châu Âu EMU 2.1 Quá trình hình thành của EMU 6 2.2. Các tiêu thức gia nhập khu vực đồng Euro 9 2.3. Chính sách tiền tệ của liên minh châu Âu 10 2.3.1. Giới thiệu khái quát về NHTWCA (ECB) 10 2.3.2. Vị trí của ECB và mục tiêu, cơ chế, công cụ 10 III. Đồng tiền chung châu Âu (đồng EURO) 11 1. Cơ sở ra đời của đồng Euro 11 1.1. Cơ sở pháp lý 12 1.2. Cơ sở khoa học kỹ thuật cho việc lưu hành đồng Euro. 12 1.2.1. Các quy định cơ bản 12 1.2.2. Cơ chế tỷ giá mới (EMR II) 13 1.2.2. Cơ sở khoa học cho sự ra đời của đồng Euro 15 2. Quá trình ra đời đồng Euro 15 3. Cơ sở xác định giá trị của đồng euro. 18 4. Chức năng của đồng euro. 18 5. Hình thái vật chất của đồng euro 18 6. Vị trí quốc tế của đồng euro. 19 6.1. Đối với các nước trong khối EU. 20 6.1.1. Thị trường Châu Âu sẽ trở nên thực sự đồng nhất và có hiệu quả hơn. 20 6.1.2. Tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch ngoại hối. 21 6.1.3. Giảm rủi ro và chi phí bảo hiểm rủi ro. 21 6.1.4. Khuyến khích đầu tư kích thích tăng trưởng kinh tế. 22 6.2. Đối với nền kinh tế thế giới. 23 6.2.1. Trên thị trường tài chính. 23 6.2.2. Tác động của euro đến hệ thống tiền tệ quốc tế. 24 6.2.3. Tác động tới dự quốc tế. 26

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV559.doc
Tài liệu liên quan