Nghiệp vụ bảo hiểm hàng không đã đóng góp vào việc ổn định nền kinh tế thông qua việc khắc phục hậu quả của tổn thất thiên tai và nhâ tai gây ra đối với đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm. Nền kinh tế có những chuyển biến sâu sắc đã mở ra nhiều ngành nghề kinh doanh mới và ngày nay càng thu hút nhiều sự chú ý của các nhà đầu tư. Đối với các doanh nghiệp, việc tham gia bảo hiểm chung và bảo hiểm hàng không nói riêng coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Vì vậy bảo hiểm là một loại hình kinh doanh đầy hứa hẹn với những tiềm năng to lớn cần được chú ý khai thác. Chắc chắn trong tương lai, bảo hiểm hàng không và bảo hiểm còn phát triển rất mạnh.
TRong 5 năm hoạt động vừa qua, tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không của VINARE đã đạt được những kết quả hết sức khả quan.
Bên cạnh việc kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm công ty còn đóng vai trò rất quan trọng đối với ngành bảo hiểm Việt Nam như: điều tiết việc tái bảo hiểm trên thị trường tham mưu tư vấn về kỹ thuật cho các công ty bảo hiểm gốc, cung cấp thông tin về thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế. Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ bảo hiểm. Giúp các nhà hoạch định chính sách trong quản lý ngành bảo hiểm.
Với phạm vi bài viết, được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ trong công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam và các thầy cô giáo trong khoa quản trị trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân song đây mới chỉ là suy nghĩ của sinh viên bước đầu làm quen với thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên không tránh khỏi sai sót.
Tôi mong muốn hiểu biết sâu hơn nữa về tái bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm hàng không.
95 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động nhận tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ở công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam- VINARE, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SD
Giá trị 1.000USD
Tỷ trọng %
Giá trị 1.000USD
Tỷ trọng %
1995
1996
1997
1998
1999
3.737, 79
4.409, 03
4.636, 12
4.014, 56
5.115, 4
90, 82
91, 96
92, 70
93, 76
94, 15
377, 72
385, 72
365, 27
267, 10
317, 86
9, 18
8, 04
7, 3
6, 24
5, 85
4.115, 51
4.794, 75
5.001, 39
4.277, 66
5.433, 26
-
16, 5
4, 3
-16, 9
27
4.157, 08
4.848, 08
5.067, 26
4.338, 40
5.516, 00
99, 0
98, 9
98, 7
98, 6
98, 5
Tổng
21.908, 9
1.731, 67
23.622, 57
23.926, 8
TB
92, 75
7, 25
7, 73
Nguồn VINARE, phòng tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không
Từ bảng trên ta có một số nhận xét sau:
Tổng phí chuyển nhượng tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không biến đổi qua các năm, mức độ tăng bình quân trong các năm vừa qua là 9%. Đây là con số khá cao vì các lý do sau :
- Nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển sôi động, ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng không nói riêng cũng không ngừng phát triển để đáp ứng nhu cầu kinh tế.
- Khả năng tài chính của VINARE tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn hạn chế.
- Khả năng tài chính của các công ty bảo hiểm nội địa cũng rất hạn chế do vậy khi giữ lại phù hợp phù hợp với khả năng tài chính của mình và ưu tiên chuyển nhượng tận dụng tối đa khả năng của thị trường nội địa thì VINARE đã phải nhờ đến khả năng tài chính của các nhà bảo hiểm và tái bảo nước ngoài.
Như bảng trên tỷ trọng phí tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không chuyển nhượng ra nước ngoài trong tổng số phí tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không thì thấy có xu hướng đang giảm dần nếu như năm 1995 tỷ trọng là 99% thì sang năm 1999 con số này chỉ còn 98,5%. Đây là dấu hiệu đáng mừng của thị trường bảo hiểm Việt Nam vì ở đây đã thể hiện được khả năng taì chính của các công ty bảo hiểm gốc được cải thiện và các công ty này đã ý thức được tầm quan trọng của việc nhận nhượng tái bảo hiểm cho VINARE, nên xét về số tương đối thì VINARE đã ít phải chuyển nhượng tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ra nước ngoài hơn.
Trong cơ cấu tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không chuyển nhượng ra nước ngoài có thể thấy số lượng chuyển nhượng theo hợp đồng cố định luôn chiếm tỷ trọng cao, trung bìng từ 92,75%. Điều này thể hiện sự thành công của VINARE trong việc thu xếp các hợp đồng cố định. Công ty đã thu xếp được các hợp đồng rất hợp lý, phù hợp với các điều kiện kinh doanh thực tế, do đó đã giảm đáng kể số lượng dịch vụ phải thu xếp theo hợp đồng bảo hiểm tạm thời, tức kiệm được chi phí và luôn có sự nhượng tái bảo hiểm
III. kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không ở VINARE
tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không luôn giữ vị trí quan trọng trong hoạt động của công ty. Sở dĩ có thể khẳng định được như vậy là trong cơ cấu doanh thu phí tái bảo hiểm hàng năm của VINARE thì doanh thu của nghiệp vụ này luôn chiếm gần 30% để nhận định rõ rõ ràng ta xem xét đồ thị sau :
ở đồ thị thấy rằng nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không phát triển khá đều và ổn địng trong khi đó một sơ đồ nghiệp vụ biến động khá mạnh như hàng hoá xuất nhập khẩu, dầu khí. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng không cũng như các năm trước luôn đứng vị trí thứ nhất.
Để xem xét kỹ hơn về kết quả kinh doanh của nghiệp vụ tái bảo hiểm chúng ta cần theo dõi tình hình thu, chi qua các năm 1995-1999 .
Bảng CII.7 Thu, chi nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ở VINARE năm 1995-1996
Đơn vị 1.000 USD
Năm
Chỉ tiêu
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng doanh thu
4.789,52
7.371,16
19.852,89
11.212,38
6.946,78
1.Doanh thu phí nhận TBH
2.Hoa hồng nhượng TBH
3.Thubồi thường nhượng TBH
4.Thu lãi đầu tư
4.193
497,2
88,55
19,77
4.902
603,75
1.844,21
21,20
5.134
655,78
14.040,87
22,24
4.400
15.425
42.215
3.000
5.600
740,94
581,34
24,5
Tổng chi phí
4.778,52
7.241,16
19.733,03
11.112,38
6.666,78
1.Chi nhượng tái bảo hiểm
4.157,07
4.848,08
5067,26
4.338,4
5.516,0
2. Chi hoa hồng nhận tái BH
335,44
392,61
410,72
352,0
488,0
3. Chi bồi thường
89,31
1.864,72
14.225,8
6.308,28
590,24
4. Chi nộp ngân sách
20
21
15
16
10
5. Chi quản lý
76,7
14,75
14,25
15
25
6. Chi bổ sung quỹ dự phòng N/Vụ
100
100
11,86
60
57,54
Chênh lệch
210
130
100
100
280
Nguồn : VINARE, Báo cáo tổng hợp cuối năm 1995-1999
Tổng doanh thu nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không tăng rất nhanh, nếu năm 1995 tổng doanh thu nghiệp vụ này mới đạt 4.789.520 USD thì đến năm 1999 con số này đã là 6.946.780 USD. Nhưng năm 1998 con số này lại giảm đi so với năm 1997. Trong tổng doanh thu khoản thu phí nhận tái bảo hiểm hàng không là quan trọng nhất, khoản thu này tăng các năm 1995, 1996,1997, 1999, nhưng năm 1998 lại giảm so với năm 1997. Năm 1995 doanh thu phí nhận tái bảo hiểm mới chỉ đạt 4.193.000USD đến năm 1999 doanh thu phí nhận tái bảo hiểm đã tăng lên 5.600.000 USD. ở đây ta thấy rằng nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ngày có triển vọng nhiều.
Khoản thu hoa hồng nhượng tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không luôn đạt ở mức cao. Đồng thời khoản thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm hàng không là: Năm 1995 thu bồi thường nhượng là 88.550USD thì năm 1999 con số này lên đến 581.340 USD Khoản thu bồi thường nhượngtái bảo hiểm cho sự trưởng thành dần của VINARE trong việc thu xếp chuyển nhượng tái bảo hiểm hàng không đã đạt hiệu quả hơn đồng thời các nhà nhận tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không đã thực sự phân tán bớt rủi ro cho VINARE.
Bên cạnh các khoản thu ta thấy tổng chi tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không cũng không ngừng tăng. Trong các khoản chi kinh doanh tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không chỉ có năm khoản chi đầu là chi thực sự còn khoản chi bổ sung dự phòng nghiệp vụ thực chất là bổ sung quỹ dự trữ tăng vốn của công ty.ở năm 1995 khoản chi này chính là khoản chích lập dự phòng nghiệp vụ, còn các năm tiếp theo thì nó được bổ sung thêm cho tương ứng với phí bảo hiểm giữ lại của công ty.
Tuy các khoản thu và chi của nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không có nhiều biến động nhưng chênh lệch thu- chi như ở bảng trên đã thể hiện tình hình kinh doanh taí bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không luôn đạt hiệu quả cao và hoàn thành kế hoạch đề ra.
Do hạn chế về thông tin cũng như kiến thức thực tế nên việc phân tích hoạt động thu xếp tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ở VINARE mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp. Song tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không là rất có triển vọng, hiện tại cũng như tương lai, sẽ luôn là nghiệp vụ mũi nhọn, quan trọng hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của công ty.
IV. Những tồn tại và nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong quá trình hoạt động tái bảo hiểm hàng không.
Bên cạnh những kết quả đạt được đáng khích lệ, thì nghiệp vụ bảo hiểm cũng như tái bảo hiểm vẫn còn một số tồn tại và nguyên nhân sau:
+ Về bản chất, VINARE vừa là cơ quan quản lý của nhà nước nhưng cũng đồng thời là một cơ quan kinh doanh. Hoạt động kinh doanh chủ yếu của nó là nhận tái bảo hiểm từ các công ty Bảo Hiểm gốc trong nước rồi tiến hành tái chuyển nhượng ra nước ngoài sau khi giữa lại một phần phí phí tái bảo hiểm cho mình. Nên doanh thu phí tái bảo hiểm phụ thuộc nhiều vào các công ty gốc. Trong nhiều thường hợp do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm, các cán bộ Bảo hiểm gốc đã cấp đơn cho những rủi ro mà khả năng tổn thất cao, điều kiện về hạn chế tổn thất lạc hậu. .. không đáp ứng được nhu cầu tối thiếu làm cho VINARE gặp nhiều khó khăn trong việc nhận và thu xếp tái chuyển nhượng.
+ Mặt khác sự tham gia của nhiều văn phòng đại diện, môi giới bảo hiểm nước ngoài vào thị trường bảo hiểm Việt Nam một mặt sự cạnh tranh cho sự phát triển của các công ty bảo hiểm trong nước nhưng một mặt nó cũng gây khó khăn cho công ty bảo hiểm gốc với khả năng tài chính có hạn, kinh nghiệm còn ít. ..trong việc tranh giành các dịch vụ. Nhiều dịch vụ lẽ ra phải tham gia bảo hiểm ở trong nước thì lại không tham gia bảo hiểm hoặc tham gia ở thị trường nước ngoài. Chính vì lẽ đó ảnh hưởng đến phí tái bảo hiểm trong nghiệp vụ.
+ Hiện nay, công ty hoạt động mạnh chủ yếu là dựa trên qui định tái bảo hiểm bắt buộc của bộ tài chính. Các doanh nghiệp phải tái cho VINARE 20% tất cả các đơn vị rủi ro muốn tái bảo hiểm của mình theo hợp đồng số thành. Đồng thời thông tư còn quy định rõ tỷ lệ hoa hồng cho mỗi nghiệp vụ tái bảo hiểm. Đây là một thế mạnh nhưng nó cũng làm giảm tính linh hoạt trong hoạt trong cạnh tranh của VINARE. Các công ty gốc hầu như chỉ tái cho VINARE phần tái bảo hiểm bắt buộc còn lại chuyển ra nước ngoài nhằm thu được thủ tục phí cao hơn. Mặc dù quy định về tái bảo hiểm bắt buộc được sửa đổi nhưng vẫn không theo kịp những thay đổi cuả thị trường. Nguyên nhân là các nhà làm luật chưa thật sự đi sâu và nắm bắt hoạt động thực tiễn của thị trường. Trong khi đó VINARE là người trực thực thi quy định tái bảo hiểm bắt buộc thì chỉ được tham gia sửa đổi và giám sát một cách gián tiếp.
+ Các dịch vụ tái bảo hiểm qua VINARE hầu hết đều có số tiền bảo hiểm rất lớn mà các công ty gốc không có khả năng dữ lại. Ta biết rằng VINARE gần như chỉ là một trung gian tái bảo hiểm vì tỷ lệ giữ lại cho công ty rất nhỏ, sau bốn năm hoạt động, vốn kinh doanh và các khoản dự trữ dự phòng đã tăng đáng kể tuy nhiên vẫn chưa đủ để công ty tăng hơn nữa số phí dữ lại.
+ Vai trò và chức năng của VINARE trên thị trường Bảo Hiểm Việt Nam là rất quan trọng. Tuy nhiên cơ sở vật chất và trang thiết bị của công ty chưa đảm bảo được nhu cầu. Văn phòng của công ty phải thuê của công ty VACO. Điều kiện làm việc và học hành. . . rất khó khăn. Bên cạnh đó hệ thống máy tính của công ty hầu hết đã lạc hậu, chất lượng chưa cao và chưa được kết nối với nhau nên hiệu quả sử dụng máy vi tính còn hạn chế. Điều đó gây cản trở trong giao dịch, quản lý cơ sở dữ liệu của công ty.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo hiểm
tái bảo hiểm hàng không
I. Dự báo phát triển ngành HKDDVN trong tương lai tới
Theo hiệp hội Hàng không Quốc tế (ICAO) dự báo đến năm 2010 , số lượng vận tải hàng khách bằng máy bay của các công ty Hàng không Châu á trên toàn cầu tới 398 triệu lượt người hàng năm chiếm một nửa khách toàn cầu. Năm 2000, 40% giao thông bằng máy bay của thế giới sẽ diễn ra ở Châu á và trong hai thập niên đó tỷ lệ tăng trưởng mỗi năm là 10% ngành vận tải đường Hàng không thế giới sẽ đạt lợi nhuận 850 tỷ USD và tạo ra 15 triệu việc làm .
Với chính sách mở cửa và đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước ta , với mục tiêu chiến lược là nhanh chóng hiện đại hoá ngành HKDD hướng ưu tiên đầu tư nâng cấp năng lực vận tải và các dịch vụ đồng bộ, sân bay và quản lý nhằm góp phần phục vụ đắc lực chính sách phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng hợp quốc tế cho đất nước. Dự báo hết năm 2000, nhịp độ tăng về nhu cầu vận chuyển hành khách sẽ tăng mạnh và đạt mức trên 30%, sau đó chỉ số giảm dần, ổn định khoảng 12% đến 15% trong thời kỳ 2001- 2005. Về vận tải hàng hoá sẽ đạt mức tăng hàng năm khoảng 20% (2000) và 15%( 2001-2005). Nhu cầu vận chuyển hành khách năm 2005 phấn đấu chiếm khoảng từ 40% đến 45% tổng số hành khách vận chuyển khách.
Bảng CIII.1: Dự báo lưu lượng hành khách, hàng hoá vận chuyển 2000-2010.
Số lượng
Đơn vị tính
2000
2005
2010
Hành khách
+ Nội địa
+ Quốc tế
Nghìn
người
2.600.000
1.600.000
1.000.000
4.400.000
2.500.000
1.900.00
6.500.000
3.500.000
3.000.000
Hàng hoá
+ Nội địa
+ Quốc tế
Tấn
42.000
21.000
21.000
4.400.000
2.500.000
1.900.000
98.000
40.000
58.000
Tổng thu
+Hành khách
+ Hàng hoá
1.000 USD
323.000
289.000
34.000
588.000
530.000
58.000
986.000
900.000
86.000
Nguồn HKDDVN
Xây dựng và phát triển hãng Hàng không trong nước trở thành hãng Hàng không hiện đại, có quy mô và chất lượng dịch vụ đấp ứng các tiêu chuẩn trong nước và quốc tế , có lực lượng máy bay hiện đại có đủ khả năng cạnh tranh với tỷ lệ máy bay sở hữu trên 70%.
Tập trung nâng cấp ba sân bay quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng. Nghiên cứu phát triển sân bay quốc tế mới tại Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng và phát triển các sân bay quốc tế thành những tụ điểm tập trung chuyến Hàng không khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Nâng cấp và phát triển các sân bay địa phương khác để hầu hết các tỉnh và thành phố lớn có sân bay lớn nối với các tụ điểm kinh tế, đáp ứng du lịch, thương mại trong nước và quốc tế .
+ Về cơ sở hạ tầng trong việc điều hành và quản lý bay: Hiện đại hoá thiết bị và tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ khai thác và bảo trì, đảm bảo cho cơ sở hạ tầng quản lý chuyến bay của ta đạt tiêu chuẩn quốc tế về cả trang bị và khai thác thương lượng để tiến tới kiểm soát theo phân định quốc tế
+ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật Hàng không để đến năm 2010 đủ khả năng bảo dưỡng sửa chữa các máy bay hiện đại và làm cơ sở để phát triển công nghiệp hàng không.
Sự phát triển mới của ngành còn tạo điều kiện để đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ nền kinh tế quốc dân theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đáp ứng các yêu cầu chính trị - xã hội, an ninh quốc phòng. Để thực hiện được phát triển đó phải đặc biệt chú trọng huy động các nguồn vốn Nhà nước, vốn trong dân và vốn đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ máy bay, nâng cấp phát triển cơ sở dịch vụ hàng không, đào tạo nhân lực là một trong những vấn đề then chốt của chiến lược phát triển ngành.
Nhu cầu vốn đầu tư cho HKDDVN trong các lĩnh vực máy bay, trang thiết bị mặt đất, nhà chứa và bảo dưỡng máy bay, đầu tư khác ... giai đoạn 2001-2005 là trên 2 tỷ USD.
Căn cứ vào nhu cầu về vốn từ các nguồn khác phù hợp với các nguyên tắc chung trong chiến lược tạo vốn, giải pháp chủ yếu trong việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển trong giai đoạn là: Bên cạnh việc tăng cường khả năng tự tích luỹ một cách hợp lý thông qua sản xuất - kinh doanh có lãi và chú trọng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, cần triệt để các hình thức vay vốn với điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời điểm bắt đầu hoàn trả vốn và thời hạn vay vốn từ các nguồn tín dụng xuất khẩu, các hình thức viện trợ ... cần gắn việc mua máy bay với việc đòi hỏi ưu đãi về vay vốn về đào tạo huấn luyện và xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ.
II. Một số giải pháp và hiến nghị kiến nghị
Từ một số khó khăn cơ bản mà VINARE đã và đang phải đương đầu, đồng thời với xu hướng phát triển của HKDDVN, với tư cách là một sinh viện thực tập tôi xin trình bày một số giải pháp và kiến nghị sau:
1. Giải pháp đối với VINARE
Một là: Hoạt động kinh doanh của VINARE chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan từ các công ty Bảo Hiểm gốc. Nên VINARE cần tăng cường ảnh hưởng tác động trở lại và điều chỉnh hoạt động của các công ty gốc. Trên thực tế công ty VINARE trong thời gian qua đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, khoá học... cho các công ty gốc, nhằm nâng cao trình độ và kinh nghiệm của các cán bộ bảo hiểm, đẩm bảo chất lượng các đơn bảo hiểm gốc để tạ thuận lợi trong hợp tác và giao dịch tái bảo hiểm. Trong tương lai VINARE cần tập trung hơn nữa cho các công ty này chủ động tiến hành đào tạo chứ không chỉ thực hiện theo yêu cầu của các công ty gốc hay nhà tái bảo hiểm nước ngoài.
Trong khi thực hiện nghiệp vụ, cán bộ của VINARE cần đi sâu, nắm chắc, đầy đủ kịp thời các thông tin có liên quan đến công ty gốc. Từ đó VINARE có thể tham gia, tư vấn cho cán bộ bảo hiểm gốc.
Hiện nay trên thị trường các công ty đang cạnh tranh ác liệt với việc tham gia của các công ty 100% vốn nước ngoài và liên doanh, do đó để tăng thêm sức mạnh của mình trên thị trường VINARE cần cố gắng tham gia vào mọi hoạt động liên doanh Bảo Hiểm. Nguồn vốn huy động cho việc liên doanh không chỉ huy động từ phía công ty màcần huy động từ môĩ cán bộ của công ty thông qua việc bán lại khẩu phần liên doanh. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc khẳngđịnh vị trí của mình trên thị trường đang cạnh tranh ác liệt.
Hai là: Thực chất hoạt động của tái bảo hiểm cũng là hoạt động kinh doanh, nên VINARE cần có kiến nghị với Bộ Tài chính thay đổi một số quy định, tạo khả năng chủ động và linh hoạt trong cạnh tranh. Để VINARE sẽ thu hút được nhiều phí tái bảo hiểm tự nguyện của công ty Bảo Hiểm trong nước. Bởi vì với xuthế tự do hoá thì quy định tái bảo hiểm bắt buộc sẽ giảm xuống và được bãi bỏ trong tương lai. Để chuẩn bị cho sự thay đổi này VINARE cần phải nâng cao được phần tái bảo hiểm tự nguyện bằng các biện pháp sau:
+ Chủ động đưa ra tỷ lệ như thủ tục phí có sức cạnh tranh .
+ Thực hiện thêm một số dịch vụ kèm theo như: Tư vấn , giúp đỡ về kỹ thuật, tài chính cho công ty Bảo Hiểm gốc, là cầu nối giữa thị trường trong nước và quốc tế .
+ Sử dụng áp lực hành chính từ hoạt động liên doanh liên kết .
+ Giám sát thị trường bảo hiểm trong nước nhằm đưa ra những nhận định chính xác, hỗ trợ các nhà quản lý vĩ mô điều tiết thị trường một cách có hiệu quả.
Ba là: VINARE cùng với các công ty gốc cùng nhau giải quyết mọi khó khăn, tạo điều kiện cho thị trường Bảo Hiểm phát triển ổn định như:
+ VINARE cần kết hợp chặt chẽ với công ty gốc thực hiện việc tuyên truyền các hình thức bảo hiểm rộng rãi trong nhân dân để người dân quen dần với bảo hiểm và lựa chọn được loại hình phù hợp .
+ VINARE cần nắm bắt các thông tin cần thiết về bảo hiểm trong và ngoài nước, nhằm tư vấn cho công ty bảo hiểm gốc đặc biệt những dịch vụ có giá trị lớn, khó xác định rủi ro để giúp cho công ty bảo hiểm đánh giá chính xác rủi ro bảo hiểm từ đó xác định phí bảo hiểm một cách hợp lý tránh tình trạng cạnh tranh giảm phí, bảo đảm độ an toàn cho rủi ro được bảo hiểm, tạo độ tin cậy cho khách hàng, nhằm thu hút nhiều dịch vụ trong nước cũng như nước cũng như nước ngoài .
Bốn là: Công ty sớm triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm nhân thọ, bởi đây là một nghiệp vụ có doanh thu phí bảo hiểm rất cao. Trên thế giới hiện nay, tái bảo hiểm nhân thọ ngày có ưu thế hơn các nghiệp vụ tái bảo hiểm phi nhân thọ.
Năm là: Trong những năm qua hệ thống máy tính của công ty đã có nhiều trục trặc, nhiều máy tính đã hết khấu hao cần phải thanh lý. Do đó cần phải trang bị hệ thống máy tính phù hợp, hiện đại để đáp ứng được yêu cầu về thông tin trong kinh doanh tái bảo hiểm, như các máy tính phải nối mạng với nhau và các nhà nhận tái bảo hiểm và bảo hiểm ở nước ngoài để cập nhật thông tin nhanh nhất hiệu quả nhất. Bởi vì thông tin là một yếu tố quyết định sự thành công của các công ty trong nền kinh tế thị trường bùng nổ thông tin.
Sáu là: Bí quyết để kinh doanh trên thị trường là phải khuyếch trương được tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình. Nên VINARE sớm có một trụ sở hoạt động giao dịch riêng là cần thiết. Bởi vì tái bảo hiểm mang tính dịch vụ nên chỉ có khuyếch trương tài sản cố định thông qua trụ sở của công ty. Khi bước vào một trụ sở lớn của công ty khách hàng sẽ cảm thấy yên tâm hơn khi thực hiện tái bảo hiểm cho công ty, họ sẽ cảm giác công ty có khả năng tài chính rất vững mạnh, chính điều này đã khuyếch trương được tài sản vô hình của công ty. Đặc biệt trong việc giao dịch với cá công ty nước ngoài thì đây là vấn đề vô cùng quan trọng.
Bảy là: Thiếu vốn kinh doanh là một hạn chế lớn đối với VINARE như nghiệp vụ bảo hiểm hàng không, trách nhiệm cho một vụ tổn thất lên 1tỷ USD cho một máy bay mà vốn của công ty chỉ có 10 triệu USD bằng 1% giá trị một vụ tổn thất, nên việc tăng vốn cho công ty là điều kiện cần thiết và cấp bách. Nên để tăng vốn có các biện pháp sau:
+ Tích luỹ dần trong quá trình kinh doanh tái bảo hiểm và đầu tư vốn nhàn rỗi. Thực tế hoạt động kinh doanh của công ty sau năm năm đều có lãi nên vốn đã được tăng. Tuy nhiên biện pháp này mang tính dài hạn và không góp phần giải quyết khó khăn trước mắt.
+ Huy động vốn bằng cách liên doanh liên kết, cổ phần hoá. Về mặt lý luận, biện pháp này rất khả thi và có hiệu quả thu được rất lớn nhưng khó khăn ở chỗ VINARE còn có chức năng quản lý nhà nước. Việc chia sẻ quyền sở hữu và quản lý sẽ gây ra nhiều vấn đề tranh cãi.
+ Huy động vốn từ các ngân hàng: Bảo Hiểm là một ngành kinh doanh rủi ro nên rất khó và không nên vay vốn ngân hàng. Biện pháp khả thi hơn, là liên doanh liên kết với ngân hàng hay các tố chức tài chính khác. ở nhiều nước phát thiển, các tổ chức tài chính lớn mạnh thường kết hợp kinh doanh bảo hiểm và nguồn vốn nhàn rỗi của bảo hiểm để đầu tư. ở Việt Nam một cơ chế kết hợp như vậy rất khó thực hiện nhưng không phải không khả thi. Nhìn một cách tổng thể, VINARE cần sử dụng thích hợp linh hoạt các biện pháp trên nhằm nâng cao nguồn vốn của mình.
Tám là: Nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không do tính chất và đặc thù riêng nên chủ yếu phải tái ra thị trường bảo hiểm nước ngoài, thị trrường bảo hiểm hàng không thế giới (tập trung tại Anh là chính), còn thị trường trong nước khả năng nhận lại dịch vụ này rất thấp khoảng 3%-4% tổng phí thu. Hàng năm VINARE sau khi nhận dịch vụ BHKHVN thì phải tái bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm hàng không tới 95%-96%. Do vậy mọi vấn đề liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm hàng không đều do nước ngoài cung cấp và quyết định muốn có dịch vụ tốt thì VINARE phải có quan hệ trực tiếp với thị trường bảo hiểm hàng không thế giới, hạn chế tới mức thấp nhất việc quan hệ với thị trường phải qua các khâu trung gian không cần thiết.
Chín là: Đối với VINARE mới đi vào hoạt động trong một thời gian ngắn nên kinh nghiệm giao dịch vẫn còn hạn chế và chưa am hiểu nhiều về thị trường tái bảo hiểm cũng như việc đặt quan hệ tái bảo hiểm đối với công ty nước ngoài. Nên cần sử dụng các môi giới tái bảo hiểm hàng không lớn, có tiềm năng vốn và uy tín trên thịtrường bảo hiểm hàng không quốc tế. Bởi vì để thu xếp hợp đồng và chào tái bảo hiểm thì VINARE giao dịch trực tiếp với công ty nhận tái bảo hiểm, tiến hành đàm phán thương lượng với nhau mọi vấn đề trong hợp đồng nhưng cũng có thể qua môi giới để thương lượng với công ty nhận tái bảo hiểm. Vì các dịch vụ tái bảo hiểm hàng không được sắp xếp và chuyển giao ở nước ngoài, việc sử dụng các nhà môi giới sẽ thuận lợi hơn nhiều.
+ Môi giới tái bảo hiểm là trung gian giữa công ty nhượng tái bảo hiểm và công ty nhận tái bảo hiểm.
+ Môi giới tái bảo hiểm có vai trò rất quan trọng vì hoạt động tái bảo hiểm vượt ra ngoài biên giới quốc gia và trở thành quan hệ quốc tế rộng rãi. Đòi hỏi phải có những người chuyên nghiên cứu về thị trường tái bảo hiểm và có quan hệ giao dịch với các công ty bảo hiểm có uy tín. Mặt khác môi giới đứng ra giải quyết khó khăn giữa công ty nhượng tái bảo hiểm và công ty nhận tái bảo hiểm. Người môi giới đứng về công ty nhượng tái bảo hiểm thu xếp hợp đồng, chào hợp đồng với tỷ lệ phí tái bảo hiểm hợp lý, thủ tục phí theo lãi đúng với nghiệp vụ. Người môi giới giúp các công ty nhận tái bảo hiểm tính toán số phí thu và thời gian thanh toán phí, đảm bảo cho các công ty này nhanh chóng nhận phí tái bảo hiểm đồng thơì khi có tổn thất xảy ra ngưới môi giới cũng đứng ra giải quyết và thanh toán bồi thường giữa công ty nhượng và công ty nhận tái bảo hiểm .
Việc sử dụng môi giới tái bảo hiểm có tác dụng lớn đối với các công ty nhượng tái bảo hiểm là:
+ Tức kiệm chi phí thương lượng hợp đồng, thông qua môi giới việc sắp xếp, dàn xếp hợp đồng được tiến hành khẩn trương nhanh chóng, giảm được nhiều chi phí đi lại thương lượng đàm phán. Vì môi giới biết rõ loại hợp đồng nào chào chothị trường nào, nội dung hợp đồng quy định ra sao.
+ Môi giới có thể cùng một lúc thương lượng với nhiều công ty khác nhau, ở những nước khác nhau đồng thời có thể cùng một lúc thương lượng tất cả các nghiệp vụ: Hàng hoá, tầu biển, hàng không... thông thường những người môi giới nhận làm môi giới cho nhiều công ty với khối lượng dịch vụ tương đối lớn.
+ Môi giới tái bảo hiểm dễ thuyết phục các công ty nhận tái bảo hiểm , đảm bảo thoả mãn nhu cầu của cả hai bên(công ty nhận tái bảo hiểm vàcông ty nhượng tái ). Sở sĩ làm được như vậy là do môi giới tái bảo hiểm có nhiều kinh nghiệm và uy tín được nhiều công ty nhận taí bảo hiểm biết đến.
Tuy nhiên việc sử dụng môi giới cũng cần được cân nhắc kỹ lượng, lựa chọn môi giới phù hợp với đặc điểm nghiêp vụ và quan hệ hợp đồng. Không nên sử dụngnhiều môi giới cùng một lúc sẽ gây ra lắm thủ tục phiền hà.
Vì vậy nghiệp vụ TBHKHVN cần phải sử đụng một hoặc hai môi giới lớn của thị trường bảo hiểm quốc tế quá đó mới có thể thu xếp được hợp đồng bảo hiểm hàng không có lợi nhất cho Hàng không Việt Nam.
Mười là: TBHHK cần nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết về thị trường bảo hiểm hàng không quốc tế, đồng thời phải có đầy đủ kịp thời các thông tin liên quan đến các đối tượng tham gia bảo hiểm cũng như các đối tượng sắp tham gia bảo hiểm để tư vấn giúp đỡ các nhà bảo hiểm và khách hàng.
Việc nắm bắt thường xuyên các thông tin có liên quan đến nghiệp vụ bảo hiểm hàng không quốc tế là một công việc không thể thiếu được cho nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không. Đây là cơ sở để cán bộ nghịêp vụ đàm phán các điều kiện bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm hàng không hàng năm cũng như việc sửa đổi bổ sung kịp thời các điều kiện của hợp đồng hiện tại.
Mặt khác có đầy đủ kịp thời các thông tin có liên quan đến đối tượng tham gia bảo hiểm cũng như các đối tượng sắp tham gia bảo hiểm. Bởi vì: Thực tế các đối tượng tham gia bảo hiểm luôn biến động, có thể dẫn tới sự tăng giảm rủi ro, để có cơ sở đàm phán với nước ngoài giảm phí hoặc giải thích cho khách hàng thông qua bảo hiểm hàng không khi tăng phí. tái bảo hiểm hàng không phải thường xuyên nắm được sự thay đổi của các khách hàng mình đang nhận tái bảo hiểm thông qua bảo hiểm, có như vậy mới quản lý tốt nghiệp vụ mình đang tiến hành, bảo vệ quyền lợi cho nhà bảo hiểm cũng như khách hàng. Trong hoạt động Hàng không điều này thường xuyên rảy ra như máy bay thay đổi mục đích sử dụng: máy bay phục vụ theo các hợp đồng đặc biệt, máy bay hoạt động trên các đường bay mới, máy bay được lắp thêm thiết bị , máy bay thay đổi số ghế hoặc thay đổi trọng tải.
Đối với đối tượng sắp tham gia bảo hiểm thì việc nắm bắt đầy đủ các thông tin cần thiết theo yêu cầu của các nhà nhận tái bảo hiểm nước ngoài là một vấn đề hết sức coi trọng. Từ các thông tin này các nhà nhận tái bảo hiểm nước ngoài sẽ cung cấp các điều kiện và phí bảo hiểm. Phí bảo hiểm năm đầu tiên là rất quan trọng, nếu hợp đồng thuận lợi là cơ sở cho việc bảo hiểm cho các năm tiếp theo. Ngược lại nếu ngay từ năm đầu tiên do không có đầy đủ thông tin cho các nhà tái bảo hiểm nước ngoài, thì hợp đồng bbảo hiểm sẽ có các điều kiện bảo hiểm không tốt cũng như mức phí rất cao và việc đàm phán để giảm phí cho các năm kế tiếp rất khó khăn.
Mười một là: tái bảo hiểm hàng không cần tạo điều kiện thuận lợi để nước ngoài (các nhà môi giới tái bảo hiểm nước ngoài và các nhà nhận tái bảo hiểm nước ngoài) hiểu rõ về Hàng không Việt Nam.
Việc cung cấp tình hình hoạt động chủ yếu của hàng không Việt Nam trong giai đoạn hiện đại và tương lai cho các nhà môi giới tái bảo hiểm nước ngoài và các nhà nhận tái bảo hiểm nước ngoài là một yêu cầu cần thiết và được đặt ra cấp bách thường xuyên. Để cho thị trường bảo hiểm hàng không thế giới am hiểm về Hàng không Việt Nam ngoài các hình thức thông tin đại chúng, cần duy trì một số cách thức sau:
+ Thường xuyên gửi báo cáo hàng tháng, hàng quý, hàng năm của thị trường bảo hiểm quốc tế đặc biệt nhà đứng đầu nhận tái bảo hiểm cho thị trường trong nước và những người được bảo hiểm
+ Thương xuyên cung cấp các số liệu, tình hình về hoạt động của Hàng không Việt Nam cho thị trường bảo hiểm quốc tế
+ Tổ chức tiếp xúc trực tiếp với thị trường để giúp các nhận tái bảo hiểm nước ngoài ngoài nắm được thực chất của đối tượng bảo hiểm mà họ đang bảo hiểm hoặc sẽ bảo hiểm.
+ Chủ động mời các nhà môi giới tái bảo hiểm và các nhà nhận bảo hiểm nước nước ngoài (người đứng đầu) thăm và làm việc với lãnh đạo của Hàng không Việt Nam, để họ nắm bắt kịp thời các thông tin và tình hình thực tế của đối tượng họ đang bảo hiểm hoặc sẽ bảo hiểm. Qua đó họ hiểu được tình hình hoạt động của hàng không, để thuận tiện hơn trong việc ký kết hợp đồng tái bảo hiểm .
Mười hai: tái bảo hiểm hàng không cần giải quyết bồi thường và đòi bồi thường một cách nhanh chóng kịp thời. Khi có sự cố xảy ra để tạo được lòng tin cho nhà bảo hiểm trong nước và đảm bảo được quá trình hoạt động thuận lợi cho công ty.
Mười ba: Nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không Việt Nam cần phải thường xuyên nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ để theo kịp với trình độ phát triển của thế giới và chuyên môn hoá cao đội ngũ cán bộ. Bởi vì thị trường bảo hiểm hàng không quốc tế phát triển mạnh mẽ và đa dạng, các hình thức bảo hiểm hàng không rất phức tạp điều đó đòi hỏi cán bộ nghiệp vụ phải có trình độ chuyên môn và ngoại ngữ giỏi mới có thể nắm vững được nghiệp vụ và nắm bắt kịp thời các thông tin hàng ngày trên thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm. Việc thường xuyên nâng cao nghiệp vụ của cán bộ ở phòng tái bảo hiểm hàng không là một trong những vấn đề sống còn của hoạt động tái bảo hiểm hàng không ở Việt Nam.
Tích cực kết hợp môi giới tái bảo hiểm, người đứng đầu tái bảo hiểm nghiên cứu các loại hình bảo hiểm mới, để triển khai cho khách hàng bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm.
2. Những kiến nghị đối với nhà nước.
ở nước ta cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã và đang được xác lập, các hình thức khác nhau được thừa nhận, các thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật. Điều đó đã góp phần quan trọng giải phóng sức sản xuất xá hội. Các loại hình doanh nghiệp đua nhau mọc ra tạo động lực và môi trường cạnh tranh và lưu thông hàng hoá phát triển. Cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước chuyển từ kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Chính phủ chỉ định hướng kế hoạch cho các trương trình, mục tiêu lớn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Các doanh nghiệp nhà nước được giao quyền tự chủ trong sản xuất dinh doanh" lời ăn , lỗ chịu" miễn là chấp hành đúng chính sách, pháp luật và nghĩa vụ đối với nhà nước.
Nhà nước thực hiện mở cửa nền kinh tế, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài với những luật lệ hấp dẫn, nhờ vậy mối quan hệ giao lưu kinh tế với nước ngoài được mở rộng và phát triển. Các doanh nghiệp có quyền tự quyết định trong việc liên doanh liên kết theo khuôn khổ pháp luật hiện hành cho phép. Thị trường tiền tệ, thị trường đầu tư vốn đang từng bước hình thành và phát triển đáp ứng dần nhu cầu vốn đa dạng của nền kinh tế, giúp cho sản xuất, lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển hơn, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm. Chính phủ từng bước quản lý sử dụng nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên thực hiện công bằng xã hôị thông qua phân phối lại thu nhập giữa các tầng lớp dân cư bằng chính sách thuế, chính sách đối với người nghèo và chính sách xã hội khác. Do đó công ty cần kiến nghị với Nhà nước một số những vấn đề sau:
+ Sự ra đời và hoạt động cuả bảo hiểm hàng không và tái bảo hiểm hàng không sẽ làm nảy sinh hàng loạt các quan hệ kinh tế đa dạng và phức tạp giữa các bên tham gia hợp đồng bảo hiểm như người được bảo hiểm và người bảo hiểm, người ký hợp đồng ... để dảm bảo cho những quan hệ kinh tế đó diễn ra theo một trật tự nhất định đồi hỏi phải có một cơ chế quản lý thể hiện sự điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội hình thành trong hoạt động của bảo hiểm hàng không và tái bảo hiểm hàng không.
Nhà nước thông qua việc xác lập các quy chế pháp lý tác động đến sự ra đời và hoạt động của bảo hiểm hàng không.
Trên cơ sở của luật bảo hiểm nói chung cần phải được cụ thể hoá bằng văn bản dưới luật phù hợp vơí đặc thù của bảo hiểm hàng không. Có thể thấy một số vấn đề về quy chế pháp lý chủ yếu cần thiết cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng không như:
Quy chế pháp lý đối với các bên khi tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm. Quy chế xác định mặt pháp lý về vị trí, vai trò, chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của cá bên tham gia, quy định những trình tự thủ tục khi tham gia hợp đồng bảo hiểm;quy định các thể thức bảo hiểm và từ chối bảo hiểm được áp dụng và các loại hợp đồng bảo hiểm.
Việc xây dựng hệ thống pháp luật và các quy chế cần thiết cho sự hoạt động của bảo hiểm hàng không là điều kiện cần, là cơ chế đảm bảo cho hoạt động này được phát triển lành mạnh và có hiệu quả. Nhà nước có thể thông qua hệ thống luật để quản lý và điều chỉnh các hoạt động của bảo hiểm hàng không, cũng như tái bảo hiểm hàng không. Mặt khác, việc xác lập một khuôn khổ pháp lý rõ ràng và cụ thể cho hoạt động của bảo hiểm hàng không sẽ củng cố được lòng tin của người tham gia bảo hiểm và quyền lợi của công ty tái bảo hiểm hàng không, quy mô quỹ càng lớn, phạm vi hoạt động càng mở rộng thì càng đòi hỏi không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp và những quy chế cần thiết để đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của bảo hiểm hàng không, tái bảo hiểm hàng không
Việc ra đời và hoàn chỉnh các thể chế, chính sách, luật bảo hiểm và những luật liên quan là những điều kiện cơ bản chỉ đạo vĩ mô hình thành hoạt động của bảo hiểm hàng không cũng như tái bảo hiểm hàng không, tránh sự sơ hở đã diễn ra với quỹ tín dụng, quỹ dự phòng dự trữ quốc gia, đồng thời đảm bảo sự tin cậy, yên tâm, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm và tái bảo hiểm .
Ngoài ra, có thể sớm nghiên cứu thành lập một cơ quan giải quyết các tranh chấp và khứu nại bảo hiểm để baỏ vệ quyền lợi của người được bảo hiểm và các doanh nghiệp bảo hiểm.
+ Thông thường ở các nước trên thế giới, thuế chiếm trên 90 % nguồn thu ngân sách Nhà nước, nếu tỷ lệ thuế trong nguồn thu Ngân sách quá thấp, sẽ dẫn đến lạm phát làm cho giá cả không ổn định, gây ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân và quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nên bất cứ nước nào cũng phải tìm ra các biên pháp để tăng nguồn thu này. Thuế là một công cụ quản lý vĩ mô rất quan trọng của nhà nước, để kích thích hoặc hạn chế một hoạt độngnào đó.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của bảo hiểm, tái bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường và yêu cầu phải thúc đẩy sự phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam tiến kịp trình độ bảo hiểm trên thế giới và trong khu vực. Nhà nước phải có một chính sách thuế phù hợp với thực tế và đặc biệt của hoạt động bảo hiểm hiện nay, phải coi thuế là một giải pháp thực hiện có kết quả chính sách khuyến khích tài chính đối với loại hình tái bảo hiểm, và ưu dãi về tài chính đối với loại hình doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm ngày một phát triển. Ngoài việc thực hiện chính sách thuế suất thấp, thuế phải đi theo hướng đơn giản hoá, giảm bớt sắc thuế bảo đảm công bằng về thuế giữa các doanh nghịêp bảo hiểm và tái bảo hiểm , về lâu dài hệ thống thuế cần được sửa đổi cho phù hợp và thống nhất với hệ thống thuế của các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Trong các điều kiện về tài chính của công ty tái bảo hiểm thì điều kiện về vốn là điều kiện quan trọng nhất giúp cho công ty tái bảo hiểm có điều kiện thuận lợi trong kinh doanh, quản lý dử dụng có hiệu quả đồng vốn, tăng khả năng thanh toán của công ty, nâng cao năng lực, trình độ và chất lượng nhận tái bảo hiểm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu bảo hiểm, tái bảo hiểm ngày càng cao của xã hội nói chung của ngành Hàng không nói riêng, góp phần tăng thêm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và sự phát triển của Ngành.
Trước hết phải tạo điều hiện thuận lợi cho công ty tái bảo hiểm quốc gia sử dụng và huy động tối đa mọi nguồn vốn của mình; phải bảo toàn và phát triển vốn, nhằm tăng nhanh khả năng thanh toán bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, tăng lợi nhuận. Điều kiện về vốn phải hợp lý và bao quát toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp tái bảo hiểm từ khi thành lập đến khi giải thể doanh nghiệp. Việc bảo toàn vốn là chống hiện tượng " lãi thật, lỗ giả ", trong hoạt động kinh doanh và ăn dần vào vốn. Để đảm bảo cho công ty tái bảo hiểm và nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không Việt Nam nói riêng hoạt động có hiệu quả thì hệ số điều chỉnh giá trị tài sản phải hợp lý, tránh tình trạng quy định qúa cao, tính toán không khoa học làm giảm lợi nhuận doanh nghiệp và ngược lại. Nhà nước cần quy định tỷ lệ khấu hao cho hợp lý, áp dụng một chế độ điều chỉnh giá trị tài sản cố định, phương pháp khấu hao và tỷ lệ khấu hao...
Nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không khả năng sảy ra tổn thất trên một vụ thường là 1tỷ USD trong khi đó vốn của công ty mới có 10 triệu USD, nên việc bồi thường khi xảy ra chỉ bằng 1% thách nhiệm bảo hiểm, nên Nhà nước cần tạo điều kiện cho công ty thực hiện khả năng thanh toán của mình thông qua việc tài chợ bằng cấp vốn, cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi, miễn các loại thuế, phát hàng trái phiếu để doanh nghiệp khôi phục khả năngthanh toán một cách nhanh chóng.
vậy thông qua chính sách huy động và sử dụng vốn để phát triển nguồn vốn, tăng khả năng giữa lại phí của công ty thì công ty VINARE phải khai thác tốt các nguồn sau:
a. Nguồn vốn Ngân sách: Đây là nguồn vốn đặc thù của công ty bao giồm vốn cấp lần đầu khi bắt đầu hoạt động và cấp tiếp tục trang trải những khoản chi trả mà phần thu phí không đủ. Nên chăng Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không đây là ngành kinh tế mũi nhọn quan trọng góp phần đến sự phát triểncủa nền kinh tế quốc dân.
b. Nguồn thu phí tái bảo hiểm từ các nhà bảo hiểm: Đây là nguồn vốn quan trọng nhất của công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Phí tái bảo hiểm chính là giá của bảo hiểm, nó là số tiền mà người được baỏ hiểm phải trả cho nhà tái bảo hiểm để thế vào rủi ro mà tái bảo hiểm có trách nhiệm, nó gồm cả giá của rủi ro nói riêng và giá quản lý của công ty tái bảo hiểm. Song nếu nguồn thu phí của khách hàng tăng thì mới có thể nguồn thu phí tái bảo hiểm tăng được.
Trong điều kiện giá cả, tiền lương không ổn định thì phí bảo hiểm mức trách nhiệm bảo hiểm không thể cố định, mà phải biến đổi trong mối tương quan hợp lý để khuyến khích mọi người tham gia bảo hiểm. Việc xác định cơ cấu phí, tính phí, điều chỉnh là một trong các nội dung cơ bản của hạch toán kinh tế trong hoạt động bảo hiểm. Nếu để các doanh nghiệp bảo hiểm, được quyền quyết định phí bảo hiểm, sẽ góp phần vào việc nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của mình.
Hiện nay bảo hiểm trong môi trường cạnh tranh thì việc Nhà nước quy định mức phí cho từng nghiệp vụ bảo hiểm là không còn phù hợp nữa. Nên chăng Nhà nước chỉ nên đưa ra cung giá bảo hiểm là đủ, có vậy mới thúc đẩy hoạt động kinh doanh bảo hiểm phát triển.
c. Nguồn vốn thu từ kinh doanh: Đây là vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và các khoản dự phòng nghiệp vụ.
VINARE phải hoạt động như một công ty tài chính thực thụ điều đó cho phép công ty đầu tư vốn nhàn rỗi của mình vào sản xuất xã hội. Khi đã thống nhất đánh giá hoạt động của tái bảo hiểm là hoạt động kinh doanh nếu tái bảo hiểm không có định hướng phát huy vai trò đầu tư vốn trong thị trường vốn, thì hoạt động kinh doanh của tái bảo hiểm sẽ kém hiệu quả, khó bảo toàn và phát triển vốn. Hình thức đầu tư vốn nhàn rỗi của công ty tái bảo hiểm quốc gia có thể và nên được tiến hành với các hình thức đầu tư cụ thể: mua công trái Nhà nước, mua bất động sản, mua cổ phiếu hoặc tín phiếu, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, cho vay có thể thế chấp và sắp sửa Việt Nam có thị trường chứng khoán nên đầu tư vào đó trật tự đầu tư và cơ cấu đầu tư ở doanh nghiệp tái bảo hiểm dưới các hình thức đó là điều rất quan trọng.
+ Hiện nay nước ta đang thiếu một đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm, nhất là những người hoạch định chính sách bảo hiểm những cán bộ tinh thông ngoại ngữ, tinh thông nghiệp vụ và dầy dạn kinh nghiệm. Đây là một trong những trở lực lớn đối với sự phát triển của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng không nói riêng.
Để đảm bảo cho quá trình hội nhập vào khu vực và quốc tế đạt kết quả cao, một trong những vấn đề lớn có ý nghĩa quyết định mà Đảng ta đề ra là đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội, vì vậy công ty tái bảo hiểm cần kiến nghị với nhà nước cần coi trọng công tác đào tạo là một mặt đầu tư chiều sâu có tính chiến lược và quan tâm hơn nữa trong việc đổi mới công tác giáo dục, đào tạo đội ngũ cán bộ bảo hiểm và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế về trình độ kỹ thuật, ngoại ngữ chuyên môn nghiệp vụ.
Cần thấy rằng nhân tố con người là nhân tố quyết định nhất đến quá trình phát triển của ngành bảo hiểm, cho nên việc đào tạo và phát triển nhân lực cũng không kém phần cần thiết nhất là trong lĩnh vực nhận biết, trau dồi và đầu tư cho tương lai của nhân viên.
Cần xây dựng kế hoạch tổng thể về đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và bảo hiểm hàng không nói riêng. Mục tiêu đào tạo phải gắn liền với mục tiêu sử dụng cán bộ. Cần đa dạng hoá hình thức và phương pháp đào tạo đội ngũ cán bộ cũng như cần đa phương hoá các mối quan hệ trong đào tạo conngười cho ngành bảo hiểm.
Mở rộng các trường đào tạo cán bộ nhân viên ngành bảo hiểm với nhiều trình độ đào tạo chuyên sâu khác nhau với chương trình đào tạo tương ứng. Bên cạnh việc đào tạo ở trong nước và tại chỗ thêo hệ thống giáo trình, giáo án nhằm phù hợp với nguyên lý chung của khu vực và thế giới. Cần có chính sách đào tạo ở nước ngoài làm cho công tác đào tạo ở nước ngoài có hiệu quả cao.
+ Hoạt động của nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không cũng như bất kỳ một công ty kinh doanh nào khác, việc phối hợp chặt chẽ và nhịp nhàng với các ngành có liên quan là một tất yếu. Trước hết ngân hàng cần phải mở rộng dịch vụ của mình, mọi khoản thu, chi đều phải thanh toán trực tiếp qua ngân hàng để từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tái baỏ hiểm. Mặt khác ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tái bảo hiểm nhằm tăng thêm nguồn vốn để cho vay. Qua đó thu nhập của công ty tái bảo hiểm được tăng lên. Hoạt động ngân hàng thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho công ty tái bảo hiểm rút tiền nhanh chóng để thanh toán bồi thường một cách kịp thời và đầy đủ.
Việc tổ chức thu nộp của hệ thống kho bạc nhanh gọn, thuận tiện và cũng là điều kiện thuận lợi cho hoạt động tái bảo hiểm. Trong những trường hợp cần thiết Nhà nước thông qua kho bạc phát hành tín phiếu để huy động nguồn vốn nhàn rỗi thì bảo hiểm hàng không và tái bảo hiểm hàng không sẽ là chủ góp vốn để cho vay.
Một trong những điều kiện cần thiết để triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không chính là mối quan hệ qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triểncủa thị trường vốn, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán. Nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không nói riêng và công ty VINARE nói chung sẽ là chủ thể cung ứng vốn đầu tư dài hạn trên thị trường. Như vậy hoạt động của thị trường chững khoán diễn ra theo một trật tự nhất định, phát triển bình thường, lành mạnh có hiệu quả là yếu tố tăng thu nhập cho việc đầu tư của công ty tái bảo hiểm .
Nhà nước cần phát huy vai trò của mình bằng cách tác động vào nền kinh tế, góp phần tạo ra điều kiện cần thiết cho việc phát triển thị trường vốn thông qua trủ chương, chính sách thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, tiền tệ ổn định với mức lạm phát có thể kiểm soát được; thúc đẩy việc đa dạng hoá các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp, công trái...để tạo phương tiện chu chuyển vốn; tạo điều kiện cho việc phát triển các trung gian tài chính đủ sức mạnh hoạt động với tư cách là nhà kinh doanh trong lĩnh vực tài chính, cần xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp và các quy chế cần thiết làm cơ sở hoạt động kiểm soát thị trường.
+ Thông tin quảng cáo đóng vai trò hướng dẫn, nó có tác dụng rất lớn trong việc hình thành nhu cầu cụ thể của khách hàng. Hệ thống phương tiện thông tin đai chúng càng hoàn hiện thì khả năng quảng cáo hoạt động bảo hiểm nói chung, bảo hiểm hàng không nói riêng phát triển nhanh chóng. mục đích của quảng cáo là làm cho khách hàng có được những thông tin đầy đủ về các loại hình bảo hiểm. Hiệu quả của quảng cáo không chỉ đánh giá bằng số lượng sản phẩm bán ra mà còn được trú trọng ở sự khuyếch trương độ tin cậy và những ấn tượng mà nó đem lại cho khách hàng.
Từ trước đến nay chi phí quảng cáo cho lĩnh vực bảo hiểm còn quá thấp. do vậy cần tăng thêm chi phí quảng cáo về khả năng, lợi ích của công ty bảo hiểm đối với khách hàng. Cần có hoạch định phát triển mạng lưới thông tin, quảng cáo bảo hiểm xã hội, nó không chỉ là công việc của nhà kinh doanh bảo hiểm mà còn là trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nên chăng ngân sách nhà nước hoặc quỹ phát triển ngành cần giành ra một số kinh phí thích đáng cho mục đích quảng cảo tập trung này. cần có sự đầu tư thích đáng giữa tuyên truyền quảng cáo và phát triển các sản phẩm bán ra.
Quảng cáo cần được hiểu là công cụ maketting một động lực thúc đẩy cho sự phát triển của ngành baỏ hiểm Hàng không và tái bảo hiểm hàng không, nên việc tuyên truyền quảng cáo đúng nghĩa cũng được coi trọng như giá trị của các sản phẩm bán ra. công việc đầu tiên cần làm là điều tra, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng trên cơ sở đó mới quyết định quảng cáo ở mức độ, hình thức và quy mô nào cho phù hợp. tái bảo hiểm hàng không kết hợp với bảo hiểm hàng khôngcần súc tiến quảng cáo một cách đa dạng cho khách hàng. Phải có nghệ thuật quảng cáo tinh vi thể hiện ý muốn thiết tha mời gọi tham gia bảo hiểm. Định hướng và nâng cao chất lượng quảng cáo để phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Như vậy Nhà nước cần phải đầu tư để xây dựng và phát triển một hệ thống thông tin kinh tế hiện đại chính xác nhằm đảm bảo đáp ứng kịp thời thông tin cho hoạt động và giao dịch quản lý thị trường, đây là nhu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường cũng là yêu cầu của hệ thống thông tin quản lý bảo hiểm .
Kết luận
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng không đã đóng góp vào việc ổn định nền kinh tế thông qua việc khắc phục hậu quả của tổn thất thiên tai và nhâ tai gây ra đối với đơn vị và các cá nhân tham gia bảo hiểm. Nền kinh tế có những chuyển biến sâu sắc đã mở ra nhiều ngành nghề kinh doanh mới và ngày nay càng thu hút nhiều sự chú ý của các nhà đầu tư. Đối với các doanh nghiệp, việc tham gia bảo hiểm chung và bảo hiểm hàng không nói riêng coi là một trong những biện pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Vì vậy bảo hiểm là một loại hình kinh doanh đầy hứa hẹn với những tiềm năng to lớn cần được chú ý khai thác. Chắc chắn trong tương lai, bảo hiểm hàng không và bảo hiểm còn phát triển rất mạnh.
TRong 5 năm hoạt động vừa qua, tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không của VINARE đã đạt được những kết quả hết sức khả quan.
Bên cạnh việc kinh doanh nhận và nhượng tái bảo hiểm công ty còn đóng vai trò rất quan trọng đối với ngành bảo hiểm Việt Nam như: điều tiết việc tái bảo hiểm trên thị trường tham mưu tư vấn về kỹ thuật cho các công ty bảo hiểm gốc, cung cấp thông tin về thị trường bảo hiểm trong nước và quốc tế. Đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ bảo hiểm. Giúp các nhà hoạch định chính sách trong quản lý ngành bảo hiểm.
Với phạm vi bài viết, được sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ trong công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam và các thầy cô giáo trong khoa quản trị trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân song đây mới chỉ là suy nghĩ của sinh viên bước đầu làm quen với thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên không tránh khỏi sai sót.
Tôi mong muốn hiểu biết sâu hơn nữa về tái bảo hiểm, nghiệp vụ bảo hiểm hàng không.
Một lần nữa tôi xin chân thành bày tỏ lòng cảm ơn đến các thầy , các cô, các bác, các anh chị, cùng toàn thể các bạn sinh viên đã giúp tôi hoàn thành tốt chuyên đề thực tập của mình. Hy vọng ý kiến đề xuất của chuyên đề đóng góp được phần nào trong hoạt động kinh doanh của VINARE.
Mục lục
Phần mở đầu
Chương I
Lý luận chung về bảo hiểm hàng không và tái bảo hiểm hàng không.
I. Khái quát chung về bảo hiểm hàng không và tái bảo hiểm hàng không.
1. khái niệm và vai trò của bảo hiểm.
2. Sự cần thiết của bảo hiểm hàng không
3. Các loại hình bảo hiểm trong lĩnh vực hàng không dân dụng.
II. Khái niệm, sự cần thiết và vai trò của tái bảo hiểm hàng không.
1. Khái niệm và sự cần thiết của tái bảo hiểm hàng không.
2. Vai trò của tái bảo hiểm hàng không.
III. Các phương pháp và hình thức tái bảo hiểm trong nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không.
1. Các phương pháp tái bảo hiểm.
2. Các hình thức tái bảo hiểm.
Chương II
Thực trạng hoạt động nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không ở công ty VINARE.
I. Khái quát chung tình hình bảo hiểm hàng không trong thời gian qua.
1. Hoạt động bảo hiểm hàng không từ khi ra đời đến năm 1989.
2. Hoạt động bảo hiểm hàng không từ 1989 đến nay.
II. Tình hình hoạt động tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ở VINARE.
1.Vài nét công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam VINARE.
2. Nhận tái bảo hiểm nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ở VINARE.
3. Chuyển nhượng tái bảo hiểm hàng không ở VINARE.
III. Kết quả kinh doanh nghiệp vụ tái bảo hiểm hàng không ở VINARE.
Chương III:
Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo hiểm và tái bảo hiểm hàng không trong những năm tới.
I. Dự báo phát triển ngành HKDDVN trong tương lai.
II. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng bảo hiểm, tái bảo hiểm hàng không trong những năm tới.
1. Một số giải pháp đối với VINARE.
2. Những kiễn nghị đối với Nhà nước..
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
tài liệu tham khảo.
tái bảo hiểm lưu lại tại công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam.
Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm - Nhà xuất bản gião dục 1998.
giáo trình kinh tế bảo hiểm- Nhà xuất bản kỹ thuật 1994
thông tin thị trường bảo hiểm- tái bảo hiểm .
Tạp chí bảo hiểm.
Thời báo tài chính.
Thời báo kinh tế.
tạp chí thương mại.
Bảng: CII.6. Tình hình chuyển nhượng TBH nghiệp vụ bảo hiểm hàng không ra nước ngoài của VINARE năm 1995- 1999
Năm
Phí TBH chuyển nhượng ra nước ngoài
Tỷ lệ tăng trưởng phí TBH chuyển nhượng ra nước ngoài (%)
Tổng phí TBH chuyển nhượng1.000 USD
Phí TBH CN ra nươc ngoài so với tổng phí TBH CN %
Theo hợp đồng cố định
Theo hợp đồng tạm thời
Tổng 1.000USD
Giá trị 1.000USD
Tỷ trọng %
Giá trị 1.000USD
Tỷ trọng %
1995
1996
1997
1998
1999
3.737, 79
4.409, 03
4.636, 12
4.014, 56
5.115, 4
90, 82
91, 96
92, 70
93, 76
94, 15
377, 72
385, 72
365, 27
267, 10
317, 86
9, 18
8, 04
7, 3
6, 24
5, 85
4.115, 51
4.794, 75
5.001, 39
4.277, 66
5.433, 26
-
16, 5
4, 3
-16, 9
27
4.157, 08
4.848, 08
5.067, 26
4.338, 40
5.516, 00
99, 0
98, 9
98, 7
98, 6
98, 5
Tổng
21.908, 9
1.731, 67
23.622, 57
23.926, 8
TB
92, 75
7, 25
7, 73
Nguồn VINARE, tái bảo hiểm hàng không
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36783.doc