Với những lợi ích thiết thực và hiệu quả to lớn mà Xuất khẩu lao động đem lại cho đất nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động của Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex trong những năm vừa qua, cho thấy Trung tâm đã có những mục tiêu, phương hướng đúng đắn và phù hợp với mục tiêu của toàn ngành, và yêu cầu phát triển của Trung tâm. Trong những năm vừa qua Coma-Imex đã đạt được những kết quả khả quan, đóng góp không nhỏ vào chủ trương đẩy mạnh Xuất khẩu lao động trên toàn quốc.
Đạt được những kết quả đó là nhờ sự cố gắng của Lãnh đạo cơ quan cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được, Coma-Imex còn một số hạn chế cần khắc phục, bởi nó ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của hoạt động Xuất khẩu lao động. Để khắc phục những hạn chế đó, Coma-Imex cần có những biện pháp thiết thực trong việc mở rộng và phát triển thị trường, đồng thời phải chuẩn bị lực lượng lao động có chất lượng tốt để cung ứng cho thị trường lao động quốc tế, có khả năng đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy gay gắt.
Hiện nay thị trường Xuất khẩu lao động trên thế giới đang được mở rộng, với kinh nghiệm và khả năng của Trung tâm cùng các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế, chắc chắn Trung tâm sẽ đạt được những kết quả cao hơn nữa, góp phần tích cực vào sự phát triển của hoạt động Xuất khẩu lao động trên cả nước.
77 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1819 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu lao động tại trung tâm xuất nhập khẩu Coma-Imex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng tăng trong khi tỷ lệ sinh ngày càng giảm. Điều này dẫn đến số lượng người tham gia lao động của Nhật Bản cũng trong chiều hướng giảm xuống. Để đảm bảo cho sự phát triển và tăng trưởng kinh tế của mình, hàng năm Nhật Bản cần một lượng lớn người tham gia lao động, nhưng điều này chính bản thân trong nước Nhật không thể đáp ứng được, do đó Chính phủ Nhật Bản đang tích cực tái cơ cấu lại nền kinh tế theo xu hướng tăng nhanh hàm lượng chất xám của những người tham gia lao động, giảm dần lao động giản đơn và cơ bắp. Thể hiện ở việc họ di chuyển những nhà máy, những xí nghiệp có sử dụng nhiều lao động sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan, Việt Nam... Và họ tiếp nhận những lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao.
Thực tế, chủ trương của Chính phủ Nhật Bản là không tiếp nhận người nước ngoài vào làm việc tại Nhật Bản, nhưng trong bối cảnh mới này, hàng năm Nhật Bản phải tiếp nhận khoảng 60.000 lao động nước ngoài vào làm việc tại Nhật Bản dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhật Bản và các nước khác tăng cường hoạt động xuất khẩu lao động dưới hình thức tu nghiệp sinh giữa hai nước với nhau là để chuyển giao công nghệ, kiến thức và kỹ năng chuyên môn nhằm đóng góp vào việc phát triển nguồn nhân lực ở các nước đang phát triển, giúp các nước này đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Nhưng thực chất của vấn đề này là thu nhận lao động nước ngoài nhằm bù đắp sự thiếu hụt nguồn nhân lực trong nước, nhất là nhân lực giản đơn, chi phí thấp…
Tu nghiệp sinh Việt Nam bắt đầu qua tu nghiệp tại Nhật Bản từ năm 1992 theo “chương trình phái cử và tiếp nhận tu nghiệp sinh nước ngoài vào tu nghiệp tại Nhật Bản”. Tính đến nay sau 14 năm thực hiện chúng ta có 58 doanh nghiệp được phép phái cử và đã đưa được 22.593 tu nghiệp sinh sang tu nghiệp tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản theo 7 ngành (nông nghiệp, ngư nghiệp, xây dựng, chế biến thực phẩm, dệt may, cơ khí và kim loại, các ngành nghề khác), được phân làm 62 nghề bao gồm 114 loại hình công việc.
Năm 2007 là năm đầu tiên Coma-Imex đưa được tu nghiệp sinh sang tu nghiệp tại Nhật Bản, tuy số lượng tu nghiệp sinh mà Coma-Imex đưa đi còn ít nhưng đã đánh dấu một bước ngoặt mới trong hoạt động Xuất khẩu lao động của Coma-Imex. Bởi thị trường này là thị trường cao cấp đem lại thu nhập cao cho người lao động và doanh nghiệp thực hiện hoạt động Xuất khẩu lao động.
Phương hướng cho hoạt động Xuất khẩu lao động trong năm tới của Coma-Imex .
Tiếp tục mở rộng và hợp tác với các đối tác trong nước và Quốc tế, phục vụ cho hoạt động Xuất khẩu lao động.
Xây dựng chiến lược trong hoạt động Xuất khẩu lao động, nhằm thích ứng với sự thay đổi thường xuyên của thị trường lao động Quốc tế.
Phấn đấu củng cố và duy trì những thị trường truyền thống, đồng thời phát triển thị trường mới, đặc biệt là phát triển và chiếm lĩnh các thị trường cao cấp như thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc...
Đánh giá kết quả hoạt động Xuất khẩu lao động của Coma-Imex.
Hoạt động trong lĩnh vực Xuất khẩu lao động tuy mới được 10 năm nhưng Coma-Imex cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong hoạt động Xuất khẩu lao động. Trong những năm gần đây thị trường Xuất khẩu lao động trên thế giới đã mở ra rất nhiều cơ hội tiềm năng cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Nắm bắt cơ hội này, Coma-Imex quyết định thay đổi định hướng kinh doanh, trong đó tập trung chính vào hoạt động Xuất khẩu lao động. Trong thời gian qua bên cạnh những ưu điểm mà Coma-Imex có thì còn một số hạn chế mà Coma-Imex phải giải quyết để có thể đạt kết quả cao nhất trong hoạt động Xuất khẩu lao động.
2.3.1. Những ưu điểm.
Đã xây dựng được cơ sở dạy nghề cho người lao động, tạo ra nguồn lao động dồi dào có chất lượng cao phục vụ cho công tác Xuất khẩu lao động sang các thị trường, đặc biệt là các thị trường cao cấp như Nhật Bản, Hàn Quốc...
Thường xuyên bám sát địa bàn, không quản khó khăn vất vả đã chủ động tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về các vấn đề liên quan đến Xuất khẩu lao động tại các địa phương, kể cả vùng sâu vùng xa như Lai Châu, Yên Bái... Và đã tạo được sự ủng hộ của chính quyền địa phương, làm cho người dân tin tưởng, tạo được uy tín cho Coma-Imex nên số lao động được tuyển chọn đa số đáp ứng yêu cầu của đối tác
Nhờ có định hướng đúng đắn, Coma-Imex đã tập trung đẩy mạnh công tác tìm kiếm, khai thác thị trường, đối tác mới. Qua đó lần đầu tiên đưa được tu nghiệp sinh Việt Nam đi tu nghiệp tại Nhật Bản, mở ra cơ hội mới đầy triển vọng. Đối với các thị trường truyền thống như Đài Loan, Trung Đông, Malaixia, Coma-Imex đã chú trọng đến chất lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài, và đã có sự thay đổi về chất từ việc Xuất khẩu lao động. Trong những năm trước chủ yếu là lao động phổ thông thì trong năm 2007 lao động Xuất khẩu lao động đều có tay nghề, thậm chí là tay nghề cao như thợ hàn 3G, 6G, được phía đối tác cũng như chủ sở dụng lao động đánh giá cao. Bên cạnh công tác Xuất khẩu lao động, Coma-Imex đang triển khai công tác nghiên cứu, tìm hiểu thị trường mới như Ba Lan, Cộng hòa Séc, Singapore... một cách cẩn trọng, chi tiết và có hệ thống trước khi đưa người lao động Việt Nam sang làm việc tại nước ngoài, nhằm đạt hiệu quả cao, phòng tránh rủi ro.
Trong công tác tuyển chọn, Coma-Imex đã thực hiện đa dạng các phương thức tuyển chọn, đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến trực tiếp người lao động, tư vấn để lao động thấy lợi ích của việc Xuất khẩu lao động. Trung tâm chủ động cử cán bộ chuyên trách liên hệ chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng để tuyển lao động theo đúng quy định của Nhà nước.
Trong cơ chế thị trường đầy khắc nghiệt, trước tình hình kinh tế - xã hội trong nước có nhiều biến đổi phức tạp và hội nhập kinh tế quốc tế sôi động. Coma-Imex đã vững vàng, chủ động, tự tin, lái con tàu kế hoạch của mình đi đúng hướng, đồng thời vận dụng linh hoạt những lợi thế, cơ hội từ thị trường bên ngoài... kết quả là đã hoàn thành kế hoạch và đạt được những thành tích đáng kể.
Qua biểu đồ trên ta thấy số lượng người được Coma-Imex đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài trong những năm gần đây tăng lên không đáng kể. Có một số thị trường như Trung Đông tuy số lượng lao động đưa đi có tăng nhưng về tổng số vẫn là ít. Thị trường Malayxia và Đài Loan tăng giảm không đồng đều, những năm gần đây số lượng lao động mà Coma-Imex đưa sang các thị trường này có xu hướng giảm do tình hình chính trị, kinh tế của các nước này có nhiều biến động.
2.3.2. Những tồn tại.
Bên cạnh những thành công trong công tác Xuất khẩu lao động trong thời gian qua, Coma-Imex vẫn còn những tồn tại sau:
Cán bộ có năng lực, kinh nghiệm trong hoạt động Xuất khẩu lao động còn thiếu, cần phải có kế hoạch thu hút và đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng một cách hợp lý nguồn lao động nhằm phát huy cao nhất nội lực hiện có của công ty.
Năm 2007 là năm có nhiều biến động về công tác Xuất khẩu lao động. Các thị trường Trung Đông, Malayxia gặp nhiều biến động về tình hình kinh tế, chính trị đã ảnh hưởng lớn đến hoạt động Xuất khẩu lao động của Trung tâm.
Tình hình tài chính của Trung tâm còn nhiều hạn chế và phụ thuộc nhiều vào Tổng công ty, năm qua Coma-Imex đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh do không đáp ứng về vốn.
Việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách và cơ chế của Đảng và Nhà nước cũng như tổ chức của Coma-Imex chưa tương xứng với khả năng nguồn lao động trong nước và chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động quốc tế.
Công tác nghiên cứu thị trường và áp dụng các biện pháp mở rộng thị trường còn một số yếu kém.
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI TRUNG TÂM XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG COMA-IMEX.
Xuất khẩu lao động trong quá trình hội nhập Kinh tế quốc tế.
Xuất khẩu lao động, xét về mặt kinh tế là một loại hình dịch vụ cung cấp loại hàng hóa đặc biệt (sức lao động). Nó chứa đựng đầy đủ tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt, đó là hoạt động của con người, tổng hòa về các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào chất lượng của lao động, trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề được đào tạo, mức độ giao tiếp về ngôn ngữ, văn hóa, phẩm chất cá nhân... Giá cả của sức lao động phụ thuộc rất lớn vào nhu cầu của nước nhập khẩu lao động.
Về khía cạnh chính trị, Xuất khẩu lao động là quá trình hợp tác góp phần hỗ trợ xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của nước nhập khẩu lao động. Khác với các loại hình hàng hóa khác, đối với người đi Xuất khẩu lao động ngoài yếu tố cơ bản về phẩm chất cá nhân, trình độ chuyên môn thì trình độ văn hóa, ngoại ngữ, khả năng hòa đồng hết sức quan trọng để đảm bảo phát huy các thế mạnh đó, thực sự tôn trọng luật pháp, hòa hợp tốt với cộng đồng cư dân nước sở tại. Điều đó sẽ đảm bảo cho vị trí cá nhân được khẳng định, được quý mến, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc gia, góp phần củng cố, tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết thân thiện, cộng đồng quốc tế giữa hai nước.
Chủ trương chính sách của Nhà nước ta về Xuất khẩu lao động.
Chủ trương của Nhà nước ta về Xuất khẩu lao động và chuyên gia:
Cùng với giải quyết việc làm trong nước là chính thì xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa; là một bộ phận của hợp tác quốc tế, góp phần củng cố quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước.
Xuất khẩu lao động và chuyên gia phải được mở rộng và đa dạng hoá hình thức, thị trường xuất khẩu lao động, phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đáp ứng nhu cầu của nước ngoài về số lượng, trình độ và ngành nghề. Xuất khẩu lao động và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu và nâng cao trình độ quản lý của các đơn vị xuất khẩu lao động; mặt khác phải chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo pháp luật của nước ta và nước mà người lao động sống và làm việc.
Phát triển và khuyến khích đào tạo nghề gắn với nhu cầu của thị trường lao động, đào tạo ngoại ngữ, giáo dục ý thức pháp luật, làm rõ quyền lợi, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người lao động về thực hiện hợp đồng, tôn trọng phong tục tập quán, văn hoá, hoà nhập với thị trường lao động quốc tế.
Theo Nghị Định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2003 của Chính Phủ (tại điều 8, chương II), các doanh nghiệp được xem xét cấp giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động bao gồm:
Doanh nghiệp Nhà nước;
Công ty cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối;
- Doanh nghiệp thuộc cơ quan Trung ương các tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
Các doanh nghiệp khác do Thủ tướng Chính Phủ xem xét và quyết định.
Theo điều 10 tại Nghị Định này, các doanh nghiệp được cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động khi có đủ các điều kiện sau:
Có đề án hoạt động xuất khẩu lao động của doanh nghiệp theo hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội;
Có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên;
Có trụ sở làm việc ổn định, có cơ sở đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài;
Có ít nhất 7 cán bộ chuyên trách có trình độ từ cao đẳng trở lên thuộc các chuyên ngành kinh tế, pháp luật và ngoại ngữ. Đội ngũ cán bộ chuyên trách này phải có lý lịch rõ ràng, phẩm chất đạo đức tốt, không có tiền án, không bị kỷ luật từ cảnh cáo trở lên trong hoạt động xuất khẩu lao động;
Ký quỹ 500 triệu đồng tại Ngân hàng.
Theo khoản 3 và khoản 4 tại Điều 14 Nghị Định số 81/2003/NĐ-CP, quy định về tuyển chọn lao động như sau:
Doanh nghiệp trực tiếp tuyển chọn những người lao động phù hợp với yêu cầu của bên sử dụng lao động, không được uỷ quyền qua trung gian, môi giới; không được thu phí tuyển chọn của người lao động.
Việc tuyển chọn lao động chỉ được tiến hành khi hợp đồng đã đăng ký theo quy định.
Doanh nghiệp xuất trình giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động Doanh nghiệp xuất trình giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động, kế hoạch và phương thức tuyển chọn với Sở Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc đơn vị có nguồn lao động cung cấp; phối hợp với chính quyền cấp huyện và xã, hoặc các cơ sở đào tạo, cơ sở sản xuất khác (đối với lao động có tay nghề) để tuyển chọn người lao động có đạo đức tốt, có ý thức tổ chức kỷ luật, gia đình chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước.
Trước khi tuyển chọn, doanh nghiệp thông báo công khai tại trụ sở doanh nghiệp và địa bàn tuyển chọn các yêu cầu về số lượng lao động cần tuyển; giới tính, độ tuổi, công việc mà người lao động sẽ đảm nhiệm, nơi làm việc và thời hạn hợp đồng; điều kiện làm việc và sinh hoạt; tiền lương, tiền công; các khoản chi phí phải nộp trước khi đi; các khoản phải trích nộp từ tiền lương trong thời gian làm việc ở nước ngoài; quyền lợi và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp dành ít nhất 10% số lượng lao động theo hợp đồng đã ký để tuyển chọn những người đủ tiêu chuẩn thuộc diện chính sách những người có công, bộ đội, thanh niên xung phong, thanh niên tình nguyện tham gia các công trình, dự án ở những nơi khó khăn (biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa) đã hoàn thành nghĩa vụ và người lao động thuộc diện hộ nghèo. Chính quyền cơ sở nơi tuyển chọn giới thiệu cho doanh nghiệp danh sách những lao động thuộc diện nêu trên để doanh nghiệp tuyển chọn.
Chậm nhất sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày người lao động dự tuyển, doanh nghiệp phải thông báo công khai kết quả tuyển chọn.
Doanh nghiệp thông báo thời hạn đào tạo – giáo dục định hướng, thời gian dự kiến đưa đi cho người lao động đã trúng tuyển. Nếu sau 6 tháng kể từ ngày trúng tuyển, doanh nghiệp chưa đưa được người lao động đi làm việc ở nước ngoài, thì thông báo rõ lý do cho người lao động và chính quyền cơ sở hoặc đơn vị nơi cung cấp nguồn lao động biết; nếu người lao động không có nhu cầu đi nữa hoặc doanh nghiệp không thể sắp xếp cho người lao động đi theo nguyện vọng đã đăng ký thì hoàn trả hồ sơ (hộ chiếu, giấy chứng nhận sức khoẻ...) cho người lao động và thanh toán các khoản tiền mà người lao động đã nộp cho doanh nghiệp theo hướng dẫn của Liên bộ Tài chính – Lao động – Thương binh và Xã hội.
Theo Nghị Định số 81/2003/NĐ-CP ngày 17 tháng 7 năm 2003 của Chính Phủ (tại điều 18 chương III), quyền và nghĩa vụ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài thông qua doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu lao động.
Được cung cấp các thông tin về chính sách, pháp luật về xuất khẩu lao động; các thông tin về tiêu chuẩn và điều kiện tuyển dụng, thời hạn hợp đồng, loại công việc sẽ làm và nơi làm việc, điều kiện sinh hoạt, tiền lương, tiền làm thêm giờ, phụ cấp khác (nếu có), chế độ bảo hiểm và những thông tin cần thiết khác theo hợp đồng cung ứng lao động;
Được đào tạo – giáo dục định hướng và cấp chứng chỉ; đóng học phí theo quy định của pháp luật;
Ký hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài với doanh nghiệp xuất khẩu lao động, ký hợp đồng lao động với người sử dụng lao động nước ngoài; thực hiện đúng các hợp đồng đã ký và nội quy nơi làm việc, nơi ở. Không được tự ý bỏ hợp đồng hoặc tổ chức, lôi kéo người khác bỏ hợp đồng lao động;
Được bảo đảm các quyền lợi trong hợp đồng đã ký theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước sở tại. Được cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài bảo hộ về lãnh sự, tư pháp.
Tuân thủ pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước sở tại, tôn trọng phong tục tập quán và có quan hệ tốt với nhân dân nước sở tại. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về quản lý công dân Việt Nam ở nước ngoài;
Nộp phí dịch vụ xuất khẩu lao động cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động: không quá 1 tháng lương theo hợp đồng cho 1 năm làm việc. Riêng đối với sỹ quan và thuyền viên làm việc trên tàu vận tải biển không quá 1,5 tháng lương theo hợp đồng cho 1 năm làm việc.
Nộp tiền đặt cọc (nếu có) và thực hiện thoả thuận ký quỹ hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp Xuất khẩu lao động để bảo đảm việc thực hiện hợp đồng đi làm việc ở nước ngoài;
Nộp thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài sở tại;
Tham gia chế độ Bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam;
Được chuyển về nước thu nhập bằng ngoại tệ và thiết bị, nguyên liệu theo quy định của pháp luật Việt Nam;Khiếu nại, Tham gia chế độ Bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành của pháp luật;
Tố cáo, khởi kiện với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về những vi phạm của doanh nghiệp Xuất khẩu lao động ; khiếu nại với các cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại về những vi phạm của người sử dụng lao động;
Bồi thường thiệt hại cho doanh nghiệp Xuất khẩu lao động và bị xử lý do vi phạm hợp đồng theo quy định pháp luật;
Được bồi thường thiệt hại do doanh nghiệp Xuất khẩu lao động vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Trách nhiệm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.
Phối hợp với các cơ quan nghiên cứu phát triển thị trường, xây dựng chiến lược, kế hoạch, quy hoạch về Xuất khẩu lao động và chỉ đạo thực hiện;
Nghiên cứu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, cơ chế xuất khẩu lao động trình Chính phủ ban hành theo thẩm quyền; hướng dẫn và tổ chức thực hiện;
Đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế về việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo uỷ quyền;
Quy định hồ sơ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; danh mục các nghề và công việc cấm, các khu vực cấm lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài;
Xây dựng và hướng dẫn thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn lao động xuất khẩu; quy định chương trình đào tạo – giáo dục định hướng và ngoại ngữ cho người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài; bồi dưỡng cán bộ doanh nghiệp Xuất khẩu lao động, cán bộ quản lý lao động ở nước ngoài;
Cấp giấy phép theo quy định, đình chỉ hoạt động có thời hạn hoạt động Xuất khẩu lao động theo quy định; đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động Xuất khẩu lao động theo quy định của pháp luật;
Tiếp nhận đăng ký hợp đồng và quản lý hợp đồng của các doanh nghiệp; tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng theo quy định của pháp luật.
Thanh tra, kiểm tra các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp có liên quan đến việc thực hiện đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài.
Phối hợp với các Bộ, Cơ quan ngang Bộ, Cơ quan thuộc chính phủ, Cơ quan Trung ương và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan giải quyết các vấn đề phát sinh trong việc quản lý người Việt Nam làm việc ở nước ngoài; phối hợp với Bộ ngoại giao và Bộ nội vụ tổ chức ban quản lý lao động thuộc cơ quan Đại diện Việt Nam ở những nước và khu vực có nhiều lao động Việt Nam phù hợp với pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
Hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình lao động Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Định hướng Xuất khẩu lao động trong thời gian tới của Coma-Imex.
Tiếp tục ổn định mở rộng các thị trường truyền thống như Đài Loan, Malayxia, các nước Trung Đông, tăng cường hợp tác với Nhật Bản, phát triển thị trường các nước: Ba Lan, Cộng hòa Séc, Singapore...
Tổ chức tốt việc dạy tiếng Nhật và giáo dục định hướng cho tu nghiệp sinh trước khi đi, nâng cao chất lượng, bồi dưỡng tư cách đạo đức và mục đích của tu nghiệp sinh. Cử đại diện qua Nhật Bản để cùng quản lý và hỗ trợ tu nghiệp sinh. Tổ chức áp dụng mô hình quản lý nhóm hoặc các đội tu nghiệp sinh, mỗi nhóm khoảng 10 – 15 người, đứng đầu nhóm là một nhóm trưởng vừa là tu nghiệp sinh đồng thời là người quản lý trực tiếp các tu nghiệp sinh trong nhóm. Phụ cấp thêm cho nhóm trưởng để họ nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình. Xem xét và giảm chi phí của tu nghiệp sinh trước khi đi, công khai mọi chi phí, loại bỏ các khoản thu bất hợp lý, giảm tối đa gánh nặng kinh tế cho tu nghiệp sinh để họ an tâm học tập và trau dồi tay nghề, tạo niềm tin và sự kính trọng của tu nghiệp sinh đối với Trung tâm.
Mục tiêu của Coma-Imex năm 2008 là nâng tổng số lao động xuất khẩu lên tới 1400 lao động. Tích cực đưa lao động chất lượng cao vào các thị trường cao cấp như: Nhật Bản, Hàn Quốc... Nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, tăng uy tín và tạo thương hiệu cho Trung tâm.
3.2. Một số giải pháp của Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động.
Có định hướng phù hợp là một điều kiện cần để có thể thành công trong hoạt động Xuất khẩu lao động, nhưng nó chưa đủ. Để có thể thành công trong lĩnh vực này mỗi doanh nghiệp nói chung và Coma-Imex nói riêng cần tìm cho mình một hướng đi phù hợp trên cơ sở điều kiện thực tế của mình, nhằm huy động và khai thác có hiệu quả các nguồn lực, phát huy lợi thế và khắc phục những điểm yếu của mình. Cụ thể như sau:
3.2.1. Phát triển thị trường - đối tác Xuất khẩu lao động .
Tiếp tục củng cố và nâng chất lượng cung ứng, dịch vụ để tăng thị phần ở các thị trường đã có, làm tốt công tác chuẩn bị để xúc tiến mở thêm các thị trường mới một cách vững chắc.
Nên căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình để lựa chọn và quyết định đầu tư vào những thị trường nào cho thích hợp và có hiệu quả, không nên dàn trải, “chạy theo bằng mọi giá’. Với thị trường mới và “khó tính” cần có sự hợp tác chặt chẽ với Hiệp Xuất khẩu lao động Việt Nam và Cục Quản lý lao động Nhà nước để sớm làm rõ quy trình và đạt được những thoả thuận có lợi nhất. Cụ thể với một số thị trường sau:
- Đài Loan:
+ Đẩy mạnh việc khai thác các hợp đồng cung ứng lao động công nghiệp, xây dựng có mức phí môi giới hợp lý, hợp tác giữa các doanh nghiệp để giảm phí môi giới.
+ Tiếp tục khai thác hợp đồng cung ứng lao động làm việc trong các trung tâm dưỡng lão; thuyền viên tàu cá. Các doanh nghiệp cung ứng thuyền viên tàu cá cần đàm phán để mức lương ngay từ năm đầu đối với lao động đi mới không được thấp hơn “ mức sàn” mà Hiệp hội đã thoả thuận được.
- Malaysia:
Cần lựa chọn hợp đồng bảo đảm công việc ổn định và thu nhập khá. Đồng thời, cần làm tốt hơn công tác tuyên truyền để những người lao động chưa đủ điều kiện tham gia vào thị trường cao hơn nhận thức rõ thực tế và có sự lựa chọn đúng.
- Nhật Bản:
Tiếp tục nâng chất lượng tuyển chọn, đào tạo và quản lý để tăng nhanh số tu nghiệp sinh sang Nhật Bản.
- Hàn Quốc:
Ngoài việc đưa lao động đi Hàn Quốc theo chương trình của tổ chức sự nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có thể cung cấp lao động kỹ thuật cao (chương trình thẻ vàng), cung cấp thuyền viên tàu cá.
- Trung Đông:
+ Thị trường UAE: Tiếp tục khai thác các hợp đồng nhận lao động có nghề trong công nghiệp, xây dựng và phục vụ khách sạn, nhà hàng;
+ Thị trường Cata: Tiếp tục khai thác các hợp đồng cung ứng lao động có nghề xây dựng và công xưởng. Tuy nhiên, cần chú ý đào tạo kiểm tra để trình độ nghề của người lao động thực sự đáp ứng yêu cầu;
+ Các thị trường mới khai thác ở Trung Đông như Arập Sê Út, Cô-oet… cũng có tiềm năng lớn, nhưng nên tập trung cung ứng lao động có nghề trong xây dựng, sản xuất công nghiệp.
- Khu vực Đông Âu:
+ Séc, Slovakia, Nga, Ba Lan là những thị trường mới và có triển vọng. Tuy nhiên, cần phải tìm được đối tác tin cậy, tuân thủ sự hướng dẫn của cơ quan quản lý nhà nước, sự tư vấn của Hiệp hội để tránh rủi ro, tránh làm ẩu và đạt được những thoả thuận có lợi cho người lao động và doanh nghiệp.
+ Australia, Canada, Hoa kỳ là những thị trường có yêu cầu cao, cần tìm hiểu rất kỹ yêu cầu về điều kiện nhập cảnh, phải có sự chuẩn bị công phu về nguồn lao động chất lượng cao, cả về nghề, ngoại ngữ, phải thông tin đẩy đủ, chính xác cho người lao động ngay từ đầu để họ biết mình phải chuẩn bị thế nào, tránh gây ảo tưởng và thất vọng cho họ.
3.2.2. Đa dạng hóa các hình thức và đối tượng lao động.
Coma-Imex chủ yếu Xuất khẩu lao động theo hình thức “xen ghép” với lao động ngoài nước. Chính vì thế số lượng lao động trong mỗi hợp đồng thường không lớn. Trong thời gian tới để tăng nhanh số lượng lao động xuất khẩu, Coma-Imex có thể nghiên cứu và áp dụng thêm các hình thức Xuất khẩu lao động : cung ứng lao động cho các nhà sử dụng lao động quốc tế một cách “đồng bộ” . Chẳng hạn trong một đoàn lao động có cả lao động chất xám như kỹ sư, đốc công, công nhân lành nghề, biết vận hành các trang thiết bị hiện đại, và cả lao động phổ thông. Một hình thức ký kết hợp đồng lao động nữa là “đấu thầu công trình” – đây là một loại hình mới, phức tạp và đòi hỏi nhiều vốn, máy móc trang thiết bị hiện đại, trình độ tay nghề người lao động cao.
Để thực hiện được điều này, Coma-Imex cần phải chủ động liên kết và hợp tác với những doanh nghiệp trong và ngoài nước để làm thí điểm từ những công trình nhỏ, nhằm đúc kết kinh nghiệm và tiến tới những công trình mới. Việc phát triển Xuất khẩu lao động theo loại hình này sẽ khắc phục được tình trạng thụ động trong việc hợp tác và ký kết hợp đồng với đối tác, đồng thời tạo được thế chủ động cho mình. Đây không phải là việc dễ làm nó đòi hỏi các cán bộ công nhân viên và ban lãnh đạo của Coma-Imex phải có tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận mạo hiểm, tự tin và phát huy thế mạnh của mình để đạt được mục tiêu của mình.
3.2.3. Cần có những biện pháp hữu hiệu để quản lý lao động ở nước ngoài.
Lao động bỏ trốn ra ngoài làm ăn và cư trú bất hợp pháp đang là một vấn đề rất bức xúc làm ảnh hưởng đến thị phần lao động của Việt Nam ở một số nước. Tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn ở các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan ở mức rất cao so với lao động của các nước Trung Quốc, Philipines, Indonexia, Thái Lan... Thực tế đó nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam trên các thị trường mới và thị trường truyền thống.
Nguyên nhân của tình trạng này là:
Cơ chế, chính sách của Việt Nam về vấn đề chống bỏ trốn chưa được quy định đầy đủ, đặc biệt là hệ thống chế tài xử lý vi phạm của doanh nghiệp, của người lao động thiếu tính đồng bộ, chưa đủ mạnh để giáo dục, răn đe và phòng ngừa
Doanh nghiệp Xuất khẩu lao động chưa thực hiện tốt các quy định của Nhà nước về Xuất khẩu lao động. Đã có nhiều doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép và đình chỉ hoạt động Xuất khẩu lao động.
Người lao động ra nước ngoài làm việc chỉ đơn thuần nghĩ đến lợi ích kinh tế trước mắt của bản thân, không có ý thức về lợi ích của tập thể, của đất nước và thiếu ý thức tôn trọng pháp luật, chấp hành kỷ luật lao động.
Đa phần lao động xuất khẩu có xuất thân từ nông dân không quen với tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động chặt chẽ... với suy nghĩ làm giàu nhanh, nhận thức về pháp luật và những hậu quả của việc bỏ trốn còn hạn chế. Nguyên nhân sâu xa là doanh nghiệp chỉ chú ý đến việc tăng nhanh số lượng lao động đưa đi.
Lợi ích kinh tế thu được mà chưa thực sự coi trọng công tác giáo dục định hướng cho người lao động trước khi xuất cảnh, họ chỉ làm lấy lệ nhằm qua mắt các cơ quan quản lý.
Để giải quyết tình trạng này, Coma-Imex đã có một số giải pháp sau nhằm nâng cao uy tín của mình trên thị trường Xuất khẩu lao động :
Đối với lao động chuẩn bị sang nước ngoài làm việc, Coma-Imex cần ràng buộc trách nhiệm vật chất của người lao động bằng cách: yêu cầu họ đặt cọc một số tiền hoặc thế chấp tài sản có giá trị tương đương với số tiền mà Coma-Imex phải đền bù nếu họ bỏ trốn.
Đối với lao động bỏ trốn: Coma-Imex cần phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền và các cơ quan chức năng của nước sử dụng lao động, thống nhất ấn định một thời hạn để người lao động bỏ trốn ra trình diện. Trên cơ sở đó, có biện pháp giáo dục và tiếp nhận họ trở lại làm việc, nếu họ không trình diện thì cần có biện pháp xử lý cứng rắn bằng cách trục xuất về nước để cải tạo, giáo dục, làm bài học răn đe cho các trường hợp khác.
Về hợp đồng lao động: Coma-Imex phải cụ thể hóa, chi tiết về trách nhiệm của người lao động trước pháp luật khi đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Đối với những thị trường có từ 100 lao động trở lên, Coma-Imex đã xây dựng văn phòng đại diện nhằm quản lý tốt người lao động làm việc ở nước ngoài. Đối với những thị trường mà số lao động do Coma-Imex đưa đi chỉ dưới 100 người, Coma-Imex đã phối hợp với những doanh nghiệp khác thành lập chung văn phòng đại diện, có trách nhiệm quan tâm quản lý đến lao động của mình, không để xảy ra tệ nạn làm ảnh hưởng đến thị trường lao động chung. Cử cán bộ quản lý có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và thông báo địa chỉ văn phòng đại diện (nếu có); họ tên, địa chỉ, số điện thoại của cán bộ quản lý cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, Cục Quản lý lao động ngoài nước.
Quản lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài. Những vấn đề về lao động vượt quá thẩm quyền thì doanh nghiệp báo cáo bằng văn bản với cơ quan quản lý doanh nghiệp; đồng thời gửi cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại, cục quản lý lao động ngoài nước.
Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Với hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn và tính chất phức tạp vốn có, hoạt động Xuất khẩu lao động cần được quan tâm đúng mức và kịp thời của Nhà nước. Sau hơn 20 năm hoạt động trong lĩnh vực này, Nhà nước ta đã có một hệ thống những chủ trương và chính sách về Xuất khẩu lao động, tuy chưa hoàn thiện nhưng hệ thống chủ trương chính sách này đã giúp cho các doanh nghiệp dễ dàng hoạt động hơn và giúp cho Nhà nước dễ dàng quản lý các doanh nghiệp hoạt động Xuất khẩu lao động. Để khắc phục những tồn tại và khó khăn nảy sinh, giúp doanh nghiệp chuyên doanh Xuất khẩu lao động phát triển nhanh, hiệu quả và đúng hướng, Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật và có những chủ trương chính sách thiết thực hơn nữa. Sau đây là một số kiến nghị:
3.3.1. Bổ sung và hoàn thiện các chủ trương chính sách về Xuất khẩu lao động.
3.3.1.1. Chính sách tài chính:
Hiện nay, các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động vẫn đang phải chịu mức thuế doanh thu và thuế lợi tức của loại hình sản xuất kinh doanh dịch vụ với mức cao. Với mức thuế như vậy thì chưa thể khuyến khích được các doanh nghiệp tập trung đầu tư vào lĩnh vực này. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp đưa người lao động sang làm việc vào các thị trường bình dân. Do đó cần xem xét lại chính sách thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Việc nghiên cứu nhằm nâng mức phí dịch vụ Xuất khẩu lao động thu của người lao động lên mức cao hơn (hiện nay là 12%), tạo điều kiện cho doanh nghiệp khả năng tài chính cho quỹ phát triển sản xuất, đẩy mạnh tái đầu tư và mở rộng quy mô Xuất khẩu lao động.
3.3.1.2. Chính sách Bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là chế độ phục vụ lợi ích của người lao động, đây là vấn đề khá nhạy cảm đối với người lao động. Tuy nhiên hệ thống chính sách bảo hiểm cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn khá phức tạp, nội dung của chính sách bảo hiểm như sau:
Người lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở trong nước hoặc đã có quá trình tham gia bảo hiểm xã hội nhưng đã được giải quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần thì tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện theo quy định của Chính phủ.
Người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở trong nước mà chưa được giải quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần thì được thực hiện như sau: nếu người lao động muốn tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội thì đóng thông qua doanh nghiệp đưa đi, đối với người lao động làm việc theo hợp đồng cá nhân thì đóng tại nơi đã tham gia bảo hiểm xã hội trước khi đi; trường hợp không tiếp tục tham gia bảo hiểm xã hội thì được giải quyết trợ cấp bảo hiểm xã hội 1 lần hoặc bảo lưu thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là hoạt động là cần thiết và gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Chính vì vậy để khuyến khích người lao động tham gia thì Nhà nước cần sớm sửa đổi những thủ tục phiền phức cho các bên tham gia bảo hiểm.
3.3.2. Tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống tổ chức Xuất khẩu lao động.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động Xuất khẩu lao động, cần phải hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lý lĩnh vực Xuất khẩu lao động. Đó là một trong những biện pháp quan trọng được coi là then chốt trong hoạt động Xuất khẩu lao động.
Chính phủ, các Bộ ngành, địa phương cùng các đoàn thể giữ vai trò chính trong việc mở rộng thị trường Xuất khẩu lao động. Theo kinh nghiệm của nhiều nước đã hoạt động lâu năm trong lĩnh vực Xuất khẩu lao động, các cơ quan Nhà nước có liên quan đến lĩnh vực này đều có những nhiệm vụ cụ thể và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước giữ một vị trí then chốt trong việc thúc đẩy và mở rộng hoạt động Xuất khẩu lao động.Vì vậy Chính phủ cần chỉ đạo và tăng cường vai trò của các bộ ngành, các đoàn thể và địa phương trong việc chủ động tìm việc làm ngoài nước. Sau đây là một số biện pháp cụ thể:
- Trong hoạt động đối ngoại: cần hợp tác sử dụng nguồn nhân lực để tranh thủ sự giúp đỡ của các nước khác và làm cơ sở cho việc mở rộng thị trường lao động. Có thể ký kết “ Hiệp định khung” hay “ Thỏa thuận hợp tác” về kinh tế trong đó có nội dung về hợp tác Xuất khẩu lao động. Đồng thời ngành ngoại giao cần phát huy ưu thế của mình ở nước ngoài để nghiên cứu nghiên cứu khả năng tiếp nhận lao động của các nước, và tìm đối tác để giới thiệu với các ngành, các địa phương, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Xuất khẩu lao động.
- Đối với Nhà nước, các đoàn thể và các tổ chức Xã hội cùng các tổ chức phi Chính phủ cần chủ động đưa nội dung hoạt động Xuất khẩu lao động vào trong hoạt động đối ngoại nhằm góp phần khai thông thị trường.
- Thiết lập hệ thống thông tin đồng bộ và thường xuyên giữa Cục quản lý lao động ở nước ngoài, doanh nghiệp, văn phòng đại diện ở nước ngoài, bộ phận quản lý lao động ở nước ngoài nhằm nắm bắt kịp thời thông tin và có biện pháp khai thác thị trường, đồng thời giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh trong hoạt động Xuất khẩu lao động.
- Thành lập hội đồng tư vấn về Xuất khẩu lao động, hội đồng này bao gồm: các thành viên là lãnh đạo Bộ lao động thương binh và Xã hội, Bộ công an, Bộ kế hoạch và đầu tư, Văn phòng chính phủ, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, ban đối ngoại Trung ương, Ban kinh tế Trung ương cùng Ban cán sự Đảng ngoài nước do lãnh đạo Bộ lao động thương binh và Xã hội làm chủ tịch để tư vấn về chủ trương, chính sách Xuất khẩu lao động cho phù hợp với từng thời kỳ. Điều phối sự kết hợp giữa các cơ quan chức năng trong lĩnh vực Xuất khẩu lao động.
- Mở rộng các thành phần kinh tế tham gia Xuất khẩu lao động và gắn liền với việc tổ chức lại hệ thống dịch vụ Xuất khẩu lao động. Điều này vừa đảm bảo sự công bằng cho các doanh nghiệp trong kinh doanh, vừa góp phần nâng cao số lượng lao động đưa đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian tới. Việc tăng các đầu mối trong hoạt động Xuất khẩu lao động có thể gây ra những cạnh tranh nhất định, tuy nhiên thông qua điều đó sẽ làm giảm đi tình trạng độc quyền. Kích thích các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực Xuất khẩu lao động năng động hơn trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường, nâng cao hiệu quả và quy mô Xuất khẩu lao động.
Muốn mở rộng và nâng cao hiệu quả của hoạt động Xuất khẩu lao động, đòi hỏi các Bộ ngành, địa phương phải quan tâm xây dựng và hình thành các doanh nghiệp đủ mạnh về vốn để đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo các cán bộ có tay nghề, ngoại ngữ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động chủ yếu là chưa đủ mạnh. Trong khi đó lĩnh vực này lại đòi hỏi các công ty phải vươn ra thị trường thế giới, phải trực tiếp đi vào thị trường lao động thế giới, tham gia cạnh tranh để khẳng định sự tồn tại và phát triển. Để tập trung vốn cho quản lý, giao dịch và thâm nhập thị trường, nắm bắt thông tin; cần phải bắt đầu bằng việc hình thành các tổ chức kinh doanh Xuất khẩu lao động có quy mô lớn, có tính chất thực nghiệm, hoạt động theo mô hình Tập đoàn kinh doanh. Trong đó các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ về vốn và thông tin thị trường lao động. Như thế, các tổng công ty này sẽ năng động và linh hoạt hơn trong việc thâm nhập thị trường, đáp ứng các yêu cầu quản lý theo cơ chế thị trường. Thực hiện được mô hình này, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách quyền chủ động kinh doanh của hệ thống kinh doanh Xuất khẩu lao động, với quyền can thiệp trực tiếp của hệ thống quản lý Nhà nước.
3.3.3 Xây dựng chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực cho hoạt động Xuất khẩu lao động lâu dài.
Trong kế hoạch đào tạo ở các cơ sở dạy nghề ở Việt Nam, lâu nay mới chỉ phục vụ nhu cầu sử dụng ở trong nước mà chưa tính đến nhu cầu Xuất khẩu lao động. Mặt khác chất lượng đào tạo tại các trường dạy nghề và các cơ sở sản xuất còn rất thấp. Trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho thực tập còn thiếu thốn, lạc hậu về công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng chưa quan tâm đúng mức đến công tác hướng dẫn, kiểm tra chỉ đạo thống nhất việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng của các doanh nghiệp hoạt động Xuất khẩu lao động. Trong khi đó nhiều nước trong khu vực đã có bề dày kinh nghiệm về Xuất khẩu lao động như Philipin, Inđônêxia, Thái Lan... đã sớm nắm bắt được nhu cầu thị trường và Chính phủ các nước này đã quan tâm đầu tư đào tạo nguồn lao động xuất khẩu. Và họ đã có một lực lượng lao động xuất khẩu dồi dào, đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Việt Nam chúng ta có thể học tập kinh nghiệm từ những nước này để có thể chuẩn bị được một lực lượng lao động có chất lượng cao, phục vụ cho hoạt động Xuất khẩu lao động.
Sau đây là một số kiến nghị về vấn đề này:
- Về tổ chức quản lý: Nhà nước ta cần ban hành quy chế tổ chức quản lý hệ thống các trường và trung tâm làm nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Quy định các tiêu chuẩn, điều kiện và thủ tục thành lập trường, trung tâm thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, các trung tâm thuộc doanh nghiệp Xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đó, tổ chức các cơ sở đào tạo gồm các trường và trung tâm chuyên đào tạo, bồi dưỡng và huấn luyện đội ngũ lao động dưới sự, đặt dưới sự quản lý thống nhất về chuyên môn của Bộ Lao động Thương binh và xã hội.
- Về nội dung chương trình đào tạo: cần ban hành văn bản có quy định nội dung chương trình đào tạo và tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo. Bắt buộc mọi trường và trung tâm phải thống nhất thực hiện. Thông qua đó có thể theo dõi, quản lý các khóa đào tạo, huấn luyện tập trung và rèn luyện cho người lao động về ý thức tổ chức kỷ luật, đồng thời làm quen với tác phong công nghiệp.
Bộ Lao động thương binh và xã hội cần biên soạn và ban hành các loại giáo trình học ngoại ngữ có tính chất đặc thù: tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Anh, tiếng Trung.... Và một số tài liệu giáo dục định hướng đảm bảo phù hợp với mục đích của mỗi khóa đào tạo lao động đi từng nước cụ thể. Đối với việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường và trung tâm, xuất phát từ sự cần thiết và vai trò quan trọng của các khóa đào tạo, huấn luyện lao động trước khi đi, Nhà nước, Bộ Lao động Thương binh và xã hội... cần tận dụng mọi nguồn tài chính có thể huy động được: kinh phí sự nghiệp, kinh phí của công ty, của Bộ chủ quản, nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế trong chương trình phát triển nguồn nhân lực tạo việc làm cho người lao động. Để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị, phục vụ cho việc dạy học của các trường, trung tâm, nhằm đảm bảo cho các trường có đủ năng lực đào tạo, bồi dưỡng Xuất khẩu lao động trong những năm tới.
3.3.4. Cải tiến thủ tục Xuất nhập cảnh, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động.
Việc làm thủ tục xuất cảnh cho người lao động hiện nay, đặc biệt là thủ tục xét duyệt dân sự tại cơ quan công an địa phương còn lòng vòng, kéo dài và gây mất thời gian, tiền bạc của người lao động, và cũng dễ phát sinh tiêu cực. Xuất phát từ thực tế trên, đòi hỏi Nhà nước cần có biện pháp chấn chỉnh khâu này, nên đơn giản hóa và rút ngắn thời gian làm thủ tục xuất cảnh cho người lao động.
Thứ nhất, bỏ qua khâu xác nhận của Huyện (quận), Tỉnh (thành phố), chỉ cần có xác nhận của Công an phường (xã) vào đơn đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông. Nghĩa là người lao động mang đơn đề nghị cấp hộ chiếu phổ thông đến Công an phường (xã) để xin xác nhận nhân thân sau đó chuyển hồ sơ về Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ công an để được cấp hộ chiếu. Trong trường hợp này, vai trò của Công an phường (xã) được đề cao. Tuy nhiên để đảm bảo cho việc xác nhận là khách quan, trung thực và tránh tiêu cực thì cần phải quy định rõ trước pháp luật về trách nhiệm của công an phường (xã) trong việc xác nhận.
Thứ hai, cho phép việc xác nhận đối với nhân thân người lao động trong đơn xin cấp hộ chiếu phổ thông của công an từ phường (xã) đến tỉnh (thành phố), có thể tiến hành cho bất cứ một công dân nào có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài, không cần hỏi có một giấy phép hay bất cứ một loại giấy tờ nào khác. Có như vậy thì người lao động mới có thể làm đơn với đầy đủ xác nhận của Công an các cấp và được tuyển chọn đi làm việc ở nước ngoài, nhanh chóng đáp ứng hồ sơ để làm thủ tục nhận hộ chiếu. Và người lao động có thể chủ động về thời gian khi làm thủ tục ở cơ quan công an địa phương, do đó sẽ phần nào hạn chế được tiêu cực ở khâu này, đồng thời cần quy định cụ thể mức nộp lệ phí thẩm tra và thời hạn xác nhận cụ thể với từng cấp Công an từ phường (xã) đến tỉnh (thành phố).
3.3.5. Cải tiến công tác quản lý lao động ở nước ngoài.
Để có thể quản lý người lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp hoạt động Xuất khẩu lao động đã trực tiếp cử đại diện của mình ra nước ngoài để theo dõi việc thực hiện hợp đồng, giải quyết tranh chấp trong phạm vi xí nghiệp. Tuy nhiên có rất nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động, trong quản lý, cần sự phối hợp với các cơ quan và chính phủ của nước sở tại. Khi đó, đại diện của các doanh nghiệp Xuất khẩu lao động không có đủ tư cách pháp nhân để giải quyết nên chưa bảo vệ được quyền lợi của người lao động. Theo đánh giá của các chuyên gia thuộc tổ chức lao động Quốc tê (ILO), thì các tổ chức này vừa tốn kém cho các doanh nghiệp, vừa không đạt hiệu quả cao. Vì doanh nghiệp nào cũng phải có cán bộ quản lý trực tiếp nhưng họ lại không phối hợp được ngoài nước. Hạn chế nhất là không có được tiếng nói với Chính phủ nước sử dụng lao động mỗi khi phát sinh những vấn đề lớn.
Thực tế trên cho thấy nước ta cần sớm hình thành hệ thống Tùy viên lao động (hoặc bộ phận quản lý lao động) ở những nước có số lượng lớn lao động Việt Nam làm việc. Hoặc những khu vực có khả năng tiếp nhận lao động của ta với số lượng lớn trong thời gian tới để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, phát triển thị trường lao động, nắm bắt tình hình, nghiên cứu các hệ thống chính sách, pháp luật của nước sở tại. Kịp thời giải quyết các tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động và các tổ chức kinh tế Việt Nam. Các nước có truyền thống Xuất khẩu lao động xung quanh ta có rất nhiều kinh nghiệm tốt; muốn đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu lao động ta cần phải nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm của các nước đó, và rút ra bài học cần thiết cho công tác tổ chức quản lý lĩnh vực hoạt động này.
3.3.6. Chính sách sử dụng lại nguồn lao động đã hết hạn làm việc tại nước ngoài.
Giải quyết việc làm cho lao động hết hạn về nước là một vấn đề hết sức quan trọng. Tỷ lệ lao động đi làm việc trong những năm gần đây so với số việc làm được giải quyết hàng năm khá cao. Sau một thời hạn nhất định họ phải về nước làm tăng số lao động cần giải quyết việc làm hàng năm.
Vấn đề việc làm sau khi về nước cũng là một nỗi lo của người lao động đi Xuất khẩu lao động. Họ luôn suy nghĩ là khi về nước mình sẽ làm gì? Làm việc ở đâu? Và như thế nào?
Trong quá trình hội nhập và phát triển, chúng ta đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực, có chất lượng – trình độ kỹ thuật, kỹ năng nghề cao. Tuy nhiên, mỗi năm có hàng chục ngàn lao động xuất khẩu trở về nước mang theo hành trang tay nghề, kỹ thuật và kinh nghiệm làm việc trong môi trường công nghiệp, hiện đại, lại không được tái sử dụng. Trong khi đó để đào tạo một lao động đạt trình độ kỹ thuật, tay nghề cao ở trong nước, nhà nước và người lao động phải đầu tư một số tiền khá lớn. Và nhiều năm qua, dù than vãn thiếu lao động kỹ thuật, lao động có tay nghề, nhiều địa phương hầu như chưa quan tâm và có chiến lược tái sử dụng nguồn nhân lực xuất khẩu trở về.
Thật vậy, sau nhiều năm tham gia vào lĩnh vực Xuất khẩu lao động theo cơ chế thị trường, Việt Nam đã đưa trên 42 vạn lao động đến gần 50 nước, vùng lãnh thổ làm việc. Bình quân, mỗi năm VN đưa khoảng 60-70 ngàn lao động đi nước ngoài làm việc, trong đó 2/3 làm việc trong những nhà máy công nghiệp với nhiều ngành nghề khác nhau. Nhờ nguồn thu nhập hàng tháng cao gấp nhiều lần trong nước, số lao động đang làm việc ở nước ngoài gởi về nước khoảng 1,5 tỷ USD/năm, trong đó năm 2005 tăng lên 1,6 tỷ USD. Nguồn ngoại tệ thu được từ ngành công nghiệp mới mẻ này được người lao động và gia đình họ sử dụng như thế nào? Có bao nhiêu lao động xuất khẩu trở về biết sử dụng kinh nghiệm làm ăn và những đồng vốn tích cóp từ những tháng năm lao động vất vả, cực nhọc để tự tạo việc làm hoặc trở thành chủ doanh nghiệp, chủ trang trại?
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước thì chưa có địa phương nào thống kê và báo cáo về bức tranh “hậu” xuất khẩu lao động ở địa phương mình ra sao.
Thực tế cho thấy, ngoài ưu tiên cải thiện cuộc sống, xây dựng nhà cửa, mua đất đai, vật dụng gia đình…, chỉ có một số ít dùng nguồn vốn này để đầu tư sinh lợi, tự tạo việc làm hoặc làm chủ doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, trang trại. Mặt khác, do trở về nước không có việc làm và không được chính quyền, cơ quan chức năng tại địa phương tư vấn dùng nguồn vốn làm gì cho hiệu quả, nhiều người trở thành tay trắng sau vài năm về nước.
Theo các chuyên gia về lao động, thời gian qua do đất nước còn nghèo, tỷ lệ thất nghiệp cao, chúng ta chỉ mới chú trọng khâu mở thị trường và đưa nhiều lao động đi nước ngoài làm việc. Như thế, mục đích mà chúng ta đặt ra mới giải quyết được phần ngọn - đó là tạo thêm việc làm, tăng thu nhập, giúp họ đổi đời, xóa nghèo nhanh. Trong khi đó, cái được lớn hơn không đơn thuần là tiền - thu nhập thì chưa được chúng ta khai thác.
Chính vì vậy, chính quyền và các cơ quan chức năng tại địa phương cần phải quan tâm bằng cách tư vấn, chỉ dẫn cách đầu tư đồng vốn sao cho hiệu quả hoặc giới thiệu việc làm phù hợp với tay nghề, kỹ thuật của người lao động thì họ sẽ đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Đồng thời Nhà nước và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cần có chế độ tiền lương hợp lý để thu hút lượng lao động này vào làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp của địa phương và của cả nước. Bên cạnh đó cần thông tin rộng rãi những cơ hội việc làm sau khi lao động về nước cho người lao động. Muốn vậy, phải có sự kết hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa ngành thương binh và xã hội với các nhà máy, xí nghiệp trong các khu công nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng lao động. Như vậy chắc chắn chúng ta sẽ tận dụng được nguồn lao động có tay nghề đã qua đào tạo, phát huy được vai trò của họ trong sự phát triển đất nước.
KẾT LUẬN
Với những lợi ích thiết thực và hiệu quả to lớn mà Xuất khẩu lao động đem lại cho đất nước ta. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X xác định rõ: “Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, trong những năm qua, công tác giải quyết việc làm và phát triển thị trường lao động đã thu được nhiều kết quả khả quan.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động Xuất khẩu lao động của Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex trong những năm vừa qua, cho thấy Trung tâm đã có những mục tiêu, phương hướng đúng đắn và phù hợp với mục tiêu của toàn ngành, và yêu cầu phát triển của Trung tâm. Trong những năm vừa qua Coma-Imex đã đạt được những kết quả khả quan, đóng góp không nhỏ vào chủ trương đẩy mạnh Xuất khẩu lao động trên toàn quốc.
Đạt được những kết quả đó là nhờ sự cố gắng của Lãnh đạo cơ quan cùng tập thể cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được, Coma-Imex còn một số hạn chế cần khắc phục, bởi nó ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của hoạt động Xuất khẩu lao động. Để khắc phục những hạn chế đó, Coma-Imex cần có những biện pháp thiết thực trong việc mở rộng và phát triển thị trường, đồng thời phải chuẩn bị lực lượng lao động có chất lượng tốt để cung ứng cho thị trường lao động quốc tế, có khả năng đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy gay gắt.
Hiện nay thị trường Xuất khẩu lao động trên thế giới đang được mở rộng, với kinh nghiệm và khả năng của Trung tâm cùng các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế, chắc chắn Trung tâm sẽ đạt được những kết quả cao hơn nữa, góp phần tích cực vào sự phát triển của hoạt động Xuất khẩu lao động trên cả nước.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp: “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu lao động tại Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex” đã phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động Xuất khẩu lao động tại Coma-Imex, đồng thời chỉ ra những mặt tích cực cũng như tồn tại của hoạt động Xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động Xuất khẩu lao động cho Trung tâm trong thời gian tới.
Do khả năng và thời gian có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy cô cùng các bạn đọc để em có thể hiểu sâu sắc và hoàn thiện chuyên đề của mình hơn nữa. Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cục quản lý lao động với nước ngoài - Bộ lao động Thương binh và Xã hội - Tạp chí việc làm ngoài nước.
Tạp chí Lao động và Xã hội – Các số 2005, 2006, 2007.
Tạp chí Kinh tế phát triển – các số 2005, 2006, 2007.
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế - Trường Đại học ngoại thương.
Giáo trình ngoại thương Việt Nam - Trường Đại học ngoại thương.
Báo điện tử: Vietnamnet.com.vn; Vnexpress.com.vn...
Luật người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng các khóa.
Các văn bản và tài liệu về Xuất khẩu lao động – Nhà xuất bản Lao động và Xã hội.
Các báo cáo và tài liệu của Trung tâm Xuất nhập khẩu Coma-Imex.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11427.doc