Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp huy động vốn hiện có, VIEXIM có thể huy động vốn bằng các cách sau:
- Doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong nước những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc công ty tiến hàng liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vn và sử dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt dông mà công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới.
Có thể nói, liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì phần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện,
79 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty phát triển Xuất Nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a các năm trước thì nó có phần chậm lại, măc dù công ty đã có những nỗ lực cố gắng đáng kể.
Bảng 14: Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng năm 1999
Stt
Tên hàng
Số lượng (Tấn)
Trị giá (1000USD)
1
Nhãn quả khô
312
3 101
2
Hải sản
874
1 826
3
Hạt tiêu
469
929
4
Cao su
263
351
5
Lạc nhân
597
231
6
Hàng may mặc
208
7
Chè
31
46
8
Than hoạt tính
248
44
9
Đậu xanh
102
40
10
Quế
18
14
11
Hồi
12
7
12
Dầu trẩu
6
2
Tổng
6 799
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty VIEXIM)
Năm 1999, một số mặt hàng xuất khẩu như lợn sữa, vải quả khô, hàng mây tre. . . không còn nữa mà thay vào đó kà các mặt hàng như hạt tiêu, hàng may mặc.
Các mặt hàng nhãn quả khô, hải sản, lạc nhân vẫn chiếm ưu thế trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này có phần bị giảm sút so với năm trước. Nguyên nhân chính của sự giảm sút này phần lớn là do sự thay đổi nhu cầu trên các thị trường xuất khẩu. Việc nghiên cứu nắm bắt và xử lý các thông tin của Công ty chưa được kỹ lưỡng làm cho hoạt động của Công ty còn gặp nhiều khó khăn, công tác thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu của công ty còn nhiều yếu kém, trong khi đó Công ty còn phải cạnh tranh với các Công ty, tổng Công ty xuất khẩu chuyên ngành.
Có thể nói, mặt hàng và giá trị xuất khẩu của công ty đã có từng bước tiến triển rõ rệt, tuy nhiên tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu vẫn chưa cao. Vì vậy để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm của mình, Công ty cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, nghiên cứu mặt hàng xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Mục tiêu năm 2000 của công ty là tiếp tục mở rộng thị trường, mặt hàng xuất khẩu, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Công ty dự định sẽ xuất khẩu xe máy do hợp doanh lắp ráp sang một số thị trường trong khu vực.
5. Các loại hình Xuất khẩu của Công ty
Trong hoạt động xuất khẩu, Công ty VIEXIM có chủ trương tận dụng mọi khả năng hiện có để thực hiên đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu nhằm tăng thu nhập cho Công ty. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu của Công ty chủ yếu diễn ra theo hai hình thức: Xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu uỷ thác.
Bảng 15: Kim ngạch xuất khẩu của Công ty theo hình thức xuất khẩu
Đơn vị: 1000USD
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
XK trực tiếp
XK uỷ thác
3 014
801
79
21
3 711
1 172
76
24
5 182
1 215
81
19
5 643
1 156
83
17
Tổng
3 815
100
4 883
100
6 397
100
6 799
100
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty VIEXIM)
Trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu trực tiếp luôn luôn giữ vị trí then chốt. Năm 1996, kim ngạch xuất khẩu trực tiếp chiếm tới 79% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Sang năm 1997, tuy tỷ lệ % có giảm một chút nhưng kim ngạch xuất khẩu của năm 1997 đã tăng lên kéo theo giá trị kim ngạch xuất khẩu trực tiếp cũng tăng lên.
Năm 1998, 1999 xuất khẩu trực tiếp đã giữ một vị trí rất cao, chiếm trên 80% tri giá xuất khẩu của Công ty. Điều này hoàn toàn phù hợp bởi vì chủ trương của công ty là ưu tiên cho việc tự bỏ vốn cho kinh doanh để thu được hiệu quả cao. Ngoài ra công ty có thể tận dụng các khả năng như con người, danh nghĩa của Công ty để làm các dịch vụ thương mại. Với chủ trương này Công ty đã chủ động huy động vốn tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng để xuất khẩu. Tuy vậy tình hình thị trường luôn biến động theo hướng bất lợi cho Công ty, nên những cố gắng của Công ty chỉ phần nào đạt được những kết quả nhất định nhưng khiêm tốn.
Bảng 16: Lợi nhuận thu được từ các hình thức xuất khẩu của công ty
Đơn vị: 1000VND
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
Trị giá
%
XKTrực tiếp
XK Uỷ thác
556565
98217
85
15
750986
153817
83
17
1217893
135322
90
10
1378673
170398
89
11
Tổng
654782
100
904803
100
1353215
100
1549017
100
(Nguồn: Báo cáo xuất khẩu của công ty VIEXIM)
Năm 1999, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu trực tiếp đạt kết quả cao nhất, chiếm 89% tổng lợi nhuận từ xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp của Công ty được thực hiện với việc bỏ vốn ra mua hàng xuất khẩu sau đó trực tiếp bán hàng hoá đó ra thị trường nước ngoài. Vì phải bỏ vốn vào thực hiện nên hiệu quả đạt được thường cao và nó phát huy được tính chủ động của Công ty. Tuy vây, đôi khi Công ty cũng gặp phải rủi ro khi các khách hàng vi phạm hợp đồng. Chẳng hạn năm1997, Công ty đã gặp phải vài trường hợp gây thiệt hại như: khi hàng hoá được vận chuyển tới nơi giao hàng nhưng do tình hình thị trường thay đổi khách hàng đã không nhận hàng buộc Công ty phải bán cho khách hàng khácvới giá thấp hơn để thu hồi vốn.
Nếu so với hoạt động xuất khẩu trực tiếp thì hoạt động xuất khẩu uỷ thác đem lại hiệu quả thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, hình thức này không đòi hỏi Công ty phải bỏ vốn như trong xuất khẩu trực tiếp. Công ty chỉ đứng ra làm một số thủ tục xuất khẩu sau đó nhận phí uỷ thác từ đơn vị uỷ thác. Do vậy hình thức này dễ làm và việc thanh toán chắc chắn hơn, nhưng nó chưa phát huy được tính chủ động của Công ty mà chỉ là hình thức tạm thời, không cơ bản.
6. Một số vấn đề khác trong hoạt động xuất khẩu của công ty.
Do đặc điểm mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu, hình thức xuất khẩu, nguồn hàng xuất khẩu của công ty đã dẫn đến một số đặc điểm khác liên quan đến hoạt động xuất khẩu của công ty như:
- Về hoạt động đóng gói, bao bì hàng hoá cho xuất khẩu:nhình chung công ty không phải trực tiếp thực hiện khâu này mà phần lờn là do các cơ sở cung cấp thực hiện. Chẳng hạn đối với cao su thiên nhiên loại CSV 5L, CSV5, CSV10, CSV20 được các cơ sở đóng gói thành từng tảng 331/3 kg đựng trong túi nilon; đối với hoa quả thì đóng thành từng thùng, từng bao.
- Về điều kiện cơ sở giao hàng:do thị trường xuất khẩu của công ty phần lớn là thị trường Trung Quốc nên trong thời gian qua công ty thường áp dụng điều kiện DAF (Dilivered at Frontier - giao tại biên giới - Incoterms 1990). Theo hình thức này, công ty phải đưa hàng tới địa điểm giao hàng tại cửa khẩu bằng đường biển hoặc đường bộ, Công ty phải làm các thủ tục xuất khẩu trước khi đưa hàng tới điạ điểm giao hàng và trước khi hoàn tất việc giao hàng công ty phải chịu mọi chi phí có liên quan.
Bên cạnh điều kiện DAF, công ty cũng đã áp dụng điều kiện FOB ( Free on Board - Incoterms 1990) tại một số cảng.
Về thanh toán:công ty và phía khách hàng thường áp dụng phương thức chứng từ L/C đối với các hợp đồng lớn và phương thức trao tay đối với việc mua bán tại chợ biên giới với khối lượng nhỏ. Đối với thanh toán theo phương thức L/C công ty phải lập bộ chứng từ bao gồm: hoá đơn thương mại, vận đơn vận tải, giấy giám định kiểm nghiệm hàng hoá.
III. Những đánh giá rút ra từ nghiên cứu thực trạng xuất khẩu của công ty VIEXIM
1. Những thành tựu và hạn chế của công ty trong thời gian qua.
1. 1 Những thành tựu đạt được.
Với sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên và ban lãnh đạo của công ty, qua hơn 6 năm đi vào hoạt động kinh doanh, mặc dù gặp nhiều khó khăn song công ty cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định, đó là:
Thứ nhất, trong các năm hoạt động, năm nào Công ty cũng bù đắp được chi phí và có lãi, đảm bảo phần nào mục tiêu lợi nhuận của công ty. Ngay năm đầu hoạt động, Công ty đã đem về gần 250 triệu đồng lợi nhuận (sau khi đã trừ đi thuế lợi tức) và đã trích một phần vào đầu tư vào vốn kinh doanh của mình. Các năm 1995, 1996 Công ty vẫn đảm bảo được mức lợi nhuận nhất định và tiếp tục đầu tư thêm vào vốn kinh doanh của mình. Sang các năm sau đó, Công ty đã khắc phục được khó khăn của các năm trước, vì vậy lợi nhuận thu được của Công ty đã đạt được một mức khá cao (gấn 3 tỷ đồng năm 1999)
Thứ hai, qua thời gian hoạt động không dài nhưng Công ty VIEXIM đã từng bước tạo lập uy tín trong kinh doanh. Hiện nay tên tuổi của Công ty mặc dù không phải là nổi tiếng nhưng trong giới kinh doanh ở Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Lạng Sơn. . . thì cũng không phải là xa lạ. Đối với quan hệ kinh doanh thương mại quốc tế, Công ty đã tạo được niềm tin với các khách hàng như Trung Quốc, Liên Bang Nga, Hồng Kông. . . Ngoài ra, Công ty cũng đang mở rộng quan hệ sang thị trường Mỹ, Đức. . . đây vừa là thành tựu, vừa là cơ hội để Công ty có thể tiếp tục duy trì, xâm nhập và mở rộng các quan hệ buôn bán, trao đổi với các thị trường này.
Thứ ba, mặc dù thời gian tham gia hoạt động kinh doanh chưa phải là dài nhưng Công ty đã từng bước khẳng định sự vững vàng của mình trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh Xuất Nhập khẩu. Qua quá trình hoạt động, Công ty cũng đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu:
Trong việc giao dịch với khách hàng, Công ty đã biết phân loại từng khách hàng với nhu cầu của họ ở các thị trường khác nhau để có các ứng xử hợp lý.
Trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiên kế hoạch, Công ty đã nhận ra rằng, trong cơ chế thi trường, điều kiện tiền đề cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả là phải có sự kết hợp giữa khoa học và thực tiễn trong việc lập kế hoạch kinh doanh.
Công ty cũng đã nhận thức rõ vai trò của các hoạt động xúc tiến và đang từng bước đầu tư vào hoạt động này nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1. 2. Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu rất nhièu mặt hàng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại cuả từng mặt hàng là rất thấp. Công ty cũng chưa xây dựng được kế hoạch kinh doanh cho việc thực hiện, do vậy giữa việc đề ra kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện nó còn có một khoảng cách quá xa. Nó đã dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty hiện nay chủ yếu dựa vào các phi vụ mang tính bị động và thất thường.
Thứ hai, khả năng về tài chính và khả năng huy động vốn kinh doanh của Công ty còn yếu. Trong khi đó Công ty lại phải phân bổ vốn cho quá nhiều các mặt hàng nên hiệu quả đạt được còn thấp. Chính do khả năng còn hạn hẹp về vốn kinh doanh đã hạn chế hoạt động mang tính xúc tiến của Công ty nhằm tìm kiếm thị trường, khách hàng. Do vậy, trong thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất nhỏ lẻ, ngồi chờ khách hàng nên hiệu quả chưa cao.
Thứ ba, hoạt động xuất khẩu của Công ty còn yếu, biểu hiện ở thị trường xuất khẩu còn hạn hẹp, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao (do nguồn hàng xuất khẩu của Công ty được thu gom từ nhiều nơi, không đồng bộ). Bên cạnh đó, Công ty cũng chưa có biên pháp cụ thể nhằm thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực.
Như vậy, thời gian qua bên cạnh những thành tựu nhất định Công ty cũng bộc lộ những hạn chế của mình. Điều quan trọng là Công ty đã nhận thấy rõ những hạn chế đó và đang tìm cách khắc phục. Hy vọng trong thời gian tới Công ty sẽ có những kết quả đáng mừng.
2. Đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đạt được một số kết quả rất đáng khích lệ. Lợi nhuận thu được từ xuất khẩu luôn tăng lên trong các năm, mặt hàng xuất khẩu của Công ty đã phần nào khẳng định được vị trí của mình trên thị trường quốc tế. Hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty được phản ánh qua bảng sau:
Bảng 17: Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động XK của Công ty
1996
1997
1998
1999
Lợi nhuận từ XK(1000 USD)
654782
904803
1353215
1549071
Tỷ suất LN XK (%)
*LNXK/Tổng DTXK
*LNXK/Tổngchi phí cho XK
1,64
1,67
1,68
1,71
1,84
1,87
1,75
1,78
Hiệu quả kinh tế của XK
1,016
1,017
1,019
1,018
(Nguồn: Báo cáo của Công ty VIEXIM)
Như vậy tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu của Công ty đạt được ở mức tương đối ổn định và chấp nhận được chứ chưa phải ở mức cao. Tuy nhiên nếu so với các hoạt động kinh doanh trong nước thì hoạt động xuất khẩu thu được lợi nhuận cao hơn.
Năm 1996, Công ty tập trung chủ yếu nguồn lực cho xuất khẩu (doanh thu xuất khẩu chiếm 83% tổng doanh thu) nhưng lợi nhuận thu được từ xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 74% tổng lợi nhuận của Công ty. Có thể nói, trong thời gian này hiệu quả hoạt động xuất khẩu của Công ty còn ở mức thấp.
Sang các năm 1997,1998 nhờ có những thay đổi lớn về mặt hàng, về thị trường xuất khẩu và nhờ có chiến lược kinh doanh đúng đắn, Công ty đã khắc phục được những yếu kém của năm trước và đưa tỷ suất lợi nhuận lên một mức cao hơn.
Năm 1999, lợi nhuận thu được từ hoạt đông xuất khẩu đạt ở mức cao nhất (1,54 tỷ đồng), chiếm 52% tổng lợi nhuận của Công ty. Tuy nhiên nếu so với con số 55% doanh thu đạt được từ hoạt động xuất khẩu trên tổng doanh thu thì ta thấy hoạt động xuất khẩu năm 1999 chưa đạt hiệu quả cao. Nguyên nhân là trong thời gian này Công ty gặp rất nhiều khó khăn về thị trường, nguồn hàng xuất khẩu. Bởi vì các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng nhiều đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về hàng hoá xuất khẩu, thị trường xuất khẩu; doanh nghiệp phải bỏ ra một chi phí lớn để có được nguồn hàng xuất khẩu đảm bảo tính cạnh tranh cao.
Như vậy, bằng những nỗ lực cố gắng của tập thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, đặc biệt là các cán bộ làm công tác xuất khẩu, hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đạt được những kết quả nhất định, khẳng định được vai trò của nó trong hoạt động kinh doanh của công ty.
Chương III
Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ở công ty VIEXIM
I. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của công ty
1. Những thuận lợi và khó khăn trong kinh doanh của Công ty VIEXIM
1. 1. Thuận lợi
Việc đánh giá đúng những thuận lợi sẽ giúp cho Công ty tận dụng và khai thác nó một cách triệt để nhằm phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Một số thuận lợi mà Công ty VIEXIM đang có được là:
Thứ nhất, Công ty có một đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu có kinh nghiệm, có năng lực và bản lĩnh vững vàng, có phẩm chất đạo đức tốt. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty đã tham gia hoạt động kinh doanh từ lâu lại có trình độ đại học và trên đại học nên họ rất am hiểu về nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng; nắm bắt và đánh giá tình hình thị trường một cách nhanh chóng, chính xác. Do vậy, có thể nói đây là một thuận lợi lớn của Công ty. Nếu Công ty biết động viên khuyến khích đội ngũ cán bộ này để họ nhiệt tình hơn trong công việc thì hoạt động kinh doanh của Công ty chắc chắn sẽ có nhiều thuận lợi hơn.
Thứ hai, thị trường xuất khẩu chính của Công ty (thị trường Trung Quốc) là một thị trường có tiềm năng lớn về nhu cầu tiêu thụ và là thị trường có nhiều điều kiện thuận lợi cho công ty thâm nhập sâu hơn. Hiện nay, thị trường Trung Quốc không chỉ tiêu thụ cao su thiên nhiên, hoa quả mà còn tiêu thụ nhiều mặt hàng khác của Việt nam như gạo, thuỷ sản, một số sản phẩm nông sản khác.
Thuận lợi cho Công ty trong việc xuất khẩu sang thị trường này đó là sự gần gũi về mặt địa lý. Công ty có thể tham gia nghiên cứu thị trường Trung Quốc được dễ dàng hơn do việc đi lại thuận tiện với chi phí thấp hơn các thị trường khác. Chính điều này sẽ giúp cho Công ty có khả năng nắm bắt được tình hình thị trường Trung Quốc một cách nhanh nhạy để Công ty có thể đáp ứng kịp thời các nhu cầu phát sinh trên thi trường. Qua đó đảm bảo mục tiêu lợi nhuận và Công ty có thể thâm nhập vào thị trường này một cách sâu hơn.
Thị trường Trung Quốc cũng là nơi có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, phong tục, tập quán với Việt nam. Do vậy, trong quan hệ giao dịch hai bên dễ dàng hiểu nhau hơn và nhanh chóng đi đến các thoả thuận trong buôn bán, việc đáp ứng các nhu cầu cũng được thực hiện một cách tốt hơn. Hiện nay, quan hệ giữa Việt nam và Trung Quốc đang được mở rộng và tăng cường về mọi mặt. Đây là một điều kiện rất thuận lợi cho Công ty trong việc đẩy mạnh các hoạt động buôn bán với Trung Quốc. Công ty có thể tham dự các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp hai nước để tìm kiếm bạn hàng, mở rộng quan hệ với bạn hàng Trung Quốc để hợp tác lâu dài.
1. 2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, Công ty VIEXIM cũng đang gặp phải một số khó khăn, đó là:
Thứ nhất, là khó khăn về vốn kinh doanh: Hiện nay, vốn kinh doanh của Công ty đang rất eo hẹp, trong khi đó việc huy dộng vốn cũng gặp phải nhiều khó khăn. Chúng ta đã biết nguồn vốn của Công ty bao gồm: nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tự bổ sung và nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn do ngân sách Nhà nước cấp rất nhỏ, được cấp khi mới thành lập Công ty, còn vốn chủ yếu là đi vay. Do vậy, khi vay vốn Công ty phải có sự cân nhắc giữa hiệu quả đồng vốn vay và chi phí (lãi suất) phải trả cho đồng vốn đó. Chính điều này đã cản trở Công ty trong việc huy động vốn. Bởi vì hiện nay hiệu quả kinh doanh nhiều mặt hàng rất thấp, không đủ trả chi phí vay cho các khoản tiền tín dụng. Công ty cũng không thể hy vọng các khoản tín dụng từ phía khách hàng hoặc người cung cấp.
Thứ hai, là sức ép về cạnh tranh: Hiện nay, trong cơ chế thị trường, với chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, Công ty VIEXIM đã chịu một sức ép cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp, các đơn vị cạnh tranh cùng tham gia hoạt động như Công ty. Do vậy, việc chiếm lĩnh thị trường, tiêu thụ sản phẩm là rất bất lợi cho Công ty, một đơn vị có quy mô kinh doanh nhỏ, vốn ít. Chỉ nói riêng việc xuất khẩu mặt hàng cao su ở Công ty cho thấy, Công ty đã phải gặp rất nhiều khó khăn vì hiện nay các đơn vị sản xuất cao su được quyền xuất khẩu trực tiếp nên họ đã chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng và tự mình đứng ra thực hiện các hợp đồng xuất khẩu. Vì vậy, để nâng cao sức cạnh tranh, Công ty cần phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu từ khâu thu gom.
2. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty
2.1. Các định hướng dài hạn chung
Để hoàn thành kế hoạch và đảm bảo hiệu quả kinh doanh cao, công ty cần tập trung vào các vấn đề sau:
- Tăng cường công tác chính trị tư tưởng cho cán bộ công nhân viên để họ thấy hết được những mặt thuận lợi và khó khăn của công ty, từ đó có biện pháp và cách thức giải quyết hợp lý. Đồng thời phải thực hiện tốt các chính sách đối với công nhân viên, động viên họ vì lợi ích của mình và sự phát triển của công ty mà nỗ lực công tác.
- Mở rộng thị trường kinh doanh: trên cơ sở duy trì các khách hàng truyền thống, thị trường chính cần tiếp tục củng cố và mở rộng sang các thị trường khác như Châu Phi, Bắc Mỹ, Châu Âu . . . . Trong điều kiện hiện nay, việc tìm kiếm và mở rộng thị trường là hết sức cần thiết và khó khăn. Kinh tế trong thời gian qua cho thấy, nếu không củng cố, duy trì và phát triển những thị trường đã có, không tích cực tìm kiếm khảo sát thị trường mới thì công ty sẽ không xoay sở kịp thời khi những thị trường truyền thống biến đổi mạnh. Công ty cần theo dõi, bám sát giá cả thị trường và cơ cấu mặt hàng đó phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu được tốt hơn.
Để tạo uy tín với khách hàng nước ngoài công ty phải thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản cam kêts trong trường hợp đồng về số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng, công ty tuyệt đối giữ chữ tín đối với khách hàng.
- Chú trọng tới công tác chất lượng sản phẩm: công ty không ngừng thay đổi mẫu mã, hình dáng sản phẩm. Để đạt được điều này cần có các chính sách khuyến khích phát triển khả năng của người cung ứng.
Những người trực tiếp làm công tác xuất khẩu phải thực sự bám sát sản xuất để nắm rõ nhu cầu thị trường, các yêu cầu khác biệt của từng khách hàng để đề ra hướng chủ đạo cho người tổ chức thu mua nhằm thu mua được những sản phẩm phù hợp với những quy định trong hợp đồng xuất khẩu, tránh để xảy ra tình trạng thu gom không tiêu thụ được gây thiệt hại cho công ty và người cung ứng, mất lòng tin với khách hàng.
- Củng cố vai trò nòng cốt chỉ đạo của công ty trên các khâu: Nghiên cứu thị trường, xử lý thông tin, định hình các kênh thu mua, giá đầu vào, bảo quản, bao bì đóng gói, kiểm tra chất lượng, nhằm duy trì và ổn định kinh doanh xuất khẩu của công ty.
- Huy động vốn từ các nguồn để tăng khả năng vốn, từng bước tổ chức liên doanh liên kết với các xưởng gia công chế biến để có được nguồn hàng ổn định thông qua đó, công ty có thể phần nào khống chế được thị trường đầu vào cho hoạt động xuất khẩu của mình.
- Tăng cường công tác quản lý tài chính, sử dụng vốn có hiệu quả: công ty áp dụng chế độ ký kết hợp đồng đối với các tổ chức kinh doanh để đảm bảo hoạt động kinh doanh được ổn định . Phải cụ thể hoa các công việc cho người lao động, phân rõ trách nhiệm được gia cho từng cán bộ công nhân viên quản lý kinh doanh xuất nhập khẩu.
2.2. Phương hướng trong những năm tới.
Trên cơ sở vật chất, kỹ thuật, tiền vốn và lao động hiện có, cùng với những thuận lợi của công ty, công ty đã đề ra phương hướng kế hoạch kinh doanh trong nhiều năm tới như sau:
Năm 2000, công ty tiếp tục phát huy các kết quả đạt được của những năm sau, cụ thể là:
Bảng 18: Một số chỉ tiêu dự kiến năm 2000
Chỉ tiêu
Trị giá
I. Tổng kim ngạch XNK (1000USD)
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
11 000
7 500
3 500
II. Tổng doanh thu (1000 VND)
Doanh thu XK
Doanh thu từ HĐ KD trong nước
190 000 000
105 000 000
85 000 000
III. Nộp ngân sách Nhà nước (1000VND)
3 954 500
IV. Lợi nhuận dự kiến(1000VND)
Lợi nhuận từ XK
Lợi nhuận từ kinh doanh trong nước
3 235 000
1 712 000
1 523 000
(Nguồn : Báo cáo của Công try VIEXIM)
Năm 2000, công ty tiếp tuc xuất khẩu nhập khẩu những mặt hàng truyền thống phù hợp với nhu cầu của thị trường . Ngoài ra, công ty cũng đã liên doanh với Trung Quốc để sản xuất ra một số phụ kiện của xe gắn máy hai bánh, kết hợp với việc nhập một số linh kiện từ Trung Quốc để lắp ráp rồi tiến hành xuất khẩu sang một số thị trường như Lào, Campuchia. . . Theo dự tính doanh thu xuất khẩu hàng này khoảng hơn 5 triệu USD.
- Công ty cố găng ngân sách tăng 20% so với năm 1999 kiên quyết không để nợ đọng khoản thuế và các khoản phải nộp khác. Phấn đấu ngay từ quý I năm 2000 nộp hết cac khoản phải nộp của năm 1999 sau khi quyết toán được công bố . Nộp đủ kịp thời không để nợ đọng các bảo hiểm xã hội.
- Thực hiện bảo toàn vốn và phát triển nguồn vốn: Công ty có thể huy động vốn từ nhiều nguồn như do công ty tự bổ sung, vay Ngân hàng, vay các tổ chức, cơ quan có vốn nhàn rỗi, huy động vốn từ cán bộ công nhân viên... để đảm bảo vốn cho kinh doanh và mức vốn dự trù của công ty.
- ổn định và nâng cao mức sống cho người lao động: phấn đấu tăng trung bình từ 12- 15% thu nhập cho cán bộ công nhân viên của công ty . Đặc biệt quan tâm hơn đến người lao động có hoàn cảnh khó khăn và thu nhập thấp. Thực hiện việc xem xét lương định kỳ, đúng hạn, có chính sách khuyến khích người lao động giỏi.
- Nghiên cứu và tiếp tục mở rộng thị trường kinh doanh sang các nước có trình độ phát triển các mặt hàng truyền thống ngành hàng truyền thống. Cố gắng xác định cơ cấu mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu hợp lý, lựa chọn được mặt hàng chủ lực, tập trung và khai thác phù hợp. Chuyển dần sang xuất khẩu hàng tinh chế, hạn chế xuất khẩu hàng sơ chế để nâng cao giá trị xuất khẩu, chất lượng hàng xuất khẩu nhằm tạo lợi nhuận cao.
II. Một số biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty VIEXIM
1. Các biện pháp về phía công ty
Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty VIEXIM cho thấy cần thiết phải có các biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Mục đích của việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu không nằm ngoài việc đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của công ty hàng năm, ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu cả về tuyệt đối, tương đối và hiệu quả kinh tế - xã hội khác, cũng như ngày một nâng cao uy tín và vị thế của Công ty trên thị trường quốc tế. Muốn đạt được các mục đích đó, việc đề ra và thực hiện đồng bộ các biện pháp thúc đẩy là vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến hoạt động xuất khẩu của công ty hiện taị và tương lai. Hiện nay, khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của công công ty hiện tại và tương lai. Hiện nay, khó khăn lớn nhất trong hoạt động xuất khẩu của công ty có lẽ vẫn là khách hàng, thị trường. Vì vậy, các biện pháp đưa ra chủ yếu tập trung theo hướng này. Tuy nhiên, vì là một đơn vị ngoại thương với tư cách là 1 trung gian thương mại nên việc thu mua tạo nguồn hàng cho xuất khẩu cũng cần được quan tâm.
Các biện pháp đưa ra sẽ đề cập chủ yếu đến việc mở rộng thị trường xuất khẩu, khuếch trương và thúc đẩy việc lựa chọn, tìm kiếm khách hàng, tạo lập nguồn hàng cho xuất khẩu. . và cuối cùng là các biện pháp huy động vốn và nâng cao trình độ của các cán bộ kinh doanh. Sau đây là những biện pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty, việc thực hiện chúng đến đâu là tuỳ thuộc vào công ty cũng như tình hình thị trường.
1.1. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu
Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình hình thị trường luôn luôn biến động đã tạo ra các cơ hội, cũng như những rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều này lại càng được khẳng định đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, vì phạm vi thị trường vượt khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vây, các doanh nghiệp ngày nay không thể không thường xuyên nghiên cứu- tiếp cận thị trường và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Chỉ có như thế, các doanh nghiệp mới có khả năng nắm bắt được các cơ hội của thị trường và tận dụng nó dựa trên khả năng có của mình.
Qua thời gian thực tập tại công ty VIEXIM cho ta thấy, công ty hình như còn rất bị động trước những biến đổi của thị trường xuất khẩu. Chẳng hạn như năm 1999, thị trường Hồng Kông và Liên Bang Nga có nhiều biến động, nhu cầu của người tiêu dùng có sự thay đổi; vì không có những phản ứng kịp thời trước những thay đổi đó nên trong thời gian này việc xuất khẩu của Công ty sang các thị trường này gặp rất nhiều khó khăn và kim ngạch xuất khẩu sang khu vực đã giảm xuống một cách nhanh chóng. Do đó, trong thời gian tới công ty nên quan tâm hơn nữa đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Các công việc có thể được thực hiện là:
- Khẩn trương hình thành một nhóm ( Hay phòng ban) chuyên nghiên cứu thị trường xuất khẩu với các nhân viên am hiểu về marketing xuất khẩu.
- Tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như phòng Thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại, Đài phát thanh và truyền hình, các viện nghiên cứu về các nước và Châu lục, các đại sứ quán của Việt Nam tại nước ngoài.
- Có thể lập các văn phòng đại diện tại các thị trường xuất khẩu mà công tky cho là có triển vọng và thuận lợi để thu thập các thông tin cập nhật tại các thị trường đó. Chẳng hạn như Công ty nên lập các văn phòng đại diện tại Trung Quốc, Hồng Kông, Liên Bang Nga ...
Mục đích của các biện pháp này là để nắm được các thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu của công ty để tìm ra các cơ hội phù hợp với công ty. Chính nhờ các biện pháp này công ty có thể nắm bắt nhanh, kịp thời, chính xác tình hình các thị trường xuất khẩu nhất định để qua đó tìm ra các cơ hội tốt nhất cho công ty.
1.2. Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu
Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty còn rất yếu. Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài; chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt.
Vì vậy,Công ty cần phải thực sự quan tâm hơn nữa đến vấn đề Marketing xuất khẩu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Hoạt động Marketing xuất khẩu của công ty cần phải dựa trên 3 vấn đề cơ bản sau:
- Xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà công đưa ra để đáng gia sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của công ty trên mỗi loại thị trường.
- Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, công ty xây dựng chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lươcj và chiến thuật Marketing MIX
- Sử dụng các khả năng của công ty để thực hiện Marketing MiX
Hoạt dông xuất khẩu của công ty tác động của các nhân tố thuộc về công ty ( như vốn, mặt hàng kinh doanh, nguồn vốn nhân lực của công ty. . . ) về thị trường, chiến lược xuất khẩu được công ty lựa chọn. Cụ thể, việc lựa chọn hoạt động Marketing xuất khẩu, công ty nên thực hiện theo mô hình sau:
Sơ đồ 4:
Mô hình Marketing xuất khẩu
Lựa chọn kế hoạch chiến lược xuất khẩu
Đánh giá cơ hội thị trường
1. Đánh giá thị trường tiềm năng
2. Ước tính lượng bán ra tiềm năng
3. Phân loại thị trường
Triển khai các kế hoạch, chiến lược Marrketing xuất khẩu
1. Đề ra mục tiêu xuất khẩu
2. Kế hoạch hoá Marketing
MIX
Sản phẩm,
giá cả,
phân phối,
xúc tiến.
Xác lập chiến lược xuất khẩu, các hoạt động:
1. Dự kiến bán ra
2. Ngân sách cho việc bán
3. Giấy phép bán
4. Danh mục hàng hoá bán
5. Kiểm kê các bản kiểm kê
6. Nhu cầu nhân lực
7. Ngân sách cho khuếch trương
8. Quỹ tài chính
9. Quỹ lợi nhuận
Chiến lược
Marketing
xuất khẩu
Dòng thông tin Phản hồi
Thị
trường
xuất
khẩu
Trong 4 nhân tố của Makerting Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến ở công ty, vấn đề đáng nói nhất là các chính sách về xúc tiến khuếch trương . Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác này vì nó tác động rất lớn hành vi của người mua( người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng( bao gồm cả người trung gian ) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng của công ty . Các hình thức xúc tiến bán hàng công ty nên áp dụng là gửi Cataloge ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài . Ngoài ra công ty còn có thể sư dụng hình thức gửi hàng mẫu qua các bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết và hình dáng, chất lượng hương vị của hàng hoá. . . .
Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong nước và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của công ty sẽ tăng lên . Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài công ty phải chọn địa điểm và hình thức bố trí phù hợp nhằm thu hút được nhiều nhất lượng khách hàng.
1.3.Tạo lập được các nguồn hàng xuất khẩu ổn định, phù hợp, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
Nguồn hàng cho xuất khẩu khi là quyết định cho sự thành công của các doanh nghiệp ngoại thương. Đặc biệt nó có ý nghĩa quan trọng khi doanh nghiệp chưa tạo lập được các nguồn hàng ổn định. Chính vì vây, một mặt công ty VIEXIM phải thường xuyên quan tâm đến các biện pháp mở mang thị trường, tìm kiếm khách hàng, mặt khác công ty cũng phải chú ý đến các biện pháp nhằm từng bước tạo lập nguồn hàng cho xuất khẩu của công ty.
Thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty thời gian qua cho thấy nguồn hàng xuất khẩu của công ty còn bấp bênh, thiếu ổn định dẫn đến chất lượng hàng hoá thu gom nhiều khi khó khăn. . . Nguyên nhân là do công ty chưa có nguồn hàng truyền thống đảm bảo cung cấp khối lượng hàng hoá đủ lớn với chất lượng đồng bộ. Do đó, trong thời gian tới công ty nên quan tâm đến vấn đề này nhiều hơn . Công ty nên áp dụng một số biện pháp sau để từng bước tạo lập các nguồn hàng ổn định cho xuất khẩu:
- Cần duy trì quan hệ bởi vì các nguồn hàng đã có: để thực hiện ý đồ này, công ty phải thường xuyên quan hệ với các nguồn hàng đã có cả về phương diện hợp đồng mua bán, cả trên cơ sở thân thiện.
- Trong quan hệ hợp đồng mua bán, công ty cần giữ chữ tín với các đơn vị chào hàng bằng cách không ép giá và thanh toán sòng phẳng .
- Trong quan hệ thân thiện, các cán bộ thu mua nên có những thái độ và hành động làm hài lòng các đơn vị chào hàng.
- Tích cực tìm kiếm các nguồn hàng mới, đây là biện pháp đa dạng hoá nguồn hàng . Biện pháp này có tác dụng rất lớn nó cho phép công ty tìm được nguồn hàng có lợi. Vì vậy, công ty cần chủ động giao dịch- tiếp xúc phát hiện ra, có thể hỗ trợ vốn cho các nguồn hàng mới đang gặp khó khăn, tăng cường thu thập thông tin về các nguoonfhanf có liên quan.
- Từng bước tạo lập các nguồn hàng truyền thống: Công ty nên lựa chọn một vài nguồn hàng lớn và có uy tín, sau đó tích cực củng cố mối quan hệ với các nguồn hang này bằng cách thường xuyên mua hàng của họ, duy tốt mối quan hệ tình cảm, giúp đỡ họ khi có khả năng và họ cần.
Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay, công ty vẫn theo đuổi chủ trương đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu để tạn dụng các cơ hội của thị trường khi cần thiết. Theo ý tôi, công ty nên tập trung vào vài mặt hàng có triển vọng nhất và quyết tâm theo đuổi ý đồ này thì hơn. Bởi vì thực tế trong thời gian qua công ty đã xuất khẩu tương đối nhiều mặt hàng nhưng lại không đạt về chỉ tiêu khối lượng mà chất lượng của từng mặt hàng nên hiệu quả đạt được chưa cao hơn. Hơn nữa, với khả năng tài chính như hiện nay thì việc ôm đồm quá nhiều mặt hàng là vượt quá khả năng. Vả lại, nhiều khi lo quá sa đà vào nhiều mặt hàng dẫn đến việc phân bố các nguồn lực cho từng mặt hàng không đủ mạnh làm cho không mặt hàng nào đem lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì những lý do này mà việc tập trung vào những mặt hàng có thế mạnh là rất cần thiết cho công ty. Sau khi công ty đã có thế lực đủ mạnh thì việc thực hiện chiến lược đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu cũng chưa muộn. Các mặt hàng Công ty nên tập trung vào đó là rau quả, nhãn quả khô, hải sản, cao su, hạt tiêu. Với các mặt hàng này Công ty nên tập trung cho việc thu mua, tổ chức bảo quản, chế biến để nó trở thành những sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế và có giá trị kinh tế cao.
Để thực hiện được ý đồ naỳ, công ty nên thu thập thông tin về tình hình xuất khẩu của Việt Nam để biết được mặt hàng nào là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mặt hàng nào còn ít được xuất khẩu, mặt hàng nào chưa được xuất khẩu. Đồng thời công ty cũng cần có thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu như mặt hàng xuất khẩu naò của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường xuất khẩu nào, khối lượng xuất khẩu và khả năng xuất khẩu dự đoán, mặt hàng nào có nhu cầu nhưng ít được xuất khẩu. . . tình hình cạnh tranh và khả năng tham gia. Qua sự phân tích này, công ty sẽ phán đoán được tình hình và sự tiến triển của các mặt hàng xuất khẩu, qua đó tìm ra cho mình mặt hàng xuất khẩu phù hợp để lập kế hoạch xuất khẩu và thực hiện kế hoạch này.
Đa dạng hoá các tình hình xuất khẩu của công ty.
Việc đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu của công ty cho phép công ty tận dụng được khả năng về con người, cơ sở vật chất kỹ thuật đồng thờinó cũng cho phép công ty mở rộng các mối quan hệ, đặc biệt là các mối quan hệ với các bạn hàng và khách hàng.
Thời gian qua, công ty mới thực hiện được hai loại hình xuaat khẩu trực tiếp và xuaat khẩu uỷ thác. Thời gian tới, công ty nên tích cực mở rông thêm các loại hình xuaat khẩu của mình bằng cách:
Mở rộng quan hệ với các đơn vị có nhu cầu về uỷ thác xuất khẩu . Công ty nên chủ động giới thiệu với các doanh nghiệp mà công ty thấy họ có nhu cầu thuê uỷ thác về khả năng làm dịch vụ này của công ty.
Chủ động bỏ vốn vào kinh doanh, tích cực tìm kiếm khách hàng, nguồn hàng.
Tích cự quan hệ với các cơ quan trong chính phủ để nắm các thông tin về xuất khẩu theo nghị định thư. Qua đó công ty có thể đệ đơn xin chính phủ cho công ty thực hiện theo hình thức xuất khẩu này.
Tích cực kết hợp trao đổi buôn bán hai chiều nếu thấy cần thiết
Công ty nên tìm hiểu về các nghiệp vụ gia công xuất khẩu và tích cực quan hệ với các cơ sở làm gia công trong nước đồng thời mở rộng quan hệ với các bạn hàng nước ngoài, khi cần thiết có thể gợi ý và ddungsra làm trung gian cho khách hàng uỷ thác và các đơn vị nhận uỷ thác
Tuy nhiên, cần chú ý rằng công ty không nên đi quá sâu vào nhiều hình thức xuất khẩu mà trước hết chỉ nên chủ động trong hình thức xuất khẩu tự doanh, các hình thức khác chỉ là tận dụng những điều kiện thuận lợi có thể có.
Không ngừng nâng cao uy tín của công ty
Ngày nay, để đưng vững trên thương trường thì vấn đề không ngừng tạo ra uy tín của doanh nghiệp với khách hàng là rất quan trọng. Nhà kinh doanh phải nhớ rằng lừa đảo là 1 biện pháp thiển cận và đấng phê páh. Do đó nhà kinh doanh phải biết làm gì và sẵn sàng làm gì để nâng cao uy tín của mình cho khách hàng hiện tại và tương lai. Để làm được điều này thì cách tốt nhất là nhà kinh doanh phải thực hiện tốt, đầy đủ các nghiệp vụ và trách nhiệm của mình trong quá trình bán hàng, nghĩa là hàng hoá được bán ra phải có chất lượng đảm bảo, giá cả hợp lý, giao hàng đúng địa điểm và thời gian. . . . Trong hoạt động xuất khẩu, việc không ngừng nâng cao uy tín là việc làm hết sức khôn ngoan và khoa học . Nó vừa đảm bảo cho nhà xuất khẩu bán được hàng với giá cả hợp lý ở hiện tại, vừa hứa hẹn cho họ những hợp đồng xuất khẩu trong tương lai
Về nâng cao uy tín của công ty có thể trực tiếp liên quan đến việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hoặc cũng có thể tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của công ty . Hiện nay, có rât nhiều các hoạt động để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp . Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức nào là rất quan trọng đảm bảo phù hợp với khả năng hiện tại của công ty . Sau đây là một số biện pháp công ty nên áp dụn nhằm nâng cao uy tín của mình trong hoạt động xuất khẩu:
- Thực hiện tốt và đầy đủ các cam kết đã thoả thuận trong các hợp đồng xuất khẩu. Hiện nay có một vấn đề là Công ty VIEXIM thường ít quan tâm đến những hiêụ ứng sau khi bán hàng. Vì vậy, nhiều khi Công ty không quan tâm đến việc làm tốt và đầy đủ các cam kết trong hợp đồng . Ta đã biết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình trong đó nhà xuất khẩu cung cấp một loại hàng hoá dịch vụ, nào đó cho nước ngoài theo đúng những điều đã quy định trong hợp đồng Nói chung, khách hàng sẽ rất hài lòng khi họ nhận được hàng hoá có chất lượng đúng nhu cầu có khối lượng như đã thoả thuận . Ngoài ra, nếu có các điều kiện khác được thuận lợi thì các làm cho khách hàng hài lòng thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, công ty nên quan tâm đên các vấn đề sau:
+ Chuẩn bị hàng hoá đúng chất lương và khối lượng quy định . Để thực hiện yêu cầu này, công ty nhất thiết phải am hiểu hàng hoá, chọn được nguồn hàng có uy tín
+Có kế hoạch thu gom hàng hoá, vận chuyển hàng hoá hợp lý: Công ty nên đề ra kế hoạch về thời gian thu gom và vận chuyển hàng hoá phù hợp. Điều đó có nghĩa là công ty phải căn cứ vào thời gian thực hiện hợp đồng đã ký kết với khách nước ngoài để lên kế hoạch thu mua va chuẩn bị hànghoá.
Giúp đỡ khách hàng nước ngoài những điều ngoài phạm vi của hợp đồng xuất khẩu: nhằm gây thiện cảm với khách hàng. Công ty có thể chỉ dẫn cho họ về những gì công ty biết mà khách hàng muốn tham khảo nhưng nên gợi ý cho khách hàng trước. Để thực hiện được ý đồ này, công ty nên bố trí 1 nhóm tiếp tân để tiếp khach trong lúc phải chờ đợi hoặc trong lúc khách đang giao dịch vơi công ty hoặc khi khách đã kết thúc đàm phán với công ty.
- VIEXIM nên quan tâm hơn nữa đến “bộ mặt" của công ty: Hiện nay, các phòng làm việc của công ty nhất là phòng kế hoạch tổng hợp còn chưa được khang trang và đẹp, Vì vậy, công ty sớm có kế hoạch trang trí lại phòng làm việc của công ty để tăng thêm uy tín của công ty bởi vì khách hàng sẽ để ý đến cả vấn đề này trong quan hệ với công ty.
1.7. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
Vốn là vấn đề quan tâm hàng đầu của mọi đơn vị sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế thì vấn đề vốn cũng phần nào bớt căng thẳng với các doanh nghiệp.
Ngoài các biện pháp huy động vốn hiện có, VIEXIM có thể huy động vốn bằng các cách sau:
- Doanh nghiệp có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong nước những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút vốn từ bên ngoài vào công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc công ty tiến hàng liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vn và sử dụng các dây truyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên, để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt dông mà công ty định liên doanh liên kết. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới.
Có thể nói, liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì phần phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện,
- Trong nhiều trường hợp, để huy động vốn Công ty phải yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng: Cụ thể là với một số trường hợp xuất khẩu, công ty nê yêu cầu người mua ( Người nhập khẩu) ứng trước 1 phần toàn bộ giá trị hợp đồng và công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đối với những trường hợp đồng có giá trị lớn, vượt quá khả năng của công ty thì công ty nên áp dụng hình thức này hoặc có thể thực hiện hợp động bằng cách mời một số nhà xuất khẩu Việt Nam cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận
Như vậy, vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi vì có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách có hiệu quả. Vì vậy, công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh chóng vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở hâu này mà lại thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
1.8. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ xuất nhập khẩu.
Trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty VIEXIM là một trong những nguồn lực cơ bản của công ty. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình.
Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên, cho đến nay, công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn với công việc .
Vì vậy,để đảm bảo cho công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy.
Ngoài ra, công ty cũng cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ công nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý sẽ khuyến khích được cán bộ nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thu nhập và thực hiện nhiệm vụ. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
2. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Để khuyến khích hoạt động sản xuất và xuất khẩu, để nâng cao uy tín hàng hoá Việt Nam trên thị trường Quốc tế, để kim ngạch xuất khẩu là phần đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, chính phủ cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
2.1. Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định kinh tế vĩ mô trước hết phải hiểu là sự ổn định về các chính sách tài chính, thương mại, đầu tư, tiền tệ. Đó cũng là một trong những điều kiện tạo sự ổn định và quan tâm cho các nhà đầu tư, các công ty. Vì vậy Nhà nước cần:
Kiểm soát lạm phát: Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của chính sách vĩ mô, nó góp phần tạo tiền đề cho quá trình thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và cho hoạt động xuất khâủ. Bởi vì, sự biến đổi về giá cả là sự kshó khăn cho công tác thu mua tạo nguồn cho xuất khẩu và công tác xuất khẩu.
- ổn định tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền: điều này sẽ thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được xuất khẩu. Sự điều tiết này sẽ làm hạn chế hay tạo cơ hội tham gia hoạt động xuất khẩu của công ty đến chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, thị trường kinh doanh của công ty.
- Duy trì và ổn định chế độ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, có sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt, gắn nước ta với kinh tế và thị trường thế giới, thể hiện trong cả sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý. Do vậy, phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu vừa coi trọng thị trường trong nước với nhiều thành phần kinh tế khác là 1 vấn đề cần quan tâm hiện nay.
2. 2. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản hơn thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của Nhà nước phải được đổi mới và hoàn thiện . Cụ thể là:
Hệ thống các văn bản pháp lý, các quy định phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng rào nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm thì không được hướng các ưu đãi. Vì vậy, Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với điều biến của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi có không ít những thiếu sót và nhược điểm càn khắc phục.
Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Hiện nay, ở Việt Nam thủ tục xuất nhập khẩu vẫn còn rườm rà, gây nên những phức tạp và lãng phí thời gian, công sức cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu trong vấn đề làm thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu nhiều khi còn tỏ ra quan liêu cửa quyền đã gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Vì vậy để cho hoạt động xuất khẩu đạt được hiệu quả nhất đối với các mặt hàng có hạn ngạch thì Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trước mắt khi chưa đưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý Nhà nước mà trực tiếp là Bộ Thương mại phải lựa chọn ra các công ty đáng tin cậy để giao hạn ngạch. Các công ty này phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho bãi để mua hàng. Mặt khác Bộ Thương mại cũng cần phải giám sat chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho công ty cũng như với Nhà nước.
2.3. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu
- Đầu tư vốn công nghệ cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu . Hiện nay, hàng xuất khẩu chủ yếu của chúng ta chủ yếu là hàng thô, hàng qua sơ chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xuất khâu thì Nhà nước cần khuyến khích đầu tư khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị kinh tế tạo ra nguồn hàng phong phú và đa dạng đảm bảo cho xuất khẩu, cần tập trung tiếp thu chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chú ý hạn chế các công nghệ sản xuất gây tốn năng lượng nguyên liệu và gây ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
- Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất.
2.4. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế
Nhà nước chủ động đa dạng hoá hình thức hợp tác quốc tế, chú trọng hợp tác với các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao. Tạo điều kiện, để doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường với khách hàng, bạn hàng một cách tốt nhất.
Kết luận
Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu khảo sát thị trường và định hướng cho hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Từ những đánh giá về hoạt động kinh doanh ở công ty VIEXIM ta thấy rằng hoạt động kinh doanh của công ty và nhất là kinh doanh xuất khẩu đang từng bước được hoàn thiện tốt hơn, phù hợp với tình hình thị trường và khả năng cung ứng của công ty. Tuy nhiên, công ty còn gặp phải rất nhiều khó khăn do nhu cầu khắt khe của thị trường ngày càng cao. Để đạt mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài công ty nên có chiến lược kinh doanh dài hạn, nghiên cứu nhu cầu của thị trường, nghiên cứu khả năng về nguồn hàng để có các quyết định chính xác kịp thời, đồng thời phải có các chính sách Marrketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu.
Nội dung nghiên cứu của đề tài đề cập đến một trong những hoạt động chính của công ty đó là hoạt động xuất khẩu. Với hệ thống kiến thức được trang bị ở trường cùng với việc tìm hiểu về hoạt động kinh doanh của công ty VIEXIM trong thời gian thực tập, tôi xin đưa ra một số kiến nghị đã trình bày ở trên, với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty. Hy vọng trong thời gian tới công ty sẽ đứng vững và phát triển không ngừng trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt của nền kinh tế thị trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29046.doc