Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà điều quan trọng không kém là phải thông thạo hệ thống luật pháp của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu. Sở dĩ, là vì hệ thống pháp luật của Mỹ vô cùng rắc rối, phức tạp và chặt chẽ. Ngoài hệ thống luật pháp liên bang thì mỗi bang lại có một sự khác biệt rất đáng kể về luật lệ. Tổng cộng tại 50 bang của Hoa Kỳ có tới trên 2700 chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan này đều có những quy định riêng của họ. Các yêu cầu này thường không thống nhất với nhau. Vì vậy, không thể tuỳ tiện áp dụng quy định của bang này ở một bang khác.
Chính vì những nguyên nhân đó mà các cán bộ trực tiếp điều hành hoạt động xuất khẩu cần phải tìm hiểu rõ và đầy đủ hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ liên quan đến hoạt động xuất khẩu của mình như các thủ tục Hải quan, biểu thuế quan nhập khẩu, luật trách nhiệm sản phẩm, luật chống phá giá, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, vấn đề ghi xuất xứ hàng hoá hay lập hoá đơn thương mại Tất cả đều có những quy định riêng rất nghiêm ngặt và buộc phải tuân thủ chặt chẽ.
Các doanh nghiệp có thể tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau để cập nhật các quy định luật pháp của Hoa Kỳ chi phối các hoạt động xuất khẩu của mình. Chẳng hạn như thông qua các đối tác Hoa Kỳ: yêu cầu họ cung cấp các quy định về đóng gói, về quy cách phẩm chất đối với sản phẩm Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tìm hiểu thông qua các tổ chức như Bộ thuỷ sản, Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), các nhà môi giới Hải quan Mỹ, cơ quan thương vụ Mỹ tại Việt Nam
109 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1695 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kém.
Như chúng ta đã biết, chế biến thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguồn khai thác tự nhiên, lệ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, vào tính chất manh mún và thời vụ của nguồn lợi hải sản nhiệt đới. Nuôi trồng thuỷ sản chưa trở thành nguồn cung cấp nguyên liệu chủ yếu và ổn định cho chế biến. Vì thế việc cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến xuất khẩu bấp bênh, không an toàn cho xuất khẩu. Bên cạnh đó, sản xuất nguyên liệu với trình độ công nghệ thấp, giá thành cao và bảo quản sau thu hoạch kém là nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả của khu vực chế biến xuất khẩu và giảm sức cạnh tranh của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế.
b). Thiếu khả năng đáp ứng các đơn hàng quy mô lớn.
Bản thân Mỹ là một thị trường rất rộng lớn, ngoài ra các nhà phân phối Mỹ thường thiết lập hệ thống phân phối toàn cầu, nghĩa là không chỉ bán ở Mỹ mà theo các kênh đi khắp thế giới. Vì vậy, quy mô đơn đặt hàng của họ thường rất lớn. Trong khi đó, các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam phần lớn lại là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, khả năng tài chính có hạn, năng lực sản xuất thấp, năng suất lao động chưa cao và nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất một số sản phẩm không ổn định nên khi sang Mỹ tìm hiểu thị trường đã không ký được hợp đồng do không có khả năng đáp ứng được quy mô của đơn hàng.
c). Tổ chức và quản lý doanh nghiệp còn yếu kém.
Phần lớn các doanh nghiệp chế biến đều là các doanh nghiệp Nhà nước, chậm đổi mới công nghệ và đổi mới quản lý, đặc biệt là quản lý chất lượng và quản lý kinh doanh, ít năng động về thị trường nên hiệu quả sản xuất kinh doanh kém. Hiện nay, rất ít các doanh nghiệp nhà nước muốn cổ phần hoá hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân năng động và có khả năng cạnh tranh cao nhưng lại không có cơ hội để tiếp cận xuất khẩu. Thực tế đã chỉ ra rằng, có vốn, có công nghệ mà không có đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi và công nhân có tác phong công nghiệp, nhiệt tình thì không thể phát triển được.
d). Trở ngại về hệ thống luật pháp và thông tin về thị trường Mỹ.
Mỹ được xem là một quốc gia có hệ thống luật pháp chặt chẽ và khá phức tạp. Do vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu để nắm vững hệ thống luật này không đơn giản. Khi buôn bán với Mỹ, các công ty lớn, nhỏ ở hầu hết các nước đều phải thuê luật sư với chi phí rất cao. Những vấn đề này hiện đang là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ của Việt Nam khi vào thị trường Mỹ. Thiếu hiểu biết về luật pháp cũng như các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đã làm hạn chế đến quan hệ đối tác, tìm kiếm, thâm nhập và mở rộng thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam.
Mặt khác, khó khăn còn là sự khác biệt rất lớn của hệ thống luật pháp giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong khi luật pháp của chúng ta còn chưa ổn định, thiếu đồng bộ thì hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ rất đầy đủ và chặt chẽ. Trên thực tế, luật pháp thương mại của chúng ta còn nhiều bất cập, lạc hậu so với thế giới, chưa theo kịp những phát sinh trong quan hệ kinh tế thương mại. Điều này, có ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập và đặc biệt là việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt- Mỹ trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, thông tin thị trường cũng là một trở ngại lớn với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam khi thâm nhập thị trường Mỹ. Do chưa có nhiều kinh nghiệm, năng lực thu thập và xử lý thông tin còn yếu, vì vậy, việc tiếp cận, thăm dò, tìm kiếm thị trường…của các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn và bất cập. Để khắc phục những khó khăn này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự chủ động và năng động cao khi làm ăn trên đất Mỹ. Đồng thời để các doanh nghiệp kinh doanh ổn định và lâu dài, Nhà nước cần có những quan tâm và hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp mới tiếp cận thị trường này.
e). Về cơ chế chính sách.
Thứ nhất, do chậm nhận thức đầy đủ về khả năng to lớn trong việc phát triển công nghiệp nuôi trồng thuỷ sản làm cơ sở để tăng nhanh nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Đồng thời, chưa tập trung giải quyết tốt việc đổi mới công nghệ, bảo quản sau thu hoạch đối với sản phẩm của nghề khai thác nên chưa có hệ thống chính sách phù hợp với một định hướng phát triển rõ ràng để tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa các khâu nuôi trồng, khai thác, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Giữa các cơ quan quản lý nhà nước chưa có sự phân công rõ ràng trách nhiệm, chưa có sự phối hợp hành động đồng bộ giữa các cấp chính quyền, các doanh nghiệp và các cơ quan nghiên cứu triển khai nhằm tạo nên hành lang thuận lợi cho cạnh tranh hàng thuỷ sản.
Thứ hai, Cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu chưa phát huy được năng lực và trí tuệ của đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tạo ra động lực phát triển, bảo đảm có hiệu quả và khả năng tái sản xuất mở rộng hoặc tái đầu tư chiều sâu.
Tóm lại, trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá, Việt Nam đã và đang có những bước chuyển mình để hội nhập nhanh chóng với nền kinh tế thế giới. Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu công nghệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đòi hỏi Việt Nam cần lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn, một lộ trình thích hợp với điều kiện hoàn cảnh của mình. Trong đó, cần đặc biệt chú ý tới chiến lược lựa chọn sản phẩm xuất khẩu trong từng giai đoạn phát triển. Có thể nói trong giai đoạn đầu của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thuỷ sản được lựa chọn là sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn là hướng đi đúng đắn, có ý nghĩa quan trọng góp phần thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Chúng ta đã tiếp cận và mở rộng được trên nhiều thị trường trên thế giới như thị trường Nhật Bản, EU, Trung Quốc…Tuy nhiên, áp lực cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, những phát sinh và sự bất ổn định của môi trường kinh doanh đang đặt ngành thuỷ sản Việt Nam trước những khó khăn và thách thức mới. Chúng ta chưa thể thoả mãn với những gì đã đạt được, bởi những kết quả đó chưa thực sự đảm bảo cho ngành thuỷ sản Việt Nam tạo lập một vị thế vững chắc và vượt trội hơn so với các đối thủ khác trên thị trường quốc tế. Trước mắt chúng ta, thị trường Hoa Kỳ được xem như là thị trường đầy tiềm năng và rất hấp dẫn với hàng hoá xuất khẩu nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng. Có thể nói một con đường mới cho thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam bắt đầu đã khai thông, nhưng chắc chắn đây không phải là con đường bằng phẳng để thuỷ sản Việt Nam có thể dễ dàng băng qua. Để hàng thuỷ sản xuất khẩu của chúng ta có mặt và tạo lập được uy tín trên thị trường Hoa Kỳ là cả một quá trình đầy gian nan vất vả, đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực rất lớn của các doanh nghiệp Việt Nam mà cần sự hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng lắm chông gai này.
chương III
Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ
Thuỷ sản là một trong 15 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam và đã được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Vì vậy, chúng ta đang rất cần có những định hướng và giải pháp có hiệu quả nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu, để xuất khẩu thuỷ sản thực sự tương xứng với tầm vóc của nó.
I. Chiến lược xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam giai đoạn 2001-2010
Trong các ngành kinh tế quốc dân, thuỷ sản là ngành còn có nhiều tiềm năng chưa được huy động để phát triển. Do đó, cần phải có hướng đi đúng để ngành thuỷ sản nói chung và xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ nói riêng đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian tới.
Các quan điểm về đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
- Xuất khẩu thuỷ sản tiếp tục là mũi nhọn trong phát triển kinh tế thuỷ sản, trước hết là kinh tế biển, có vai trò và vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước, nâng cao thu nhập và giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân vùng biển.
- Xuất khẩu thuỷ sản phải chuyển từ kinh tế khải thác tài nguyên và kinh tế thương mại là chủ yếu sang kinh tế khai thác lao động kỹ thuật và công nghệ là chủ yếu, chuẩn bị điều kiện tiến tới kinh tế khai thác trí tuệ và khoa học những năm sau năm 2010.
- Xuất khẩu và chế biến xuất khẩu thuỷ sản phải gắn mật thiết và trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, trên cơ sở cơ cấu kinh tế hợp lý với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo tích luỹ lớn để tái sản xuất mở rộng, nhanh chóng tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hoá, thực hiện song song các mục tiêu: phát triển năng lực sản xuất, tái tạo và phát triển nguồn lợi, bảo vệ môi trường, tái tạo và phát triển sức lao động nghề cá.
- Xuất khẩu thuỷ sản phải đặt trong mối liên hệ chặt chẽ với đổi mới công nghệ, kỹ thuật và trang thiết bị, phối hợp hài hoà với phát triển sản xuất cho nhu cầu xuất khẩu tại chỗ và tiêu dùng nội địa, mở rộng nhập khẩu bổ sung nguyên liệu cho xuất khẩu.
- Phát triển xuất khẩu và chế biến thuỷ sản phải dựa trên thực hiện chiến lược con người, đổi mới tổ chức quản lý, chuyển hẳn từ quản lý chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân sang quản lý chủ yếu bằng tri thức khoa học.
Những phương hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản của ngành trong những năm tới.
- Tiếp tục phát huy thế mạnh của biển, các vùng nước ngọt, lợ, tiềm lực lao động kết hợp với phát triển nông lâm thuỷ sản và du lịch để phát triển sản xuất kinh doanh đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước đưa ngành thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân.
- Tăng cường khả năng cạnh tranh, mở rộng và đi từng bước vững chắc trong hội nhập khu vực và quốc tế. Trên cơ sở đó tăng nhanh giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, nhằm tăng cường tích luỹ nội bộ, mở rộng năng lực sản xuât kinh doanh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải thiện đời sống lao động nghề cá và làm nghĩa vụ nộp ngân sách ngày một tăng.
- Phát triển mạnh mẽ nuôi trồng thuỷ sản, đổi mới cơ cấu nghề khai thác hải sản ven bờ, tăng cường công tác khai thác thuỷ sản xa bờ, góp phần làm thay đổi cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu và cải thiện đời sống của xã hội nông thôn vùng ven biển.
- áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ thích hợp vào phát triển sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản.
- Thúc đẩy công tác bảo vệ nguồn lợi, bảo vệ môi trường, duy trì cân bằng sinh thái ở những vùng nuôi, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nuôi, đồng thời có biện pháp hữu hiệu phòng dịch bệnh trong nuôi trồng thuỷ sản, đảm bảo hàng thuỷ sản xuất khẩu có chất lượng cao đáp ứng được các yêu cầu của những thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản…
- Tập trung vật tư vốn để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Ngành, ưu tiên vào những vùng trọng điểm, đồng thời đưa nhanh các công trình dự án vào sản xuất, bảo đảm hiệu quả đầu tư.
- Sử dụng có hiệu quả viện trợ và hoạt động hợp tác quốc tế, thu hút các hoạt động có vốn đầu tư trực tiếp, đặc biệt trong nuôi trồng thuỷ sản và chế biến các đối tượng có giá trị thương mại cao.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới bộ máy tổ chức, sắp xếp lại cán bộ để đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới.
3. Mục tiêu phát triển xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam đến năm 2010.
3.1 Mục tiêu dài hạn
Với tiềm năng to lớn sẵn có và xu hướng phát triển xuất khẩu thuỷ sản thế giới ngày càng tăng, ngành thuỷ sản đặt ra mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 như sau:
- Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoạI tệ và nâng cao vị thế của thuỷ sản trên trường quốc tế, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của các cộng đồng dân cư sống dựa vào nghề cá.
- Tăng mức cung cấp sản phẩm thuỷ sản cho các thị trường và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân có thể tiếp cận, tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản dễ dàng.
- Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá và hiện đại hoá với khoa học và kỹ thuật tiên tiến nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát huy những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. Đó cũng là tiền đề, động lực để nâng cao khả năng cạnh tranh của thuỷ sản xuất khẩu.
3.2 Mục tiêu ngắn hạn
Ngành cần tập trung thực hiện những mục tiêu chủ yếu sau:
- Gắn chế biến xuất khẩu với sản xuất nguyên liệu, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất hàng hoá quy mô lớn, giảm giá thành nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
- Giữ vững và phát triển thị trường tại các khu vực chính trên thế giới, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 1,8 tỷ USD vào 2002 và 3,5 tỷ vào 2010.
- Phát huy lợi thế kinh tế biển bằng cách khai thác hợp lý nguồn tài nguyên, phấn đấu đưa tỷ trọng ngành thuỷ sản trong GDP lên 2,5-3% và bảo đảm tốc độ tăng tổng sản lượng bình quân của ngành 4,5-5,1%.
- Không tăng sản lượng khai thác nhiều trong thời kỳ 2000-2010, giữ mức tăng từ 1,2-1,4 triệu tấn (trong đó, khai thác cá, tôm, mực khoảng 1,3 triệu tấn, nhuyễn thể 100.000 tấn). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10-13%/năm.
- Số lao động trực tiếp và phục vụ nghề cá tăng trung bình 2,65%/năm; 3,55 triệu lao động (năm 2002); 3,9 triệu lao động (năm 2005) và 4,4 triệu lao động năm 2010. Trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến thuỷ sản tăng gấp 2 lần.
Định hướng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ.
Căn cứ vào năng lực xuất khẩu của ngành thuỷ sản Việt Nam và triển vọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ, chúng ta có thể tin tưởng khả năng tiếp cận và phát triển trên thị trường Hoa Kỳ của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam sẽ trở thành hiện thực trong tương lai không xa. Kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản sang các thị trường tính như EU, Nhật Bản vẫn tăng trưởng ổn định qua các năm đủ sức chứng minh sản phẩm của chúng ta có thể cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên để có thể thuyết phục thị trường thế giới tốt hơn nữa, ngành thuỷ sản Việt Nam cần phải nỗ lực khắc phục những mặt còn tồn tại. Nếu thực hiện tốt vấn đề này, triển vọng thâm nhập thị trường thuỷ sản Hoa Kỳ sẽ ngày càng sáng sủa và khả thi hơn, bởi lẽ Hoa Kỳ được nhìn nhận như một khu vực tiêu thụ “không có điểm dừng”.
Với dung lượng nhập khẩu hàng thuỷ sản khoảng 10 tỷ USD/năm, Mỹ là thị trường tiêu thụ có tiềm năng rất lớn. Chỉ cần chiếm thị phần 5-6% giá trị nhập khẩu hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ, kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ tăng lên đáng kể. Nếu có những bước tiếp cận và thâm nhập thích hợp vào thị trường này thì dự báo kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ có mức tăng trưởng khả quan trong những năm tới. Nhất là sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ đã chính thức đi vào hoạt động thì kim ngạch nhập khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam năm 2002 có thể đạt trên 500 triệu USD; năm 2005 dự báo đạt 600 triệu USD và 2010 đạt 1 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 15%/năm.
Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của Việt Nam trong xuất khẩu thuỷ sản sang Hoa Kỳ hiện nay đó là việc Tổng thống Mỹ G.Bush đã thông qua Luật HR 2330, trong đó có điều luật số SA 2000 quy định FDA (Cục thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ ) không được sử dụng ngân sách được cấp làm thủ tục cho phép nhập khẩu các loại cá da trơn mang tên “catfish” trừ khi chúng thuộc dòng Ictaluridea. Theo quy định của Luật này, cá tra và cá basa của Việt Nam trong nhóm cá da trơn mang tên “catfish” sẽ không được FDA cấp phép nhập khẩu. Mặt khác, thị trường Mỹ cũng đòi hỏi phải đáp ứng các quy định chặt chẽ về sản phẩm theo Hệ thống quản lý chất lương IS 9000, tuân thủ các quy định của Luật thương mại Mỹ về thủ tục xuất nhập khẩu, về nhãn hiệu hàng hoá và xuất xứ sản phẩm cũng như quy định khắt khe về thời hạn giao hàng và việc Trung Quốc đã chính thức trở thành thành viên của WTO với những lợi thế về xuất khẩu hàng thuỷ sản cũng như xu hướng tăng buôn bán nội khu vực các nước được hưởng ưu đãi NAFTA của Mỹ trong những năm gần đây cũng gây nhiều khó khăn cho các nước xuất khẩu hàng thuỷ sản Châu á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Mặc dù phải đối phó với những khó khăn và thách thức nói trên, song theo đánh giá của các nhà chuyên môn,khả năng xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam là khá lớn và nhu cầu của thị trường Mỹ vẫn còn xu hướng tăng trong những năm tới.
Trong chiến lược phát triển xuất khẩu 2001-2010, với chủ trương tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại, Việt Nam coi Mỹ là thị trường đầy tiềm năng của Khu vực Bắc Mỹ và là một thị trường có nhiều điều kiện để phát triển. Hoa Kỳ sẽ là khâu đột phá về thị trường xuất khẩu hàng hoá Việt Nam nói chung và hàng thuỷ sản Việt Nam nói riêng trong những năm tới. Kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ ước tính sẽ chiếm 25-28% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành vào năm 2010.
Tóm lại với một chiến lược phát triển đúng đắn, ngành thuỷ sản Việt Nam hoàn toàn có thể nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng lực cạnh tranh, hơn nữa thị trường Hoa Kỳ đang dần rộng mở với sức tiêu thụ rất lớn. Hai yếu tố khách quan và chủ quan đó đủ để ngành thuỷ sản Việt Nam dám thấy, dám tin vào những triển vọng tốt đẹp trong tương lai.
II. Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ.
1. Các biện pháp từ phía Nhà nước.
1.1 Tăng cường đầu tư và quản lý tốt việc đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu.
Nguồn nguyên liệu dồi dào, ổn định, chất lượng cao là mục tiêu quan trọng đầu tiên của ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Nếu không giải quyết được vấn đề nguyên liệu thì sẽ không thể hạ giá thành để nâng cao hiệu quả sản xuất và nuôi trồng.
Nuôi trồng thuỷ sản:
- Nhanh chóng quy hoạch và đầu tư các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, quy mô lớn, công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh Thái bền vững, tăng cường năng lực con người và thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng môi trường các vùng nước nuôi thuỷ sản cấp Trung ương và địa phương; thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng và dịch bệnh.
- Rà soát quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, quy hoạch lại theo tình thần Nghị quyết 09/2000/ NQ-CP chuyển đổi mục đích nông nghiệp không có hiệu quả cao sang nuôi trồng thuỷ sản. Quy hoạch thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, sử dụng đất và mặt nước còn hoang hoá, đất cát ven biển miền Trung vào nuôi trồng thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh Thái, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống dịch bệnh.
- Tận dụng diện tích, mở rộng phát triển nuôi tôm công nghiệp, nuôi bán thâm canh và nuôi sinh thái các đối tượng có thị trường như: tôm sú, tôm rảo, tôm he…Nuôi lồng, bè trên sông, biển, tập trung vào những đối tượng có giá trị xuất khẩu cao như cá basa, cá mú, cá hồng, tôm hùm, cá vược, cá cam, nghiêu, ngọc trai…
- Tăng cường năng lực con người và thiết bị cho các cơ quan kiểm soát chất lượng các vùng nước nuôi thuỷ sản cấp Trung ương và địa phương, thường xuyên theo dõi và dự báo về chất lượng nước và dịch bệnh.
- Đầu tư các công trình nghiên cứu, các dự án sản xuất giống nhân tạo thay thế cho nhập khẩu và bảo vệ nguồn lợi giống tự nhiên các loại sò huyết, nghêu, ngao, điệp…đưa ra những quy định bảo vệ hợp lý các bãi giống tự nhiên, nghiêm cấm mọi hình thức khai thác cạn kiệt.
- Tăng cường hợp tác nghiên cứu với các nước có công nghệ cao trong khu vực nhất là công nghệ di truyền, chọn giống, công nghệ sinh học, công nghệ xử lý môi trường, công nghệ chuẩn đoán và phòng trừ dịch bệnh.
Khai thác Hải sản.
- Phát triển năng lực và tổ chức khai thác xa bờ ở vùng Vịnh Bắc Bộ, Biển Trung Bộ và Tây Nam Bộ, phấn đấu đưa sản lượng khai thác xa bờ năm 2010 lên 300-400 nghìn tấn, chủ yếu là cá nổi giá trị cao.
- Ưu tiên cho ngư dân được hưởng các khoản tín dụng trung và dài hạn, lãi suất ưu đãi, hỗ trợ ngư dân đóng tàu thuyền lớn.
- Khai thác, chọn lọc và ứng dụng công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến phù hợp với điều kiện trong nước; chú trọng phát triển công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt và những loài cá giá trị kinh tế cao; phát triển công nghệ khai thác xa bờ, vùng san hô, vùng đá ngầm.
- Xây dựng các vùng đóng tàu đánh cá quốc doanh lớn, làm nhiệm vụ hướng dẫn kỹ thuật và hỗ trợ các dịch vụ hậu cần, đưa vào hoạt động có hiệu quả một số tàu hậu cần cho đội tàu xa bờ. Triển khai thực hiện dự án đội tàu công ích làm dịch vụ cho đánh bắt Hải sản xa bờ.
- Mở rộng hợp tác với các nước có nghề cá phát triển, tận dụng mọi khả năng về vốn, công nghệ để liên doanh hợp tác khai thác xa bờ, từng bước tiến đến đánh cá đại dương.
- Phát triển nuôi cá biển, áp dụng công nghệ thay thế, thực hiện chặt chẽ các biện pháp bảo vệ nguồn lợi nhằm giảm sức ép đối với nguồn lợi ven bờ.
- Xây dựng hệ thống cơ sở dịch hậu cần: bến cảng, công trình điện –nước, cung ứng nhiên liệu,nước đá, tổ chức lại và nâng cấp các cơ sở cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền Hải sản;xâydựng các cảng và hệ thống dịch vụ cho xuất khẩu ở một số đảo, vùng biển có nghề cá trọng điểm.
1.2 Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu cũng như đẩy mạnh cải cách hành chính.
- Công khai hoá và luật pháp hoá là việc đầu tiên cần làm trong tiến trình đổi mới công tác quản lý. Hiện nay các doanh nghiệp rất thiếu các thông tin về các quy định của Nhà nước có liên quan đến việc kinh doanh cuả họ. Vì vậy, mọi văn bản pháp luật của Nhà nước chỉ nên có hiệu lực thi hành sau khi đã đăng trên công báo. Hiện nay tuy luật đã quy định về vấn đề này nhưng chỉ quy định chung là “phải đăng”. Theo Bộ thương mại cần đặt ra vấn đề theo hướng “Chỉ có hiệu lực khi đã đăng” mới đảm bảo cho các quy định đến với doanh nghiệp một cách kịp thời.
Ngoài ra, cần ban hành gấp rút các văn bản pháp luật, quy phạm pháp luật điều chỉnh những mảng trống trong kinh doanh xuất nhập khẩu để các doanh nghiệp không bị trở ngại trong kinh doanh do các cơ quan hữu trách thiếu cơ sở pháp lý để chấp nhận hành vi của họ.
- Cùng với việc công khai hoá, luật pháp hoá các quy định, chế độ cấp giấy phép thì việc thực hiện các quy định đó phải dễ hiểu và dễ thi hành, tránh tình trạng không rõ ràng tạo kẽ hở cho những đối tượng xấu lợi dụng.
- ổn định môi trường pháp lý. Đây là việc làm hết sức cần thiết để tạo tâm lý tin tưởng cho doanh nghiệp, khiến họ bỏ vốn đầu tư dài hạn. Việc bất ổn môi trường pháp lý sẽ gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh cũng như việc thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiếp tục đổi mới và cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu, nhất là thủ tục Hải quan, áp dụng công nghệ thông tin vào kê khai hàng hoá, tính thuế xuất nhập khẩu.
1.3 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Trong điều kiện xu thế hội nhập đang phát triển mạnh mẽ, nhiều tổ chức thương mại được hình thành và đang hoạt động khá rộng rãi như Tổ chức thương mại thế giới, WTO, Liên minh EU, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)..thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Hiện nay, các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam chưa có điều kiện để tìm kiếm, tiếp xúc và thâm nhập thị trường Hoa Kỳ khổng lồ. Vì vậy, việc thành lập văn phong đại diện thương mại thuỷ sản tại thị trường Mỹ để quản lý và định hướng cho hoạt động xuất khẩu có một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Bộ phận xúc tiến thương mại chịu trách nhiệm đảm bảo cung cấp cho các nhà xuất khẩu những thông tin về thị trường và điều kiện pháp lý khi xâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Các doanh nghiệp thuỷ sản cũng có thể được tư vấn miễn phí tại các Đại sứ quán, Lãnh sự quán và Đại điện thương mại ở nước ngoài. Ngoài ra, Nhà nước nên tài trợ cho các chuyến công tác sang Hoa Kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm. Đồng thời, thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về thị trường thuỷ sản Hoa Kỳ nhằm nâng cao trình độ hiểu biết và kinh nghiệm của nhà xuất khẩu Việt Nam khi tiếp cận thị trường này. Trước mắt, Thương vụ Việt Nam và một số công ty tư vấn tại Hoa Kỳ cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Đảm bảo cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước những kết quả phân tích có chất lượng về điều kiện pháp lý và doanh nghiệp cuả thị trường Hoa Kỳ.
Ghép nối các doanh nghiệp tiềm năng giữa hai nước.
Trợ giúp kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể cho các thương vụ như tiếp xúc, đàm phán, ký kết hợp đồng, thuê tàu, xin giấy phép…
Tóm lại, về lâu dài, để tăng kim ngạch xuất khẩu nói chung, các doanh nghiệp Việt Nam cần thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại một số thành phố lớn như New york, Los Angeles, San Francisco… nhằm tạo cầu nối, giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước. Các trung tâm này có thể do Nhà nước đứng ra bảo trợ, hoặc kết hợp với các công ty của Mỹ và Việt kiều tổ chức…
Thương vụ sẽ phối hợp với các doanh nghiệp trong nước tiếp tục hỗ trợ tổ chức các cuộc toạ đàm, hội thảo phổ biến các chính sách luật lệ thương mại của Mỹ, khảo sát thị trường và tổ chức trưng bày, giới thiệu hàng hoá Việt Nam.
1.4 Phát triển hệ thống dịch vụ, cơ sở hạ tầng để tạo môi trường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, thúc đẩy phát triển thương mại.
Để tăng lực nội sinh nền kinh tế trong những năm tới, trong điều kiện Việt Nam còn thiếu vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, không thể không kể đến vai trò của đầu tư nước ngoài, Việt Nam cần tạo ra những điều kiện ưu đãi hơn so với nước khác ở những lĩnh vực mà Việt Nam cần ưu tiên phát triển. Các ưu đãi thể hiện trong việc miễn giảm các loại thuế, thời hạn liên doanh, mức thuế đất, thủ tục cấp phép, cải thiện cơ sở hạ tầng (điện nước, đường xá, thông tin liên lạc…), hoàn thiện hệ thống tài chính- ngân hàng, mở ra khả năng chuyển nhượng vốn thông qua thị trường chứng khoán của các nhà đầu tư. Đồng thời, chú trọng công tác đào tạo để có được một đội ngũ những người lao động trẻ thích nghi với trình độ sản xuất kinh doanh ở quy mô lớn, hiện đại, tiên tiến.
Đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cần phải hướng tới các nhà đầu tư Nhật, EU, Mỹ, trong đó đặc biệt coi trọng việc lôI kéo các tập đoàn lớn để tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý thị trường. Quy đó rút ngắn khoảng cách so với Mỹ trong cuộc chạy đua phát triển kinh tế mà Việt Nam đang ở thế bất lợi.
1.5 Tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp tham gia tích cực vào quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ.
Doanh nghiệp là những chủ thể có vai trò quan trọng trong việc thực hiện những cam kết của Nhà nước ta trong khuôn khổ Hiệp định song phương với Mỹ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp thực sự chưa có thông tin rộng rãi và đầy đủ về tiến trình hội nhập và thực hiện các cam kết trong Hiệp định. Chính vì vậy, Nhà nước cần có sự thông tin kịp thời và chính xác về cơ hội kinh doanh khi thực hiện Hiệp định, đồng thời nghiên cứu ban hành các chế độ hỗ trợ các doanh nghiệp của ta đủ sức vươn lên khai thác những lợi thế buôn bán làm ăn với Mỹ, thiết thực góp phần thực hiện Hiệp định trước mắt cũng như lâu dài.
Bên cạnh đó, cần có các biện pháp thích hợp cho các khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực tư nhân. Cụ thể:
- Đối với các xí nghiệp quốc doanh, cần thiết phải tiến hành cải cách theo hướng hiệu suất hoá, chẳng hạn thông qua cổ phần hoá một cách phù hợp, có thể áp dụng một số biện pháp hỗ trợ về vốn, tín dụng của Nhà nước. Tuy nhiên, cần khẳng định rõ đầu tư nhà nước chỉ tập trung vào những xí nghiệp có thể tồn tại được sau khi không có hàng rào bảo hộ.
- Đối với xí nghiệp tư nhân, có thể áp dụng một số hình thức hỗ trợ về tín dụng, khuyến khích đầu tư cá nhân vào một số ngành công nghiệp phù hợp với quy mô nhỏ và dễ phát huy lợi thế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nhất là ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
2. Các biện pháp từ phía doanh nghiệp
2.1 Hoàn thiện công tác thu mua, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu.
Nâng cao hiệu quả thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sự thành công của công tác xuất khẩu. Việc tạo nguồn hàng tốt, chất lượng cao, giá rẻ, giao hàng nhanh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện hợp đồng xuất khẩu thuận lợi, đảm bảo uy tín đối với khách hàng, nhất là với các đối tác Mỹ.
Trong thu mua hàng, vấn đề lựa chọn nguồn hàng đối với doanh nghiệp rất quan trọng vì qua đây nó đáp ứng được các yêu cầu về chế biến và xuất khẩu. Do đó, để lựa chọn nguồn hàng phù hợp, doanh nghiệp nên căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của mình, thị trường và yêu cầu của khách hàng.
Có 3 nguồn hàng chính nên khai thác như sau:
Nguồn hàng do liên doanh liên kết
Nguồn ở các công ty, các cơ sở sản xuất chế biến.
Nguồn hàng thu mua qua các đại lý.
Nguồn hàng thu mua qua các đại lý có đặc điểm là cơ động, phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng có lô hàng nhỏ. Nguồn hàng này thường được đảm bảo về số lượng, thời hạn giao hàng, giá cả tương đối rẻ. Tuy nhiên, đối tượng hàng hoá thường không ổn đinh, mang tính manh mún, nhỏ lẻ.
Nguồn hàng ở các công ty, cơ sở chế biến có đặc điểm là bảo đảm về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên, giá cả thị trường thường cao hơn các nguồn hàng đại lý và việc ký kết hợp đồng mua hàng thường gắn với nhiều điều kiện do phía nguồn hàng đưa ra. Vì thế nó chỉ phù hợp với những hợp đồng có khối lượng lớn, thời gian giao hàng dài.
Chính vì vậy, để đảm bảo cho việc chủ động khai thác các nguồn hàng có tỷ lệ chế biến cao, đảm bảo về số lượng, chất lượng thì doanh nghiệp cần xây dựng thêm các cơ sở sản xuất để tạo ra nguồn hàng xuất khẩu dồi dào tập trung có chất lượng cao đồng thời cũng cần có thêm nhiều chính sách, đầu tư, liên doanh, liên doanh liên kết với các đơn vị chế biến sản xuất một cách thoả đáng.
Muốn nâng cao công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp cần chú trọng một số vấn đề sau:
Lựa chọn nguồn hàng hợp lý, có khả năng về tài chính và năng lực sản xuất, đảm bảo việc thực hiện đầy đủ các hợp đồng kinh tế đã ký.
Thiết lập mạng lưới thu mua hàng cơ động, thuận tiện, đồng thời bố trí các kho một cách hợp lý và khoa học.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua đặc biệt cần bổ sung thêm phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, kiểm nghiệm hàng hoá.
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm nghiệm chất lượng hàng hoá. Do đó phải nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ làm công tác thu mua.
Xúc tiến xuất khẩu
Thực trạng hoạt động xúc tiến xuất khẩu hiện nay ở các doanh nghiệp Việt Nam cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu các điều kiện cần thiết để làm công tác xúc tiến thương mại. Đó là thiếu thông tin thương mại và tình báo kinh doanh, thiếu nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng xúc tiến thương mại, thiếu nguồn lực tài chính và vật chất, thiếu mạng lưới bán hàng và các quan hệ. Hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam, theo nhận xét của ông Nguyến Duy Khiên, đều không có kế hoạch Marketing xuất khẩu hoặc nếu có thì những kế hoạch đó cũng không thực hiện được đầy đủ hoặc không tiến hành đánh giá hiệu quả thực hiện để kịp thời điều chỉnh kế hoạch dẫn đến hiệu quả Marketing và xuất khẩu thấp, thị trường không ổn định.
Chính vì vậy, trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường Mỹ thì vấn đề trước tiên là các doanh nghiệp phải xây dựng được cho mình một kế hoạch Marketing hoàn chỉnh và theo một vòng tròn khép kín từ khâu nghiên cứu thị trường, đàm phán mở cửa thị trường; lập đại diện thương mại ở nước ngoài; tổ chức tuyên truyền, quảng cáo, tham gia các hội chợ triển lãm, khuyến mại…đến khâu đánh giá, rút kinh nghiệm, bổ sung các yếu tố cần thiết từ thực tế để nâng cao việc xúc tiến cho ngày một tốt hơn, có chất lượng cao hơn.
2.3 Tăng cường liên doanh, liên kết nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ.
Có một thực tế là các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhỏ bé về quy mô, sản xuất, vốn kinh doanh, kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Trong khi đó, thị trường Mỹ rất rộng lớn với nhiều loại công ty từ nhỏ đến rất lớn, mới thành lập hay đã tồn tại hơn 100 năm. MôI trường cạnh tranh khắc nghiệt, yêu cầu chất lượng hàng hoá cao, đơn đặt hàng lớn, đòi hỏi giao hàng đúng hạn trong một thời gian không mấy rộng rãi… Tất cả những điều đó sẽ tác động đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, họ cần tăng cường phối hợp, cộng tác với nhau để có thể đáp ứng các đòi hỏi của thị trường nhằm duy trì, củng cố và phát triển thị phần của mình nói riêng và của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trên thị trường Mỹ.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên một bộ phận các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài với những thế mạnh về công nghệ và vốn đầu tư, cho phép các doanh nghiệp đa dạng hoá chủng loại sản phẩm cũng như việc áp dụng các công nghệ hiện đại trong việc sản xuất và xuất khẩu đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản phẩm thuỷ sản trên thị trường Mỹ.
Mặt khác, qua thực tế, một kinh nghiệm cho thấy, mỗi doanh nghiệp chỉ cố gắng tạo dựng một hình ảnh riêng cho mình thì chưa đủ, khách hàng sẽ không đến Việt Nam vì một doanh nghiệp, họ cần một nền công nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần liên kết với nhau, một mặt nhằm tăng cường hợp lực, mặt khác để gây ấn tượng, thu hút sự quan tâm của khách hàng Mỹ.
2.4 Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam.
Với tư cách là một tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp trong toàn ngành, Hiệp hội phải tăng cường hoạt động góp phần từng bước khắc phục những yếu kém hiện nay của ngành thuỷ sản Việt Nam, nên cố gắng tạo lập thị trường nội bộ lành mạnh, tạo điều kiện để cùng nhau phát triển, cùng liên kết hợp tác đối phó với thị trường nước ngoài, hỗ trợ lẫn nhau trong kinh doanh, tránh tình trạng mạnh ai nấy lo, tranh giành thị phần…Hiệp hội phải thể hiện được tiếng nói chung của các doanh nghiệp, phản ánh với Nhà nước tiến trình hoạt động, nguyện vọng, những kiến nghị và chính sách cần thiết để tăng khả năng xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Mặt khác, Hiệp hội cần tích cực cùng các tổ chức quốc tế và khu vực tham gia các hoạt động có liên quan đến ngành thuỷ sản để trao đổi thông tin, tạo tiếng nói riêng và những ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.
2.5 Tổ chức hệ thống thông tin phản ánh kịp thời sự thay đổi nhu cầu và phát hiện nhu cầu mới trên thị trường.
Mỹ là quốc gia phát triển mạnh nhất thế giới về công nghệ thông tin. Do đó, khi tham gia vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải làm việc với những đối tác có thể hiểu rõ về mình nhờ thông tin bằng nhiều nguồn khác nhau, nhất là trên mạng. Trong khi đó, việc không nắm bắt được những thông tin về thị trường Mỹ vẫn đang là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy, để có thể xây dựng được hệ thống thông tin này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có sự liên kết, hỗ trợ, khai thác thông tin của các công ty bán lẻ trên thị trường Mỹ, nhanh chóng tiếp cận với phương thức thương mại điện tử (e-commerce) thông qua việc đưa vào và sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, đặc biệt là Internet, để giúp doanh nghiệp thu thập, dự báo thông tin về thị trường nhanh chóng và có độ chính xác cao. Thông qua những hoạt động hỗ trợ của Chính phủ và của các trung tâm tư vấn, các doanh nghiệp cần chủ động nắm bắt thông tin cũng như cung cấp, phản hồi những thông tin của doanh nghiệp cũng như những bất cập để cùng tháo gỡ.
2.6 Nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu.
Mỹ là một thị trường khó tính nhất thế giới trong việc nhập khẩu hàng thuỷ sản. Việc đảm bảo an toàn thực phẩm là điều kiện sống còn để hàng thuỷ sản có thể thâm nhập vào thị trường Mỹ, vì vậy các doanh nghiệp phải bảo đảm nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản theo yêu cầu của thị trường Mỹ. Muốn vậy các doanh nghiệp phải chú ý đến các vấn đề sau:
Nâng cao chất lượng nguyên liệu chế biến: Các doanh nghiệp nên xây dựng cho mình một nguồn nguyên liệu ổn định cho mình bằng cách ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với người nuôi trồng, giúp đỡ ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống. Đây là biện pháp tốt nhất để doanh nghiệp có thể chủ động được nguyên liệu, có thể kiểm soát được chất lượng của nguồn nguyên liệu bởi chất lượng nguyên liệu là cơ sở đầu tiên và không thể thiếu để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Từng bước đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ quản lý, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo HACCP.
Đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm tại nhà máy có khả năng kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất khẩu, tránh tình trạng chỉ nghiệm thu, đánh giá theo cảm nhận và kinh nghiệm.
Song song với các thay đổi về công nghệ, trang thiết bị. Cần phải nâng cao ý thức và trình độ chuyên môn của mỗi công nhân, mỗi cán bộ. Phải có chương trình giáo dục, tuyên truyền đối với mọi cá nhân trong doanh nghiệp về yêu cầu và lợi ích của việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như về vai trò của mỗi người trong việc nâng cao chất lượng. Đồng thời đào tạo cho công nhân các kỹ năng cần thiết để sử dụng có hiệu quả các thiết bị, phương tiện hiện đại, tiên tiến. Riêng đối với cán bộ quản lý chất lượng cần đào tạo nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để họ thực hiện tốt các công tác quản lý chất lượng hàng hoá từ nhập nguyên liệu- quá trình chế biến- sản phẩm nghiệm thu.
2.7 Nghiên cứu và nắm vững hệ thống luật pháp Mỹ.
Để vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, thị hiếu của người tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà điều quan trọng không kém là phải thông thạo hệ thống luật pháp của Mỹ, nắm được hệ thống quản lý xuất nhập khẩu. Sở dĩ, là vì hệ thống pháp luật của Mỹ vô cùng rắc rối, phức tạp và chặt chẽ. Ngoài hệ thống luật pháp liên bang thì mỗi bang lại có một sự khác biệt rất đáng kể về luật lệ. Tổng cộng tại 50 bang của Hoa Kỳ có tới trên 2700 chính quyền địa phương các cấp, các cơ quan này đều có những quy định riêng của họ. Các yêu cầu này thường không thống nhất với nhau. Vì vậy, không thể tuỳ tiện áp dụng quy định của bang này ở một bang khác.
Chính vì những nguyên nhân đó mà các cán bộ trực tiếp điều hành hoạt động xuất khẩu cần phải tìm hiểu rõ và đầy đủ hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ liên quan đến hoạt động xuất khẩu của mình như các thủ tục Hải quan, biểu thuế quan nhập khẩu, luật trách nhiệm sản phẩm, luật chống phá giá, vấn đề bảo hộ sở hữu trí tuệ, vấn đề ghi xuất xứ hàng hoá hay lập hoá đơn thương mại…Tất cả đều có những quy định riêng rất nghiêm ngặt và buộc phải tuân thủ chặt chẽ.
Các doanh nghiệp có thể tiếp cận với các nguồn thông tin khác nhau để cập nhật các quy định luật pháp của Hoa Kỳ chi phối các hoạt động xuất khẩu của mình. Chẳng hạn như thông qua các đối tác Hoa Kỳ: yêu cầu họ cung cấp các quy định về đóng gói, về quy cách phẩm chất đối với sản phẩm…Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể tìm hiểu thông qua các tổ chức như Bộ thuỷ sản, Bộ thương mại, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP), các nhà môi giới Hải quan Mỹ, cơ quan thương vụ Mỹ tại Việt Nam…
Mặt khác, các doanh nghiệp thuỷ sản nếu đã có quan hệ làm ăn lâu dài và ổn định trên thị trường Mỹ, thì doanh nghiệp nên lập văn phòng đại diện tại Mỹ để cập nhật các thông tin về những biến đổi, điều chỉnh trong quy định Hải quan, biểu thuế, hạn ngạch, chế độ ưu đãi, các mặt hàng cấm và miễn thuế… Tuy nhiên, khi lập một văn phòng đại diện như vậy thì doanh nghiệp phải hết sức chú ý tới vấn đề “Luật trách nhiệm sản phẩm”. Bởi vì theo quy định của Mỹ thì một nhà sản xuất hay xuất khẩu nước ngoài chỉ phải ra hầu toà nếu có “mối liên hệ tối thiểu” nào đó đối với tiểu bang nới vụ kiện bị khởi tố. Nếu một công ty nước ngoài không có mối liên hệ đầy đủ với tiểu bang thì Toà án tiểu bang không có quyền bắt họ ra hầu toà về các vụ kiện có liên quan tới trách nhiệm sản phẩm.
Chính vì vậy, theo kinh nghiệm của các nhà xuất khẩu vào Mỹ thì tốt nhất là sử dụng luật sư và các dịch vụ tư vấn về pháp luật. Không phải vô cớ mà có câu “sống bên cạnh một người Mỹ bao giờ cũng có một Bác sĩ và một Luật sư”. Việc sử dụng các dịch vụ tư vấn về pháp luật lại càng có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam bởi vì chúng ta mới thâm nhập vào thị trường Mỹ (năm 1994 Mỹ mới xoá bỏ cấm vận với Việt Nam). Để tránh sai lầm do ít am hiểu về luật các doanh nghiệp nên tìm tới các văn phòng tư vấn hoặc các Luật sư tại Mỹ, thậm chí ngay cả ở Việt Nam cũng có thể tìm thấy một số văn phòng Luật sư của Mỹ đang hoạt động. Họ sẽ đưa ra cho ta những lời khuyên, những hướng dẫn bổ ích giúp ta có được các cân nhắc và quyết định đúng đắn không những tránh được các rủi ro về pháp luật mà còn có thể lợi dụng được những ưu đãi trong luật pháp Hoa Kỳ.
2.8 Mua bảo hiểm cho hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ đã chính thức có hiệu lực. Các cơ hội kinh doanh đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam . Tuy nhiên, để xuất được hàng vào thị trường Mỹ thực không đơn giản. Ngoài việc tìm được bạn hàng và rất khó khăn mới xuất được hàng đi, việc bán được hàng cho các khách hàng tại Mỹ cũng không dễ dàng hơn. Nhiều chuyên gia về luật pháp và thương mại đã cảnh cáo rằng các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam khi xuất hàng vào thị trường khổng lồ này phải hết sức thận trọng, bởi chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể dẫn đến sự thất bại trong hợp đồng xuất khẩu và nghiêm trọng hơn, có thể dẫn đến sự phá sản trong kinh doanh.Chính vì vậy, biện pháp thiết thực và khôn ngoan nhất mà các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nên tiến hành trước khi bước vào thị trường Mỹ là mua bảo hiểm, nhất là bảo hiểm về trách nhiệm sản phẩm. Bởi người tiêu dùng Mỹ rất hay kiện cáo và những vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm được khởi kiện bởi người tiêu dùng Mỹ có thể làm cho các nhà xuất khẩu tốn đến hàng triệu USD.
2.9 Tận dụng lực lượng Việt Kiều Tại Mỹ
Hiện nay, số lượng bà con Việt Nam đang sống và làm việc tại Mỹ khá đông đảo. Với trình độ khoa học cao do được tiếp xúc với nền khoa học hiện đại, cộng với sự am hiểu về luật pháp Hoa Kỳ thì đây sẽ là một nguồn lực đáng kể cho các doanh nghiệp Việt Nam chú ý thu hút và tận dụng trong việc hợp tác kinh doanh hoặc sử dụng làm môi giới, trung gian với các đối tác Mỹ.
Đồng thời, với số lượng trên 2 triệu người, lực lượng Việt kiều cũng sẽ là một thị trường tiêu thụ đáng kể hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và qua đó, gián tiếp giúp quảng bá hàng thuỷ sản Việt Nam tới cộng đồng người khác ở Mỹ.
Với vai trò quan trọng như vậy, lực lượng Việt kiều ở Mỹ đang và sẽ trở thành những đối tác quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam – những người muốn xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ trong giai đoạn đầu mới xâm nhập thị trường. Do đó, để phát huy vài trò của lực lượng này, các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm, hợp tác, đồng thời phải có đối sách phù hợp để ưu đãi, kêu gọi và tạo điều kiện cho họ hợp tác kinh doanh, quay về đóng góp phục vụ quê hương.
2.10 Nâng cao công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Con người là chủ thể của mọi hành động cho nên nó có tính quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải chú trọng công tác đào tạo và đạo tạo lại nguồn nhân lực. Nhất là hiện nay, tại thị trường Mỹ, các phương thức kinh doanh hiện đại qua mạng Internet như thương mại điện tử đang rất phổ biến, các hình thức kinh doanh rất đa dạng, phạm vi kinh doanh rộng, quy mô lớn thì việc nắm bắt kịp thời các công cụ, phương tiện, thành tựu của công nghệ hiện đại, các kiến thức chuyên môn mới…là vô cùng quan trọng.
Trình độ của các nhân viên kinh doanh nói chung và kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng phải đáp ứng được các đòi hỏi của việckd quốc tế: về ngoại ngữ, về sự am hiều luật pháp và tập quán thương mại quốc tế, luật pháp liên bang và bang mà doanh nghiệp sẽ kinh doanh…Đồng thời, cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần phải nắm vững các quy định, các văn bản pháp lý, chính sách và pháp luật của Nhà nước; các văn bản, quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế, các hiệp định thương mại song phương không chỉ với Mỹ mà Việt Nam đã ký kết để từ đó vận dụng linh hoạt, tận dụng được các ưu đãi thương mại mà các tổ chức, các nước dành cho nước đang phát triển như Việt Nam.
III. Một số kiến nghị cụ thể đối với Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có vai trò điều tiết mọi hoạt động của nền kinh tế thông qua các chính sách, luật pháp cụ thể. Nhà nước còn có vai trò như “trọng tài” trong các cuộc chơi, tạo ra hành lang pháp lý nhằm để có được môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta chuyển đổi sang cơ chế thị trường còn chưa lâu, cho nên vẫn có những vấn đề về cơ chế chính sách gây trở ngại cho hoạt động xuất khẩu của ngành thuỷ sản nói riêng và cho các hoạt động xuất nhập khẩu nói chung.
Cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, xuất khẩu hàng thuỷ sản.
Vấn đề tài trợ xuất khẩu bào trùm toàn bộ các biện pháp tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng thuỷ sản. Đây là một trong những yếu tố quyết định thành công của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản. Nhu cầu tài trợ xuất khẩu bao gồm:
- Vốn để đảm bảo đầu vào cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, mua nguyên liệu, máy móc thiết bị, phụ tùng cần thiết.
- Tài trợ trong khi giao hàng: Hàng thuỷ sản đã được chế biến phải lưu kho chờ ký được hợp đồng bán hàng, muốn thắng lợi trong chào hàng và giành được hợp đồng thì doanh nghiệp phải chào hàng với những điều kiện hấp dẫn về giá cả hay thanh toán, do đó phát sinh nhu cầu tín dụng trong giao hàng.
- Tín dụng sau giao hàng, khi xuất khẩu chào bán chịu với thời hạn thanh toán là 3,6,9 tháng, 1 năm hay lâu hơn nữa, cần phải có tín dụng xuất khẩu cho các nhà xuất khẩu trực tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh. Tài trợ xuất khẩu, ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên, còn là sự hạn chế các rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu và do vậy mà khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất phải chăng.
Thực tế trong 3 năm vừa qua, Nhà nước đã hỗ trợ vốn cho ngư dân đóng tàu thuyền đánh cá xa bờ, nhưng do cơ sở hạ tầng ở các địa phương còn quá thấp và do đời sống ngư dân còn qúa khó khăn nên Nhà nước vừa không thu được vốn mà sản lượng hải sản đánh bắt không tăng đáng kể. Vì vậy, Nhà nước cần có các hình thức tài trợ cho ngư dân triệt để hơn để họ có khả năng phát triển đánh bắt xa bờ nâng cao sản lượng hải sản.
Miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản.
Hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam và trước đây có lợi thế cạnh tranh khá lớn vì vậy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thế giới qua. Tuy nhiên, ngày nay lợi thế cạnh tranh này đã bị phương hại lớn vì chi phí nguyên liệu quá cao, giá lao động cũng tăng lên nhiều trong khi máy móc thiết bị chế biến ở trong tình trạng quá lạc hậu so với trình độ chung, vì vậy để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu cần có chính sách thuế thoả đáng. Chúng tôi rất tán đồng việc nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thuỷ sản từ 15/2/1998 để các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về mặt giá cả. Còn đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu chúng tôI đề nghị hoàn trả 100% thuế nhập khẩu, và đề nghị nhà nước khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu thông qua quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị…Việc áp dụng linh hoạt các chính sách thuế có tác động rất tích cực đối với việc tăng cường sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam, khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu.
Mặt khác, Nhà nước cũng cần có chính sách tín dụng ưu đãi cho chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt xa bờ nhằm tạo nguồn nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao phục vụ cho chế biến xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Với các vùng bị thiên tai thì Nhà nước nên tiếp tục thực hiện chính sách khoanh nợ, giãn nợ, tiếp tục cho vay để ngư dân có thể có vốn để nuôi trồng cũng như đóng mới tàu thuyền.
Tiếp đó, cần mau chóng triển khai tổ chức thực hiện tốt Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy sớm việc thầnh lập Quỹ tín dụng xuất khẩu để giúp các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được các khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng, có đủ hàng trong các thời điểm mà nhu cầu thị trường Mỹ tăng mạnh.
Quỹ hỗ trợ xuất khẩu đã được quy định trong luật khuyến khích đầu tư trong nước (1998). Tuy nhiên, hiện nay việc tổ chức thực hiện quỹ này vẫn chưa đúng mà phương thức hoạt động quỹ này lại thiên về trợ cấp theo kiểu “cho không”. Và điều này đã làm trầm trọng thêm tâm lý ỷ lại của các doanh nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải triển khai tổ chức thực hiện tốt quỹ này phù hợp với điều 10 của luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi.
3.3 Cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thuỷ sản xuất khẩu.
Vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Việt Nam có thể hiểu rõ được điều này qua trường hợp Thái Lan, trở thành nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới hiện nay là nhờ việc Thái Lan đã tập trung mọi nỗ lực của ngành thuỷ sản, cả tư nhân và nhà nước để cải tiến chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu. Hướng xuất khẩu thuỷ sản thế giới tới của Nhà nước ta là phải tăng thị phần ở liên minh Châu Âu và Bắc Mỹ. Do đó, không có cách nào khác là sự vươn lên của các doanh nghiệp Việt Nam cùng với sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để cải tiến chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần tăng cường thẩm quyền và trách nhiệm của NAFIQACEN để đảm bảo các điều kiện tương đương của EU, Mỹ về cơ quan quản lý chất lượng. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ tài chính và kỹ thuật để các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản đáp ứng yêu cầu chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thuỷ sản của nước ngoài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29144.doc