Công tác xuất khẩu lao động đối với cả nước nói chung và đối với tỉnh Bắc Ninh luôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vấn đề vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã hội sâu sắc. Vì vậy nếu có những giải pháp đúng đắn và hiệu quả trong công tác xuất khẩu lao động sẽ tạo ra động lực cho phát triển, ngược lại nó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về cả kinh tế và xã hội.
Nhận thức sâu sắc vấn đề xuất khẩu lao động, những năm qua công tác xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh luôn được quan tâm đúng mức. Cùng với chính sách, định hướng và hướng dẫn của Chính phủ, Bắc Ninh đã chủ động đưa ra những biện pháp cụ thể phù hợp tình hình trong tỉnh, từ đó đã gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó, hoạt động xuất khẩu lao động trong tỉnh còn rất nhiều vấn đề phải đặt ra cần phải nhanh chóng giải quyết.
111 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1843 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp cho công tác xuất khẩu lao động ở tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ém. Hiện nay thị trường lao động quốc tế đang có những bất lợi cho ta đó là sự khủng hoảng dầu mỏ khí đốt làm cho giá xăng dầu tăng một cách chóng mặt, giá vàng trên thế giới cũng đắt đỏ làm cho hàng loạt giá cả tiêu dùng, giá cả sức lao động cũng tăng lên. Trong khi đó, các cơ quan Nhà nước có liên quan, các cơ quan đại diện nước ngoài chưa có sự đầu tư đúng mứcvề thời gian và vật chất để nghiên cứu nhu cầu của thị trường lao động quốc tế. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong tỉnh còn thụ động, chông chờ ỉ lại vào các cơ quan Nhà nước, chưa có đủ khả năng, kinh nghiệm để mở rộng thị trường.
Công tác thông tin tuyên truyền còn chứa được chú trọng, sự hợp tác giữa các Bộ, ngành, địa phương và các doanh nghiệp với các cơ quan thông tin đại chúng chưa được thường xuyên dẫn đến việc người lao động vẫn còn thiêu thông tin về chế độ chính sách, về công tác tuyển chọn lao động của các doanh nghiệp, do đó dễ bị kẻ xấu lừa đảo. Đa số lao động bị lừa đảo đều thiếu hiểu biết về thông tin, chính sách xuất khẩu lao động, không biết cụ thể doanh nghiệp nào có chức năng xuất khẩu lao động và doanh nghiệp nào không có chức năng xuất khẩu lao động. Tất cả thông tin người lao động nhận được đều qua trung gian, qua các “cò” lao động môi giới.
Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan chức năng trong nước, các cơ quan đại diện, các doanh nghiệp phái cử lao động trong việc quản lý lao động và giải quyết các vụ việc rắc rối không được tốt. Các doanh nghiệp thường không cung cấp đầy đủ thông tin về danh sách, tình hình sinh sống và làm việc của người lao động. Phần lớn các doanh nghiệp chỉ đưa ra các yêu cầu hỗ trợ kinh phí khi bất ổn xảy ra, khiến các cơ quan đại diện rất bị động trong việc bảo hộ và quản lý lao động. Hơn nữa, kinh phí và biên chế cán bộ quản lý lao động trong các cơ quan đại diện rất hạn hẹp, khiến cho công tác quản lý lao động lại càng gặp nhiều khó khăn hơn.
Về phía bản thân các doanh nghịêp, cơ sở xuất khẩu lao động thì vẫn còn nghèo nàn về cơ sở vật chất phục vụ cho việc đào tạo. Chất lượng công tác giáo dục định hướng cho người lao động chưa cao.
Còn người lao động có trình độ học vấn rất thấp chỉ phù hợp với lao động phổ thông, thu nhập không cao. Khi được tuyển chọn thì họ vẫn chưa có tư tưởng làm thuê. Nhiều người tay nghề kém, không quen với tác phong công nghịêp và các quy định chặt chẽ của phía nước ngoài về kỹ thuật lao động, ảo tưởng về thu nhập và điều kiện sống ở nước ngoài. Mặt khác sang bên đó lại không chịu rèn luyện tu dưỡng, từ đó mà nảy sinh ý thức kém, lười biếng, vi phạm hợp đồng.
Nhân xét chung
Như đã phân tích ở trên, chúng ta cũng đã thấy được toàn cảnh về công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh trong một vài năm gần đây đó là sự gia tăng liên tục về số lượng góp phần đào tạo nghề, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động, chủ yếu ở nông thôn và người nghèo. Hầu hết lao động của Bắc Ninh đang làm việc tại nước ngoài đều có việc làm và thu nhập tương đối ổn định. Bình quân thu nhập cầm tay (kể cả làm thêm) của người đi xuất khẩu lao động là 550USD/tháng, ước tính từ năm 2000 đến nay bình quân người lao động của tỉnh gửi về cho gia đình khoảng từ 1 triệu đến 1,5 triệu USD/năm. Đời sống của người đi xuất khẩu lao động được cải thiện và có nhiều đóng góp cho việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Như vậy, bằng xuất khẩu lao động tỉnh đã giải quyết việc làm cho một bộ phận người lao động, giải quyết được đầu tư cho đào tạo nghề và giải quyết việc làm tại chỗ, người lao động được nâng cao tay nghề, tiếp thu được công nghệ sản xuất mới và phương pháp quản lý tiên tiến, được rèn luyện tác phong và kỷ luật lao động công nghiệp. Sau khi về nước nhiều lao động đã được tiếp nhận vào các cơ sở sản xuất, các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài và một bộ phận tự hành nghề, lập xưởng tự quản lý sản xuất, kinh doanh tạo việc làm cho nhiều người khác.
Bên cạnh đó thì công tác xuất khẩu lao động của Bắc Ninh cũng gặp phải những bất cập khó tránh khỏi về phía các cơ quan chức năng trong tỉnh, về phía các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong tỉnh và về phía bản thân người lao động nữa. Cái hạn chế lớn của tỉnh ta là vẫn chưa xuất khẩu được lao động có kỹ thuật cao và chuyên gia sang làm việc ở nước ngoài được, vấn đề này là vấn đề rất cấp thiết cần được các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chức năng trong tỉnh xem xét và giải quyết.
Do vậy mà cần phải có những biện pháp thật sự hữu hiệu để nâng cao công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh góp phần vào sự phát triển kinh tế đưa Bắc Ninh trở thành một tỉnh giàu mạnh.
Chương 3:
Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh
Phương hướng và mục tiêu của công tác xuất khẩu lao động
Chủ trương, phương hướng
Xuất khẩu lao động là một nhiệm vụ chính trị, kinh tế có ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta. Xuất khẩu lao động là làm giàu cho đất nước, cho chính người lao động, là tạo điều kiện để lao động của ta tiếp cận với công nghệ, kỹ thuật và kiến thức quản lý hiện đại. Xuất khẩu lao động là quyền lợi nghĩa vụ của người lao động, là trách nhiệm của các cấp, các ngành và đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh.
Đẩy mạnh xuất khẩu lao động trước hết là trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải có sự phối hợp đồng bộ trong việc đầu tư mở rộng thị trường, đào tạo nguồn lao động xuất khẩu, cụ thể hoá chủ trương, chính sách và chỉ đạo để đẩy mạnh xuất khẩu lao động đặc biệt trong quan hệ ở cấp cao với nước ngoài, cần có những nội dung hợp tác trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
Có chiến lược về mở rộng thị trường xuất khẩu lao động: Củng cố thị trường truyền thống, giữ và phát triển thị trường hiện có, khai thông thâm nhập vào các thị trường mới. Thị trường truyền thống bao gồm Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc,... Còn thị trường cần được khai thông để phát triển là: Trung Đông, các nước Châu Mỹ la tinh... Mỗi khu vực cần có đề án phát triển riêng.
Thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động theo quan hệ cung – cầu của thị trường lao động: Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu lao động cung cấp lao động cho mọi thị trường cần lao động và chuyên gia Việt Nam nếu ở đó phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đảm bảo an ninh và quyền lợi kinh tế cho người lao động.
Đa dạng hoá ngành nghề, trình độ lao động và chuyên gia. Cung cấp lao động và chuyên gia cho mọi loại ngành nghề với trình độ tay nghề khác nhau. Xuất khẩu lao động phải đảm bảo tính cạnh tranh trên cơ sở tăng cường đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia, nâng dần tỷ trọng lao động xuất khẩu có chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu; mở rộng xuất khẩu lao động thí điểm một số ngành nghề mới ở khu vực có môi trường pháp lý và xã hội thuận lợi, chỉ cấm xuất khẩu lao động ở một số nghề đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam.
Đa dạng hóa các thành phần tham gia xuất khẩu lao động: củng cố các doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động, mở rộng diện các doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện trực tiếp xuất khẩu lao động dưới các hình thức như nhận thầu nhận công trình, đưa lao động đi làm việc trong các xí nghiệp của nước ngoài ..., khuyến khích các tổ chức, cá nhân đang làm việc ở nước ngoài tìm việc và thu hút thêm lao động từ trong nước; thí điểm một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đủ điều kiện, được tham gia hoạt động xuất khẩu lao động trong khuôn khổ pháp luật dưới sự quản lý chặt chẽ của các cơ quan chức năng.
Đa dạng hoá hình thức đưa lao động ra nước ngoài theo hướng ưu tiên sau:
- Đi tập thể, do các doanh nghiệp tổ chức dưới các hình thức nhận thầu công trình công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ lợi, giao thông, dân dụng ... ở nước ngoài.
- Chuyên gia tại một số lĩnh vực thế mạnh của ta như: Nông nghiệp, Thuỷ lợi ...
- Công nhân có tay nghề làm việc theo hợp đồng ký giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Lao động phổ thông trong một số lĩnh vực theo yêu cầu của phía nước ngoài và theo quy định của Chính phủ.
Đầu tư nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước, đầu tư cho các tổ chức hoạt động xuất khẩu lao động, đầu tư đào tạo về ngoại ngữ, tay nghề và chuyên môn cho người lao động đáp ứng yêu cầu thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của đội ngũ lao động Việt Nam nói chung và lao động của Bắc Ninh nói riêng trên thị trường thế giới.
Một số thị trường triển vọng và định hướng tiếp cận trong các năm tới
Khu vực Đông Bắc á:
Là thị trường trọng điểm của Bắc Ninh, trong tương lai gần còn có tiềm năng phát triển, bao gồm các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan (hiện ta có hơn 10.000 lao động tại các nước trên).
Nhật Bản:
Tình hình chung:
Nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển một cách thần kỳ trong hơn ba thập kỷ qua, trở thành một cường quốc về kinh tế thế giới. Nền kinh tế phát triển nhanh, cầu về lao động làm việc trong các ngành công nghiệp phục vụ sản xuất lớn. Bên cạnh đó, cùng với sự nâng cao của mặt bằng giáo dục, thanh niên Nhật Bản có xu hướng tìm kiếm công việc văn phòng tại các công ty đa quốc gia, các văn phòng đại diên của công ty nước ngoài tại Nhật Bản hoặc đảm nhận các công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao (như chuyên gia máy tính, lập trình viên, kỹ thuật viên…) hoặc bản thân lao động Nhật di cư sang các nước khác để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt hơn (ví dụ sang Hoa Kỳ, Canada…). Vì vậy, cung về lao động trong các công việc máy móc, giản đơn trong các dây chuyền sản xuất hoặc các công việc loại 3D (khó khăn, không vệ sinh, không an toàn) như việc làm vệ sinh công nghiệp đối với các khu văn phòng, cao ốc đang lâm vào tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng.
Mặc dù Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra những quy định nhập cảnh và tiếp nhận lao động khó khăn, ngặt nghèo đặc biệt là đối lao động phổ thông và lao động trong lĩnh vực 3D, do yêu cầu của công việc, người sử dụng lao động Nhật Bản vẫn tìm kiếm nguồn lao động nước ngoài để đảm nhận những công việc này bằng cách đưa ra chế độ thu nhập và đãi ngộ rất hấp dẫn để thu hút lao động. Vì vậy, số lượng lao động nước ngoài sang Nhật Bản khá lớn và trong đó, một phần không nhỏ là lao động bất hợp pháp (270.000/670.000 lao động nước ngoài đến làm việc tại Nhật Bản năm 1998 là lao động bất hợp pháp).
Định hướng thị trường:
Để ổn định và giữ vững thị trường này, cần phối hợp với các cơ quan liên quan (Bộ Ngoại giao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, các cấp chính quyền địa phương nơi quản lý về nhân khẩu đối với các lao động bỏ trốn) đề ra những biện pháp mạnh mẽ, triệt để nhằm ngăn chặn và chấm dứt hoàn toàn hiện tượng này. Bên cạnh đó, những doanh nghiệp có nhiều lao động đang làm việc tại Nhật Bản phải cử đại diện để phối hợp với Ban Quản lý lao động và chuyên gia tại Nhật Bản quản lý số lao động hiện có của Công ty mình cũng như giải quyết nhanh chóng, kịp thời những vấn đề phát sinh, không để những hiện tượng tiêu cực xảy ra thường xuyên và tràn lan. Cũng cần phải đưa ra những chế tài và quy định chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những doanh nghiệp có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao.
Hàn Quốc:
Tình hình chung:
Hàn Quốc là quốc gia có thu nhập quốc dân bình quân đầu người vào loại cao trong mười nước đứng đầu thế giới. Trong những năm gần đây, Hàn Quốc luôn duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế ổn định, tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hồi phục nhanh đã làm tăng lên nhu cầu lao động, bao gồm cả lao động nước ngoài.
Trong hơn 20 năm qua, tỷ lệ tăng dân số Hàn Quốc đã giảm dần dẫn đến thay đổi mạnh kết cấu dân số. Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có sự thay đổi thể hiện tỷ lệ trẻ giảm, số người có học vấn tăng dẫn đến việc thiếu lao động tay nghề thấp, ở những khu vực 3D và thuyền viên tàu cá.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc đóng góp khá lớn vào nền kinh tế Hàn Quốc song xu hướng người lao động Hàn Quốc chỉ muốn được làm việc tại các tập đoàn kinh tế lớn cũng là nguyên nhân khiến Hàn Quốc phải tiếp nhận lao động nước ngoài vào khu vực này. Vì vậy, số lao động nước ngoài vào làm việc tại Hàn Quốc từ những năm 1990 đến nay đã tăng lên nhanh chóng (từ 44.850 người năm 1991 đến 385.498 người năm 2003).
Hàn Quốc tiếp nhận người nước ngoài vào làm việc thông qua 2 hình thức: Tu nghiệp sinh và lao động.
- Hình thức tiếp nhận Tu nghiệp sinh được triển khai từ năm 1992 và hoạt động này được giao cho các Hiệp hội quản lý. Tuy nhiên, một số lượng khá lớn lao động nước ngoài nhập cảnh vào Hàn Quốc không có giấy phép làm việc, những ở lại bất hợp pháp để làm việc. Số lượng lao động nước ngoài bất hợp pháp tăng rất nhanh (khoảng 3.000 - năm 1990, 172.500 người - năm 2000 và 301.747 người - năm 2003).
Chương trình tu nghiệp sinh công nghiệp được thực hiện trong nhiều năm qua đã góp phần giải quyết tình trạng thiếu lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Hàn Quốc, song cũng bộ lộ nhiều tồn tại, rõ nét nhất là tình trạng tu nghiệp sinh nước ngoài bỏ hợp đồng tu nghiệp ra ngoài làm việc hoặc hết hạn hợp đồng không về nước ở lại làm việc và cư trú bất hợp pháp đã trở thành phổ biến. Điều này đã gây khó khăn lớn cho công tác quản lý xã hội.
Do đó, đến tháng 8/2003 Đạo luật việc làm cho lao động nước ngoài được Quốc hội Hàn Quốc thông qua và chính thức có hiệu lực từ tháng 8/2004. Theo Đạo luật này, chương trình nhận lao động nước ngoài sẽ được thực hiện song song với chương trình nhận tu nghiệp sinh.
Thực thi chương trình nhận lao động nước ngoài, Hàn Quốc đã chọn 8 nước (trong đó có Việt Nam) tham gia và ký Bản ghi nhớ với các nước này. Việc tuyển chọn lao động tại các nước cung ứng lao động phải do Cơ quan Nhà nước hay Tổ chức công hoạt động phi lợi nhuận đứng ra đảm nhiệm. Như vậy, ngoài hình thức tu nghiệp sinh công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, chúng ta có thêm kênh mới đưa lao động sang Hàn Quốc, với chỉ tiêu phân bổ cho năm 2004 là 3.000 lao động.
Định hướng thị trường:
Cũng như đối với thị trường Nhật Bản, vấn đề lao động bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn bất hợp pháp là vấn đề trọng tâm của thị trường Hàn Quốc. Việt Nam thuộc nhóm các nước có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao. Để có thể giữ và phát triển thị trường Hàn Quốc, yêu cầu các doanh nghiệp áp dụng quyết định 68/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, áp dụng những biện pháp mạnh mẽ nhằm hạn chế tới mức thấp nhất số lao động bỏ trốn. Vì hiện nay Hàn Quốc đã có thêm những chính sách tiếp nhận lao động nước ngoài vào làm việc - mở ra một cơ hội lớn đối với lao động Việt Nam nên cần phải nhấn mạnh hơn nữa việc thực hiện thật nghiêm túc và chặt chẽ hoạt động tuyển chọn và quản lý lao động sang Hàn Quốc làm việc, đặc biệt là vấn đề bỏ trốn.
Đài Loan:
Tình hình chung:
Đài Loan có một hệ thống luật pháp tương đối đầy đủ và thống nhất điều chỉnh vấn đề việc làm cho lao động nước ngoài, trong đó có quy định chủ sử dụng Đài Loan có thể trực tiếp nhận lao động nước ngoài, song trên thực tế lao động nước ngoài vào làm việc tại Đài Loan hầu hết thông qua các Công ty môi giới Đài Loan (gần 90%) hoạt động hợp pháp theo luật pháp Đài Loan (hiện nay, Đài Loan có trên 800 Công ty môi giới có giấy phép hoạt động).
Sau khi Thoả thuận hợp tác sử dụng lao động được ký kết giữa hai Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc và Văn phòng Kinh tế - Văn hoá Đài Bắc tại Hà Nội, Đài Loan chính thức tiếp nhận lao động Việt Nam từ tháng 11 năm 1999. Theo thống kê, đến nay cả nước đã có hơn 85.000 lượt lao động và Bắc Ninh đã đưa được 5.634 lượt người sang làm việc tại Đài Loan.
Tuy nhiên, đến tháng 8 năm 2002, Uỷ ban lao động Đài Loan ra quyết định đông kết lao động Indonexia vì tỷ lệ bỏ trốn cao. Một lần nữa, đây lại là một cơ hội để tăng nhanh số lượng lao động Việt Nam vào thị trường này.
Chúng ta cũng phải quan tâm đến vấn đề là: Thứ nhất, nhu cầu về giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh của Đài Loan sẽ đến lúc bão hoà - có nghĩa là tất cả hộ gia đình hoặc các cơ sở y tế cần người thì đều nhận đủ người. Thứ hai, khi quan hệ của Đài Loan với Phillipines được cải thiện hoặc vấn đề lao động bỏ trốn được Chính phủ Indonesia giải quyết triệt để thì cơ hội đối với lao động Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi tỷ lệ lao động Việt Nam bỏ trốn đã lên đến mức báo động (trên 7%).
Định hướng thị trường:
Để giải quyết và chuẩn bị đương đầu với những nguy cơ tiềm năng như đã nói ở trên, cần tập trung đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp mạnh, có kinh nghiệm tiếp cận các công trình nhận thầu xây dựng, dự án lớn để cung cấp lao động ta với quy mô lớn trong lĩnh vực xây dựng, điện tử và các ngành công nghệ cao, thay thế dần cho việc quá phụ thuộc vào việc cung cấp giúp việc gia đình và khán hộ công gia đình. Bên cạnh đó, cần đầu tư hợp lý cho công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động đáp ứng cho thị trường Đài Loan. Giáo dục người lao động về trách nhiệm và quyền hạn của họ khi đi làm việc ở nước ngoài. Chú trọng công tác giáo dục tôn giáo trước khi đi. Kiên quyết xử lý những lao động bỏ hợp đồng ra ngoài làm ăn bất hợp pháp hoặc vi phạm luật pháp nước sở tại. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh công tác thông tin hai chiều, phối hợp đồng bộ trong trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện, tránh đa thông tin sai lệch làm ảnh hưởng đến việc phát triển thị trường.
Khu vực Đông Nam á và Thái Bình Dương:
Tình hình chung:
Bao gồm các nước Lào, Cămpuchia, Malaysia, Singapore, Brunei, các đảo Saipan, Palau, American Samoa. Hiện nay lao động Bắc Ninh thì lại tập trung chủ yếu ở thị trường Malaysia, thuộc các ngành nghề: xây dựng, công nghiệp, dệt may, dịch vụ.
Định hướng thị trường:
Malaysia:
Tiếp tục chỉ đạo các doanh nghiệp được phép đưa lao động sang làm việc tại Malaysia tiếp cận thị trường, khai thác được những hợp đồng đảm bảo các điều kiện cho người lao động, đồng thời tiến hành tuyển chọn chặt chẽ, đúng đối tượng và đảm bảo chất lượng.
Chuẩn bị đầy đủ và nâng cao chất lượng nguồn lao động, trên cơ sở mở rộng việc triển khai tại các tỉnh, thành phố trong cả nước mô hình về việc các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương chỉ đạo địa phương mình phối hợp với các doanh nghiệp XKLĐ để triển khai tuyển chọn, đào tạo nguồn lao động phục vụ xuất khẩu lao động sang Malaysia.
Tăng cường công tác quản lý, bảo vệ quyền lợi của ngời lao động trên cơ sở tăng cường năng lực hoạt động cũng như cán bộ cho Ban Quản lý lao động Việt Nam tại Malaysia và yêu cầu các doanh nghiệp phải cử cán bộ sang quản lý số lao động của mình tại Malaysia.
Lao động chưa nhận thức đầy đủ về trách nhiệm và quyền lợi của mình khi đi làm việc ở nước ngoài. Do vậy, dù chỉ mới sau một năm thí điểm đưa lao động sang Malaysia đã phát sinh nhiều vấn đề phức tạp. Ngoài ra, các tổ chức phản động, các tổ chức tôn giáo đã lợi dụng một số khó khăn của lao động ta trong quá trình thực hiện hợp đồng để khích động, xuyên tạc chính sách XKLĐ của ta.
Thị trường các nước Trung Đông, châu Phi:
Tình hình chung:
Thị trường này bao gồm các nước Côet, UAE, A rập Seut, Libăng, Libi, Côngô, Angola, Angeri, Senegal, Mozambich. Hiện nay Bắc Ninh chưa đưa được người nào sang các thị trường này. Nhưng theo đánh giá chuyên gia Việt Nam sang làm việc tại Châu Phi từ những năm 80 và đã tạo ra uy tín nhất định với thị trường này và Việt Nam đã đưa được hơn 8.000 lượt chuyên gia sang làm việc tại các nước châu Phi, hiện nay tuy nhu cầu có giảm đi song vẫn còn nhu cầu về các chuyên gia trong một số lĩnh vực. Hiện còn hơn 1.500 lao động Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài khác nhau tại LiBi và vẫn còn khả năng phát triển. Đồng thời đây cũng là thi trường có nhu cầu lớn về xây dựng, dệt may và dịch vụ và có khả năng còn kéo dài trong nhiều năm. Cuối cùng, hầu hết các nước trong khu vực có chính sách sử dụng lao động nước ngoài rõ ràng.
Tuy nhiên, đây lại là khu vực có giá nhân công thấp so với các khu vực khác; thời tiết khí hậu khắc nghiệt, yêu cầu cao về sức khoẻ; lao động phần lớn phải có tay nghề và khu vực dịch vụ yêu cầu cao về ngoại ngữ. Ngoài ra, luật pháp đạo Hồi qui định nhiều điều khoản rất nghiêm khắc khi lao động vi phạm. Cuối cùng, đây là khu vực luôn xảy ra những biến động về chính trị do xung đột sắc tộc.
Định hướng thị trường:
Libi:
Khẩn trương xúc tiến đàm phán cấp Chính phủ, Bộ với Libi để có thể ký được Thoả thuận về hợp tác lao động làm cơ sở đưa lao động sang làm việc tại Libi.
Chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động nghiên cứu, tìm hiểu thị trường lao động Libi, tập trung vào các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, xây dựng và công nghiệp. Xu thế hiện nay của Libi là hướng về Châu Phi, do vậy, các công ty của ta cần có những biện pháp hữu hiệu để nâng cao chất lượng lao động đủ sức cạnh tranh tại thị trường đầy tiềm năng này.
Cơ quan đại diện Việt Nam tại Libi cần có cán bộ chuyên trách lao động để quản lý lao động hiện có, kết hợp tìm hiểu khả năng nhận lao động của phía Libi để giúp các doanh nghiệp thâm nhập thị trường này. Vì vậy, cần thiết phải có 1 biên chế chuyên trách lao động tại Đại sứ quán Việt Nam tại Libi.
Irak:
Sau chiến tranh, công việc tái thiết Irak đòi hỏi số lượng lao động lớn. Tuy nhiên, khả năng đưa lao động trực tiếp vào Irak như đã làm trong những năm 80 là khó khăn. Bộ Lao động - TBXH đã nghiên cứu, tìm hiểu và quan hệ với các Tập đoàn lớn tại Hoa Kỳ, Châu Âu, Hiệp hội Xây dựng Hải ngoại Hàn Quốc để thông qua các tổ chức này có thể cung ứng nhân lực sang Irak.
Châu Phi:
Thông qua Thoả thuận Hợp tác đa phương Việt Nam, FAO và một số nước Châu Phi để thực hiện "Chương trình đặc biệt về an ninh lương thực". Theo chương trình này, Việt Nam cử các chuyên gia nông nghiệp sang các nước Châu Phi. Mặt khác, tiếp tục thực hiện và cần thiết ký bổ sung sửa đổi các Hiệp định về hợp tác và sử dụng chuyên gia Việt Nam, gia tăng số lượng chuyên gia giáo dục, y tế sang làm việc tại các nước Châu Phi.
Thị trường lao động trên biển:
Tình hình chung:
Sự thiếu hụt nhân lực về lực lượng đi biển sẽ vẫn tiếp tục gia tăng đặc biệt tại các nước phát triển, lượng tăng và tỷ lệ đối với sỹ quan, thuyền viên cao hơn so với lao động giản đơn, tạo nên sự mất cân bằng về cung cầu. Tuy nhiên, mức lương của lực lượng đi biển sẽ không có biến động nhiều so với lao động làm việc ở các khu vực khác. Nhu cầu lao động nghề cá (thuyền viên tàu cá) tại các nước có truyền thống tiếp nhận lao động Bắc Ninh như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản đang gia tăng. Dự báo đến năm 2005 thị trường có nhu cầu sử dụng khoảng 1,1 triệu sỹ quan và thuyền viên nhưng khả năng đáp ứng của các nước xuất khẩu thuyền viên chỉ đạt 95%, như vậy, thị trường còn thiếu hụt khoảng 55.000 sỹ quan và thuyền viên.
Tuy nhiên, việc hiện đại hoá các đội tàu thương mại đòi hỏi chất lượng sỹ quan, thuỷ thủ ngày một cao ở nhiều phương diện đặc biệt ở năng lực điều hành và xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình đi biển.
Định hướng thị trường:
Cần tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu thuyền viên; tăng cường và khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu thuyền viên trong việc đầu tư (kể cả liên doanh với nước ngoài) vào công tác đào tạo và tái đào tạo sỹ quan, thuyền viên, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hoá các đội tàu thương mại trên thế giới; đổi mới phương thức tuyển chọn thuyền viên tàu cá, thực hiện nghiêm túc mô hình gắn kết trách nhiệm giữa chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng và doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
Các nước Liên Xô (cũ) và Đông Âu:
Tình hình chung:
Bao gồm các nước Liên bang Nga và các nước thuộc SNG, Đông Âu (cũ), là thị trường truyền thống, tuy hiện nay đang gặp nhiều khó khăn, song đây là thị trường tiềm năng, có thể tiếp tục duy trì và phát triển. Để tìm hiểu khả năng tiếp nhận lao động của Bạn cũng như quản lý số lao động ta hiện có (đi theo các Hiệp định Nhà nước trước đây) cần thiết phải duy trì các Ban quản lý lao động như hiện nay, trong trường họp cần thiết, có thể mở rộng số lượng biên chế của các Ban để đáp ứng nhu cầu quản lý thị trường.
Định hướng thị trường:
Đối với Liên bang Nga, cần đẩy mạnh tiến trình ký Hiệp định Việt - Nga về hợp tác lao động mà hai bên đã triển khai trong thời gian qua. Theo đó, hợp pháp hoá cho số lao động ta hiện đang có mặt tại LB Nga theo những Hiệp định 1981 và 1992 để họ có cơ sở pháp lý ở lại làm ăn lâu dài. Đồng thời, xúc tiến việc đưa lao động sang LB Nga theo cơ chế mới.
Đối với các nước khác thuộc SNG khả năng tiếp nhận lao động nước ngoài rất hạn chế do tỷ lệ thất nghiệp của các nước này cao. Hơn nữa, thị trường này đòi hỏi khá cao về chất lượng lao động để đáp ứng trình độ phát triển của nền công nghiệp.
Thị trường Hoa Kỳ và một số khu vực khác (Châu Mỹ và Châu úc)
Đây là những thị trường mới ta chưa có kinh trong việc đưa lao động đến khu vực này, do vậy, ta cần phối hợp với Bộ Ngoại giao (thông qua các cơ quan đại diện) tìm hiểu khả năng nhận lao động nước ngoài của các nước cũng như các chính sách nhận lao động của họ để có kế hoạch và chương trình đưa lao động ta đến làm việc trong thời gian tới.
Cần tranh thủ cử cán bộ quản lý hay cán bộ doanh nghiệp xuất khẩu lao động tham gia các đoàn chính thức của Nhà nước hay các đoàn của doanh nghiệp sang các nước này tìm hiểu, nghiên cứu nhằm khai thông thị trường, tiến tới ký kết hợp đồng đưa lao động ta đến làm việc.
Phối hợp với Bộ ngoại giao, Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ tổ chức hệ thống quản lý lao động Việt Nam ở những nước, địa bàn có nhiều lao động Việt Nam làm việc, có tiềm năng tiếp nhận nhiều lao động Việt Nam để quản lý và bảo vệ ngời lao động, xử lý và giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc phát sinh, thu thập thông tin, đề xuất và thực hiện các biện pháp ổn định và mở rộng thị trường.
Do vậy, mục tiêu chung là: Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác XKLĐ nhằm mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho tỉnh, góp phần vào thực hiện chương trình giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo. Và mục tiêu cụ thể là: Phấn đấu mỗi năm xuất khẩu lao động từ 2.500 đến 3.000 lao động.
Các giải pháp chính
Từ thực trạng của công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh như đã phân tích ở trên ta cũng thấy được những thành tựu và hạn chế. Do vậy vấn đề trước mắt cần phải đặt ra là cần có những giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực trong công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh để đưa Bắc Ninh trở thành một tỉnh có một nền kinh tế phát triển vững mạnh.
Giải pháp về phía Nhà nước
Từ những yếu kém trong hoạt động của các cấp uỷ Đảng và các ngành chức năng của tỉnh Bắc Ninh, để khắc phục được vấn đề này dưới đây là một số giải pháp cụ thể để phần nào giúp các cơ quan chức năng của tỉnh Bắc Ninh khắc phục được những hạn chế thiếu sót của mình trong công tác xuất khẩu lao động của tỉnh. Cụ thể:
Giải pháp từ các văn bản, chính sách liên quan
Không ngừng làm tốt cơ chế quản lý và thực hịên tốt hơn nữa các chính sách liên quan đến công tác xuất khẩu lao động đó là các chính sách về cải tiến thủ tục xuất nhập cảnh - làm hộ chiếu, chính sách cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài vay vốn, chính sách về bảo hộ lãnh sự và tư pháp, chính sách về bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong thời gian làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài, chính sách chuyển về nước thu nhập bằng ngoại tệ, thiết bị, nguyên liệu.
Các cấp uỷ Đảng chính quyền và các ngành chức năng trong tỉnh cần tuyên truyền sâu rộng chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước để nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp, các ngành và nhân dân về vị trí vai trò của xuất khẩu lao động, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hàng năm. Thông qua tuyên truyền giúp người lao động có ý thức chuẩn bị các điều kiện để chủ động tham gia vào thị trường xuất khẩu lao động.
Mặt khác, cũng cần quan tâm đến việc bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện các chính sách liên quan đến việc sau khi lao động trở về như: Tiếp nhận lao động trở lại làm việc để sử dụng tay nghề của lao động (đặc biệt đối với đối tượng là người lao động đã được tuyển chọn từ các nhà máy, xí nghiệp đang đi làm việc ở nước ngoài sau khi hoàn thành hợp đồng lao động nên được tiếp nhận trở lại làm việc để họ được phát huy khả năng tiếp thu và học hỏi về công nghệ và kinh nghiệm và tác phong công nghiệp tiên tiến trong thời gian làm việc ở nước ngoài). Đối với đối tượng lao động có ý định tiếp tục đi làm việc ở nước ngoài nên tạo điều kiện cho họ tiếp tục đi nếu họ đã hoàn thành hợp đồng lao động và không vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, cũng cần tạo điều kiện cho người lao động mở các doanh nghiệp nhỏ để sản xuất kinh doanh tạo việc làm sau khi về nước.
Cần phải xây dựng chế độ hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu lao động (đặc biệt quan tâm đến các đối tượng thuộc hộ chính sách, hộ nghèo, thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự và lao động thuộc hộ Nhà nước thu hồi đất có nhu cầu xuất khẩu lao động) trong tỉnh; cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi về các thủ tục xuất nhập cảnh, khám sức khoẻ, tham gia học nghề, tham gia giáo dục định hướng và vay vốn cho lao động tham gia xuất khẩu lao động theo đúng quy định của Pháp luật.
Giải pháp về chỉ đạo công tác giáo dục định hướng
Về công tác đào tạo - giáo dục định hướng thì đây là một trong những khâu quan trọng quyết định chất lượng đầu vào của nguồn lao động xuất khẩu, cần ban hành các chính sách và quy chế phù hợp liên quan đến hoạt động này: ví dụ: quy định về đào tạo và giáo dục định hướng cho người lao động; quy định về cấp và quản lý chứng chỉ đào tạo - giáo dục định hướng; hướng dẫn mức thu học phí, lệ phí đạo tạo - giáo dục định hướng cho người lao động làm cơ sở pháp lý triển khai xây dựng mô hình tổ chức và thực hiện quản lý đào tạo nguồn cho xuất khẩu lao động. Về việc này, tại Cục quản lý lao động ngoài nước đã trực tiếp biên soạn và phát hành giáo trình, tài liệu về đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động về nghề, ngoại ngữ, pháp luật, hợp đồng lao động… Do đó cần phải nghiên cứu và sớm đưa tài liệu này về tỉnh và có chủ trương kết hợp với các cơ sở dạy nghề định hướng các doanh nghiệp và các trường, hợp tác đào tạo thí điểm để tăng nguồn lao động xuất khẩu có chất lượng từ các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh.
Phải bảo đảm sự lãnh đạo của cấp Uỷ, chính quyền và sự tham gia của các đoàn thể trong quá trình tuyển chọn, đào tạo giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu. Kiện toàn bộ máy, tăng cường các điều kiện, nâng cao chất lượng, trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác xuất khẩu lao động, các Trung tâm Dịch vụ việc làm, các cơ sở đào tạo nghề, đào tạo giáo dục định hướng để đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn xuất khẩu lao động cho người lao động.
Giải pháp trong việc thanh tra, kiểm tra
Tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, thanh tra, phát hiện việc sử lý vi phạm trong việc đưa người lao động đi xuất khẩu lao động theo quy định của Pháp luật. Cần phải có các chế tài sử lý thật nghiêm khắc để chấn chỉnh được tình trạng gian lận trong công tác xuất khẩu lao động của tỉnh.
Giải pháp trong công tác thông tin tuyên truyền
Các cấp chính quyền trong tỉnh cần tăng cường hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin đai chúng trong tỉnh để có thể thông tin đầy đủ và kịp thời tới người lao động về các chủ trương chính sách, thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao động để người lao động chủ động đầu tư học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế.
Không ngừng đầu tư, nâng cấp các phương tiện thông tin tuyên truyền để đáp ứng nhu cầu truyền tải thông tin của Nhà nước.
Cụ thể thì các cấp các ngành phải chú trọng hơn nữa trong công tác của mình như sau:
- Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu mở rộng thị trường xuất khẩu lao động; xây dựng chế độ hỗ trợ khuyến khích xuất khẩu lao động trình UBND tỉnh quyết định. Thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng tiêu chuẩn tuyển chọn, các điều kiện về làm việc và sinh hoạt, quyền lợi trách nhiệm của người lao động và các khoản đóng góp, quản lý, chỉ đạo các Trung tâm Dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề tổ chức thực hiện giáo dục định hướng theo đúng nội dung, chương trình, thời gian và chất lượng theo quy định, đáp ứng nguồn nhân lực đủ tiêu chuẩn xuất khẩu lao động; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra xuất khẩu lao động theo quy định; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh theo định kỳ 6 tháng, một năm.
- Công an tỉnh có trách nhiệm thông báo công khai quy trình, thủ tục hồ sơ, lệ phí, thời gian hoàn thành việc cấp hộ chiếu đối với người xuất khẩu lao động. Kịp thời phát hiện ngăn chặn và xử lý các trường hợp lừa đảo, gây thiệt hại cho người lao động.
- Sở Y tế có trách nhiệm chỉ đạo Bệnh viện do ngành quản lý quy định tổ chức tốt việc khám sức khoẻ cho những trường hợp xuất khẩu lao động.
- Sở Văn hoá - thông tin, Đài phát thanh - truyền hình, Báo Bắc Ninh tập trung tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước về xuất khẩu lao động; các chế độ hỗ trợ, khuyến khích xuất khẩu lao động của tỉnh, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, nâng cao trình độ hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động ở nước ngoài để việc tuyển chọn, đào tạo thuận lợi và đúng chế độ chính sách.
- Các Sở Tài chính - vật giá; Kế hoạch đầu tư; ngân hàng Nhà nước; các ngành liên quan phối hợp đề xuất các giải pháp về vốn, chính sách cho vay vốn, huy động các nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để cho vay đối với người xuất khẩu lao động (đặc biệt là các đối tượng thuộc diện chính sách)
- Đề nghị Uỷ ban Mặt trận tổ quốc tỉnh, Liên đoàn lao động, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội theo chức năng nhiệm vụ của mình có kế hoạch tuyên truyền phổ biến chủ trương; chính sách của Đảng và Nhà nước về xuất khẩu lao động, phối hợp với các cấp và các ngành chức năng đẩy mạnh xuất khẩu lao động trong thời gian tới.
Sự chỉ đạo của Nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động như sau:
Nâng cao điều kiện cấp phép đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia: tăng vốn điều lệ; quy định số lượng tối thiểu cán bộ chuyên trách có đủ trình độ; có khả năng ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu lao động và chuyên gia; tổ chức đào tạo - giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi.
Từ thực tế hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, cần thiết phải thành lập Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu lao động và chuyên gia nhằm hỗ trợ phát triển thị trường lao động ngoài nước và xử lý các rủi ro ở nước ngoài vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Nguồn hình thành Quỹ trên cơ sở đóng góp của doanh nghiệp, Nhà nước và các nguồn khác.
Sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách tài chính nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự chủ hơn về phí môi giới, hoa hồng. Quy định mức tiền lương và thu nhập tối thiểu của người lao động đối với từng thị trường, khu vực, mức phí dịch vụ. Có chính sách tái đầu tư thuế cho doanh nghiệp để khai thác thị trường và đầu tư đào tạo nguồn lao động xuất khẩu.
Xây dựng một số doanh nghiệp mạnh về xuất khẩu lao động. Trong đó các doanh nghiệp chủ động đầu tư cơ sở đào tạo - giáo dục định hướng, bố trí cán bộ đủ năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ. Các Bộ, ngành, địa phương chủ quản hỗ trợ doanh nghiệp trực thuộc. Nhà nước cung cấp thông tin, ưu tiên hỗ trợ trong việc thâm nhập thị trường mới.
Chấn chỉnh, sắp xếp lại đội ngũ doanh nghiệp xuất khẩu lao động; Đầu tư cơ sở đào tạo - giáo dục định hướng cho người lao động tại những doanh nghiệp, bố trí cán bộ có năng lực chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ, có phẩm chất tốt. Giải thể hoặc sáp nhập các tổ chức chồng chéo, các văn phòng đại diện hoạt động sai chức năng, nhiệm vụ hoặc kém hiệu quả của những doanh nghiệp có nhiều đầu mối. Xử lý những doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, có vi phạm quy định hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Các cấp uỷ Đảng và các ngành chức năng cần phải nghiên cứu và xem xét về thị trường lao động chuyên gia có thu nhập cao, để lao động Bắc Ninh có thể xâm nhập vào các thị trường đó được.
Trên đây là một số các giải pháp để giúp các cơ quan chức năng của Bắc Ninh khắc phục được những thiếu sót của mình từ đó nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh.
Giải pháp về phía các doanh nghiệp, cơ sở xuất khẩu lao động
Từ thực trạng về các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh như đã nói ở trên thì chúng ta cũng thấy được những thành công và những mặt còn tồn tại trong hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của tỉnh. Thì có thể nêu ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này như sau:
Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cần trực tiếp phối hợp với UBND các xã, phường, thị trấn trong việc xây dựng kế hoạch, tổ chức đăng ký, lựa chọn những lao động có năng lực, sức khoẻ, phẩm chất đạo đức tốt, hướng dẫn hoàn thành các thủ tục hồ sơ cần thiết, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong khâu tuyển chọn và quản lý lao động ở nước ngoài, đồng thời có biện pháp ngăn chặn xử lý kịp thời đối với những lao động bỏ trốn.
Các Trung tâm Dịch vụ việc làm và các cơ sở đào tạo nghề căn cứ vào nhu cầu tuyển lao động của các Công ty xuất khẩu lao động do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội giới thiệu, phối hợp với UBND các xã, phường, thị trấn được chọn làm điểm, tổ chức tuyển chọn đào tạo nghề và giáo dục định hướng đào tạo đủ số lượng, chất lượng.
Bản thân các doanh nghiệp phải xem xét lại năng lực hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của bản thân doanh nghiệp để chủ động bổ sung cán bộ có trình độ chuyên môn, pháp luật, ngoại ngữ và phẩm chất đạo đức tốt; bồi dưỡng, đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm xuất khẩu lao động và chuyên gia của doanh nghiệp; đầu tư xây dựng cơ sở đào tạo - giáo dục định hướng cho lao động và chuyên gia, chuẩn bị nguồn lao động phục vụ cho xuất khẩu; xây dựng phương án phát triển thị trường lao động ngoài nước. Cần có sự đầu tư thoả đáng về tổ chức, cán bộ và tài chính cho triển khai hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, chủ động trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường và ký kết hợp đồng, tăng cường chất lượng công tác tuyển chọn, chú trọng công tác đào tạo nghề, giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi theo đúng nội dung, chương trình đã quy định. Xác định rõ đây là trách nhiệm của doanh nghiệp, không được dịch vụ hoá để kinh doanh, không thu tiền hoặc thu tiền với mức thấp nhất đảm bảo đủ bù đắp chi phí, tăng cường bộ máy quản lý người lao động đang làm việc ở nớc ngoài: phải cử cán bộ quản lý có năng lực và trình độ của doanh nghiệp tại các địa bàn có nhiều lao động để xử lý và giải quyết kịp thời các vụ việc phát sinh; ở những địa bàn không có cán bộ quản lý thì phải tổ chức được các tổ, nhóm ngời lao động tự quản, thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, quyền lợi đối với người lao động theo quy định của Nhà nước.
Nghiên cứu thị trường lao động là công việc rất quan trọng trong việc mở rộng hay thu hẹp thị trường xuất khẩu lao động, là việc nghiên cứu nhu cầu của các nước tiếp nhận lao động về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và các yêu cầu khác về lao động, để từ đó cho chúng ta biết được nhu cầu của thị trường lao động, từ đó có chính xây dựng và điều chỉnh chiến lược cả về ngắn hạn lẫn dài hạn để phát triển thị trường xuất khẩu lao động. Việc nghiên cứu, tiếp cận và mở rộng thị trường phải được các doanh nghiệp quan tâm đầy đủ và Nhà nước cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ về mọi mặt cho các doanh nghiệp.
Cần xâm nhập vào các thị trường có trình độ cao, thu nhập cao để từ đó có hướng tiếp cận đưa lao động của Bắc Ninh sang. Vì đa số lao động của Bắc Ninh được xuất sang là nữ giới nên không ngừng mở rộng thêm thị trường giành cho nữ giới với đa dạng về công việc chứ không phải đơn thuần là giúp việc gia đình, bên cạnh đó cần phải nghiên cứu mở rộng thị trường lao động cho nam giới cũng với đa dạng các công việc chứ không phải đơn thuần là chỉ có công nhân xưởng. Muốn làm được điều này thì cần phải đầu tư hơn nữa về thời gian và tiền bạc cho các cán bộ sang tận nước ngoài để đàm phán ký kết hợp đồng với họ.
Cụ thể là cần có sự đầu tư thích đáng về thời gian và tiền vốn nhằm thu thập thông tin về số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động mà các nước nhập khẩu lao động cần, tình hình tài chính của doanh nghiệp cần tuyển; phong tục tập quán, luật pháp, tiền công và các khoản chi tại các doanh nghiệp, các yếu tố rễ phát sỉnh rủi ro… hiệu quả kinh tế và khả năng rủi ro của thi trường mới khai thác. Ngoài ra, cần đẩy mạnh phát triển các trung tâm nghiên cứu thị trường lao động quốc tế kịp thời cung cấp những thông tin nhanh, chính xác cho các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Dự báo nhu cầu tiếp nhận lao động nước ngoài trên thế giới đặc biệt là những nước chúng ta có tiềm năng để từ đó các doanh nghiệp có những biện pháp chuẩn bị cho nguồn lao động đưa đi xuất khẩu của doanh nghiệp mình.
Cùng với việc khai thác thị trường mới, vấn đề quan trọng trong công tác thị trường cho XKLĐ là giữ vững các thị trường truyền thống của Bắc Ninh đã có như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaixia…
Tăng cường phối hợp giữa các trường dạy nghề trên địa bàn tỉnh với các doanh nghiệp để tăng số lao động xuất khẩu có tay nghề. Không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo nghề trong hệ thống giáo dục kỹ thuật và day nghề. Trong thời gian học nghề cần ghép học ngoại ngữ, chú trọng giá dục tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, rền luyện ý thức bảo hộ, an toàn lao động… nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của các chủ sử dụng lao động nước ngoài. Cụ thể:
Về tuyển chọn: Các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu lao động phải công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và tại nơi tuyển dụng về số lượng, tiêu chuẩn, mức đóng góp, các quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao độngkhi đi làm việc ở nước ngoài. Thực hiện được những điều này sẽ góp phần vào giảm tiêu cực trong xuất khẩu lao động.
Chất lượng là nhân tố quyết định số lượng cung ứng lao động và duy trì , mở rộng thị trường lao động quốc tế. Do vậy cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn tuyển chọn lao động dựa trên:
- Học vấn: chuẩn mực này nhằm xác định khả năng tiếp thu của người lao động
- Sức khoẻ: là các tiêu chuẩn cụ thể như: chiều cao, cân nặng, tình hình bệnh tật, thể trạng, và các yêu cầu riêng theo nghề.
- Nghề nghiệp: bao gồm trình độ tay nghề và thâm niên công tác. - Phẩm chất đạo đức: nhằm xác định rõ nhân thân của người lao động.
- Về đào tạo bồi dưỡng: Trên cơ sở nghiên cứu về cầu lao động ở từng loại thị trường để đưa ra chiến lược đào tạo, bồi dưỡng lao động xuất khẩu cả về ngắn hạn lẫn dài hạn. Đào tạo nghề nhắn hạn (đối với lao động giản đơn), dài hạn (đối với lao động kỹ thuật). Tiến hành đào tạo toàn diện cho người lao động cả về chuyên môn, ngoại ngữ, giáo dục pháp luật, tác phong công nghiệp, phong tục tập quán của các nước tiếp nhận
Ngoài ra, hệ thống các trường được giao nhiệm vụ đào tạo lao động xuất khẩu cần có phương án đầu tư toàn diện để đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với các nước trong khu vực và trên thế giới, cùng với các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước, cần đầu tư nguồn lực dưới dạng mục tiêu. Đối với nguồn nhân lực có sẵn được tuyển dụng từ các nhà máy, xí nghiệp, các tổ chức kinh tế, từ xã hội …tham gia XKLĐ, cần đào tạo giáo dục định hướng với các nội dung cơ bản là bồi dưỡng tay nghề, bồi dưỡng ngoại ngữ, giáo dục định hướng và rèn luyện toàn bộ theo hình thức tập trung ,tập sự.
Mặt khác, như đã nêu ở trên lao động của Bắc Ninh được xuất sang nước ngoài chủ yếu là nữ nên nhằm nâng cao hiệu quả trong việc xuất khẩu lao động nữ thì cần phải mở rộng ngành nghề đưa lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài có sự lựa chọn công việc phù hợp với lao động nữ của Bắc Ninh. Đào tạo chuẩn bị chu đáo cho chị em trước khi đi về trình độ ngoại ngữ, tay nghề, kiến thức pháp lý, ý thức chấp hành kỷ luật lao động. Nếu giúp việc gia đình phải học thêm về tâm lý, nữ công gia chánh, kỹ năng cơ bản sử dụng các trang thiết bị trong nhà. Nếu đi làm khán hộ công phải có kiến thức về sơ đẳng về ngành y, kỹ năng chăm sóc người già, trẻ em và người bệnh, có kỹ năng sử dụng các vật dụng, trang bị đa dạng phục vụ sinh hoạt của người bệnh. Tổ chức các hiệp hội chăm sóc, giúp đỡ gia đình, con cái để chị em yên tâm lao động, sản xuất tại nước bạn.
Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động phải được tiếp tục đổi mới phát triển và sắp xếp lại. Đối với những doanh nghiệp yếu kém về tổ chức bộ máy, về tìm kiếm thị trường và năng lực đưa lao động đi xuất khẩu, vi phạm pháp luật… phải có những biện pháp chấn chỉnh, đổi mới ngay. Kiên quyết thu hồi giấy phép hoạt động, thậm chí giải thể đối với doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng trong công tác tuyển chọn xuất khẩu, lừa đảo người lao động. Tập trung đầu tư phát triển hệ thống một số doanh nghiệp điển hình có tiềm lực mạnh về cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ đào tạo - bồi dưỡng người lao động, về vốn đầu tư, về khả năng nghiên cứu thị trường, năng lực tuyển chọn đội ngũ lao động.. để các doanh nghiệp này có đủ sức cạnh tranh trên thị trường lao động. Nâng cao khả năng hoạt động cũng như tầm ảnh hưởng của hiệp hội xuất khẩu lao động, tạo thế cạnh tranh bền vững trên thị trường lao động.
Để nâng cao năng lực, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia, đòi hỏi phải chấn chỉnh, sắp xếp lại các doanh nghiệp này đảm bảo phát triển, có hiệu quả theo tinh thần Nghị quyết Trung ơng 3 khoá IX với những mục tiêu chính đặt ra, cần thực hiện như sau: Đầu tư xây dựng một số doanh nghiệp mạnh, có đủ điều kiện phát triển thị trường, cạnh tranh, đấu thầu quốc tế; sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động điều chỉnh, sắp xếp lại, bảo đảm hoạt động có hiệu quả về xuất khẩu lao động và chuyên gia; thu gọn các đầu mối, cơ sở xuất khẩu lao động và chuyên gia; xử lý các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả và thu hồi giấy phép của những doanh nghiệp có vi phạm nghiêm trọng. Công tác khai thác và phát triển thị trường lao động ngoài nước của doanh nghiệp còn hạn chế, thụ động: Một số doanh nghiệp không có đủ nguồn tài chính cần thiết để khai thác thị trường. Nhiều doanh nghiệp có kinh nghiệm xuất khẩu lao động chỉ tập trung vào các thị trường “dễ làm” (như Hàn Quốc, Đài Loan), ít quan tâm khai thác các thị trường có khả năng nhận nhiều lao động nhưng có điều kiện khắt khe (như các nước Trung Đông).
Cần phải phối hợp và tăng cường công tác quản lý lao động xuất khẩu. Khi số lao động ở nước ngoài tăng lên, thì việc tăng cường quản lý đối với số lao động này là rất quan trọng. Việc quản lý này nhằm khắc phục những rủi ro có thể xảy ra ở nước nhận lao động; kịp thời giải quyết các tranh chấp giữa người lao động và chủ doanh nghiệp nhằm khắc phục các mối quan hệ không tốt và đặc biệt hạn chế hiện tượng người xuất khẩu lao động bỏ doanh nghiệp theo hợp đồng ra làm việc ở nơi khác vì mục đích cá nhân. Các doanh nghiệp và cơ quan chức năng cần nghiên cứu lựa chọn hình thức quản lý (trong đó có công tác thanh tra kiểm tra) cho từng trường hợp cụ thể.
Làm được như vậy thì chúng ta có thể yên tâm phần nào việc khắc phục được những hạn chế của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động từ đó mà làm cho công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh được hiệu quả hơn.
Giải pháp về phía bản thân người lao động
Xuất phát từ những hạn chế và nguyên nhân của người lao động như đã nói ở trên thì bản thân người lao động cũng cần phải có ý thức tự trang bị các kiến thức về trình độ nghề nghiệp, ngoại ngữ, phong tục tập quán và luật pháp nước đến làm việc.
Người lao động cần phải nhận thức được rõ tư tưởng làm thuê, hoà đồng với các đồng nghiệp, tôn trọng vị trí của người chủ sử dụng lao động, hết lòng phục vụ họ.
Mặt khác, phải chủ động tìm hiểu các chính sách, quy định của Nhà nước về xuất khẩu lao động, chủ động xử lý và tự bảo vệ trước các vấn đề phát sinh, chịu trách nhiệm về các hành vi của mình trong quan hệ lao động ở ngoài nước. Đồng thời, người lao động phải có trách nhiệm tuân thủ các quy định của Nhà nước trong xuất khẩu lao động, không phá bỏ hợp đồng ảnh hưởng đến uy tín của người lao động Việt Nam, nêu cao ý thức trách nhiệm của mình đối với cộng đồng. Nếu vi phạm phải bồi thường các thiệt hại cho doanh nghiệp và bị xử lý nghiêm trước pháp luật.
Ngoài ra, cần phải phát huy hơn nữa đức tính cần cù, chịu khó và ham học hỏi mà đó là bản chất của con người Bắc Ninh.
Làm được điều này thì đã góp phần quảng bá được hình ảnh về lao động Bắc Ninh trên thị trường lao động thế giới. Để cho họ tin tưởng vào lao động Bắc Ninh nói riêng và lao động Việt Nam nói chung.
Trên đây là toàn bộ giải pháp cho công tác xuất khẩu lao động của tỉnh Bắc Ninh, giải pháp tuy còn có những hạn chế, thiếu sót nhưng nó đã phần nào giúp tỉnh Bắc Ninh khắc phục được những hạn chế và phát huy được những thành tựu của mình trong công tác xuất khẩu lao động những năm vừa qua.
Kết luận
Công tác xuất khẩu lao động đối với cả nước nói chung và đối với tỉnh Bắc Ninh luôn là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đây là vấn đề vừa có tính chất kinh tế vừa có tính chất xã hội sâu sắc. Vì vậy nếu có những giải pháp đúng đắn và hiệu quả trong công tác xuất khẩu lao động sẽ tạo ra động lực cho phát triển, ngược lại nó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng về cả kinh tế và xã hội.
Nhận thức sâu sắc vấn đề xuất khẩu lao động, những năm qua công tác xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh luôn được quan tâm đúng mức. Cùng với chính sách, định hướng và hướng dẫn của Chính phủ, Bắc Ninh đã chủ động đưa ra những biện pháp cụ thể phù hợp tình hình trong tỉnh, từ đó đã gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó, hoạt động xuất khẩu lao động trong tỉnh còn rất nhiều vấn đề phải đặt ra cần phải nhanh chóng giải quyết.
Để khắc phục những tồn tại trên cần có những giải pháp đồng bộ và có hiệu quả về phía Nhà nước, phía các doanh nghiệp, cả về phía người lao động.
Với những phương hướng và giải pháp trên cơ bản hy vọng bài viết sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, thúc đẩy kinh tế - xã hội tỉnh phát triển trong những năm tới đây.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32414.doc