Qua việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng của Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng, và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Tôi nhận thấy đối với hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng thương mại, rủi ro là vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi. Chỉ có điều mức độ xảy ra rủi ro và khả năng hạn chế rủi ro của con người trong kinh doanh tới đầu mà thôi.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, chưa ổn định và đang trong thời kỳ chuyển đổi sang cơ chế thị trường, tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế còn nhiều rối ren, nhiều đơn vị còn lúng túng trong kinh doanh, không bắt kịp với sự biến động của cơ chế thị trường, nên lâm vào tình trạng kinh doanh thua lỗ, mặt khác, các điều kiện về môi trường kinh tế và pháp luật của nước ta, tỏ ra còn nhiều mặt yếu kém và sơ hở.
Trong bối cảnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu thực tiễn kinh doanh tín dụng của Ngân hàng TMCP Phương Nam, và thực trạng kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tôi nhận thấy việc triển khai nghiên cứu các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, nó góp phần giảm bớt tổn thất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nước ta tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thời mở cửa.
Bám sát vào mục tiêu đó, chuyên đề đã đi sâu vào tìm hiểu hoạt động của ngân hàng trong cơ chế thị trường, nghiên cứu môi trường kinh doanh tín dụng ở Việt Nam và các thể chế tín dụng hiện hành ở nước ta. Từ đó tìm ra các nguyên nhân cơ bản dẫn rủi ro tín dụng ở Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại nước ta nói chung.
Chuyên đề cũng đã đưa ra một số biện pháp nhằm ngăn ngừa và khắc phục rủi ro tín dụng ở ngân hàng TMCP Phương Nam. Đồng thời luận văn có một số kiến nghị cụ thể đối với Chính phủ, các ngành các cấp có liên quan và Ngân hàng Nhà nước, nhằm sửa đổi và hoàn thiện các quy chế tín dụng và hệ thống luật ở nước ta, với mục đích là tạo môi trường kinh tế và pháp luật thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng và sự phát triển kinh tế của các nước nói chung.
Do kinh nghiệm và khả năng nhận thức còn nhiều hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của mọi độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và các cô chú cán bộ công tác tại Ngân hàng TMCP Phương Nam.
69 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng ở Ngân hàng TMCP Phương Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ án. Chỉ tính riêng năm 2000, Ngân hàng TMCP Phương Nam đã thua lỗ hơn 4 tỷ đồng trong đó chủ yếu là do vẫn phải trả lãi cho vốn huy động trong khi nợ không thu hồi về được, phải bỏ ra nhiều chi phí cho việc giám sát, thu hồi nợ, chi phí cho điều tra vụ án…
Từ năm 2000 trở về trước do không có yêu cầu phân loại nợ quá hạn theo thời gian 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng hay nợ khó đòi mà chỉ phân theo nợ qúa hạn theo nội tệ và ngoại tệ đã gây nên khó khăn cho việc theo dõi, khó thấy được tính cấp thiết của các khoản nợ khó đòi.
Vì vậy, bắt đầu từ năm 2000, Ngân hàng TMCP Phương Nam đã thực hiện việc phân loại nợ quá hạn theo những tiêu thức khác nhau và chi tiết hơn nhiều. Chúng ta hãy xem xét bảng sau.
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Quý I - 2000
Năm 2001
Quý I - 2002
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
ư¯ so 1998 (%)
Nợ quá hạn
72.550
100
75.021
100
74.404
100
- 0,82
1. Theo thời gian
72.550
100
75.021
100
74.404
100
6 tháng
41.445
57
7.128
89,5
5.906
8
- 17,14
6 đến 12 tháng
22.889
32
14.862
20
9.321
13
- 37,28
Trên 12 tháng
8.216
11
53.031
70,5
59.177
49
+ 11,28
2 theo K/N thu hồi
72.5500
100
75.021
100
74.401
100
Nợ Q/H bình thường
-
-
7.128
9,5
5.906
8
- 17,01
Khó thu hồi
-
-
8.607
11
8.482
11
- 145
Nợ Q/H thu bằng T/S
-
-
59.286
79,5
60,016
81
+ 1,23
Với sự phân loại như bảng trên, (bao gồm cả phân loại nợ quá hạn theo nguyên nhân sẽ được đề cập đến ở mục 2.3) sẽ cho chúng ta thấy được bức tranh toàn cảnh về nợ quá hạn. Nợ quá hạn bình thường chiếm tỷ lệ bao nhiêu? Nợ khó đòi có lớn hay không? Bao nhiêu phần trăm phải thu hồi bằng tài sản thế chấp?... Trong số nợ quá hạn của năm 2001 thì phần lớn là nợ khó đòi (trên 12 tháng), nó chiếm tới 71% tổng dư nợ quá hạn một cách rõ ràng, chi tiết như vậy chúng ta mới thấy được từng nguyên nhân cụ thể gây ra nợ quá hạn để từ đó đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn xử lý kịp thời nợ quá hạn. Cuối quý I năm 2001 chỉ có 10% nợ quá hạn có thể được thu hồi, 11% khó thu hồi và còn lại 79% số nợ quá hạn phải thu hồi bằng cách bán tài sản thế chấp, gây thiệt hại lớn cho Ngân hàng vì tài sản thế chấp thường khó bán giá rẻ lại chậm trễ về thời gian trong việc thu hồi vốn làm tăng chi phí, giảm vòng quay vốn dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn bị giảm.
Mặt khác, nếu xét theo thời gian của khoản cho vay thì NQH của Ngân hàng TMCP Phương Nam thường tập trung vào khối lượng tín dụng ngắn hạn, NQH của khoản cho vay trung và dài hạn, chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể (thường từ 7 - 8%). Qua các năm 2000 - 2002, tình trạng nợ tín dụng của Ngân hàng TMCP Phương Nam tập trung phần lớn vào cho vay ngắn hạn, rất ít các dự án trung và dài hạn được xét duyệt cho vay. ở đây có hai lý do cần quan tâm đó là:
- Thứ nhất là về phía Ngân hàng: Việc huy động vốn trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn do tích luỹ nội bộ chưa cao, đồng tiền chưa thật ổn định (tỷ giá đang trong quá trình điều chỉnh) nên người dân chưa thật sự yên tâm gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng còn thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn và thiếu thị trường thứ cấp luân chuyển và tạo ra thanh khoản dễ dàng của các công cụ này. Mâu thuẫn của mặt bằng lãi suất (lãi suất thường xuyên bị điều chỉnh theo hướng giảm xuống để khuyến khích người vay) đã hạn chế khả năng huy động vốn của Ngân hàng TMCP Phương Nam, từ đó hạn chế khả năng cho vay của họ.
- Thứ hai về phía khác hàng: Do khách hàng của Ngân hàng TMCP Phương Nam chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực thương mại - dịch vụ, nên vốn quay vòng nhanh do đó chỉ cần vay trong thời gian ngắn khi thu được tiền về thì trả luôn Ngân hàng, nếu cần thiết họ xin vay tiếp. Mặt khác, số doanh nghiệp Nhà nước quan hệ với Ngân hàng không nhiều nên còn thiếu các dự án hoạt động trong thời gian dài, nếu có lại không khả thi, không đủ điều kiện vay vốn ở Ngân hàng.
* ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Rủi ro tín dụng đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng TMCP Phương Nam trong giai đoạn hiện nay. Nó đã để lại hậu quả nặng nề cho đến nay vẫn chưa chấm dứt.
- Rủi ro tín dụng làm giảm tương đối lớn tổng lãi thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Tính đến ngày 31/12/2002 tổng lãi thu được từ hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng chỉ đạt 32.886 triệu đồng, giảm so với cùng kỳ năm trước là 30.880 triệu đồng.
- Rủi ro tín dụng đã gây sức ép nặng nề về tâm lý đối với hầu hết cán bộ tín dụng của Ngân hàng.
- Vấn đề nợ quá hạn tồn đọng lớn trong thời gian gần đây, buộc Ngân hàng TMCP Phương Nam phải thành lập "Ban thu nợ, nên đã gây không ít tốn kém về vật lực và trí lực của Ngân hàng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm giảm đáng kể doanh số cho vay của ngân hàng hiện tại.
- Rủi ro tín dụng quá lớn, buộc Ngân hàng phải thắt chặt quy chế tín dụng nên rất có thể sẽ bỏ qua những khoản cho vay "hơi mạo hiểm" mà các thời điểm bình thường khác Ngân hàng có thế chấp nhận cho vay.
3.2.2. Nguyên nhân gây nên tình trạng nợ quá hạn ở Ngân hàng TMCP Phương Nam.
* Nguyên nhân khách quan
* Môi trường kinh tế của Việt Nam chưa lành mạnh
Từ sau đại Đảng lần thứ VI năm 1986, đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm chuyển đổi cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế có sự quản lý của Nhà nước. Công cuộc đổi mới đa dạng mang lại những thành tựu đáng khích lệ như tăng trưởng kinh tế tương đối ổn định, đã ngăn chặn được tình trạng siêu lạm phát, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng lớn trong sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được thực tế cho thấy nền kinh tế ở nước ta vẫn còn nhiều mặt yếu kém như; hiệu quả nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ, trình độ quản lý vĩ mô còn yếu kém bộc lộ nhiều sơ hở và thiếu sót thể hiện rõ nhất ở sự ra đời ồ ạt các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHHH, HTX tín dụng… nhưng chỉ có ít trong số đó là kinh doanh lành mạnh và làm ăn có hiệu quả.
Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp thiếu đồng bộ. Nền kinh tế cứ khắc phục được sự mất cân đối này lại nảy sinh sự mất cân đối khác. ví dụ như trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mặc dù Nhà nước chú trọng quản lý điều hành nhưng trên thực tế lại vô cùng phức tạp và lộn xộn, là khâu đầu tiên thường dẫn đến mất cân đối cung cầu, rối loại giá cả hàng hoá… và nhiều khi là vật cản trở đối với sản xuất kinh doanh trong nước. Chỉ đơn cử ra một khách hàng nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP Phương Nam đó là Công ty TNHH Hoà Bình hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu gỗ. Khi Nhà nước thay đổi chính sách, cấm xuất khẩu gỗ Pơmu, đã khiến cho Công ty không bán được hàng của mình, không thu hồi được vốn dẫn đến không có khả năng trả nợ ngân hàng. Số nợ đó đã quá hạn hơn 2 năm rồi mà khó có khả năng thu hồi, gây thất thu cho Ngân hàng TMCP Phương Nam. Giá như chính phủ xem xét kỹ càng hơn, tính toán hợp lý hơn, tạo điều kiện và định hướng cho công ty TNHH Hoà Bình trước hoặc sau khi ban hành chính sách thì có phải sẽ không có một món nợ quá hạn lớn như vậy. Đến bao giờ Ngân hàng TMCP Phương Nam mới có thể thu hồi được món nợ đó.
* Môi trường pháp lý không thuận lợi.
Do hệ thống pháp luật ban hành thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đã lợi dụng sơ hở để cố tình làm sai gây thất thoát của ngân hàng nhiều tỷ đồng.
Ngành Ngân hàng đã ra đời từ lâu và được coi như một ngành kinh doanh mạo hiểm nhất vậy mà đến tận cuối năm 1997, luật ngân hàng mới chính thức được ban hành nhưng trong đó còn nhiều lĩnh vực chưa được quy định chặt chẽ. Ngay cả trong công tác tín dụng cũng vậy, cuối năm 1996 Ngân hàng Công thương Việt Nam mới có văn bản về quy trình hướng dẫn cho vay và quy trình thẩm định dự án. Chính sự thiếu đồng bộ và lỏng lẻo nay đã gây không ít khó khăn cho cả Ngân hàng và khách hàng.
* Nguyên nhân từ phía người vay.
a. Năng lực của khách hàng yếu kém.
Mặc dù trong những năm gần đây đã có những bước phát triển nhảy vọt, nhưng nhìn chung thì nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ, vốn của các doanh nghiệp còn ít ỏi, nghèo nàn. Để hoạt động được các nhà kinh doanh đều phải dựa vào vốn Ngân hàng do đó chỉ cần một sự biến động nhỏ của thị trường hoặc một sự tăng lãi suất cũng có thể đẩy doanh nghiệp vào tình trạng khó khăn về tài chính. Cũng vì đồng vốn ít ỏi đã khiến cho các doanh nghiệp thiếu khả năng chủ động trong sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ. Thêm vào đó là công nghệ sản xuất hiện hành của các doanh nghiệp đã quá lạc hậu làm cho năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao. Trong khi nhu cầu của thị trường ngày càng đòi hỏi cao về chất lượng và mẫu mã, thị hiếu lại luôn thay đổi. Trường hợp khác, ví dụ như công ty TNHH Hoàng Mai do thiếu tài chính đã sử dụng vốn vay của Ngân hàng TMCP Phương Nam vào nhiều mặt hoạt động của công ty (kể từ vệic mua nhà xưởng, xây dựng cải tạo nhà xưởng và mua máy móc thiết bị, đến việc mua nguyên liệu phục vụ sản xuất may gia công và xuất khẩu hàng nội địa…) nên khi kinh doanh thua lỗ đã không chủ đông chuyển hướng kinh doanh được và mất khả năng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Mặt khác muốn kinh doanh thành công, người điều hành doanh nghiệp phải biết cách tổ chức kinh doanh. Không thể lấy lòng nhiệt tình và sự chịu đựng khó khăn để thay thế kiến thức quản trị kinh doanh, đặc biệt là trong cơ chế thị trường như hiện nay. Nhưng thực tế cho thấy, các nàh kinh doanh ở nước ta chưa có được những cái cần thiết đó, hiện nay chúng ta mới chỉ bắt đầu quan tâm đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ làm nghề quản trị kinh doanh.
b. Rủi ro thiếu thống tin.
Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý kinh doanh không thể thiếu thông tin, thông tin được coi là đối tượng lao động của người điều hành. Chúng ta thường nói "thời đại ngày nay là thời đại thông tin" thế nhưng trong thực tế các doanh nghiệp ở nước ta lại đang hoạt động trong tình trạng thiếu thông tin, thông tin sai lệch hoặc thông tin lạc hậu. do tình trạng thông tin bất cập như vậy nên các doanh nghiệp trong nước đã không nắm bắt được tình hình thị trường, nhu cầu, chủng lợi, giá cả vì vậy đã có những quyết định sai lầm.
c. Rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh.
Cạnh tranh là một tất yếu của nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ quá độ chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, sự cạnh tranh diễn ra rất phức tạp nhiều khi còn thiếu lành mạnh, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế mở, tính cạnh tanh không chỉ ở trong nước mà nó còn chịu ảnh hưởng của thế giới bên ngoài. Vì vậy rủi ro do thiếu thích nghi với cạnh tranh là vô cùng lớn và có tình phổ biến, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp nước ta vô cùng lớn và có tình trạng yếu kém về cả năng lực tài chính lẫn năng lực quản trị kinh doanh.
Trong thời gian qua do thiếu thích nghi với cạnh tranh, hàng ngàn doanh nghiệp nước ta đã bị giải thể, để lại gần 2.000 tỷ đồng tiền nợ không có khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Một số doanh nghiệp khác đang hoạt động thì không ít trường hợp kinh doanh thua lỗ, đặt nhiều ngân hàng vào thế "tiến thoái lưỡng nan". Xét theo góc độ tín dụng thì đây là những con nợ có thể mang lại rủi ro cho ngân hàng bất cứ lúc nào.
d. Tư cách người vay kém.
Đánh giá về rủi ro tín dụng Ngân hàng do các nguyên nhân xuất phát từ phía người vay, chúng ta nhận thấy rằng không ít những chủ doanh nghiệp, cá nhân vay vốn của Ngân hàng không chỉ kém về năng lực quản lý điều hành kinh doanh mà còn yếu kém cả về tư cách khi xét theo góc độ ý muốn trả nợ Ngân hàng. Mặc dù đa số người vay thường có ý nghĩ xuất phát điểm là tốt đẹp với mong muốn thanh toán được nợ vay ngân hàng từ hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình nhưng cũng không ít những con nợ đã rắp tâm lừa đảo Ngân hàng ngay từ đầu. Họ thường tìm cách săn đón, nói hay, nói tốt về dự án, chuẩn bị hồ sơ một cách hoàn chỉnh và chu đáo khiến cho một số cán bộ tín dụng dễ phán xét sai lầm khi quyết định cho vay. Khi đã vay được vốn ở Ngân hàng rồi thì lại sử dụng vốn đó vào các việc khác như: buôn lậu, chơi đề, chơi hụi, cho người khác vay để hưởng chênh lệch lãi suất cao hơn….
Với những trường hộp như vậy thì thất bại luôn chờ sẵn họ và hậu quả đổ lên nhà Ngân hàng. Ví dụ ở Ngân hàng TMCP Phương Nam, khách hàng Lê Văn Đức đã vay vốn của Ngân hàng, dùng tài sản nhà đã thế chấp mang bán cho người khác, nay bị công an quận Đống Đa bắt giữ, Vũ Văn Nam cũng vay vốn ở Ngân hàng với mục đích nâng cấp khách sạn, song cho đến nay thời hạn thu hồi nợ đã quá lâu rồi những chưa trả được nợ cho ngân hàng, gây thất thu gần 2 tỷ đồng…
để khắc phục tình trạng này, không còn cách nào khác Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng và hệ thống Ngân hàng Thương Mại nói chung cần phải đào tạo đội ngũ cán bộ ứng dụng có năng lực, có trình độ chuyên môn cao, nhanh nhạy, phản ứng kịp thời và có khả năng phán đoán đánh giá khách hàng trước khi quyết định cho vay. Đồng thời phải kế hợp với các ngành khác tránh tình trạng lừa đảo, giả mạo giấy tờ của khách hàng khi đến vay vốn của ngân hàng.
3.3. Do hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước chưa cao.
Trong quá trình chuyển đổi cơ chế, các chính sách cần phải điều chỉnh là không thể tránh khỏi, do đó sự điều chỉnh đôi khi tác động làm ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của Ngân hàng như NĐ18/CP của Chính phủ về quản lý đất đai làm cho nhiều doanh nghiệp vay vốn Ngân hàng kinh doanh bất động sản bị kẹt vốn không thể trả được nợ cho ngân hàng khi đến hẹn. Chính sách ngoại thương không kịp thời, không đối phó với sự biến động của thị trường của thị trường làm cho hàng hoá lúc thì nhập ồ ạt không tiêu thụ được gây kẹt vốn lúc thì tạo thành cơn sốt.
3.4. Một số nguyên nhân khác:
Nước ta vẫn đang trong giai đoạn chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, do đó có nhiều thay đổi trong chính sách và cơ chế. Chính những sự thay đổi này đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các đơn vị, tổ chức kinh tế, bởi vì họ thường không thể phản ứng kịp thời trước sự biến động đột ngột của môi trường kinh doanh nên tất yếu gánh chịu thất bại. Trong trường hợp khác, có những doanh nghiệp mặt dù phương án sản xuất kinh doanh tốt, có tính khả thi cao song không gặp may gặp phải những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ… nên đã mất khả năng trả nợ cho Ngân hàng. Năm 2001 ở Ngân hàng TMCP Phương Nam có tới 223 triệu đồng (chiếm 0,3% tổng dư nợ quá hạn) do nguyên nhân bất khả kháng. Quý I - 2002 tỷ lệ này còn cao hơn nhiều (chiếm 1,7%). Với những trường hợp như vậy Ngân hàng cần có những biện pháp xử lý như gia hạn nợ cho khách hàng, đảo nợ hoặc nghị Bộ tài chính xem xét thanh nợ cho các đơn vị đó.
3.4.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng.
* Cho vay không đúng nguyên tắc:
Chỉ tiêu
Quý I -2000
31/12/2001
Quý I - 2002
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Nợ quá hạn theo nguyên nhân
72.550
100
75.021
100
74.404
100
1. Do chủ quan
-
-
26.978
36
26.642
36
2. Do khách quan
72.550
100
48.043
64
47.462
64
+ Bất khả kháng
313
0,43
223
0,3
1.270
1,7
+ Sai mục đích lừa đảo
71.145
98
39.431
53
44.449
60
+ Nguyên nhân khác
1.092
1,75
8.389
10,7
2.043
2,3
Nguồn: Ngân hàng TMCP phương nam
Theo bảng trên thì nguyênnhân chủ quan gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng TMCP Phương Nam cũng không phải là nhỏ, như năm 2001 có tới 27 tỷ đồng nợ quá hạn là do nguyên nhân chủ quan gây ra, chiếm 36% tổng dư nợ quá hạn. Sang quý I năm 2002 con số này cũng không giảm chút nào cả. Xin kể ra một vài lý do chủ yếu gây ra nợ quá hạn của Ngân hàng.
- Do cán bộ tín dụng không thực hiện đúng các nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ cho vay.
- Khi xử lý thông tin không quán triệt đầy đủ các quan điểm, yêu cầu của nguyên tắc tín dụng.
- Các bộ tín dụng chủ quan quá tin tưởng vào khách hàng mà coi nhẹ khâu kiểm tra, giám sát.
- Chính sách tín dụng lỏng lẻo, để kẽ hở cho khách hàng lợi dụng.
- Cho vay quá mức an toàn về bảo lãnh, thế chấp.
- Cố ý thoả hiệp với người vay mặc dù biết rủi ro sẽ xẩy ra.
- Thiếu lòng tin về khách hàng và thị trường cho vay...
3.4.2. Kiểm tra kiểm soát không tốt.
Hoạt động tín dụng là hoạt động rất phức tạp và nhạy cảm, luôn có sự biến động từ thái cực này sang thái cực khác. Trong khi đó cán bộ tín dụng hay làm việc theo thói quen. Việc kiểm tra, giám sát khoản cho vay tốt sẽ giúp cho họ sớm nhận ra sai sót, nắm bắt và xử lý kịp thời những khoản cho vay có vấn đề. Trong thực tế, những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ở Ngân hàng TMCP Phương Nam không tốt. Cụ thể là:
Hệ thống thanh tra Ngân hàng Nhà nước kiểm soát hoạt động của các Ngân hàng thương mại không thường xuyên và kém hiệu quả. Thông thường họ chỉ có mặt khi sự việc đã vỡ lở, cũng có khi phát hiện được vấn đề lại không có biện pháp xử lý kịp thời.
- Việc kiểm soát của ngay chính bản thân ngân hàng TMCP Phương Nam cũng tỏ ra lỏng lẻo. Phòng kiểm soát nằm xa trung tâm, ít tiếp xúc với cán bộ tín dụng do đó tạo điều kiện cho một số cán bộ tín dụng làm bừa làm ẩu và thiếu trách nhiệm, dẫn đến những rủi ro không đáng có.
3.4.3. Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp
Mặc dù biết rằng nguyên tắc cho vay là phải có tài sản thế chấp song cán bộ tín dụng cũng không nên cứng nhắc trong điều kiện này. Có đơn vị sản xuất kinh doanh tốt thì có thể không cần tài sản thế chấp vẫn yên tâm cho vay được. Ngược lại có những khách hàng vay với tài sản thế chấp lớn nhưng làm ăn thua lỗ dẫn đến ngân hàng phải phát mại tài sản đến thu hồi nợ, nhưng việc bán các tài sản thế chấp để thu hồi lại vốn đã cho vay là một vấn đề không dễ dàng chút nào. Ngân hàng thường gặp phải khó khăn trong giấy tờ sở hữu tài sản, về giá cả của tài sản, về thời gian bán được tài sản thế chấp gây chậm chễ trong việc thu hồi vốn, có những tài sản thế chấp khi định giá cho vay thì nó đang ở thời điểm giá cao, đến khi phát mại bán đi giá trị hạ gây thua lỗ cho nhà Ngân hàng.
Thông tin tín dụng là vấn đề hàng đầu để có quyết định cho vay đúng đắn, trong nhiều trường hợp do điều tra không tốt nên thông tin sai lệch hoặc không đầy đủ, ở nước ta hiện nay chưa có hãng kinh doanh thông tin tín dụng nào, trung tâm thông tin TPR của Ngân hàng Nhà nước mới ra đời, hoạt động chưa hiệu quả nên việc hỗ trợ cho các cán bộ tín dụng ngân hàng rất kém không có thông tin đâỳ đủ nên nhiều trường hợp để bể rồi hoặc khách hàng đã hoàn toàn mất khả năng thanh toán ngân hàng mới nhận ra.
3.4.4. Do đội ngũ cán bộ thiếu trình độ.
Trình độ của cán bộ tín dụng còn bị hạn chế do đó không có khả năng phân tích thẩm định dự án, nên nhiều khi cho vay mà không đánh giá được tính khả thi của dự án, hoặc do không phân tích được các báo cáo tài chính của lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng do đó khi họ kinh doanh thua lỗ không thể trả nợ được ngân hàng là tất yếu. Kiến thức về xã hội, thị trường của cán bộ tín dụng bị hạn chế cũng gây cho món vay bị rủi ro vì trong nhiều trường hợp khách hàng đã không nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, không phân tích được cung cầu của thị trường dẫn đến mặt hàng kinh doanh đó bị ứ đọng, nên cán bộ tín dụng là người có kiến thức, biết phân tích tình hình cho khách hàng, sẽ tránh được thiệt hại trong kinh doanh, và tiền vay của ngân hàng khi đó bị rủi ro.
4. Kết quả thu hồi nợ quá hạn ở Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Hiện nay Ngân hàng TMCP Phương Nam vẫn tích cực tiếp tục theo dõi đôn đốc thu hồi các khoản nợ quá hạn, xem xét phân tích những món nợ quá hạn có khả năng thu hồi trước, kiên quyết bám sát con nợ, thường xuyên kiểm tra cán bộ thực hiện, tìm biện pháp thu hồi nợ một cách hiệu quả nhất.
Tăng cường quan hệ với các cơ quan nội chính có liên quan như UBND, Sở nhà đất, công an... nhờ họ giúp đỡ để hoàn thành hồ sơ giấy tờ, tiến hành giám sát tài sản thế chấp để thu nợ.
Hoạt động của ngân hàng là luôn phải đối mặt với rủi ro, coi rủi ro như một cơ hội để kinh doanh, song cần phải biết chấp nhận nó ở mức độ phù hợp với điều kiện của mình. Thông qua số liệu về rủi ro của Ngân hàng TMCP Phương Nam trong ba năm (2000 - 2002) điểm nổi bật đáng báo động nhất là tỷ lệ nợ quá hạn quá cao trong khi tỷ lệ thu hồi nợ quá hạn lại quá thấp 30% số nợ quá hạn là chưa thể thu hồi được ở mỗi năm. Đặc biệt 2000 chỉ có 37,82% nợ quá hạn đã thu hồi được, còn lại 62,18% chưa thu hồi, phần lớn trong số đó là nợ khó đòi khả năng hoàn trả khá mỏng manh.
Mặc dù số nợ quá hạn đã thu hồi được về tuyệt đối vẫn tăng nhanh qua các năm (từ 21 tỷ năm 2000 lên 182 tỷ năm 2001) song do số nợ quá hạn cũng tăng lên không ngừng lên tỷ lệ thu hồi nựo quá hạn thực chất tăng lên không đáng là bao. Hy vọng rằng với các biện pháp thu hồi nợ quá hạn một cách tích cực, hiệu quả như Ngân hàng đang áp dụng sẽ làm giảm đáng kể con số nợ quá hạn mỗi năm.
5. Các biện pháp mà Ngân hàng TMCP Phương Nam đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Muốn khắc phục tồn tại, đưa chi nhanh thoát ra khỏi tình trạng hiện nay, con đường duy nhất là mở rộng hoạt động, tăng cường nguồn thu, chú trọng công tác huy động vốn và cho vay đồng đều, tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để tăng thị phần dư nợ cho các doanh nghiệp quốc doanh, với đường lối chung do Ngân hàng TMCP Phương Nam đề ra là “ổn định, phát triển vững chắc, an toàn và hiệu quả”, sau đây là một số biện pháp cụ thể mà Ngân hàng đã áp dụng thu được thành công đáng kể.
5.1. Công tác tổ chức cán bộ.
Đây là công tác quan trọng hàng đầu trong đó yếu tố con người quyết định sự thành bại của chi nhánh. Trước năm 1997, bộ máy của ngân hàng bị rệu rã do lãnh đạo và một số cán bộ tín dụng cấu kết nhau làm sai nguyên tắc, dẫn đến thất thoát lớn ở Ngân hàng. Từ quý III/1996, ban lãnh đạo mới lên kế nhiệm, đã và đang tiếp tục kiện toàn bộ máy lãnh đạo đảm bảo điều hành thống nhất và có hiệu quả. Tăng cường cán bộ cho những khâu còn thiếu như phòng kinh doanh và phòng thanh toán quốc tế.
Kiên quyết sử lý nghiêm minh những cán bộ thoái hoá, đảm bảo kỷ cương trong công tác điều hành, tránh tình trạng vô trách nhiệm trong công việc.
5.2. Thông tin về khách hàng.
ở ngân hàng TMCP Phương Nam, giám đốc và trưởng phó phòng kinh doanh tín dụng thường xuyên đi tìm hiểu khách hàng vay vốn thuộc đối tượng nào? Uy tín của họ đối với Ngân hàng ra sao? có sẵn lòng để trả nợ Ngân hàng hay không? Phương án xin vay vốn có mang lại hiệu quả kinh tế để khách hàng trả nợ Ngân hàng? Việc thẩm định uy tín khách hàng phải được xem là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Xét theo lý thuyết thì việc đánh giá của cán bộ tín dụng có được chính xác hay không sẽ có vai trò quyết định đến hiệu quả tín dụng cho vay, nếu việc đánh giá sai đối tượng khách hàng xin vay vốn sẽ làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với Ngân hàng hoặc có thể Ngân hàng không có khả năng thu hồi nợ khi đã cho vay, sẽ phát sinh rủi ro trong các khoản cho vay. Công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu người đi vay là khách hàng thường xuyên và lâu năm của khách hàng đã từng vay vốn trước đó. Trường hợp khách hàng mới quan hệ với ngân hàng thì Ngân hàng có trách nhiệm trong quản lý kinh doanh... Những khía cạnh này được Ngân hàng TMCP Phương Nam xem xét một cách kỹ lưỡng trong quá trình ra quyết định cho vay.
5.3. Chú trọng công tác đánh giá khách hàng.
Trong cơ chế như hiện nay, mỗi ngân hàng phải tự chịu trách nhiệm về mọi mặt lao động của mình để luôn đảm bảo mục đích cuối cùng của mình là an toàn trong kinh doanh, hạn chế rủi ro và thu được nhiều lợi nhuận. Làm được điều đó, quả là không rễ chút nào. Trong thời gian vừa qua, đặc biệt từ cuối năm 2000 trở về đây, Ngân hàng TMCP Phương Nam đã rất chú trọng tới đối tượng cho vay, kiêm quyết không cho vay đối với những khách hàng không có đủ điều kiện, nghiên cứu kỹ càng vê khách hàng như:
- Xem xét, phân tích trình độ, quản lý kinh doanh và trình độ quản trị điều hành của khách hàng.
- Phân tích tình hinìh tài chính của khách hàng.
- Xem xét khả năng trả nợ của khách hàng.
- Nghiên cứu, kiểm tra tính pháp lý của tài sản thế chấp kỹ càng...
Chính nhờ các biện pháp trên mà hiện nay Ngân hàng TMCP Phương Nam đã giảm đáng kể tỷ lệ rủi ro của mình (từ 30% năm 2000 xuống 10% hiện nay).
5.4. Đặc biệt bước sang năm 2002
Ngân hàng TMCP Phương Nam có những bước thay đổi rõ rệt trong công tác đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cán bộ tín dụng. Phòng kinh doanh thường xuyên cử người đi học các lớp nâng cao nghiệp vụ quản lý tín dụng, phòng ngừa rủi ro, thường xuyên tổ chức các buổi giảng dạy, học chế độ kế toán mới áp dụng cho các đơn vị kinh tế nhằm nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ tín dụng tránh xảy ra những sai lầm không đáng có trong quá trình cho vay.
5.5. Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng.
Việc ngăn ngừa những khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng bao gồm:
Tăng cường sự giám sát món vay thông qua việc tăng chi phí thu lợi, đưa ra lời khuyên cho khách hàng trong việc tìm kiếm biện pháp hoàn trả nợ vay cho Ngân hàng ngay khi có dấu hiệu khách hàng đang gặp khó khăn về tài chính. Nhân viên ngân hàng có thể đưa ra các lời khuyên cho khách hàng như:
- Tăng thêm vốn: Nếu là Công ty cổ phần thì khuyến khích họ bán thêm cổ phiếu, còn đối với các loại hình doanh nghiệp khác htì xử dụng các biện pháp như kêu gọi công tác, liên doanh liên kết...
- Giảm bớt kế hoạch mở rộng: Nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính, thì người vay nên loại bỏ chúng cho đến khi tình hình tài chính được cải thiện...
- Gia hạn nợ, giảm mức thu của các kỳ hạn nợ cho khách hàng.
- Tăng thêm các khoản vay mới nhằm cứu vãn tình hình tài chính đang suy sụp của người vay. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp người vay sẽ tốt hơn khi được gia tăng vốn.
5.6. Công tác thu hồi nợ quá hạn, xử lý các khoản nợ khó đòi.
Ngân hàng đã đôn đốc, thu hồi nợ quá hạn, xem xét phân tích những món nợ có khả năng thu hồi trước, bám sát con nợ, tìm ra biện pháp thu hồi nợ có hiệu quả nhất.
Đối với các khoản nợ khó đòi, Ngân hàng phải lựa chọn một trong hai hình thức khai thác, hoặc phát mại tài sản thế chấp. Tuỳ theo hình thức và thái độ của khách hàng mà Ngân hàng lựa chọn ra một biện pháp vừa giúp cho Ngân hàng giảm bớt thiệt hại vừa không nhẫn tâm với người vay.
5.7. Khả năng đo lường của các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng.
ở Việt Nam, hệ thống Ngân hàng đã phải chấp nhận nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh, điều đó đòi hỏi Ngân hàng phải có khả năng đo lường các rủi ro để tạp lợi nhuận có thể sinh ra trong tương lai. Do vậy giải pháp tìm ra mức thích hợp có tính dung hoà giữa rủi ro và lợi nhuận là vấn đề cần quan tâm của các nhà quản lý Ngân hàng, mọi mối quan hệ biện chứng mới phát sinh là làm sao vừa phải gia tăng lợi nhuận, vừa phải chấp nhận rủi ro ở mức độ cho phép. Giải pháp đồng bộ trong quản lý rủi ro tín dụng Ngân hàng thể hiện sự đánh đổi lẫn nhau tạo nên mối quan hệ không thể tách rời nhau trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Chính vì vậy người ta đã khái quát nên mục tiêu đối với lợi nhuận và rủi ro. Câu hỏi được đặt ra liệu mức độ nào trong toàn bộ rủi ro mà Ngân hàng nên gánh chịu để gia tăng lợi nhuận và bao nhiêu lại rủi ro mà Ngân hàng có thể chấp nhận? Bởi vậy các Ngân hàng nhất thiết phải xem xét môi trường kinh doanh trong tương lai, dự đoán sự ảnh hưởng của nó đối với cán bộ cân lợi nhuận và rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội, như lạm phát, suy thoái kinh tế, chính sách Nhà nước hoặc môi trường, pháp lý không ổn định, chiến tranh hoặc thiên tai... Dù rủi ro tín dụng có xuất hiện từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh Ngân hàng nói riêng. Điều đó khẳng định lại rằng rủi ro tín dụng là vấn đề cấp thiết cần được giải quyết trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng hiện nay.
chương iii
những kiến nghị và giải pháp chủ yếu nhằm
hạn chế rủi ro ở ngân hàng tmcp phương nam
trong giai đoạn hiện nay
I. Những kiến nghị và giải pháp đối với ngân hàng TMCP Phương Nam
1. Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và điều hành
1.1. Công tác giáo dục và đào tạo cán bộ
Phải thường xuyên giáo dục đội ngũ cán bộ, nhất là đối với cán bộ tín dụng. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đảm bảo sự an toàn và phát triển vốn của ngân hàng, trước hết ngân hàng phải nắm được trong tay một đội ngũ cán bộ tín dụng có đủ tư cách và phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn giỏi. Vì vậy ngân hàng phải có kế hoạch giáo dục và đào tạo lại, nhằm trang bị cho họ những kiến thức cần thiết về tình hình kinh tế thị trường, đặc biệt là kiến thức về ngành mà họ đang cho vay. Bên cạnh đó, họ cũng phải được bồi dưỡng những kiến thức pháp lý về các quan hệ kinh tế, dân sự và hình sự, vấn đề về sở hữu... đều quan trọng không thể xem nhẹ, đó là thường xuyên ôn luyện và có sự kiểm tra về kiến thức nghiệp vụ, sự hiểu biết về quy trình và cơ chế cho vay của ngân hàng.
Những cán bộ tỏ ra không đủ tiêu chuẩn, cần phải loại bỏ khỏi dây chuyền cho vay, không để họ tiếp tục có điều kiện gây thêm những hậu quả mới. Nếu ai có những sai phạm, phải được sử lý nghiêm minh về trách nhiệm kinh tế hành chính, kể cả bằng hình sự theo luật.
1.2. thành lập ban cố vấn và thanh tra tín dụng ngân hàng.
Qua việc nghiên cứu những kinh nghiệm phòng chống rủi ro của các Nhà nước thương mại Việt Nam, và thực tạng kinh doanh tín dụng tại Ngân hàng TMCP Phương Nam. Tôi mạo muội đề xuất: Ngân hàng công thương Phương Nam nên thành lập “Ban cố vấn và thanh tra tín dụng” với mô hình tổ chức hoạt động như sau:
a. Mô hình tổ chức
+ Trưởng ban: Giám đốc ngân hàng
+ Phó ban: Trưởng phòng tín dụng
+ Các thành viên: Bao gồm một số cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn giỏi có kiến thức về sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường và an hiểu về lĩnh vực pháp luật.
b. Chức năng
- Chức năng thanh tra:
+ Quản lý chung hoạt động tín dụng của Ngân hàng trên cơ sở giám sát hoạt động của mỗi nhân viên hoạt động.
+ Định kỳ kiểm tra công tác của mỗi cán bộ tổ chức, thông qua việc thanh tra trực tiếp một số vấn đề cụ thể:
Thông qua đó những nhận xét và đánh giá chất lượng công tác của mỗi cán bộ tín dụng, để có những hình thức khen thưởng và kỷ luật thích đáng.
- Chức năng cố vấn.
+ Cố vấn cho các cán bộ tín dụng trong việc điều tra thẩm định các dự án xin vay.
+ Cố vấn cho các cán bộ tín dụng trong việc sủ lý các món vay có vấn đề, và công tác thu hồi nợ tồn đọng của ngân hàng.
- Chức năng kinh doanh.
Qua việc điều tra nghiên cứu thị trường và thực tế kinh doanh tín dụng ngân hàng. Bán cố vấn và thanh tra tín dụng tiến hành việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng, và lên kế hoạch tín dụng cho từng thời kỳ.
c. Nhiệm vụ
* Trưởng ban có nhiệm vụ chỉ đạo chung (đưa ra kế hoạch và biện pháp hành động).
* Phó ban: chỉ đạo tác nghiệp (phân công nhiệm vụ cụ thể cho mỗi thành viên)
* Các thành viên:
+ Tuỳ theo khả năng của mỗi thành viên, mà ban lãnh đạo phân công cho họ đi sâu vào nghiên cứu một hoặc một số ngành nghè sản xuất kinh doanh cụ thể. Với mục đích đánh giá sự biến động chung về ngành nghề mà mình nghiên cứu, trên cơ sở đó cung cấp những thông tin kịp thời cho các cán bộ tín dụng.
+ Quản lý chung tất cả các các món vay thuộc lĩnh vực được giao. Định kỳ lên các báo cáo tổng hợp tín dụng cụ thể. Phân tích nguyên nhân thành công và thất bại để có hướng khắc phục cho thời kỳ sau.
+ Cố vấn trực tiếp và gián tiếp cho các cán bộ tín dụng trong việc điều tra và thẩm định tín dụng.
- Cố vấn trực tiếp: Đối với các món vay có giá trị lớn, các thành viên trong ban cố vấn sẽ cùng với cán bộ tín dụng trực tiếp đi điều tra và thẩm định món vay với tư cách là người tham mưu.
- Cố vấn gián tiếp: đối với các món vay có giá trị nhỏ, các thành viên trong ban tín dụng sẽ nhận được bản sao về hồ sơ của món vay với mục đích là kiểm tra lại xem những yếu tố cơ bản của hồ sơ tín dụng như: hợp đồng tín dụng đã chặt chẽ chưa, hồ sơ tài sản thế chấp đã đầy đủ các yếu tố về mặt pháp lý không? và việc đánh giá về người vay của các cán bộ tín dụng đã chính xác chưa... Trên cơ sở đó có những thông tin ngược trở lại đối với cán bộ tín dụng về những điều khoản cần phải chỉnh sửa hoặc bổ sung trong hồ sơ của người đi vay.
+ Giữ vai trò chủ chốt trong việc tổ chức phát mại tài sản thế chấp.
đối với cán bộ tín dụng, cần phải giao trách nhiệm một cách rõ ràng nhưng cũng phải quan tâm hơn đến quyền lợi của họ.
Thực ra khi nhận nhiệm vụ, thì bản thân người cán bộ tín dụng đều hiểu rằng họ phải làm những công việc gì (trừ những trường hợp cá biệt). Nhưng nhìn chung, để có được hiệu quả thì một trong những yếu tố khá quan trọng là phải giao trách nhiệm cụ thể. Công việc càng được lượng hoá cụ thể bao nhiêu, thì càng dễ thực hiện bấy nhiêu, và việc đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ tín dụng càng chính xác hơn.
Mặt khác, nhìn một cách toàn diện ta thấy hoạt động tín dụng là nguồn cơ bản của thu nhập hoặc thua lỗ của một ngân hàng, cho nên rủi ro tín dụng sẽ tạo khó khăn lớn nhất cho ngân hàng. Với ý nghĩa quan trọng đó của tín dụng, không chỉ làm choi người cán bộ tín dụng thấy vinh dự, tự hào, mà còn trao cho họ một trách nhiệm nặng nề, bởi đánh giá rủi ro tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp và đầy rẫy khó khăn. Công việc của một cán bộ tín dụng đòi hỏi họ không chỉ có kiến thức chuyên sâu, kinh nghiệm hoạt động, mà còn phải hiểu rõ lĩnh vực mà họ đầu tư vốn vào, họ khônh phải chỉ phân tích, phán đoán mà còn phải đưa ra được những quyết định chính xác, những sử lý kịp thời thông minh... đòi hỏi thì cao, trách nhiệm thì nặng nề nhưng quyền lợi của họ như thế nào thì hầu như ít được quan tâm đến. Trong các báo cáo tổng hợp kế hoạt động của ngân hàng, thường xuyên nhắc nhở đến việc rà soát lại đội ngũ cán bộ làm tín dụng, có biện pháp kỷ luật thích đáng và kiên quyết đưa ra khỏi ngân hàng những cán bộ mất phẩm chất... những hình thức kỷ luật tương xứng với mức độ vi phạm quy chế không hoàn thành nhiệm vụ đều rất hợp lý. Tuy nhiên phải thừa nhận rằng hoạt động tín dụng luôn tiềm ẩn những rủi ro, nên sau khi ký cho vay thì người nào cũng phập phồng lo lắng cho đến khi thu song nợ mới được thở phào nhẹ nhõm. Vì thế, cách duy nhất để thống được rủi ro, là hạn chế đến tối đa việc cho vay. Tư tưởng làm tốt thì hưởng chung, chia chung còn khi làm dở thì một mình gánh chịu hậu quả, đã làm cho nhiều cán bộ tín dụng không dám mạnh dạn quyết định cho vay. Còn nếu cho vay, thì sẽ xuất hiện một sự “chia chác âm thầm” để bù cho “cái giá phải trả” về sau. Song đã nói là ngân hàng thì không thể không cho vay, và khi cho vay thì phải hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực. Vì vậy tôi thiết nghĩ rằng Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng và các Ngân hàng thương mại nước ta nói chung, cần phải quan tâm hơn đến quyền lợi và trách nhiệm của các cán bộ tín dụng.
1.3. Thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng
Cần phải thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng đã được đề ra, trách tư tưởng săn tìm lợi nhuận bằng mọi giá. Bằng bất cứ giá nào cũng không được hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để lôi kéo khách hàng, thực hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, và để cho món vay có thể được hoàn trả cả trong trường hợp dự án kinh doanh thất bại, thì phải thực hiện thế chấp đúng đắn, phù hợp với thực tế. Nhưng cũng cần phải cảnh tỉnh quan điểm cho rằng tài sản thế chấp là tất cả, do đó cứ có thể chấp là cho vay mà quên đi những vấn đề cơ bản của tín dụng. Để ngăn ngừa các rủi ro về phía khách hàng, ngân hàng TMCP Phương Nam cần htực hiện việc lựa chọn khách hàng một cách đúng đắn hơn nữa, chỉ cho vay đối với những khách hàng đầy đủ điều kiện tín dụng. Cần quan tâm đến các vấn đề như: năng lực tài chính, tình hình tìa chính, khả năng và đạo đức của người điều hành, ưu thế và sức mạnh của người vay trong cạnh tranh. Khi món tín dụng đã được cấp, nhiệm vụ của cán bộ tín dụng và người điều hành là phải thường xuyên giám sát hoạt động của người vay, phát hiện kịp thời những món vay có vấn đề đưa các giải pháp hữu hiệu. Cũng cần phải buộc khách hàng phỉa sử dụng tiền vay đúng theo cam kết khi vay, nếu họ có ý đồ làm khác đi, với những toan tính phiếu lưu, thì cán bộ tín dụng phải có những biện pháp thích hợp để thu hồi lại món vay.
Ngoài ra, ban lãnh đạo phải thường xuyên xem xét, đánh giá lại các qui định tín dụng. Một mặt phải chỉnh sửa những vấn đề không phù hợp với thực tiễn, chưa chặt chẽ về pháp luật, nhằm tránh sự lợi dụng của những người “thiếu đạo đức” từ phía khách hàng lẫn cán bộ ngân hàng. Mặt khác đánh giá tác động của hệ thống quy chế tín dụng vào quá trình cho vay và thu nợ, nhằm tìm ra những biện pháp đưa quy chế vào thực tiễn.
2. Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng
Việc ngăn ngừa những khoản vay khó đòi và tổn thất tidn dụng bao gồm: Tăng cường sự giám sát món vay thông qua việc tăng chi phí thu nợ, và đưa ra những lời khuyên đối với khách hàng trong việc tìm kiếm biện pháp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng... ngay khi có dấu hiệu người đã gặp khó khăn về tài chính, ngân hàng cần phải áp dụng kịp thời những biện pháp nhằm điều chỉnh tình huống và bảo vệ lợi ích của ngana hàng và khôi phục sức mạnh tài chính của người vay. Cố vấn, nhân viên ngân hàng có thể cho người vay những lời khuyên như:
- Tăng thêm vốn, nếu là công ty cổ phần thì khuyến khích họ bán thêm cổ phiếu, còn đối với các loại hình doanh nghiệp khác thì có thể sử dụng các biện pháp như kêu gọi cộng tác, liên doanh liên kết...
- Giảm bớt kế hoạch mở rộng, nếu kế hoạch mở rộng đang được trù tính, thì người vay nên loại bỏ chúng cho đến khi tình ình tài chính đã được cải thiện.
- Khuyến khích thu hồi các khoản nợ đầu tư chưa đến hạn, giảm bớt công nợ.
- Giảm bớt hàng tồn kho bằng việc cải tiến phương thức bán hàng, hạ giá bán... nhằm tăng doanh thu.
- Nhận thêm vật thế chấp: Yêu cầu người vay tăng giá trị tài sản thế chấp bằng việc đem thế chấp những tài sản khác thuộc quyền sở hữu của mình.
- Gia hạn nợ, giảm mức thu của các kỳ hạn nợ.
- Tăng thêm những khoản vay mới nhằm cứu vãn tình hình tài chính đang suy sụp của người vay. Hình thức này được áp dụng trong trường hợp người vay kinh doanh thua lỗ vì lý do khách hàng. Hoặc hoạt động kinh doanh của người vay có khả quan hơn khi được gia tăng vốn.
3. Việc sử lý các khoản nợ khó đòi
Trong sử lý các khoản cho vay khó đòi thông thường các ngân hàng thương mại phải lựa chọn một trong hai hình thức là: Tổ chức khai thác hoặc thanh lý tài sản thế chấp. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi người vay hoàn trả được một phần hay toàn bộ số nợ mà không đưa vào các công cụ pháp lý để ép buộc. Thanh lý là ép người vay phải tuân theo các điều khoản của hợp đồng tín dụng, áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp lý có thể để đạt được mục đích.
Các yếu tố chính ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà ngân hàng sẽ theo để sử lý các khoản cho vay, nổi bật nhất là khó khăn trong việc thu nợ và tổn thất có thể xảy ra, trong trường hợp này ngân hàng phải áp dụng hình thức thu nợ bắt buộc theo luật. Bên cạnh đó các yếu tố như sự thật thà, thái độ của người vay đối với các khoản nợ tỏ ra có trách nhiệm, sức mạnh tài chính và khả năng trả nợ của người vay còn có nhiều khả quan thì ngân hàng áp dụng hình thức tổ chức khai thác, hình thức này vừa không nhẫn tâm với người vay mà còn tỏ ra có lợi cho ngân hàng.
Trong hoạt động thu nợ, ngân hàng cần phải có sự cộng tác chặt chẽ với người vay và tranh thủ sự cộng tác của các cơ quan hành chính và luật pháp ở địa phương nơi người vay hoạt động.
Một khoản vay có vấn đề, không có nghĩa là ngân hàng đã mất tất cả, rất có thể vào thời điểm ra hạn cuối cùng người vay sẽ hoàn trả được đầy đủ các khoản nợ của ngân hàng, mà không cần có sự can thiệp của các cơ quan chức trách và điều hành pháp luật. Hoặc phải áp dụng những hình thức cuối cùng như phát mại tài sản thế chấp. Những biện pháp cuối cùng chỉ nên áp dụng khi người vay cố tình lừa đảo hoặc mất hoàn toàn khả năng thanh toán. Vì nó sẽ gây ra rất nhiều phiền phức và tốn kém cho ngân hàng và cả người vay. Vì vậy, việc lựa chọn một trong hai hình thức trên đòi hỏi ngân hàng phải tính toán một cách thận trọng, với mục đích cuối cùng là giảm tối đa những thiệt hại do người vay mang lại.
II. Những giải pháp tư ngân hàng Nhà nước
* Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu thành lập các tổ chức như:
+ Quỷ bảo hiểm tiền gửi.
+ Ngân hàng bảo lãnh.
Để hỗ trợ hoạt động kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại trong nước, và tạo điều kiện cho một số tổ chức kinh tế có dự án kinh doanh khả thi, nhưng không đủ các điều kiện về tài sản thế chấp.
* Việc ngân hàng Nhà nước cho phép một đơn vị kinh tế vay vốn ở nhiều ngân hàng thương mại là hợp lý, nó sẽ tạo sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, nhăm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước. Nhưng trong điều kiện hiện nay của Việt Nam về thông tin còn nhiều điểm yếu kém. Hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng Nhà nước hoạt động chưa có hiệu quả, thông tin cập nhật chưa chính xác và kịp thời. Nên việc cho một đơn vị kinh tế vay vốn ở nhiều ngân hàng trong điều kiện như vậy, sẽ có thể dẫn đến rủi ro cho nhiều ngân hàng cùng môt lúc, và tạo điều kiện cho người vay lừa đảo chiếm đoạt tài sản của ngân hàng. Vì vậy để áp dụng quy chế này, Ngân hàng Nhà nước cần phải nghiên cứu sửa đổi, và chấn chỉnh lại các hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng.
* Tăng cường công tác thanh tra và xử lý nghiêm minh việc thực hiện cơ chế tín dụng của các ngân hàng thương mại, nhằm tránh hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng, phát hiện kịp thời những sai phạm của các ngân hàng thương mại nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những hiệt hại do rủi ro đem lại.
III. Những giải pháp từ chính phủ và các ngành
* Các cơ quan chức năng cần kiểm tra và chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, chỉ cấp một bản gốc duy nhất nhằm ngăn chặn việc dùng một tài sản đi thế chấp nhiều nơi để vay vốn, gây thất thoát tái sản của ngân hàng.
* Bộ Tài chính, bộ tư pháp và ngân hàng Nhà nước, cần phối hợp ban hành thông tư liên bộ để hướng dẫn một số thủ tục về thế chấp, cầm cố đối với doanh nghiệp Nhà nước và thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố và bảo lãnh vay vốn.
* Các bộ: Nội vụ, giao thông vận tải và ngân hàng Nhà nước phối hợp ban hành thông tư liên bộ quy định về thủ tục cầm cố, thế chấp các phương tiện vận tải. Nhằm đảm bảo cho người cho phương tiện vừa có thể đem phương tiện của mình đi thế chấp, mà vẫn được điều hành phương tiện trong thời gian thế chấp.
- Chính phủ ban hành nghị định, quy định chi tiết việc thi hành luật doanh nghiệp Nhà nước công bố ngày 30/4/1995 trong đó cần quy định rõ giữa danh sách các tài sản doanh nghiệp Nhà nước được quyền cầm cố thế chấp và danh sách các tài sản khi đem đi thế chấp phải được phép của cơ quan có thẩm quyền (cụ thể là cơ quan nào?). Đồng thời cần quy việc sử lý tài sản thế chấp của doanh nghiệp Nhà nước khi doanh nghiệp này mất khả năng thanh toán công nợ của ngân hàng.
* chính phủ cần ban hành nghị định hướng dãn về việc đăng ký tài sản thế chấp và tổ hcức bán đấu giá tài sản thế chấp.
* Bộ Tài chính cần tổ chức thực hiện tốt việc kiểm tra, buộc các doanh nghiệp phải tiến hành hạch toán theo đúng chế độ “ hạch toán kế toán và thống kê’, đảm bảo số liệu chính xác, trung thực và kịp thời. Nhằm giúp các ngân hàng có được các thông tin tài chính trung thực giúp cho việc phân tích tín dụng đối với các doanh nghiệp vay vốn được chính xác.
* Nhà nước cần tổ hcức nghiên cứu tiến tới việc thành lập một cơ quan chuyên trách về việc thống kê tổng hợp các tỷ lệ tài chính của các ngành trong nước,nhằm rút ra hệ thống các tỷ lệ trung bình hàng năm, để ngân hàng dựa vào đó làm căn cứ phân tích kinh tế, só sánh đánh giá các doanh nghiệp hiện đang ở tình trạng nào.
* Cần đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý về xuất nhập khẩu. Trước hế cầm đảm bảo cân đối, tránh hiện tượng nhập - xuất tràn lan, hoặc hạn chế quá mức dẫn đến những biến động vê thị trường như trong thời gian qua. Hai là chính sách xuất nhập khẩu phải ổn định tương đối lâu dài, tránh tình trạng khi vốn tín dụng vừa mới đầu tư cho các dự án xuất nhập khẩu - chưa kịp thu hồi thì đã có sự thay đổi chính sách, khiến nợ ngân hàng không quay trở về được.
phần kết luận
Qua việc nghiên cứu rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng của Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng, và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung. Tôi nhận thấy đối với hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng thương mại, rủi ro là vấn đề tất yếu không thể tránh khỏi. Chỉ có điều mức độ xảy ra rủi ro và khả năng hạn chế rủi ro của con người trong kinh doanh tới đầu mà thôi.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, chưa ổn định và đang trong thời kỳ chuyển đổi sang cơ chế thị trường, tình hình tài chính của các tổ chức kinh tế còn nhiều rối ren, nhiều đơn vị còn lúng túng trong kinh doanh, không bắt kịp với sự biến động của cơ chế thị trường, nên lâm vào tình trạng kinh doanh thua lỗ, mặt khác, các điều kiện về môi trường kinh tế và pháp luật của nước ta, tỏ ra còn nhiều mặt yếu kém và sơ hở.
Trong bối cảnh đó hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng tất yếu sẽ gặp nhiều khó khăn. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu thực tiễn kinh doanh tín dụng của Ngân hàng TMCP Phương Nam, và thực trạng kinh doanh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tôi nhận thấy việc triển khai nghiên cứu các giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng là một vấn đề quan trọng và cấp thiết, nó góp phần giảm bớt tổn thất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại nước ta tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh thời mở cửa.
Bám sát vào mục tiêu đó, chuyên đề đã đi sâu vào tìm hiểu hoạt động của ngân hàng trong cơ chế thị trường, nghiên cứu môi trường kinh doanh tín dụng ở Việt Nam và các thể chế tín dụng hiện hành ở nước ta. Từ đó tìm ra các nguyên nhân cơ bản dẫn rủi ro tín dụng ở Ngân hàng TMCP Phương Nam nói riêng và các ngân hàng thương mại nước ta nói chung.
Chuyên đề cũng đã đưa ra một số biện pháp nhằm ngăn ngừa và khắc phục rủi ro tín dụng ở ngân hàng TMCP Phương Nam. đồng thời luận văn có một số kiến nghị cụ thể đối với Chính phủ, các ngành các cấp có liên quan và Ngân hàng Nhà nước, nhằm sửa đổi và hoàn thiện các quy chế tín dụng và hệ thống luật ở nước ta, với mục đích là tạo môi trường kinh tế và pháp luật thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng thương mại nói riêng và sự phát triển kinh tế của các nước nói chung.
Do kinh nghiệm và khả năng nhận thức còn nhiều hạn chế, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của mọi độc giả quan tâm đến lĩnh vực này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo hướng dẫn và các cô chú cán bộ công tác tại Ngân hàng TMCP Phương Nam.
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng thương mại
Edward W. Reed. PhD và edward K. Gill, PhD
2. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính
Fredeic. S. Michkin
3. Hội thảo phòng ngừa và xử lý nợ quá hạn
Ngân hàng công thương Việt Nam
4. Tạp chí ngân hàng
5. Thời báo kinh tế
6. Tạp chí nghiên cứu kinh tế
7. Các văn bản thể lệ, chế độ tín dụng của Ngân hàng Nhà nứoc và Ngân hàng công thương Việt Nam
8. Các báo cáo tổng kết hoạt động của Ngân hàng TMCP Phương Nam năm 2000 - 2001 - 2002.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I. Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong nền kinh tế
thị trường 3
I. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 3
1. Khái niệm về ngân hàng thương mại 3
2. Các chức năng làm trung gian tín dụng 4
2.1. Chức năng làm trung gian tín dụng 4
2.2. Chức năng làm trung gian thanh toán 4
2.3. Chức năng "tạo tiền" 5
3. Các nghiệp vụ của NHTM 6
3.1. Nghiệp vụ tài sản nợ (nghiệp vụ hình thành nguồn vốn của NHTM) 6
3.2. Nghiệp vụ tài sản có (nghiệp vụ sử dụng vốn của NHTM) 7
II. Hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng của NHTM 9
1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng 9
2. Rủi ro tín dụng của NHTM 11
3. Những nguyên nhân chủ yếu gây ra rủi ro tín dụng 17
3.1. Những thông tin không cân xứng, sự lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức 17
3.2. Sự điều khiển của "Bàn tay vô hình" - cơ chế thị trường 19
3.4. Nguyên nhân về phía Nhà nước 21
Chương II. Thực trạng chất lượng tín dụng của ngân hàng TMCP Phương Nam 22
I. Quá trình hình thành, phát triển và cơ cấu tổ chức 22
1. Quá trình jình thành phát triển của PNBANK 22
2. Cơ cấu tổ chức của PNBANK 22
II. Thực trạng hoạt động tín dụng tại Phương Nam BANK 32
1. Tình ình huy động vốn 32
2. Tình hình cho vay 34/
3. Thực trạng chất lượng tín dụng tại Phương Nam BANK 36
3.1. Thành tựu 36
3.2. Rủi ro tín dụng ở ngân hàng TMCP Phương Nam 38
3.2.1. Nợ quá hạn 38
3.2.2. Nguyên nhân gây nên tình trạng nợ quá hạn ở Ngân hàng TMCP Phương nam 41
3.3. Do hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước chưa cao 45
3.4. Một số nguyên nhân khác 45
3.4.1. Nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng 46
3.4.2. Kiểm tra kiểm soát không tốt 47
3.4.3. Quá tin tưởng vào tài sản thế chấp 47
3.4.4. Do đội ngũ cán bộ thiếu trình độ 48
4. Kết quả thu hồi nợ quá hạn ở Ngân hàng TMCP Phương Nam 48
5. Các biện pháp mà Ngân hàng TMCP Phương Nam đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng 49
5.1. Công tác tổ chức cán bộ 49
5.2. Thông tin về khách hàng 50
5.3. Chú trọng công tác đánh giá khách hàng 50
5.4. Đặc điểm bước sang năm 2002 51
5.5. Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng 51
5.6. Công tác thu hồi nợ quá hạn, xử lý các khoản nợ khó đòi 52
5.7. Khả năng đo lường của các loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng 52
Chương III. Những kiến nghị và giải pháp chủ yếu nhằm hạn chế rủi ro ở ngân hàng TMCP Phương Nam trong giai đoạn hiện nay 54
I. Những kiến nghị và giải pháp đối với ngân hàng TMCP Phương Nam 54
1. Hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và điều hành 54
1.1. Công tác giáo dục và đào tạo cán bộ 54
1.2. Thành lập ban cố vấn và thanh tra tín dụng ngân hàng 54
1.3. Thực hiện nghiêm túc các quy chế tín dụng 57
2. Ngăn ngừa các khoản vay khó đòi và tổn thất tín dụng 58
3. Việc sử lý các khoản vay nợ khó đòi 59
II. Những giải pháp từ ngân hàng Nhà nước 60
III. Những giải pháp từ chính phủ và các ngành 61
Phần. Kết luận 63
Danh mục tài liệu tham khảo 65
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0560.doc