Định kỳ yêu cầu các chi nhánh phải cung cấp thông tin về tình hình tín dụng của chi nhánh, xử lý nghiêm khắc những chi nhánh có biểu hiện muốn che giấu thông tin, ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Quân Đội
Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về quản lý và điều hành chính sách tín dụng, quản lý rủi ro. cho cán bộ nhân viên thuộc các chi nhánh, để họ có thể nâng cao trình độ, hạn chế những sai sót không đáng có.
Chủ động xây dựng hệ thống thông tin, các chỉ số giúp cảnh báo trước về các nguy cơ có rủi ro cao cần phòng tránh, như xác định được những lĩnh vực, những ngành có tiềm ẩn rủi ro cao. Tăng cường khả năng trao đổi thông tin trong nội bộ các chi nhánh của MB, giữa chi nhánh với hội sở. Tăng cường trao đổi thông tin với các tổ chức tín dụng khác cũng như với CIC.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư, đa dạng hoá khách hàng, không tập trung cho vay một loại khách hàng, ngành hàng hay lĩnh vực nào đó mà cần mở rộng đối tượng cho vay nhằm giảm thiểu và phân tán rủi ro.
Nên tổ chức và củng cố lại bộ phận tín dụng theo hướng chuyên môn hoá các khâu trong quy trình tín dụng, không nên cho một cán bộ chuyên trách một khoản vay từ khi bắt đầu đến khi kết thúc để giảm thiểu được rủi ro.
Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng khách hàng để từ đó có sự chọn lựa giao dịch với các khách hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả nhằm ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro ngay từ ban đầu.
Cần phải xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng tách riêng về mặt lợi ích với hoạt động tín dụng của mỗi chi nhánh.
60 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1887 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng TMCP Dầu khí toàn cầu GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bảng 2.4: Bảng phân loại tín dụng theo thành phần kinh tế
(tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng Quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay doanh nghiệp
257,356
%
78%
Cho vay cá nhân
72,592
%
22%
Tổng
329,948
Qua bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, GP Bank Hoàn Kiếm vẫn tập trung nhiều vào cho vay khách hàng là doanh nghiệp( chiếm 78% tổng doanh số cho vay của Chi nhánh). Đây vẫn là khoản thu nhập chính của chi nhánh. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể thấy, tỷ trọng của cho vay khách hàng là cá nhân cũng khá cao( 22%). Điều đó cho thấy chi nhánh đang bắt đầu quan tâm hơn đến các khoản cho vay nhỏ của các cá nhân. Đối với một chi nhánh mới thành lập như GP Hoàn Kiếm, các khoản vay nhỏ này đóng một vai trò quan trọng trong quá trình mở rộng tín dụng của chi nhánh. Đánh giá được vai trò của các khoản vay cá nhân này, chi nhánh GP Hoàn Kiếm đã có những chính khuyến khích phát triển thị trường bán lẻ này, như lãi suất hấp dẫn, hay như đối với các khoản vay tiêu dùng với những tài sản lớn như mua nhà, ô tô khách hàng có thể dùng chính tài sản đó làm tài sản thế chấp...Chính vì vậy, Chi nhánh đã cho vay được một số lượng tương đối lớn cho những khách hàng cá nhân.
1.3. Phân loại tín dụng theo kì hạn
Bảng 2.5: Bảng phân loại tín dụng theo kỳ hạn (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quan hệ khách hàng)
Năm
2009
Cho vay ngắn hạn
122,629
%
36,82%
Cho vay trung hạn
41,712
%
12,53%
Cho vay dài hạn
168,672
%
50,65%
Tổng
333,013
Nhìn vào bảng trên ta thấy, trong năm 2009 vừa qua, Chi nhánh cho vay dài hạn với tỷ trọng khá lớn( 50,65%). Có được điều này là do, đầu năm 2009, Chính phủ thực hiện gói kích cầu: hỗ trợ 4% lãi vay một năm, và cạnh đó là việc nhận định nền kinh tế đã bắt đầu có dấu hiệu sẽ phục hồi trong thời gian tới nên lãnh đạo Chi nhánh Hoàn Kiếm đã mạnh dạn đầu tư vào các khoản vay dài hạn. Bên cạnh đó, tỷ trọng của cho vay ngắn hạn cũng ở mức tương đối( 36,82%), điều này cho thấy Chi nhánh đã cân đối thời hạn cũng như trọng lượng của các khoản cho vay ngắn hạn và dài hạn để hạn chế rủi ro cho Ngân hàng.
1.4. Phân loại tín dụng theo chất lượng
Bảng 2.6: Bảng phân loại tín dụng theo chất lượng (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Nợ đạt tiêu chuẩn
196,323
%
95,57%
Nợ không đạt tiêu chuẩn
9,092
%
4,43%
Tổng
205,415
Qua bảng trên ta nhận thấy, tỷ lệ nợ đạt tiêu chuẩn của chi nhánh ở mức rất cao ( đạt 95,57%) trong khi tỷ lệ nợ không đạt tiêu chuẩn chỉ là 4,43%. Điều này cho thấy chất lượng các khoản vay của Chi nhánh đạt mức ổn định và có độ an toàn cao. Chi nhánh đã thực hiện tốt công tác thẩm định chất lượng khoản vay: về mục đích sử dụng, thời hạn vay, số lượng cho vay……..chính vì vậy Chi nhánh hầu như không có nợ xấu, các khoản nợ đều đạt tiêu chuẩn. Đây là một dấu hiệu rất tốt cho các hoạt động của chi nhánh.
2. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hoàn Kiếm
2.1. Thực trạng rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hoàn Kiếm
Tình hình rủi ro tín dụng của Chi nhánh được thể hiện rõ nét qua bảng sau
Bảng 2.7: Bảng phân loại dư nợ cho vay theo mức độ rủi ro tại GP Hoàn Kiếm (tỷ đồng) (Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Nợ đủ tiêu chuẩn
196,323
%
95,57%
Nợ cần chú ý
3,257
%
1,586%
Nợ dưới tiêu chuẩn
0,212
%
0,1%
Nợ nghi ngờ
0.188
%
0,09%
Nợ có khả năng mất vốn
5,417
%
2,654%
Tổng
205,415
Nhìn vào bảng trên ta thấy, cơ cấu nợ trong năm 2009 vừa qua của chi nhánh còn tương đối nhiều bất ổn. Cụ thể, tỷ trọng của khoản nợ có khả năng mất vốn còn khá cao ( chiếm 2,654%) trên tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh. Mặc dù tỷ trọng của các khoản nợ đủ tiêu chuẩn rất cao( chiếm 95,57%) tuy nhiên đây cũng là một vấn đề mà ngân hàng cần quan tâm để có những chính sách cho vay hợp lý nhằm làm giảm tỷ trọng của các khoản nợ có khả năng mất vốn. Ngoài ra, tỷ trọng của các khoản nợ khác trong cơ cấu khoản nợ của Chi nhánh đã ở mức hợp lý, Chi nhánh nên phát huy để giữ ổn định tỷ lệ.
Để tìm hiểu rõ hơn tình hình rủi ro tín dụng tại chi nhánh chúng ta sẽ xem xét tới bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn.
Bảng 2.8: Bảng phân loại nợ không đủ tiêu chuẩn theo thời hạn của GP Hoàn Kiếm (Tỷ đồng) (Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Ngắn hạn
5,024
Nợ cần chú ý
0,276
Nợ có khả năng mất vốn
4,748
Trung hạn
2,036
Nợ cần chú ý
1,636
Nợ dưới tiêu chuẩn
0,212
Nợ nghi ngờ
0,188
Dài hạn
2,032
Nợ cần chú ý
2,032
Nhìn vào bảng trên ta thấy, phần lớn các khoản nợ xấu của Chi nhánh đều tập trung vào các khoản nợ ngắn hạn mà trong đó lại chủ yếu là các khoản nợ có khả năng mất vốn. Đây là một điều đáng báo động cho Chi nhánh về công tác tín dụng và công tác quản trị rủi ro. Ngân hàng cần chú trọng hơn tới các khoản vay ngắn hạn để nâng cao chất lượng các khoản vay. Các khoản nợ trung hạn và dài hạn, thì khoản nợ không đạt tiêu chuẩn chủ yếu tập trung vào nợ cần chú ý. Điều này cho thấy, mức nợ không đạt chuẩn của chi nhánh tuy cao nhưng cũng chưa thực sự nguy hiểm đối với hoạt động của chi nhánh.
Phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay:
Bảng 2.9: Bảng phân loại nợ không đạt chuẩn theo đối tượng vay (tỷ đồng)
(Nguồn: Phòng quản lý tín dụng)
Năm
2009
Dư nợ không đạt chuẩn của cá nhân
2,539
Dư nợ không đạt chuẩn của KHDN
6,553
Tổng
9,092
Qua bảng trên ta thấy, dư nợ không đạt chuẩn của Chi nhánh trong thời gian qua tập trung chủ yếu là từ các khách hàng doanh nghiệp. Vì vậy, Chi nhánh cần chú trọng hơn tới các khoản vay khách hàng doanh nghiệp để tránh những rủi ro có thể xảy ra.
2.2. Nguyên nhân của các rủi ro tín dụng mà chi nhánh mắc phải
Sau khi nghiên cứu tình hình rủi ro tín dụng của chi nhánh GP Bank Hoàn Kiếm, tôi đã rút ra được một số nguyên nhân dẫn tới các rủi ro tín dụng mà chi nhánh Hoàn Kiếm đã mắc phải trong thời gian qua. Trước hết là một số nguyên nhân từ phía khách hàng:
Đầu tiên, là do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích. Khi vay vốn ngân hàng đa số các doanh nghiệp đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại thường hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của chi nhánh. Tại GP Bank Hoàn Kiếm, tuy các rủi ro từ nguyên nhân này chưa để lại hậu quả lớn, nhưng cũng đã gây ra một số khoản nợ quá hạn. Rủi ro xuất phát từ nguyên nhân này của chi nhánh thường xuất hiện đối với các khoản vay:
- Với các khoản cho vay hạn mức nhưng không kiểm soát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng. Khách hàng lợi dụng hạn mức được vay để tiến hành vay vốn sử dụng vào những mục đích rủi ro,
- Khách hàng cùng lúc triển khai nhiều dự án, phương án, dùng nguồn nguồn vốn vay được của chi nhánh cho dự án này sang sử dụng ở dự án khác.
- Số tiền vay quá lớn so với nhu cầu vốn thực sự của khách hàng.
- Cho vay đầu tư dự án với thời hạn không phù hợp với khả năng khấu hao, hoàn vốn của khách hàng dẫn đến khách hàng bị buộc phải dùng nguồn ngắn hạn lưu động để đầu tư sử dụng cho các tài sản dài hạn.
- Khách hàng cùng lúc vay nhiều TCTD, dẫn đến không kiểm soát được dòng tiền của đơn vị.
- Thời hạn cho vay (nhất là vay vốn lưu động) dài hơn mức cần thiết so với chu kỳ dòng tiền, dẫn đến khách hàng sử dụng tạm thời nguồn tiền khi chưa đến hạn trả nợ cho ngân hàng.
Hai là, khách hàng bị chiếm dụng vốn, có hiện tượng thanh toán chậm hoặc không thanh toán giữa khách hàng và đối tác dẫn tới mất cân đối tiền vay và tài sản hình thành từ vốn vay. Từ đó dẫn tới ảnh hưởng đến kế hoạch trả nợ của khách hàng đối với chi nhánh.
Ba là, báo cáo tài chính của khách hàng không minh bạch. Những báo cáo tài chính có độ chính xác thấp, thiếu minh bạch sẽ gây khó khăn cho cán bộ tín dụng, có thể dẫn đến những nhận định sai lầm và đưa ra quyết định tín dụng không hợp lý. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực.
Bốn là, khách hàng không có đủ hoặc không thu xếp được nguồn vốn như kế hoạch, chính vì vậy dẫn tới không trả được nợ đúng hạn gây ra các khoản nợ quá hạn tại chi nhánh.
Năm là, không đánh giá đúng tình trạng tổng thể của khách hàng do: Khách hàng có nhiều đơn vị hạch toán phụ thuộc nằm ở nhiều địa bàn (nhất là thuộc lĩnh vực thu mua xuất khẩu, giải ngân tiền mặt) bị chậm trễ khi quyết toán tài chính. Các phương án từng lần trong cho vay theo hạn mức tín dụng đều có lãi, nhưng tổng hợp cả năm thì lỗ.
Sáu là, khách hàng chủ đích lừa đảo thường xảy ra đối với các doanh nghiệp thành lập nhiều công ty trong cùng một nhóm để vay vốn; hoặc đối với các chủ doanh nghiệp là người nước ngoài, việt kiều đầu tư nhập khẩu máy móc thiết bị… Trong trường hợp này nếu rủi ro xảy chi nhánh sẽ khó đòi được khoản tiền đã cho vay.
Nhóm nguyên nhân thuộc về Ngân hàng
Chưa thực sự chú trọng đến chất lượng tín dụng. Chúng ta có thể thấy, sau 1 năm được thành lập, nguồn vốn mà chi nhánh huy động được chiếm tới 98% trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng. Trong khi đó, dư nợ tín dụng của Ngân hàng chiếm tới 100.34% tổng tài sản của Ngân hàng. Như vậy, có thể thấy, mức dư nợ tín dụng của Ngân hàng đã vượt số lượng vốn mà Ngân hàng huy động được. Bên cạnh đó, dư nợ tín dụng của chi nhánh cũng gần bằng với tổng số vốn huy động được trong nền kinh tế của chi nhánh, điều đó cho thấy chi nhánh đang có hiện tượng đầu tư tín dụng ồ ạt, chạy theo phong trào, theo những đòi hỏi khách hàng mà thiếu có sự thận trọng cần thiết. Tập trung quá cao cho một mục tiêu tăng trưởng tín dụng trong điều kiện cạnh tranh gay gắt tất yếu dẫn đến việc giảm thấp điều kiện cung cấp tín dụng và nới lỏng kiểm soát cho vay.
Đội ngũ cán bộ tín dụng của chi nhánh đều còn rất trẻ, kinh nghiệm và năng lực thẩm định của cán bộ còn nhiều hạn chế, một số dự án đầu tư không được thẩm định chính xác về năng lực vốn, nguồn lao động tại khu vực triển khai dự án, năng lực của chủ doanh nghiệp nên khi dự án đi vào hoạt động chất lượng không cao gây khó khăn cho việc thu hồi vốn của ngân hàng. Vẫn còn hiện tượng thẩm định cho vay (nhất là đầu tư dự án) nhưng không thực sự hiểu các nội dung cơ bản về mặt kỹ thuật, công nghệ của sản phẩm, chu trình sản xuất, đặc điểm kinh doanh mặt hàng dẫn tới những nhận định sai và đưa ra những quyết định không hợp lý. Ngoài ra, các cán bộ tín dụng của chi nhánh vấn còn kém về khả năng tư vấn khách hàng giúp khách hàng vượt qua những khó khăn tạm thời, có thể nói đây không chỉ là yếu kém của chi nhánh mà còn là mặt yếu chung của hệ thống ngân hàng nước ta hiện nay.
Đạo đức của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Hiện tại, ở chi nhánh chưa phát sinh một rủi ro nào liên quan đến đạo đức của cán bộ tín dụng, tuy nhiên đây cũng là một vấn đề đáng quan tâm, vì một khi rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng mà xẩy ra thì sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho chi nhánh.
Quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay của chi nhánh còn nhiều sơ hở, sai sót nên không thể giám sát được việc sử dụng vốn vay của khách hàng cũng như không kịp thời thu hồi được tiền hàng để thu nợ.
Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay tồn tại một thực tế là sự trao đổi hợp tác giữa các ngân hàng vẫn còn hạn chế, cạnh tranh nhiều hơn là hợp tác. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Qua quá trình thực tập tại chi nhánh, tôi nhận thấy rằng sự hợp tác giữa chi nhánh và các ngân hàng khác trong lĩnh vực này là chưa cao.
Bên cạnh đó là tình hình trang thiết bị thông tin của chi nhánh còn chưa đầy đủ, khả năng thu thập thông tin khách hàng còn hạn chế.
Chi nhánh cũng còn gặp khó khăn trong việc xác định giá trị tài sản đảm bảo. Thực tế các tài sản đảm bảo mà khách hàng sử dụng để thế chấp đều là nhà cửa, đất đai, các loại máy móc thiết bị. Mức giá của các loại tài sản này thường biến động liên tục gây khó khăn cho việc định giá. Đối với các loại máy móc thiết bị, chi nhánh yêu cầu phải có giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng các loại tài sản này thường được mua đi bán lại nên các loại giấy tờ này thường không đầy đủ.
Nguyên nhân khác:
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt, khiến hầu hết các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của chi nhánh phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và quy luật chọn lọc khắc nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. Cũng như đối với các TCTD khác đây cũng là một vấn đề mà chi nhánh đang phải đối mặt.
Bên cạnh đó là tình hình khó khăn chung của nền tài chính thế giới trong giai đoạn vừa qua cũng ảnh hưởng không nhỏ tới Việt Nam.
Nhưng khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng cho vay giữa các ngân hàng. Ngoài ra đầu tư trực tiếp (FDI) của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng vì FDI vào Việt Nam phần lớn là vốn vay chứ không phải vốn tự có, nên nếu các nhà đầu tư không dàn xếp được khoản vay sẽ khó giải ngân được. Trước những ảnh hưởng đó của cuộc khủng hoảng, tình trạng các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ hoặc rơi vào tình trạng giật gấu và vai. Đó cũng lầ một nguyên nhân dẫn tới các khoản nợ quá hạn của chi nhánh.
Bên cạnh đó chúng ta cũng không thể nhắc đến một nguyên nhân quan trọng khác có thể dẫn tới rủi ro tín dụng của chi nhánh đó chính là sự biến động của lãi suất trong thời gian qua. Trong năm 2007, chúng ta đã chứng kiến một cuộc cạnh tranh khốc liệt của các ngân hàng, cuộc đua tăng lãi suất huy động. Trong thời gian đó, có những lúc lãi suất huy động của ngân hàng có lúc lên tới 20%/năm. Nhưng ngay sau đó dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, như đã phân tích ở trên đã tác động không nhỏ đến lãi suất. Nó đã làm cho lãi suất cho vay của các ngân hàng xuống mức rất thấp. Và chi nhánh cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của sự biến đổi lãi suất này.
Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ quốc hội, Chính phủ, NHNN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên, luật và các văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
Rủi ro chính sách cũng là một rủi ro mà các ngân hàng nói chung cũng như chi nhánh GP Bank Hoàn Kiếm nói riêng phải đối mặt. Có thể thấy rủi ro tín dụng ở nước ta chịu ảnh hưởng rất nhiều của yếu tố chính sách. Sự không ổn định trong chính sách đã khiến cho các doanh nghiệp khó có thể chủ động trong lĩnh vực kinh doanh của mình, qua đó sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của người vay, dẫn tới việc không có khả năng trả nợ gây ra rủi ro tín dụng đối với chi nhánh. Rủi ro do nguyên nhân này thường xảy ra ở các khoản vay: Kinh doanh thương mại nhập hàng về bán trong nước (ô tô, xe máy, gỗ tròn…), Đầu tư, kinh doanh bất động sản. Bên cạnh đó sự thay đổi chính sách cũng tác động trực tiếp tới rủi ro tín dụng của ngân hàng. Thí dụ như trong thời gian mấy tháng đầu năm 2009, gói kích cầu hỗ trợ lãi suất 4%/năm của chính phủ đã tạo ra một nhu cầu vay vốn lớn tại chi nhánh trng thời gian vừa qua. Lượng khách hàng vay tăng lên cao trong khi số lượng cán bộ tín dụng có hạn đã khiến cho các cán bộ của chi nhánh phải tiếp nhận một khối lượng công việc lớn, do đó sơ suất xẩy ra là một điều khó tránh khỏi.
Hiện nay ở VN chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động đã quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật và ngoài ra việc kết nối thông tin với trang Web – CIC của Chi cục tin học ngân hàng còn nhiều trục trặc, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin tại Hà Nội. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng.
III. Thực trạng về tình hình hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hoàn Kiếm
1. Chính sách hạn chế rủi ro tín dụng tại NHTMCP GP Bank Hoàn Kiếm
1.1. Quan điểm của NHTMCP GP Bank Hoàn Kiếm về hạn chế rủi ro tín dụng
Quan điểm đầu tiên của ban lãnh đạo ngân hàng GP Bank là tránh hiện tượng tín dụng tập trung. Như ta đã biết nếu tập trung tín dụng vào một khách hàng, một ngành nghề hay một nhóm lĩnh vực có liên quan tới nhau thì khi rủi ro xẩy ra sẽ gây hậu quả lớn với ngân hàng.
Quan điểm tiếp theo là khi cấp tín dụng cho dự án lớn phải thông qua chế độ tập thể. Với một khoản vay lớn, khi tiến hành thẩm định khoản vay trước khi cho vay, thường chi nhánh sẽ cho một nhóm cán bộ tiến hành thẩm định món vay đó và quyết định có cho vay hay không. Và hoạt động của nhóm thẩm định phải mang tính khách quan.
Cuối cùng là việc áp dụng hạn mức tín dụng và thời hạn cấp tín dụng đối với khách hàng. Các quan điểm này của ban lãnh đạo GP được thể hiện rõ trong các nội dung quản lý rủi ro tín dụng cơ bản của GP.
1.2. Hình thức quản lý rủi ro tín dụng:
Việc quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh được thể hiện qua các quy chế, quyết định, các công văn thông báo... do hội đồng quản trị hoặc tổng giám đốc của GP ban hành. Ngoài ra việc định hướng hoạt động tín dụng trong từng thời kì cũng bao hàm cả việc quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng, định hướng này cũng là một hình thức quản lý rủi ro tín dụng.
2. Các nội dung quản lý rủi ro tín dụng cơ bản tại GP
Chấm điểm khách hàng: hiện nay GP đang tiến hành chấm điểm khách hàng theo hai thang điểm khác nhau là thang điểm dành cho doanh nghiệp và cho cá nhận. Sau khi tiến hành chấm điểm khách hàng chi nhánh sẽ tiến hành phân loại rủi ro cho khách hàng và đánh giá người vay theo bảng sau và từ đó đưa ra hạn mức tín dụng phù hợp cho khách hàng.
Giới hạn tín dụng: trong thông báo của tổng giám đốc GP gửi tới các phòng ban của hội sở, các chi nhánh cấp một và các phòng giao dịch có khẳng định rõ: “Giới hạn tín dụng đối với một khách hàng là tổng mức dư nợ tín dụng tối đa mà các chi nhánh các sở giao dịch của GP chấp nhận cấp cho mỗi khách hàng trong một thời kỳ. Trong đó tổng mức dư nợ tín dụng tối đa bao gồm dư nợ cho vay, số tiền bảo lãnh và một số loại dư nợ tín dụng khác.”
Quy định về thẩm quyền ra quyết định cấp tín dụng: tùy từng thời kỳ khác nhau, tùy theo định hướng hoạt động tín dụng của từng thời kỳ mà tổng giám đốc của GP sẽ ra quyết định quy định về thẩm quyền phê duyệt, quyết định cấp tín dụng của các chi nhánh và sở giao dịch đối với một khoản tín dụng. Thẩm quyền quyết định của cấp tín dụng của một giám đốc chi nhánh không được vượt quá giới hạn tín dụng của mỗi chi nhánh được phép cấp cho một khách hàng.
Quy định về dự phòng rủi ro và quy trình trích lập dự phòng:
GP không chỉ trích lập dự phòng rủi ro với các khoản tín dụng nội bảng mà còn trích lập dự phòng rủi ro với các khoản tín dụng ngoại bảng.
Về đối tượng trích lập dự phòng thì đó là các khoản nợ được xác định từ nhóm 1 đến nhóm 5 và các khoản cam kết ngoại bảng từ nhóm 1 đến 5. Nhưng trong đó cũng ngoại trừ các khoản nợ cho vay bằng vốn tài trợ, ủy thác của tổ chức tín dụng khác mà tổ chức này cam kết chịu toàn bộ trách nhiệm xử lý rủi ro xẩy ra mà Ngân hàng không chịu bất cứ rủi ro nào.
Về tỷ lệ trích lập dự phòng, tỷ lệ này đã được quy định tại quyết định 18 của NHNN năm 2007, và quyết định 493 của NHNN năm 2005.
Số tiền trích lập dự phòng cụ thể tính theo công thức: R=max(0,(A-C)) x r.
Trong đó: A là giá trị khoản nợ từ nhóm 2 đến 5.
C là giá trị tài sản đảm bảo được xác định để trích lập dự phòng rủi ro. C=G x t
Về giá trị của tài sản đảm bảo G và tỷ lệ xác định giá trị của tài sản đảm bảo t được quy định theo quyết định 493 năm 2005 và 18 năm 2007.
Hội đồng xử lý rủi ro tín dụng:
Đây là cơ quan chuyên xử lý rủi ro tín dụng của GP. Hội đồng này do chủ tịch hội đồng quản trị của GP quyết định thành lập. Hội đồng xử lý rủi ro của GP có nhiệm vụ: xem xét việc phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của quý hiện hành do Tổng giám đốc của GP thực hiện; xem xét báo cáo tình hình theo dõi, sao kê và thực hiện thu hồi nợ với các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng; quyết định việc xử lý rủi ro tín dụng của quý hiện hành và phương án thu hồi nợ trong quý tiếp theo đối với các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng, trong đó phải xác định rõ thời gian và những biện pháp để thu hồi.
3. Quy trình tín dụng tại ngân hàng TMCP GP Bank Hoàn Kiếm:
Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng bao gồm tín dụng cá nhân và tín dụng doanh nghiệp. Tại GP Hoàn Kiếm tuy là hai nghiệp vụ khác biệt nhưng hai nghiệp vụ tín dụng này đều trải qua một quy trình tín dụng chung gồm các bước:
Bước 1: Đề xuất cho vay. Khi khách hàng có nhu cầu vay tiền, nộp đơn xin vay và các giấy tờ cần thiết khác thì cán bộ tín dụng có trách nhiệm tìm hiểu những thông tin về khách hàng vay
Bước 2: Thẩm định rủi ro khoản vay, do cán bộ phòng quan hệ khách hàng thực hiện. Đưa ra quyết định có cho vay hay không đồng thời chấm điểm tín dụng dựa trên những thông tin đã thu thập được ở trên.
Bước 3: Tái thẩm định khoản vay, đây là công việc của phòng quản lý tín dụng. Các cán bộ phòng quản lý tín dụng sẽ tiến hành kiểm tra lại báo cáo dựa trên những thông tin mà cán bộ tín dụng cung cấp
Bước 4: Phê duyệt khoản vay và soạn thảo hợp đồng. ở GP, chỉ có giám đốc chi nhánh mới có quyền ra quyết định tín dụng. Ngoài ra, nếu khoản vay vượt quá quyền quyết định tín dụng của giám đốc thì sẽ chuyển lên cho Hội sở quyết định.
Bước 5: Nhập dữ liệu vào hệ thống(Phòng quản lý tín dụng thực hiện) và tiến hành giải ngân(Phòng kế toán và dịch vụ khách hàng thực hiện).
Bước 6: Quản lý giám sát khách hàng vay và khoản vay. Sau khi giải ngân, các cán bộ phòng Quan hệ khách hàng sẽ tiếp tục theo dõi các khoản tín dụng, tìm hiểu những thông tin về khách hàng, kiểm tra việc thực hiện vốn vay của khách hàng, đồng thời từ đó nhận thấy được những dấu hiệu rủi ro để Chi nhánh có thể kịp thời phòng tránh
Bước 7: Điều chỉnh tín dụng, nội dung của sửa đổi tín dụng có thể là cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thay đổi lãi suất... Bước này chỉ xẩy ra khi khách hàng có đơn xin điều chỉnh tín dụng với những lý do sửa đổi có tính hợp lý. Khi đó các càn bộ tín dụng sẽ tiến hành tìm hiểu nguyên nhân khiến khách hàng muốn điều chỉnh tín dụng, nếu hợp lý thì Ngân hàng sẽ đồng ý cho điều chỉnh.
Bước 8: Thu hồi nợ vay. Khi đến hạn, khách hàng trả tiền cho Ngân hàng, cán bộ tín dụng phòng quan hệ khách hàng kết hợp với cán bộ phòng kế toán và dịch vụ khách hàng tiến hành thực hiện thu hồi khoản nợ, thanh lý hợp đồng, giải chấp tài sản đảm bảo.
Bước 9: Xử lý nợ quá hạn. Khi một khoản nợ bi chuyển nợ quá hạn, các cán bộ tín dụng sẽ kết hợp với cán bộ phòng quản lý tín dụng tiếp tục theo dõi và xử lý, và sau đó các cán bộ tín dụng sẽ tiếp tục gửi Thông báo đòi nợ đến cho khách hàng cho tới khi khách hàng hoàn tất nghĩa vụ trả nợ.
2.3.2.3. Tình hình hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng TMCP GP Hoàn Kiếm
2.3.3. Tình hình thực hiện công tác thẩm định dự án cho vay.
Công tác thẩm định dự án cho vay của Chi nhánh trong thời gian qua đã theo đúng các bước quy trình tín dụng của GP đặt ra. Các cán bộ tín dụng của Chi nhánh mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng cũng đã giải quyết được các khoản cho vay nhanh chóng, kịp thời đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
2.3.4. Tình hình thực hiện công tác theo dõi nợ, kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay của đơn vị vay tiền.
Chủ yếu do các cán bộ tín dụng thực hiện. Tuy nhiên cơ chế thông tin qua lại giữa các bộ phận còn nhiều bất cập nên sự tham gia của phòng Quản lý tín dụng còn hạn chế. Thực tế trong năm vừa qua cho thấy, công tác phát hiện rủi ro của Chi nhánh còn mang tính thụ động, chủ yếu là xử lý khi rủi ro đã xuất hiện, khả năng dự báo và phòng ngừa từ xa chưa tốt do sự hạn chế về trình độ, kinh nghiệm của cán bộ; hệ thống thông tin thị trường và xử lý thông tin qua các phân tích, dự báo chưa tốt; công tác kiểm tra sử dụng vốn còn hời hợt, chủ yếu dựa vào báo cáo do khách hàng cung cấp, đặc biệt là các khách hàng ở xa…
4 . Đánh giá hoạt động hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm
2.4.1. Những kết quả đã đạt được:
Trong thời gian qua, mặc dù còn nhiều yếu kém tồn tại nhưng chi nhánh cũng đã có được những thành quả nhất định. Đầu tiên là trong công tác thẩm định. Các cán bộ tín dụng của chi nhánh đã chủ động được trong công tác thẩm định trước khi cho vay theo đúng những quy trình mà ban lãnh đạo GP đã đặt ra. Bên cạnh công tác thẩm cán bộ tín dụng của chi nhánh cũng đã thực hiện phân loại được khách hàng và có những chính sách phù hợp với từng loại khách hàng nhằm hạn chế rủi ro và thu hút khách hàng.
Các cán bộ tín dụng của chi nhánh cũng thể hiện sự năng động của tuổi trẻ khi đã chủ động tìm tới những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả trên địa bàn Hà Nội, nhằm giới thiệu về những sản phẩm của chi nhánh. Và họ cũng đã ký được không ít hợp đồng tín dụng với những doanh nghiệp này.
Và thành công lớn nhất trong công tác hạn chế rủi ro của chi nhánh chính là việc thu hồi nợ quá hạn. Đồng thời như phân tích ở trên chúng ta cũng thấy chi nhánh cũng bắt đầu có thành công trong việc hạn chế các khoản nợ quá hạn của chi nhánh. Tuy nhiên với quy định một phần của khoản nợ quá hạn thì toàn bộ khoản nợ đó sẽ được chuyển sang nợ nhóm dưới nên tuy các khoản nợ quá hạn tuy giảm nhưng nợ không đạt chuẩn của chi nhánh vẫn có xu hướng tăng lên.
2.4.2. Những yếu kém còn tồn tại
Việc quản lý rủi ro của chi nhánh được phân tách cho hai phòng thực hiện đó là Phòng quan hệ khách hàng và Phòng quản lý tín dụng thực tế chỉ đạt về hình thức, nặng về thủ tục giấy tờ chứ chưa đáp ứng được yêu cầu về bản chất.
Chưa phân định rõ trách nhiệm pháp lý của các Phòng tham gia trong hoạt động cấp tín dụng mà trong điều kiện vấn đề hình sự hóa các quan hệ kinh tế vẫn còn tồn tại đã dẫn đến tâm lý e ngại của các cán bộ có liên quan. Phòng Quan hệ khách hàng chỉ đưa ra các đề xuất về cấp tín dụng và thu thập thông tin đưa ra thẩm định sơ bộ về khách hàng còn Phòng Quản lý tín dụng phải có ý kiến đồng ý hay không đồng ý về khoản vay. Tuy nhiên Phòng quản lý tín dụng thường không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, một công việc rất quan trọng khi thẩm định tín dụng, mà chỉ sử dụng những thông tin do phòng quan hệ khách hàng cung cấp trong khi khả năng thu thập thông tin rất khó khăn nên đã xuất hiện tâm lý e ngại quá mức trong thẩm định.
Cơ chế thông tin giữa các Phòng trong hoạt động cấp tín dụng chưa đảm bảo tính liên tục và toàn diện. Sự liên kết giữa các Phòng không chặt chẽ, thiếu kết nối và không phân định rõ trách nhiệm nên khả năng phát hiện, ngăn ngừa rủi ro không cao.
Mặc dù đã chủ động trong công tác thẩm định của mình nhưng đôi khi chi nhánh vẫn phải cấp tín dụng theo kiểu được chỉ định của cấp phê duyệt từ trên xuống mà thiếu đi sự phân tích, thẩm định tín dụng của cán bộ quản lý khoản vay.
2.4.3. Nguyên nhân
Đầu tiên là hiện tượng thông tin không thông suốt, đó là do trang thiết bị công nghệ thông tin của GP nói chung cũng như chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng vẫn còn yếu kém. Trình độ công nghệ thông tin của các cán bộ trong chi nhánh vẫn không thực sự cao vì vậy đôi khi vẫn còn nhiều vướng mắc trong việc sử dụng hệ thống thông tin nội bộ. Bên cạnh đó là việc nguồn thông tin của chi nhánh chủ yếu vẫn là do khách hàng tự cung cấp vẫn còn mang nặng tính chủ quan của người vay.
Vấn đề cơ cấu tổ chức điều hành của chi nhánh cũng là một vấn đề đáng được quan tâm. Do là một chi nhánh mới thành lập quy mô của chi nhánh nhỏ, nên hiện tại chi nhánh chỉ có một phòng quan hệ khách hàng duy nhất cấp cả tín dụng cá nhân lẫn doanh nghiệp, chưa chuyên môn hóa được công tác của các nhân viên tín dụng.
Nhân sự cũng là một nguyên nhân dẫn tới hạn chế trong công tác hạn chế rủi ro của chi nhánh. Hiện tại, với độ tuổi trung bình thấp, đa số các cán bộ tín dụng cũng như cán bộ quản lý rủi ro của chi nhánh đều còn ít kinh nghiệm. Đây là một yếu tố tác động không nhỏ tới rủi ro của chi nhánh. Chất lượng thẩm định dự án cho vay và việc thực hiện các quy trình cho vay của chi nhánh vẫn còn tồn tại một số bất cập. GP đã xây dựng được một hệ thống quy trình tín dụng khá hợp lý, tuy nhiên tại chi nhánh vẫn còn hiện tượng chay theo yêu cầu của khách hàng mà tiến hành cấp tín dụng một cách nhánh chóng không theo đúng quy trình tín dụng mà GP đã đặt ra.
Tiếp đến là việc thiếu thẩm quyền và sự khách quan về các phân tích, nhận định về các khoản vay của Phòng quản lý tín dụng. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất phát từ cơ cấu của GP ngay từ trên hội sở.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG Ở NGÂN HÀNG TMCP GP BANK CHI NHÁNH HOÀN KIẾM
I. Định hướng kinh doanh của ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm
1. Định hướng chung
Phát huy sức mạnh tổng hợp, tập trung lực lượng nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ hiện có, nhất là các dịch vụ tín dụng, công tác thanh tra. Đặt mục tiêu hiệu quả nâng cao kỉ cương, kỉ luật điều hành, chống và ngăn chặn tệ nạn quan lieu, tiêu cực tham nhũng, giữ gìn uy tín trong kinh doanh. Phấn đấu trong những năm tới tiến kịp một số nước trong khu vực về công nghệ, trình độ nhân viên, tính hiệu quả và sự bền vững các dịch vụ kinh doanh đầu tư vốn, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa các hoạt động ngân hàng. Năm 2010 phấn đấu tăng trưởng nguồn vốn từ 15-20% so với năm 2009.
Xử lý linh hoạt cơ chế lãi suất tín dụng, lãi suất huy động vốn để thu hút khách hàng và có lãi suất cạnh tranh nhất.
Nêu cao quan điểm phục vụ tốt khách hàng là tiền đề cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là đối với khách hàng trọng điểm.
2. Định hướng hoạt động tín dụng
Mở rộng các hình thức huy động vốn, đảm bảo chủ động về nguồn vốn trong kinh doanh.
Nâng cao chất lượng công tác tín dụng, giảm thấp nợ quá hạn và nợ có vấn đề.Thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động tín dụng thường xuyên, đặc biệt là các dự án mà ngân hàng cho vay với số lượng vốn lớn.
Gắn tín dụng thương mại với đầu tư phát triển, thúc đẩy quá trình liên kết các thành phần kinh tế nhằm khép kín chu kì kinh doanh.
Chỉnh sửa và bổ sung một số văn bản đã ban hành về quy trình nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo tạo lập một hành lang pháp lý thuận lợi để các cấp ngân hàng triển khai nghiệp vụ cho vay không vấp phải các sai lầm không đáng có.
II. Các giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng đối với ngân hàng TMCP GP Bank chi nhánh Hoàn Kiếm
1. Công tác tổ chức đào tạo cán bộ
Các cán bộ tín dụng là người trực tiếp tham gia vào quá trình tín dụng, vì vậy chi nhánh cần phải hết sức chú trọng đến vấn đề đào tạo những cán bộ có trình độ và đạo đức tốt. Để làm được điều đó, Chi nhánh cần thực hiện tốt những việc sau:
Về công tác tuyển dụng: ngân hàng cần thực hiện tốt các biện pháp sau:
- Đầu tiên là cách thức tuyển dụng rộng rãi. Cách thức này có ưu điểm là có thể lựa chọn được người thích hợp với vị trí đang thiếu trong rất nhiều đơn xin việc; tuy nhiên nó cũng có khuyết điểm là phải bỏ ra không ít chi phí.
- Cách tuyển dụng tiếp theo là tuyển dụng những cán bộ tín dụng đã khẳng định được khả năng của mình tại các tổ chức tín dụng khác. Ưu điểm của việc tuyển chọn này là những ứng cử viên đều là những người có năng lực, kinh nghiệm. Tuy nhiên nhược điểm là không phải lúc nào chi nhánh cũng có thể thu hút được những nhân viên này về với chi nhánh.
- Cách thức tuyển dụng nhân sự tiếp theo chính là việc tiếp cận với các trường đại học trong khu vực. Chi nhánh có thể tìm đến các trường đại học, thông qua các trường này tìm kiếm các sinh viên xuất sắc.
Đào tạo: Quá trình đào tạo của Ngân hàng phải được thường xuyên, liên tục và không chỉ dành cho những nhân viên mới mà còn dành cho tất cả nhân viên đang làm việc.
- Đối với nhân viên mới: Khi đã có quyết định được tuyển dụng từ chi nhánh, nhân viên mới sẽ có ba tháng để thử việc. Trong thời gian này những nhân viên mới sẽ được huấn luyện đào tạo trực tiếp từ trưởng các phòng ban.
- Bên cạnh đó Ngân hàng cũng cần có những kế hoạch và khuyến khích những nhân viên đang làm việc nâng cao trình độ chuyên môn và phát triển nghiệp vụ.
- Chi nhánh cần kiểm tra, theo dõi và đánh giá một cách định kì, thường xuyên trình độ của từng cán bộ tín dụng để lập kế hoạch bồi dưỡng cho những cán bộ chưa nắm vững được các nghiệp vụ hay chuyển họ sang công tác ở các vị trí thích hợp hơn.
Thực hiện các chính sách đãi ngộ, thu hút và giữ chân nhân viên:
- Chế độ tiền lương: có một chế độ tiền lương phù hợp và hợp lý. Ngoài lương cơ bản mỗi nhân viên, chi nhánh nên có chính sách tiền thưởng tuỳ thuộc vào mức độ đóng góp của nhân viên trong việc kinh doanh và phát triển của Ngân hàng.
- Môi trường làm việc: tạo một môi trường làm việc thích hợp và hiệu quả, giúp các nhân viên có sự thoải mái trong khi làm việc…
2. Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin
Muốn cho vay đảm bảo được an toàn, ngân hàng phải nắm đầy đủ các thông tin khách hàng. Chính vì vậy khi tìm hiểu thông tin về khách hàng các cán bộ tín dụng của chi nhánh phải thu thập đầy đủ những thông tin sau đây:
- Đầu tiên là những thông tin mang tính pháp lý như tên khách hàng (hoặc là tên doanh nghiệp); địa chỉ, đăng ký kinh doanh, nghề nghiệp kinh doanh... đối với khách hàng doanh nghiệp; công việc, tình trạng hôn nhân... với khách hàng cá nhân.
- Thông tin về tình hình tài chính bao gồm tình hình vốn, kết quả sản xuất kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ đối với doanh nghiệp; tình trạng công việc, tình hình tài chính của gia đình và mức lương đối vớí khách hàng cá nhân.
- Thông tin liên quan đến dự án xin vay, tài sản đảm bảo của khách hàng và các thông tin khác liên quan đến tính khả thi của dự án cũng như tài sản đảm bảo cho khoản vay nếu rủi ro xẩy ra với dự án.
- Thông tin về môi trường kinh doanh có liên quan đến ngành nghề, lĩnh vực hoạt động của khách hàng. Cán bộ tín dụng còn phải dự đoán tình hình cung cầu, giá cả sản phẩm, tài sản đảm bảo…
- Thông tin về tình hình quan hệ tín dụng của khách hàng với tổ chức tín dụng khác. Tiếp theo đó là một việc cũng không kém phần quan trong đó là thu thập thông tin về khách hàng sau khi cho vay, để có thể kịp thời phát hiện ra những dấu hiệu rủi ro có thể xẩy ra với khoản tín dụng đã cấp.
Tóm lại, Xây dụng tốt hệ thống thông tin và đa dạng hoá các nguồn thông tin thu thập, chi nhánh sẽ có được hệ thống thông tin tương đối đầy đủ và chính xác về sản phẩm dự án, về khách hàng, từ đó nâng cao tính chính xác trong việc chấm điểm các thông tin phi tài chính trong xếp hạng rủi ro tín dụng, do đó góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án cho vay
Để chất lượng thẩm định dự án, phương án đạt chất lượng cần bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm trong nghiệp vụ tín dụng.Chi nhánh nên áp dụng các phương pháp thẩm định hiện đại như áp dụng công nghệ phần mềm về thẩm định dự án, trên cơ sở đó đưa ra các kết quả chính xác và nhanh chóng.
Ngân hàng nên định ra một giới hạn tín dụng hợp lý, nằm trong giới hạn chịu nợ của khách hàng đối với chi nhánh.
Tuy nhiên mỗi khách hàng không chỉ vay tại chi nhánh mà còn có thể vay tại nhiều ngân hàng khác nhau và sự đổ vỡ của bất kỳ khoản vay tại ngân hàng nào cũng sẽ gây ra rủi ro và ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng đối với chi nhánh. Do đó cần kèm theo các điều kiện tín dụng khác, đặc biệt là điều kiện về tổng dư nợ vay và cơ cấu tài chính của khách hàng, nhằm đảm bảo mức độ an toàn trong kinh doanh. Để thực hiện tốt yêu cầu này, chi nhánh cần chú trọng đến phân tích định lượng, lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng qua đánh giá các số liệu, đồng thời kết hợp với phân tích định tính để nhận ra những rủi ro tiềm tàng và khả năng kiểm soát, hạn chế những rủi ro đó của chi nhánh.
Trong thẩm định các dự án đầu tư, tình trạng nâng giá trị thực tế của dự án để được vay nhiều hơn là khá phổ biến. Để hạn chế được tình hình trên, đảm bảo xác định khách quan và chính xác giá trị tài sản bảo đảm.
4. Giải pháp hoàn thiện quy trình cho vay
Về quy trình cấp tín dụng có thể thấy GP Bank nói chung cũng như chi nhánh Hoàn Kiếm đã xây dựng được một quy trình cho vay khá hoàn thiện. Tuy nhiên chi nhánh cũng cần lưu ý những điểm sau trong công tác hoàn thiện quy trình cho vay.
Đối với những khách hàng là doanh nghiệp vay lần đầu hay khách hàng cá nhân vay lớn đều phải thông qua hội đồng tín dụng, qua đó sàng lọc lựa chọn khách hàng có khả năng tài chính, kinh doanh hiệu quả để hạn chế rủi ro.
Về giai đoạn thẩm định khoản tín dụng, các giải pháp hoàn thiện công tác này đã được nêu ở phần trên. Tuy nhiên khi tiến hành thẩm định các cán bộ tín dụng của chi nhánh cũng cần chú ý tới việc: So sánh kết quả xếp hạng khách hàng mà mình đã đưa ra với xếp hạng của các cơ quan xếp hạng bên ngoài (hiện tại là CIC).
Khi khoản tín dụng được duyệt các cán bộ tín dụng của chi nhánh tiến hành soạn thảo hồ sơ tín dụng, hồ sơ này phải mang tính ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý và giải ngân. Đồng thời khi lãnh đạo chi nhánh trước khi quyết định cho vay thì cần phải tập hợp một số thông tin về thị trường, chính sách kinh tế,… để có cái nhìn hệ thống về rủi ro có thể xảy ra trong một bối cảnh cụ thể trước khi ra quyết định.
Việc giám sát sau khi cho vay cũng là công đoạn quan trọng của quy trình tín dụng. Khi tiến hành công đoạn này các cán bộ tín dụng của chi nhánh cần chú ý: Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không? Nêu rõ nguyên nhân gây ra sai lệch.
Giai đoạn thu hồi và xử lý nợ cũng vô cùng quan trọng. Bên cạnh việc rà soát lại hồ sơ, nhân viên ngân hàng cũng phải thường xuyên theo dõi việc trả nợ của khách hàng. Tiến độ trả nợ một phần đánh giá nên tiềm lực của khách hàng, cũng như thái độ cộng tác, nguy cơ rủi ro trong tương lai.
Việc xử lý nợ cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt theo đúng trình tự và thủ tục, nên có một bộ phận hoặc công ty xử lý nợ riêng biệt để tăng thêm tính chuyên môn hoá cao và đạt được hiệu quả như ý muốn.
5. Các giải pháp phân tán rủi ro tín dụng
Các biện pháp phân tán rủi ro gồm có: tránh dồn vốn, liên kết đầu tư và bảo hiểm tín dụng.
5.1. Tránh dồn vốn
Cách phân phối tín dụng tốt nhất đối với một ngân hàng muốn tránh rủi ro là rải tiền của mình vào nhiều khoản đầu tư, nhiều khách hàng khác nhau.Để thực hiện biện pháp này cần quán triệt hai vấn đề:
Cho vay nhiều đối tượng thuộc các loại hình sản xuất khác nhau, có như vậy mới hạn chế được tác động xấu của rủi ro.
Không đầu tư một số tiền lớn cho một khách hàng mà phải san sẻ ra cho nhiều khách hàng cùng một ngành sản xuất kinh doanh.
5.2. Liên kết đầu tư
Liên kết đầu tư nhằm cung cấp những khoản tín dụng lớn mà ngân hàng không đủ khả năng cho vay, khó xác định mức độ rủi ro mạo hiểm. Liên kết đầu tư là các ngân hàng cùng xem xét đánh giá khách hàng và dự án xin vay vốn của khách hàng để đầu tư. Các ngân hàng thỏa thuận quyền hạn và trách nhiệm của mình trong hợp đồng.
5.3. Bảo hiểm tín dụng
Bảo hiểm là biện pháp hết sức quan trọng nhằm đảm bảo phân tán rủi ro. Bảo hiểm tín dụng có các hình thức sau:
Khách hàng vay vốn tín dụng tự tham gia bảo hiểm, mua bảo hiểm tín dụng cho người hành nghề và lĩnh vực mà mình kinh doanh. Vì vậy khoản đầu tư tín dung trong trường hợp này được coi là bảo hiểm gián tiếp.
Ngân hàng tự bảo hiểm cho mình bằng cách thành lập quỹ dự phòng để bù đắp những thiệt hại rủi ro xảy ra mà vẫn đảm bảo được tình hình tài chính của ngân hàng.
6. Giải pháp hoàn thiện chính sách đối với khách hàng
Đây là hình thức quan trọng trong giai đoạn hiện nay đối với các ngân hàng. Qua đó có thể giữ được khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng lớn làm ăn có hiệu quả. Chi nhánh phải thường xuyên theo dõi tình hình diễn biến thị trường tiền tệ, tình hình lãi suất, mức phí của các ngân hàng khác trên địa bàn để đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt, mức phí phù hợp nhằm giữ vững khách hàng truyền thống và thu hút được khách hàng mới có nhiều tiềm năng. Bên cạnh đó chi nhánh cũng cần kết hợp hoạt động tín dụng với một số hoạt động khác của chi nhánh để có thể giảm lãi suất của chi nhánh nhằm thu hút khách hàng.
Chi nhánh cũng cần chủ động và tích cực tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, cho vay dự án theo định hướng phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó chi nhánh cũng cần phát triển hoạt động marketing ngân hàng. Chi nhánh cần xác định phải cũng cấp những dịch vụ tín dụng mà khách hàng cần chứ không phải cũng cấp những dịch vụ tín dụng có sẵn
Chi nhánh cũng cần phải chú ý tới thái độ của nhân viên đối với khách hàng, nhân viên phải có thái độ tốt với khách hàng thì mới có thể giữ được khách hàng ở lại với chi nhánh.
Chi nhánh cũng có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn cho khách hàng đi kèm với dịch vụ tín dụng. Các cán bộ này có thể đưa ra các lời khuyên cho khách hàng giúp khách hàng định hướng phát triển nhằm giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp. Khi thực hiện tốt công tác này, chi nhánh vừa có thể vừa nắm bắt được đầy đủ thông tin về khách hàng vừa có thể giúp đỡ khách hàng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm thiểu rủi ro cho cả khách hàng và từ đó cũng giảm thiểu rủi ro đối với khoản tín dụng của khách hàng đối với ngân hàng.
7. Giải pháp tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ về tín dụng
Thông qua hoạt động kiểm soát có thể phát hiện, ngăn ngừa và chấn chỉnh những sai sót trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng. Bên cạnh đó, hoạt động kiểm soát cũng phát hiện, ngăn chặn những rủi ro đạo đức do cán bộ tín dụng gây ra. Để tăng cường công tác này chúng ta cần chú ý tới những giải pháp:
Các cán bộ làm công tác kiểm tra giám sát này cần phải có đầy đủ các phẩm chất trung thực, ý thức chấp hành pháp luật và sự nhìn nhận khách quan; có kiến thức, hiểu biết chung về pháp luật, về quản trị kinh doanh và các nghiệp vụ ngân hàng…
Cần quy định trách nhiệm đối với cán bộ kiểm soát, có chế độ khuyến khích thưởng phạt để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong hoạt động kiểm soát.
Không ngừng hoàn thiện và đổi mới phương pháp kiểm tra, áp dụng linh hoạt các biện pháp kiểm tra tùy thuộc vào từng thời điểm, từng đối tượng và mục đích của kiểm tra.
8. Các biện pháp về tài sản bảo đảm
Để đảm bảo khả năng thu hồi nợ cho chi nhánh tài sản đảm bảo cần đạt được yêu cầu có giá trị cao, có khả năng chuyển nhượng, đủ điều kiện pháp lý. Đồng thời việc xác định giá trị tài sản bảo đảm cần phải mang tính khách quan.
Cần thường xuyên theo dõi tài sản bảo đảm, nắm bắt thông tin về tài sản bảo đảm, nếu có biến động lớn cần xem xét định lại giá trị tài sản.
Đối với việc nhận tài sản bảo đảm, chi nhánh cũng cần thường xuyên xem xét tính hợp lệ, hợp pháp và tính thị trường của tài sản đó.
Khi nhận thấy tài sản đảm bảo của khách hàng không đủ để đảm bảo cho khoản vay cán bộ tín dụng có thể yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản bảo đảm
9. Một số biện pháp khác
- Đa dạng hoá phương thức cho vay: Đa dạng hóa các đối tượng cho vay, không cho vay tập trung vào một đối tượng, một nhóm đối tượng có liên quan hay một ngành. Chi nhánh cũng có thể đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng của mình với nhiều hình thức tín dụng khác nhau.
- Trích lập dự phòng: đây là giải pháp quan trọng trong việc hạn chế những thiệt hai mà chi nhánh có thể sẽ phải chịu sau khi rủi ro xẩy ra.
- Thành lập bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô: Để thực hiện được điều đó GP Bank nói chung và chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng nên thành lập Bộ phận nghiên cứu, phân tích và dự báo kinh tế vĩ mô, bộ phận này sẽ dựa trên tất cả các kênh thông tin, các nguồn nghiên cứu và dự báo khác để làm định hướng cho hoạt động tín dụng, chiến lược quản lý rủi ro tín dụng, chiến lược khách hàng và chiến lược đầu tư vốn tín dụng của mình.
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan. Trong đó rủi ro tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng việc quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như đã hoàn thành được hơn một nửa.
III. Một số kiến nghị với các cơ quan chức năng
1.Kiến nghị với ngân hàng TMCP GP Bank
Định kỳ yêu cầu các chi nhánh phải cung cấp thông tin về tình hình tín dụng của chi nhánh, xử lý nghiêm khắc những chi nhánh có biểu hiện muốn che giấu thông tin, ảnh hưởng đến sự an toàn của hệ thống Ngân hàng Quân Đội
Thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo về quản lý và điều hành chính sách tín dụng, quản lý rủi ro... cho cán bộ nhân viên thuộc các chi nhánh, để họ có thể nâng cao trình độ, hạn chế những sai sót không đáng có.
Chủ động xây dựng hệ thống thông tin, các chỉ số giúp cảnh báo trước về các nguy cơ có rủi ro cao cần phòng tránh, như xác định được những lĩnh vực, những ngành có tiềm ẩn rủi ro cao. Tăng cường khả năng trao đổi thông tin trong nội bộ các chi nhánh của MB, giữa chi nhánh với hội sở. Tăng cường trao đổi thông tin với các tổ chức tín dụng khác cũng như với CIC.
Đa dạng hoá danh mục đầu tư, đa dạng hoá khách hàng, không tập trung cho vay một loại khách hàng, ngành hàng hay lĩnh vực nào đó mà cần mở rộng đối tượng cho vay nhằm giảm thiểu và phân tán rủi ro.
Nên tổ chức và củng cố lại bộ phận tín dụng theo hướng chuyên môn hoá các khâu trong quy trình tín dụng, không nên cho một cán bộ chuyên trách một khoản vay từ khi bắt đầu đến khi kết thúc để giảm thiểu được rủi ro.
Tổ chức đánh giá, xếp loại tín dụng khách hàng để từ đó có sự chọn lựa giao dịch với các khách hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả nhằm ngăn chặn, giảm thiểu rủi ro ngay từ ban đầu.
Cần phải xây dựng một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng tách riêng về mặt lợi ích với hoạt động tín dụng của mỗi chi nhánh.
2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước và các cấp,ngành có liên quan
Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp với Bộ Tài chính hoàn thiện và khẩn trương ban hành hệ thống kế toán theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Xây dựng các giải pháp hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các Tổ chức tín dụng phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Sớm ban hành quy chế về thương phiếu và chiết khấu thương phiếu cùng các văn bản pháp lý liên quan đến vấn đề này nhằm tạo ra môi trường pháp lý để các khách hàng vay vốn có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc vay vốn.
Chống sự cạnh tranh kém lành mạnh: với sự mở rộng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các ngân hàng thương mại, NHNN đã giải phóng tính sáng tạo và chủ động của các ngân hàng trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên đã xuất hiện tình trạng cạnh tranh kém lành mạnh. Do đó NHNN cần thực hiện thường xuyên công tác thanh tra, kiểm soát dưới nhiều hình thức để kịp thời phát hiện và ngăn chặn những vi phạm tiêu cực trong hoạt động tín dụng, lành mạnh hóa các ngân hàng thương mại, đưa hoạt động tín dụng của ngân hàng vào đúng quỹ đạo luật pháp.
Ứng dụng các nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu (25 nguyên tắc về giám sát ngân hàng của Ủy ban Basel) trong thực thi chức năng của một cơ quan quản lý nhà nước và giám sát thị trường, hoàn thiện phương pháp kiểm soát và kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng và hướng tới các chuẩn mực quốc tế.
3. Kiến nghị với chính phủ
Đầu tiên đó là việc xây dựng một môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định. Trong điều kiện hiện nay khi Việt Nam gia nhập WTO, với sự xuất hiện của các doanh nghiệp nước ngoài môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt, trong điều kiện đó việc đảm bảo các môi trường này ổn định sẽ giúp giảm thiểu rủi ro cho các ngân hàng. Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán và có sự định hướng lâu dài nhằm tạo môi trường kinh tế ổn định.
Khuyến khích hình thành và phát triển các thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán tạo tiền đề thúc đẩy cải tiến và đổi mới công nghệ ngân hàng Việt Nam. Nhà nước cũng nên tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thị trường mua bán nợ, thị trường bảo hiểm tín dụng để có thể giảm thiểu và phân tán rủi ro.
Cơ chế, chính sách của Nhà nước nên được đổi mới theo hướng cho phép ngân hàng áp dụng các thông lệ quốc tế trong việc xác định trước và trích lập dự phòng rủi ro một cách chủ động.
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng là một đòi hỏi cấp bách trong điều kiện hiện nay. Nhà nước phải không ngừng tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sản xuất kinh doanh, tạo hành lang pháp lý vững chắc để các thành phần kinh tế yên tâm bỏ vốn ra đầu tư. Bên cạnh đó là việc xóa bỏ hiện tượng chồng chéo, phủ định lẫn nhau trong các điều khoản luật.
Để việc xử lý thu hồi nợ được nhanh hơn và giảm thiểu chi phí, Chính phủ cần hoàn thiện quy trình xử lý tài sản đảm bảo từ khâu đấu giá đến khâu thi hành án, rút ngắn thời gian giải quyết hồ sơ cũng như khuyến khích giao dịch thoả thuận đúng luật nhằm giúp các ngân hàng nhanh chóng thu hồi được nợ từ các tài sản đảm bảo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26081.doc