-Từ những chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long đều xây dựng một hệ thống, quy trình thẩm định mới cụ thể, phân tiết hơn cập nhật được những phương pháp tiên tiến trên thế giới. Hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ thẩm định tại chi nhánh trong các khu vực, các tỉnh, thành phố. lĩnh vực phát huy vai trò của các cán bộ thẩm định, cho họ tự quyết định chịu trách nhiệm trước những quyết định là chịu trách nhiệm trước những quyêt định khi thẩm định các dự án.
- Xây dựng phương án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là công tác thẩm định phải có một kế hoạch bố trí, sắp xếp, tuyển dụng những nhân viên làm công tác thẩm định tín dụng trong hệ thống . Trước hết là phải đánh giá được những cán bộ này về các mặt trình độ, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, sức khoẻ,. từ đó phân loại, sắp xếp lại những bố trí cho những cán bộ có năng lực, trẻ, có sức khoẻ đi học tập, đào tạo lại và có cơ hội làm việc lâu dài tại Ngân hàng.
Ngân hàng cũng luôn phải chú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Hiện tại thì số lượng những người tốt nghiệp các khoá học về Ngân hàng thì quá nhiều so với nhu cầu tuyển dụng. Nhưng trên thực tế để làm được việc thì còn phải học tập nhiều trong thực tế công việc. Vì vậy, trong tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tuyển dụng tiên tiến đã thực hiện ở một số Ngân hàng là đánh giá nhân viên cơ sở năng lực trí tuệ của chính bản thân nhân viên đó. Nghĩa là, đánh giá cao năng lực làm việc của nhân viên trong tương lai hơn là xem nhân viên đã biết được những gì.
65 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1512 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lợi nhuận thuần
Doanh thu thuần
Tỷ số này phản ánh cứ một đồng doanh thu thuần thìcó bao nhiêu phần trăm lợi nhuận. Có thể sử dụng nó để so sánh với tỷ số của các năm trước hay so sánh với các doanh nghiệp khác.
Tỷ số doanh lợi tổng vốn.
Doanh lợi tổng vốn
=
Lợi nhuận thuần
Tổng tài sản có
Chỉ tiêu lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư đo lường khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
Tỷ số doanh lợi vốn chủ sở hữu.
Doanh lợi vốn chủ sở hữu
=
Lợi nhuận thuần
Vốn cổ phần thường
Tỷ số này đo lường mức lợi nhuậntrên mức đầu tư của các chủ sở hữu.
w Thẩm định dự án trong điều kiện rủi ro:
Trong thực tế các dự án đầu tư luôn tiềm ẩn những rủi ro, những dự kiến khi phân tích dự án để đưa vào tính toán đều mang tính tương lai khó có thể biết trước được đặc biết là những dự án dài trong nhiều năm. Do đó, việc thẩm định tài chính dự án trong điều kiện rủi ro là rất cần thiết đối với Ngân hàng trong quá trình quyết định cho vay. Ngân hàng phải xem xét và phân tích cẩn trọng rủi ro đối vớidự án, từ đó cân nhắc tài chodự án sao cho mức độ rủi ro có thể chấp nhận được.
ð Phương pháp phân tích hoà vốn:
Phân tích hoà vốn là quá trình áp dụng các công cụ để phân tích độ rủi ro tài chính ngắn hạn của dự án thông qua việc xác định điểm hoà vốn, mà điểm này biểu thị sản lượng hoà vốn, doanh thu hoà vốn, côngsuất hay mức hoạt động hoà vốn.
– Sản lượng hoà vốn lý thuyết:
Sản lượng hoà vốn là sản lượng cần thiết mà dự án phải đạt được để hoạt động không lời cũng không lỗ (hoà vốn).
Côngthức:
Trong đó:
BEPQ – Sản lượng hoà vốn lý thuyết của dự án, hiện vật.
FC - Tổng định phí hàng năm của dự án, giá trị.
p - Giá bán 1 đơn vị sản phẩm,giá trị.
v - Biến phí cho 1 đơn vị sản phẩm, giá trị.
– Doanh thu hoà vốn lý thuyết:
Doanh thu hoà vốn là doanh thu cần thiết mà dự án phải đạt được để hoạt động không lời mà cũng không lỗ (hoà vốn).
Côngthức:
Trong đó:
BEPS - Doanh thu hoà vốn lý thuyết, giá trị.
S - Tổng doanh thu trong năm tính toán, giá trị.
– Côngsuất hay mức độ hoạt động hoà vốn lý thuyết:
Công suất hay mức hoạt động hoà vốn là công suất hay mức hoạt động cần thiết màdự án phải đạt được để hoạt động không lời mà cũng không lỗ (hoà vốn).
Côngthức:
Trong đó:
BEPP - Công suất hay mức hoạt động hoà vốn lý thuyết, tính bằng % của công suất thiết kế (100%).
ý nghĩa:
- Công suất hay mức hoạt động hoà vốn cho biế tdự án cần phải hoạt động tới mức sản lượng bao nhiêu để đánh giá là hoà vốn.
- Công suất hay mức hoạt động hoà vốn cho biết dự án cần phải hoạt động tới mức doanh thu bao nhiêu để đánh giá là hoà vốn.
- Từ điều trên cho thấy, nếu công suất hay mức hoạt động hoà vốn của dự án thấp; nghĩa là,dự án chỉ cần hoạt động với mức cố gắng nhỏ cũng đã đạt được kết quả hoà vốn. Để định lượng, khái niệm độ an toàn công suất được sử dụng dưới đây .
Độ an toàn công suất:
Độ an toàn công suất là hiệu số giữa mức một trăm phần trăm công suất thiết kế và mức hoạt động hoà vốn của dự án.
Côngthức:
í nghĩa:
Từ công thức cho thấy công suất hay mức hoạt động hoà vốn càng thấp thì độ an toàn công suất càng cao, độ rủi ro hoạt động càng ít và hiệu quả tài chính của dự án càng lớn.
Giá hoà vốn: là giá bán thấp nhất một đơn vị sản phẩm đểdự án hoạt động không lời mà cũng không lỗ (hoà vốn).
Côngthức:
Trong đó:
BEPPr - Giá bán hoà vốn 1 đơn vị sản phẩm củadự án, giá trị.
SPr - Độ an toàn về giá củadự án, %; được tính theo công thức sau đây :
Ưu điểm của phân tích hoà vốn:
- Cho biết doanh nghiệp cần sản xuất và tiêu thụ bao nhiêu sản phẩm hoặc sau bao nhiêu thời gian thì bù đắp được những phân phí mà doanh nghiệp đã bỏ ra hoặc đạt được lợi nhuận theodự kiến. Từ đó có thể đề ra các biện pháp để tránh rủi ro và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
-trên cơ sở phân tích hoà vốn có thể lựa chọn các phương án sản xuất khác nhau hoặc đưa ra các quyết định có tính chiến lược lâu dài cho doanh nghiệp như có nên tiếp tục sản xuất hay nhận những đơn đặt hàng với giá bán thấp hơn sau khi doanh nghiệp đã đạt được điểm hoà vốn ...
Nhược điểm của phân tích hoà vốn:
- Hầu hết các phân phí trong doanh nghiệp đều rất phức tạp và không thể phân phâna một cách hoàn toàn rành mạch thành phân phí cố định và phân phí biến đổi. Bởi vậy việc phân tích hoà vốn sẽ gặp rất nhiêu khó khăn.
- Phân tích hoà vốn không quan tâm đến giá trị thời gian của tiền tệ. Chẳng hạn, phân phí cố định có thể được phân bổ trước khi tính toán các phân phí biến đổi và trước khi tạo ra thu nhập. Khi phân tích hoà vốn trong những khoảng thời gian ngắn, việc bỏ qua thời gian của tiền thường không ảnh hưởng lớn lắm. Nhưng nếu phân tích trong những khoảng thời gian dài, chi phí và doanh thu phải được thể hiện dưới hình thức giá trị hiện tại. Điều này đòi hỏi phải áp dụng hình thức phân tích độ nhạy với yêu cầu tính chính xác về doanh số hàng bán được khá cao và với mức doanh thu mà tại đó NPV>0.
- mô hình phân tích hoà vốn cơ bản đánh giá theo đường thẳng (tức P và V không đổi), nhưng giá bán và chi phí biến đổi của mỗi đơn vị hàng bán có thể thay đổi theo mức sản xuất.
ð Phương pháp phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy là phương pháp phân tích rủi ro dài hạn, nhằm xác định sự thay đổi khả năng sinh lời củadự án đầu tư khidự tính có sự biến động giá trị đầu vào và đầu ra của dự án trong điều kiện bất định .
– Đầu vào và đầu ra của dự án.
Các thành phần thuộc đầu vào
+ Các khoản mục thuộc biến phí trong đó đặc biệt chú ý:
* Nguyên vật liệu;
* Bán thành phẩm;
* Giá thuê nhân công;
* Hao phí dịch vụ hạ tầng, điện, nước...
+ Các khoản mục thuộc định phí .
+ Chú thích: Các khoản mục thuộc biến phí và định phí được phân tích trong Bảng phân phí giá thành hàng năm của dự án.
Các thành phần thuộc đầu ra
+ Giá tiêu thụ một đơn vị sản phẩm (p);
+ Sản lượng tiêu thụ (Q).
– Tham số biến đổi
+ Giá trị của đầu vào và đầu ra biến đổi, phụ thuộc vào sự thay đổi của hai tham số dưới đây :
* Giá cả
* Số lượng
+ Hai tham số trên thay đổi đồng thời hoặc không đồng thời; có nghĩa là hai biến số cùng thay đổi hoặc chỉ có 1 trong 2 biến số thay đổi.
– Sự thay đổi về khả năng sinh lời
+ Được đo lường bởi sự thay đổi giá trị của các chỉ tiêu NPV, IRR hoặc các chỉ tiêu sinh lời khác.
+ Biên độ dao động của các chỉ tiêu trên được phân tích tương ứng với sự biến thiên giá trị đầu vào và đầu ra ở 3 trạng thái :
* Trạng thái bình thường: như đã dự tính ban đầu;
* Trạng thái bi quan: Tăng ở đầu vào hoặc giảm ở đầu vào;
* Trạng thái lạc quan: Giảm ở đầu vào hoặc tăng ở đầu ra;
+ Trong phân tích rủi ro, trạng thái bi quan cần được quan tâm.
– Nguyên tắc phân tích:
+ Bản chất của phân tích độ nhạy là nhằm xác định bổ sung các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời của dự án đầu tư phụ thuộc vào sự biến đổi của một hoặc một số các thành phần thuộc đầu vào và đầu ra trong điều kiện bất định xảy ra ở tương lai.
+ Kỹ thuật phân tích các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời (NPV,IRR và các chỉ tiêu khác) là tương tự như các phương pháp đó trìnhbày ở các nội dung trên ; nhưng với sự thay đổi về giá trị của phân phí hàng năm hoặc lợi ích hàng năm.
– Phạm vi áp dụng
Phân tích độ nhạy được áp dụng để đánh giá độ rủi ro dài hạn của dự án đầu tư khi dự tính có sự biến động lớn một số thành phần đầu vào quan trọng như: Nguyên vật liệu, bán thành phẩm, giá thuê nhân công... Việc phân tích độ nhạy được thực hiện thuận lợi với việc ứng dụng chương trìnhphần mềm EXCEL trên máy tính .
Ưu điểm của phân tích độ nhạy:
Phân tích độ nhạy là một quy trình rất hữu ích để nhận diện các biến số mà những thay đổi của chúng có thể gây tác động lớn đến NPV của mộtdự án. Nó cho phép người ra quyết định tính toán được những hậu quả của sự ước tính sai lầm và ảnh hưởng của chúng đối với NPV. Bởi vậy quá trình này nhấm mạnh sự cần thiết phải cải tiến phương pháp đánh giá và tiến hành những hoạt động nhằm giảm tính không chắc chắn liên quan đến những biến số chủ yếu.
Nhược điểm của phân tích độ nhạy:
- Các giá trị của biến số được đưa ra dựa trên những phán đoán mang tính chủ quan rất cao. Mặc du người ta có thể biện luận rằng mức độ kỳ vọng được nhận xét là rất tốt, song rõ ràng là cần phải đánh giá các biến số dưới trạng thỏi hai cực cộng thêm phần ước lượng chủ quan để phân tích.
- Sự phân tích khảo sát độ nhạy của NPV với nhiều biến số khác nhau, mỗi biến số tại một thời điểm, bỏ qua mối quan hệ bên trong giữa các biến số khi chúng cùng tác động vào một đối tượng. Chẳng hạn, sự cạnh tranh có thể gây ra sự giảm số lượng đơn vị hàng bán cũng như làm giảm giá bán. Bởi vậy, khi phân tích cần phải điều chỉnh tuỳ theo những dự báo bi quan và lạc quan chỉ ra viễn cảnh mà trong đó mức kết hợp của tất cả các biến số liên quan được dự báo .
3. Đánh giá chất lượng và hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án cho vay tại ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội .
3.1. Kết quả đạt được trong hoạt động thẩm định cho vay ở ngân hành phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long chi nhánh Hà Nôi .
3.1.1 Về quy trình thẩm định .
Trong những năm gần đây, công tác thẩm định các dự án cho vay ở ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội ngày càng được chú trọng bởi hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động đóng vai trò quyết định tới sự sống còn và phát triển của ngân hàng. Để hoạt động này ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực thì chất lượng công tác thẩm định phải được đặt lên hàng đầu, đồng thời các yêu cầu của công tác này cũng đòi hỏi phải khắt khe hơn. Cácdự án đã được cán bộ thẩm định xem xét về nhiều mặt, nhiều khía cạnh, điều đã giúp cho việc đưa ra các kết luận thẩm định dự án được chính xác hơn, việc tài trợ chodự án gặp ít rủi ro hơn. Các chỉ tiêu NPV, IRR… cũng đã được đưa vào tính toán, giúp các quyết định thẩm định đưa ra có cơ sở khoa học
Với quy trình thẩm định như hiện nay, cán bộ thẩm định có thể nhanh chóng phát hiện ra những khoản mục đầu tư không hợp lý, cách tính khấu hao cơ bản không đóng… từ đó đưa ra những đánh giá đúng đắn vềdự án, trả lời yêu cầu xin vay vốn của DN một cách nhanh nhất. Đồng thời,với quy trình này, chi nhánh Hà Nội cũng đang dần đạt được tiếng nói chung với các phương pháp thẩm định khác của hệ thống các ngân hàng ở Việt Nam, tiến tới tiếp cận các phương pháp thẩm định tiên tiến đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới.
3.1.2 . Về con người
Thứ nhất, đội ngũ cán bộ thẩm định năng động, sáng tạo, có trình độ cao và kinh nghiệm thẩm định nhiềudự án lớn là một điểm mạnh của Ngân hàng. Trong quy trình thẩm định , cán bộ tín dụng tự chịu trách nhiệm từ khâu nhận hồ sơ dự án, thẩm định và đưa ra các kiến nghị tài trợ dự án. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ vững chắc, hiểu biết sâu sắc quy trình thẩm định , phải có kiến thức và hiểu biết về nhiều lĩnh vực và phải có độ nhạy cảm đối với các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, công tác quản lý điều hành của ban lãnh đạo chi nhánh cũng đã tạo điều kiện để cán bộ phòng khách hàng DN phát huy thế mạnh này. Những kết quả của Ngân hàng trong những năm qua là bằng chứng xác thực nhất để khẳng định điều này là giúp các doanh nghiệp đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung của tỉnh và cả nước. Trong các năm qua Ngân hàng đã tài trợ cho nhiều dự án lớn, có tính khả thi cao do đó mang lại hiệu quả kinh tế cho cả DN, ngân hàng và Nhà nước, góp phần giải quyết nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, ổn định an ninh trật tự xã hội.
Trên đây là một số kết quả mà chi nhánh MBH Hà Nội đã đạt được trong những năm vừa qua. Tuy nhiên trong công tác thẩm định dự án đầu tư vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục và giải quyết để công tác thẩm định được hoàn thiện hơn.
3.2. Những mặt tồn tại và nguyên nhân của thẩm định dự án .
3.2.1 . Những tồn tại .
- Về nội dung thẩm định : Nội dung thẩm định dự án đầu tư xin vay vốn được phân thành nhiều nội dung khác nhau một cách phân tiết, nhưng trên thực tế thì chỉ có khía cạnh thị trường và khía cạnh tài chính được tập trung nghiên cứu nhỉều, các nội dung còn lại chưa được chú trong nhiều.
Ví dụ như thẩm định khía cạnh kỹ thuật dự án,có thể do giới hạn khả năng am hiểu về xây dựng, hầu hết cán bộ thẩm định chỉ dựa vào thông tin do bên khách hàng cung cấp, có so sánh với các chỉ tiêu chung của ngành,của nhà nước nhưng thực tế chưa kiểm tra xem các chỉ tiêu tính toán của khách hàng chính xác như thế nào. Các nội dung thẩm định ảnh hưởng môi trường, đánh giá tác động kinh tế xã hội còn chung chung, kém thực tế. Hoặc những nội dung về cơ cấu quản lý và thực hiện đầu tưdự án cũng tương đối quan trọng nhưng sự quan tâm của cán bộ thực hiện chưa được thoả đáng.
Xét các khía cạnh được quan tâm nhiều như thẩm định thị trường và thẩm định tài chính dự án đầu tư xin vay vốn thì cũng không hẳn là không có hạn chế.
- Khi thực hiện phân tích thị trườngdự án, việc phân tích yêu cầu cả định tính và định lượng , nhưng nhìn chung hầu hết cán bộ thẩm định của ngân hàng mới chỉ dừng lại ở phân tích định tính và đưa ra những nhận định chung, dễ có ảnh hưởng đến quyết định cho vay vốn.
- Phân tích tài chính có những điểm sai sót. Khi tính toán các chỉ tiêu tài chính , có nhiều chỉ tiêu mà dựa vào việc tổng hợp các chỉ tiêu đó thì kết luận đưa ra mới chính xác. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu như NPV, IRR,T hoàn vốn.. được sử dụng thường xuyên, nhưng những chỉ tiêu khác lại rất ít được đề cập, hoặc nếu có thì chấp nhận theo tính toán sẵn của khách hàng. Việc tính toán ước lượng doanh thu, chi phí , các khoản phát sinh của dự án còn nhiều sai sót, nguyên nhân là có thể chưa thống nhất về phương pháp và nội dung tính toán, ví dụ như lựa chọn chỉ tiêu tính lãi suất chíêt khấu khác nhau, tính toán lãi vay khác nhau có thể ảnh hưởng đến kết quả tính toán cuối cùng.
- Về phương pháp thẩm định :
Ngân hàng MHB đã áp dụng hầu hết các phương pháp thẩm định hiện có vào công tác tổ chức thẩm định của mình, tuy nhiên vẫn có nhiều điểm đáng nói. Theo như thông tin có được trong thời gian thực tập, có nhiều phương pháp chỉ được nêu trong hướng dẫn nhưng hầu như không được sử dụng bởi cán bộ thẩm định , hoặc làm sơ sài qua loa,tập trung chủ yếu vào 3 phương pháp chính là so sánh các chỉ tiêu, phân tích độ nhạy và triệt tiêu rủi ro.Phương pháp so sánh các chỉ tiêu mới chỉ so được xem hồ sơ hợp lệ với các quy định chung hay không, các chỉ tiêu có hiệu quả không so với cácdự án tương tự, nhưng chưa thực sự so chính xác với mức chung của ngành. Phương pháp phân tích độ nhạy mới chỉ dừng lại ở phân tích độ nhạy một chiều,phân tích độ nhạy chiều và phân tích rủi ro thông qua phân tích độ nhạy còn yếu kém. Trong khi đó, việc thẩm định dự án theo phương pháp dự báo, phân tích khả năng dự án thực hiện được trong tương lai là cần thiết thì lại không được chú trọng.
- Về thực hiện quy trình thẩm định :
Về mặt quy trình thì thẩm định dự án đầu tư cần được thực hiện ở cả 3 giai đoạn trước, trong và sau khi cho vay. Tuy nhiên, ngân hàng mới chỉ tập trung vào giai đoạn thẩm định ban đầu còn việc thường xuyên đánh gía, thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp, tình hình sử dụng vốn, tiến độ thực hiện dự án chưa được quan tâm thường xuyên xuyên suốt dự án. Vì vậy nếu có rủi ro ở giai đoạn sau giải ngân thì sẽ gây khó khăn cho cả DN và ngân hàng.
Thứ hai là, công tác tái thẩm định chưa thực sự phát huy được hết vai trò của mình. Bởi tái thẩm định giúp ngân hàng đánh giá lại một lần nữa vềdự án, giúp giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng một cách tối đa, tuy nhiên công tác này vẫn mang nặng tính hình thức.
Đối với các dự án đầu tư cho vay có tài sản thế chấp và thông thường tài sản thế chấp chính là tài sản hình thành từ vốn vay thì việc định kỳ đánh giá tài sản thế chấp được thực hiện đều đặn và hiệu quả đánh giá cũng chưa cao.
Phân tích rủi ro để có các biện pháp phòng ngừa tuy đã được đề cập trong tờ trình thẩm định song cácdự án chủ yếu được phân tích trong trạng thái tĩnh, chưa đánh giá xem xét được đúng sự biến động của các nhân tố liên quan, điều này làm tăng nguy cơ rủi ro trong công tác cho vay. Vì vậy trong quá trình thực hiệndự án, cán bộ thẩm định cần liên tục nắm bắt sự thay đổi của các yếu tố trong dự án, xây dựng lại các phương án phòng ngừa rủi ro để có biện pháp quản lý dòng tiền vay một cách thích hợp.
- Về công tác thu thập thông tin:
Ngân hàng thường tiếp cận các nguồn thông tin về DN vàdự án đầu tư rất hạn chế, thông thường chủ yếu dựa vào báo cáo tài chính và hồ sơ dự án của DN cung cấp. Hiện nay quốc hội và các cơ quan liên quan đang đề xuất đề án công khai, minh bạch các nguồn thông tin, tạo điều kiện cho các đơn vị có nhu cầu tiếp cận một cách dễ dàng. Hy vọng trong thời gian ngắn tới, cán bộ thẩm định sẽ được tiếp cận nguồn thông tin đa phần đều, phục vụ tốt hơn cho công tác thẩm định các dự án.
3.2.2 . Nguyên nhân.
3.2.2.1 . Nguyên nhân khách quan
Trình độ, khả năng lập dự án đầu tư xin vay vốn của chủ đầu tư, các doanh nghiệp chưa cao, hồ sơ thường không đầy đủ và chính xác theo yêu cầu của ngân hàng MHB. Do đó, thời gian để bổ sung và hoàn thiện hồ sơ tốn nhiều thời gian, ảnh hưởng đến thời gian thẩm định chung của toàn dự án
Việc tính toán các chỉ số tài chính chodự án gặp khó khăn khi hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung còn chưa hoàn thiện, khó chọn mức lãi suất chiết khấu hợp lý trong các trường hợp khác nhau.
Hệ thống luật pháp nói chung và luật pháp liên quan đến thống kế, tín dụng ,kiểm toán riêng còn đang trong quá trình bổ sung và hòan thiện, chưa áp dụng chính xác và đồng đều. Các báo cáo tài chính chưa được kiểm toán bắt buộc nên các cán bộ thẩm định sẽ còn mất thời gian hơn để kiểm chứng.
Sự thay đổi cơ chế chính sách của nhà nước và sự biến động phức tạp của thị trường khó dự đoán
Chính sách đào tạo tại các trường chuyên nghiệp chưa thực sự đi sát với yêu cầu của ngân hàng, đội ngũ nhân viên mới ra trường được tuyển dụng không có nhiều kinh nghiệm làm việc do quá trình đào tạo quá chú trọng vào mặt lý thuyết đã gây ra không ít khó khăn cho ngân hàng như tiến hành tổ chức đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ, kèm cặp trong quá trình làm việc…Thứ hai là, phương pháp thẩm định tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn bởi nhiều biến động ngoàidự kiến của ngân hàng.
- Ngân hàng đã tăng cường các hình thức quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng nhằm quảng bá thêm về ngân hàng, thu hút thêm nhiều dự án xin vay vốn nhưng do khách hàng chưa đáp ứng được các yêu cầu của công tác cho vay vì vậy hiệu quả của việc thực hiện tài trợ cácdự án này còn ở mức khiêm tốn.
3.2.2.2 . Những nguyên nhân chủ quan
Ngoài những nguyên nhân khách quan đã được nêu ở trên, kèm theo những hạn chế về từng mảng công tác thẩm định dự án, ví dụ như nguyên nhân về cán bộ thẩm định , nội dung thẩm định , thông tin phục vụ công tác thẩm định … hay do chính sách đào tạo và tuyển dụng của Ngân hàng chưa thực sự hoàn thiện. Phương pháp thẩm định thống nhất hoàn chỉnh nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn
CHƯƠNG II :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN VAY VỐN TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN NHÀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
1. Định hướng cho vay của ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội và sự cần thiết nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án cho vay.
Thành công lớn nhất, bao trùm trong suốt quá trình đổi mới hoạt động của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội trong 10 năm qua là đã thay đổi hẳn phương pháp quản lý, tập quán kinh doanh và tư duy kinh tế. Do Ngân hàng đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu kinh doanh của mình, duy trì được sự ổn định và tăng trưởng, nâng cao uy tín với khách hàng, với các đối tác trong và ngoài nước. Kết quả đã có được là nhờ sự kết hợp nỗ lực của các cấp lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ công nhân viên của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội, sự hỗ trợ của Chính phủ, Ngânhàng nhà nước, các Bộ ngành, chính quyền địa phương và các tổ chức quốc tế (hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng - tài chính ).
Tuy nhiên, từ nay đến những thập kỷ tới, hoạt động Ngân hàng ở nước ta phải được tiếp tục đổi mới sâu sắc và toàn diện theo đường lối của Đảng để thích nghi với cơ chế thị trường, phục vụ và thúc đẩy phát triển nền kinh tế đất nước, tăng khả năng hội nhập với quốc tế. Như vậy, nhiệm vụ của mỗi NHTM trong những năm tới là phải tự tìm cách tạo dựng và phatý triển thế mạnh của mình. Ngân hàng nào không tự đổi mạnh mẽ sẽ không có thời cơ để tồn tại và phát triển.
Nhận thức rõ được điều đó, Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội, đã nghiên cứu, xây dựng cho mình một chiến lược phát triển lâu dài (cụ thể từ nay đến năm 2015) trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và khó khăn của bối cảnh kinh tế xã hội và tình hình quốc tế, từ kết quả của 12 năm đổi mới và những bài học kinh nghiệm nhằm phù hợp với quá trình phát triển kinh tế của đất nước và khả năng nội lực của ngân hàng. Chiến lược này sẽ là kim chỉ nanm cho mọi hoạt động, thông tin và phối hợp hành động trong ngân hàng.
Mục tiêu chiến lược phát triển của Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội dến năm 2015 là : phấn đấu trở thành một ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, hoạt động đa năng, kết hợp bán buôn bán lẻ, mở rộng các dịch vụ ngân hàng, phục vụ phát triển kinh tế trong nước và trở thành một ngân hàng quốc tế khu vực.
1.1. Định hướng hoạt động cho vay .
Duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hữu hiệu, có khả năng cạnh tranh cao, nhằm thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của dân cư và các doanh nghiệp, củng cố uy tín cao ở trong và ngoài nước để tranh thủ tiếp nhận được nguồn vốn uỷ thác của Nhà nước và các tổ chức nước ngoài có như vậy ngân hàng mới đầu tư vào nhữngdự án lớn, cho các ngành và các tổ chức kinh tế mũi nhọn của Nhà nước.
Hoạt động tín dụng bảo đảm tăng trưởng, an toàn, hiệu quả.
Dành lượng vốn lớn để cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh, các tập đoàn kinh tế của nhà nước, các dự án có tầm cỡ quốc gia và lĩn vực sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Mở rộng tín dụng đi liền với củng cố và nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng, đảm bảo khả năng thu hồi vốn giảm tỉ lệ nợ quá hạn, nợ khó đòi xuống tỷ lệ cho phép.
1.2. Định hướng của công tác thẩm định
Thẩm định tài chính dự án đầu tư với tư cách là một hoạt động có khâu tố chức điều hành, quy trình riêng cũng như đội ngũ cán bộ thực hiện nên trước khi đưa ra các giải pháp hoàn thiện nó cũng cần phải có định hướng rõ ràng. Dưới giác độ ngân hàng (cụ thể là Ngân hàng MHB chi nhánh Hà Nội nhằm phát huy tối đa các lợi thế tiềm năng của ngân hàng, đạt được mục tiêu đề ra trong hoạt động đầu tư tín dụng cũng như chiến lược phát triển chung) nên có những định hướng sau:
Thẩm định tài chính dự án đầu tư phải đứng trên quan điểm của người cho vay phải đứng trên quan điểm của người cho vay để xem xét tính khả thi, hiệu quả của dự án, nhận thức rõ lợi ích của ngân hàng gắn bó chặt chễ lợi ích của dự án.
Phát huy từ tình hình thực tiễn trong ngành và phục vụ cho hoạt động cho vay của ngân hàng trong từng giai đoạn.
Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư phải được quán triệt trong toàn hệ thống không chỉ các cán bộ trực tiếp thực hiện thẩm định mà có cả các bộ phận khác với những mức độ yêu cầu cho công việc khác nhau.
Tẩm định tài chính củadự án phải được tiến hành thường xuyên liên tục với tất cả các dự án xin vay với cả 3 giai đoạn trước và trong khi cho vay.
Không ngừng đổi mới tìm tòi, khai thác thế mạnh của mình. Song đã rất cố gắng ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long chi nhánh Hà Nội cũng không thể không có những yếu điểm. Qua phân tích đánh giá trên, chúng ta càng nhận ra công tác thẩm định có một vai trò quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của Ngân hàng. Để tránh tình trạng vốn đóng băng hoặc sử dụng vốn không có hiệu quả thì chất lượng tín dụng lại càng cần có những giải pháp hữu hiệu hơn. Những hạn chế trong công tác thảm định tại Ngân hàng vẫn còn những tồn tại, nhưng đã là cả một sự cố gắng của tập thể cán bộ, nhân viên tại Ngân hàng để khắc phục những tồn tại trên tôi xin đưa ra những giải pháp trước mắt, để loại bỏ những nguyên nhân tôi xin đưa ra những kiến nghị.
2. Một số giải pháp về công tác thẩm định tại ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Nâng cao chất lượng công tác thẩm định là nhằm đi tới mục tiêu của việc thẩm định . Ngân hàng thẩm định dự án đầu tư nhằm:
Rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi, hiẹu quả kinh tế khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xảy ra củadự án để quyết định cho vay hoặc từ chối.
- Tham gia góp ý cho chủ đầu tư về những sai sót trong công tác lậpdự án để có phương án khắc phục. Chỉ ra những điều còn chưa đóng, chưa thực hiện được của dự án.
- Xác định số vốn tài trợ, thời gian tài trợ mức thu hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Những giải pháp trước mắt sẽ giúp cho Ngân hàng đạt được những mục tiêu trong công tác thẩm định trong thời gian ngắn, mang tính chất giải pháp tình thế.
2.1. Giải pháp khi thực hiện thẩm định tài chính
Như trên đã trình bày, các chỉ số tài chính của doanh nghiệp là rất quan trọng đối với Ngân hàng, nhưng chúng vẫn bị coi nhẹ trong công tcá thẩm định . Các cán bộ thẩm định xem nhẹ khi các chỉ số này không đạt yêu cầu sẽ dẫn đến hậu quả tăng rủi ro cho nguồn vốn tài trợ của Ngân hàng.
Hệ số tài trợ, khả năng thanh toán, … là một trong những chỉ số tài chính quan trọng, khi xem xét nhất thiết phải nghĩ tới mục tiêu của công tác thẩm định và nhất thiết loại bỏ các hệ số tài trợ, khả năng thanh toán < 0,5.
Khi các doanh nghiệp làm ăn ngày càng có quy củ thì họ sẽ có nhữngdự án đầu tư dài hạn. Cho nên khi thẩm định cần tích cực chú trọng tới các chỉ số Ngân hàng, IRR, BCV nhất là chỉ số NPV vì:
+Phương pháp tính chỉ số này đơn giản là ít gây ra phức tạp hơn phương pháp tỷ suất sinh lời vốn nội bộ (IRR).
+ Đối với cácdự án có quy mô đầu tư lớn thì chỉ số này tỏ ra đáng tin cậy hơn.
+ phương pháp này sẽ đảm bảo tăng tối đa tài sản của công ty.
Song dể sử dụng phương pháp NPV cần lưu ý một số điểm sau:
* Phải lập được dòng tiền phát sinh hàng năm là âm hoặc dương ( chi hoặc thu) chodự án. Khi đã cần phải tính được doanh thu và chi phí hàng năm của dự án dựa trên công suất thực tế của năm đãcùng với mức giá ước tính, cuối cùng là quy tấ cả số tiền phát sinh trong cùng một kỳ vào cuối kỳ để đánh dấu các mốc cho việc tính toán.
* Phải xác định được tỷ suất chiết khấu r hợp lý cho từng dự án.
Để sử dụng được chỉ tiêu NPV thì việc xác định r sao cho phù hợp là rất quan trọng. Do vậy để tính toán chính xác r cần phải xem xét sự ảnh hưởng của tất cả các nhân tố cơ bản sau:
Tỷ lệ lạm phát hàng năm
- Tỷ lệ gia tăng do sử dụng phương án này mà không sử dụng phương án khác dựa trên việc xác định chi phí cơ hội. Tỷ lệ gia tăng này xuất hiện khi có các phương án loại trừ. Nghĩa là chủ đầu tư có nhiều cơ hội để tiến hành công cuộc đầu tư nhưng chỉ được chọn mọt trong số các cơ hội đó.
- Tỷ lệ tăng hoặc giảm do việc thu được hoặc mất đi một lượng giá trị do các yếu tố rủi ro hoặc may mắn. Đây là yếu tố đã quy định việc xác định r cho từng dự án thuộc từng lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kihn doanh khác nhau.
Thế nhưng hệ thống chỉ tiêu dù sao cũng là phương diện để đánh giá, phân tích mang lại. Việc đánh giá, kết luận cần lưu ý những điểm sau:
+ Mỗi chỉ tiêu từ hệ thống chỉ tiêu được xem xét trong dự án sẽ được so sánh với các chỉ tiêu chuẩn chấp nhận dự án nhất định . NPV > 0; IRR >IRR(đm)
Khi có nhiều dự án loại trừ nhau thì chọn dự án có IRR(max), NPV (max)
Lựa chọn dự án đầu tư của doanh nghiệp phải kết hợp với thẩm định kết quả hoạt động sản xuất và tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Hoặc là một tiêu chuẩn qua so sánh với chỉ tiêu khác (IRR củadự án so với lãi suất Ngân hàng…), có thể là một chỉ tiêu do thông kê kinh nghiệm thực tế, do thông lệ quốc tế. Lưu ý là tiêu chuẩn chấp nhậndự án ở đây cũng phụ thuộc vào điều kiện không gian cụ thể có thể thay đổi khi không gian thời gian phân tích đã thay đổi.
+Cần nhận thức rõ ràng cách giá, kết luận dự án còn phụ thuộc vào chủ thể thẩm định . Chủ dự án khách hàng thì thường ưu tiên cho chỉ tiêu sinh lời của dự án nhưng đối với Ngân hàng thì đôi khi không chú trọng mặt này mà ưu tiên chỉ tiêu thời gian có thể trả nợ củadự án hoặc kết cấu tài chính của chủdự án để giảm rủi ro do mất vốn.
+ Về thời gian hoạt đọng: Đối vớidự án mà trong đã không nêu rõ thời gian hoạt động của dự án thì nên chọn khoảng thời gian khi hết khấu hao phần thiết bị chính để tính toán và phân tích.
+ Nội dung bảng tính : Nên tính thời gian dự án hoạt động không nên chỉ tính trong một vài năm.
+Độ nhạy của dự án : Ngân hàng nên chú trọng đưa các chỉ tiêu độ nhạy của dự án vào tính toán để xem xét các biến động của các chỉ tiêu IRR, NPV trong điều kiện biến dổi của các chỉ tiêu khác như tỷ giá, giá cả, lãi suất chiết khấu.
Về chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận / doanh thu khi xem xét chỉ tiêu này phải dựa vaò chu kỳ sản phẩm để dự đoán khả năng sinh lời trong thời gian tới bởi vì có thể hiện tại doanh nghiệp đang sinh lời nhưng trong tương lai lại không, trong trường hợp sản phảm đi vào giai đoạn cuối.
Trong trường hợp có các dự án của các công ty liên doanh lập ra và trình Ngân hàng xem xét thì trong cách lập của họ có những khác biệt so với các dự án do các doanh nghiệp trong nước lập. Cần thiết Ngân hàng cần cập nhật và áp dụng các phương pháp kỹ thuật thẩm định tài chính hiện đại của các Ngân hàng tiên tiến trên thế giới và áp dụng một cách có sáng tạo và tình hình thực tế của nước ta vào hệ thống Ngân hàng. Các phương pháp thẩm định đều có trình bày rất kỹ lưỡng trong nhiều tài liệu khác nhau nhưng vấn đề là sử dụng và ứng dụng thực tế vào công việc một cách có hiệu quả.
Để Ngân hàng thực hiện tốt giải pháp này thời gian tới các cán bộ tín dụng cần nỗ lực trong việc tự học, ban giám đốc Ngân hàng cần đưa những cán bộ thẩm định tham gia các khoá học ngắn hạn tại các trung tâm đào tạo về ngành Ngân hàng.
2.2. Giải pháp về thông tin
Cơ sở của quá trình thẩm định dự án đầu tư là thông tin, số liệu về đơn vị,dự án và các tài liệu khác như : Luật, văn bản dưới luật, văn bản thuế … Tuy nhiên trên thực tế các thông tin, số liệu đều do người lậpdự án cung cấp và các số liệu này có đáng tin cậy hay không ?
Ngoài ra những hồ sơ, tài liệu mà Ngân hàng nhận được từ khách hàng vay vốn cung cấp, Ngân hàng cần pháng vấn trực tiếp một số người chủ chốt liên quan đến dự án như: Giám đốc, kế toán trưởng, cán bộ lập dự án. Đây là một “nghệ thuật”phỏng vấn mà mỗi cán bộ thẩm dịnh phải tự tạo cho mình trong thời gian làm việc. Mục đích của cuộc phỏng vấn này là kiểm tra tư cách của những người đứng đầu doanh nghiệp, kiểm tra về ý tưởng của họ, vềdự án, kiểm tra về trình độ hiểu biết của họ về dự án,… không nên chỉ phỏng vấn mà cần tiếp xúc trực tiếp với những người làm việc tại doanh nghiệp để nám rõ tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ.
Sử dụng triệt để các nguồn thông tin về doanh nghiệp do phòng Phòng ngừa rủi ro cung cấp. Đây là nơi lưu giữ tất cả những thông tin cần thiết, cơ bản về doanh nghiệp nó cho phép đánh giá sơ bộ khách hàng về các mặt; Lịch sử hình thành phát triển, tình hình tài chính , mức độ tín nhiệm.
Điều tra thông tin từ các đơn vị có tham gia quan hệ với với doanh nghiệp: kiểm tra khách hàng của doanh nghiệp để xem sản phẩm của doanh nghiệp có đáng tin cậy hay không? Có đảm bảo được sự phát triển trong tương lai hay không? phương thức thanh toán mà doanh nghiệp đang sử dụng, đây là khâu trực tiếp để đánh giá hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Ngoài ra phải điều tra các nhà cung cấp đánh giá uy tín của doanh nghiệp trong việc trả nợ. Một cơ quan cần xem xét đó là cơ quan thuế, cơ quan thúê là cơ quan nhà nước trực tiếp theo dõi tài chính của doanh nghiệp họ cung cấp cho Ngân hàng những số liệu tài chính đáng tin cậy nhất cho doanh nghiệp về bảng cân đối kế toán, doanh thu, lợi nhuận sau thuế,
Một trong những biện pháp người hay làm trong gần đây khi kiểm tra chế độ kế toán tài chính trong doanh nghiệp đó là kiểm toán. Ngân hàng có thể thuê những công ty kiểm toán để kiểm tra tính chính xác và trung thực của các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp xin vay vốn. Do vậy cần thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc.Trước mắt, tài liệu cân đối kế toán và kết quả tài chính của doanh nghiệp phải có kiểm toán.
Để đánh giá được tính hợp lý của dự án có phù hợp với yêu cầu chung của xã hội, có nhằm trong kế hoạch phát triển của ngành địa phương. Các cán bộ thẩm định phải tham khảo thêm các tài liệu về chủ trương chính sách của Nhà nước, Chính phủ các Bộ ngành có liên quan đến dự án. Mục tiêu của giải pháp là xác định tính đúng đắn trong việc thẩm định những cơ sở pháp lý của dự án.
Một nguồn thông tin quý giá mà chính Ngân hàng có thể tự khai thác đó là tình hình dư nợ trên các tài khoản vãng lai của doanh nghiệp tại Ngân hàng . Nếu trên tài khoản của doanh nghiệp luôn dư có ở mức cao chứng tỏ doanh nghiệp luôn ổn định về tài về chính , thu phân được cân đối và ngược lại, cần theo dõi sát sao về các chỉ tiêu tài chính bởi lẽ năng lực tài chính và khả năng tài chính của doanh nghịêp là không đáng tin cậy. Từ đó Ngân hàng cần có những nhận xét về doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Ngân hàng để đánh giá uy tín của họ trong quan hệ tín dụng và tiến hành sắp xếp các doanh nghiệp theo thứ tự “an toàn trong nguồn vốn đầu tư”nghĩa là doanh nghiệp nào có khả năng an toàn cao khi bỏ vốn đầu tư thì được xếp hàng ưu tiên và ngược lại.
2.3. Giải pháp về hỗ trợ thẩm định
Như phần trước đã nói, thẩm định là công tác vất vả đối với các cán bộ thẩm định , những hỗ trợ cho công tác này sẽ góp phần nâng cao chất lượng thẩm định .
Trang bị những thiết bị hiện đại trong công tác thẩm định và các cán bộ thẩm định . Trước mắt là trang bị những máy vi tính hiện đại cho các cán bộ thẩm định . Những máy này nhất thiết phải được nối mạng trong toàn hệ thống ngân hàng MHB chi nhánh Hà Nội , bởi lẽ họ có thể chủ động tra cứu về khách hàng về thông tin liên quan đến khách hàng và dự án không cần qua phòng thông tin điện tử. Thứ hai họ có thể lưu trữ tình hình thực hiện dự án khi dự án trong quá trình hoạt động. Thứ ba, máy tính sẽ hỗ trợ các cán bộ trong quá trính lập tờ trình dự án đầu tư, tính toán các chỉ số một cách đơn giản, dòng để lập các tờ trình có độ chính xác về mặt chuyên môn cao hơn.
Đây không phải là việc mới mẻ gì, nhưng hiện tại Ngân hàng vẫn chưa làm được. Trong tương lai không xa khi hệ thống ngân hàng đổi mới do đòi hỏi của nền kinh tế thì lúc đó ngân hàng sẽ trở nên lạc hậu mà ngành không được phép như vậy. Để làm được điều này các NHTM khác, Ngân hàng đầu tư máy móc và ứng dụng các phần mềm tiên tiến hiện có, đang được Ngân hàng thế giới hỗ trợ thông qua dự án tài trợ nhằm hiện đại hóa mạng lưới Ngân hàng Việt Nam.
- Hỗ trợ về vật chất, việc này là rất thiết thực đối với mỗi cán bộ thẩm định . Việc hỗ trợ này có tác dụng làm tang tinh thần trách nhiệm của cá cán bộ thẩm định đối với công việc của mình, có nhiều kinh phí trong việc đi thực tế tại các doanh nghiệp, phân phí tìm hiểu thông tin, …đi liền với hỗ trợ thì cũng gắn trách nhiệm của các cán bộ thẩm định vào cácdự án của mình thẩm định . Thực hiện điều này có thể bằng nhiều cách, cho phép các cán bộ thẩm định được hưởng một khoảng kinh phí khi tiến hành thẩm định nhữngdự án khả thi, các khoản này có thể là cố định . Một phương án khác có thể là trích phần trăm từ trị giá hợp đồng khi món vay được thực hiện. Những hỗ trợ này có thể làm tăng phân phí của Ngân hàng, nhưng điều này không những cần thiết trong trước mắt xét về lâu dài là động lực thúc đẩy cho Ngân hàng phát triển.
- Ngoài những hỗ trợ về vật chất, Ngân hàng cũng không nên xem nhẹ sự hỗ trợ về mặt tinh thần. Cán bộ lãnh đạo cần có những kiến nghị kịp thời góp ý cho quá trình thẩm định được tốt hơn. Thường xuyên quan tâm, nhận xét, tiếp thu những ý kiến của cán bộ thẩm định . ngoài ra, cần ghi nhận những đóng góp của họ trong những dự án cũng như trong quá trình để có thể cân nhắc, bổ nhiệm họ vào những vị trí phù hợp với năng lực và trình độ.
2.4 .Giải pháp về con người cho quy trình thẩm định .
Về đội ngũ cán bộ thẩm định
Thứ nhất : đội ngũ cán bộ thẩm định năng động, sáng tạo, có trình độ cao và kinh nghiệm thẩm định nhiều dự án lớn là một điểm mạnh của Ngân hàng. Trong quy trình thẩm định , cán bộ tín dụng tự chịu trách nhiệm từ khâu nhận hồ sơ dự án, thẩm định và đưa ra các kiến nghị tài trợ dự án. Điều đó đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ vững chắc, hiểu biết sâu sắc quy trình thẩm định , phải có kiến thức và hiểu biết về nhiều lĩnh vực và phải có độ nhạy cảm đối với các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, công tác quản lý điều hành của ban lãnh đạo phân nhánh cũng đã tạo điều kiện để cán bộ phòng khách hàng DN phát huy thế mạnh này. Những kết quả của Ngân hàng trong những năm qua là bằng chứng xác thực nhất để khẳng định điều này là giúp các doanh nghiệp đổi mới dây chuyền công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đóng góp cho sự phát triển kinh tế chung của tỉnh và cả nước. Trong các năm qua Ngân hàng đã tài trợ cho nhiều dự án lớn, có tính khả thi cao do đã mang lại hiệu quả kinh tế cho cả DN, ngân hàng và Nhà nước, góp phần giải quyết nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, ổn định an ninh trật tự xã hội.
Có thể nói, ngân hàng MHB có nhiều cán bộ trẻ, năng động, nhiệt tình, ham học hỏi nhưng hạn chế lớn nhất ở họ là thiếu kinh nghiệm thực tế. Hầu hết là sinh viên chuyên nghành kinh tế, các kiến thức am hiểu mảng kỹ thuật của cán bộ thẩm định còn hạn chế. Điều này là điều khó khăn cho các cán bộ trong khi phân tích dự án do mảng phân tích kỹ thuật giữ vị trí tương đối quan trọng. Khi công tác tại ngân hàng MHB, có nhiều thời điểm ngân hàng phải tổ chức đào tạo lại chuyên môn ngân hàng cho các cán bộ , do trong quá trình học tập và thực tế công tác có nhiều điểm khác biệt nhau, điều này cũng tốn nhiều thời gian,tiếp thu nghiệp vụ mới có thể gây bỡ ngỡ cho cán bộ trong thời gian đầu, ảnh hưởng đến công tác thẩm định . Số lượng cán bộ thực hiện thẩm định còn thiếu nhiều, nói chung là ít so vơi cán bộ giao dịch ngân hàng khác, cần được bổ sung tuyển dụng ngay khi có nhu cầu.
Trên đây là một số kết quả mà phân nhánh MBH Hà Nội đã đạt được trong những năm vừa qua. Tuy nhiên trong công tác thẩm định dự án đầu tư vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục và giải quyết để công tác thẩm định được hoàn thiện hơn.
3. Những kiến nghị
3.1 Kiến nghị với chính phủ
Chính phủ cần có những Nghị định nhằm đưa công tác kiểm toán phát huy hơn nữa vai trò của mình. Bên cạnh đãcũng phải có những chỉ thị cụ thể đối với Bộ tài chính nhằm làm cho các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước.
Những kiến nghị này có những tác dụng: Trước hết là làm tăng tính trung thực của các doanh nghiệp trong nộp thuế cho ngân sách Nhà nước. Sau đó sẽ hình thành thói quen trong hoạt động của doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình cổ phần hoá nhất là đối với các DNNN. Sau cùng là giúp Ngân hàng có được những số liệu chính xác về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp, làm cơ sở thẩm định doanh nghiệp nói riêng và thẩm định toàn bộ dự án nói chung.
Đối với các DNNN Chính phủ cần phải giảm bớt những “giúp đỡ “để các doanh nghiệp này từng bước làm chủ sản xuất kinh doanh, chịu những quy luật cạnh tranh của thị trường. Trước mắt có thể là những khó khăn nhưng sau đó nó sẽ đứng vững và các hoạt động có hiệu qủa hơn. Những “giúp đỡ”cần được giảm đầu tiên là trong các quan hệ tín dụng đối với các NHTM quốc doanh. Từ trước nghị định 178/NĐ- CP/1999, chủ trương của Chính phủ vẫn tách rõ ra doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp phi quốc doanh trong hoạt động tín dụng. Cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn không cần thế chấp, điều này là hoàn toàn bất hợp lý bởi lẽ, khi không phaỉ thế chấp tài sản thì tổng số tiền vay tại các Ngân hàng có thể sẽ lớn hơn nhiều so với nguồn vốn kinh doanh hiệ có. Điều này hiển nhiên cho rằng hệ số tài trợ không có giá trị trong công tác thẩm định . Hậu quả là doanh nghiệp sẽ “phồng to”hơn so với năng lực thực tế của mình, nếu như có xảy ra rủi ro trong quá trình kinh doanh (Vấn đề này là không tránh khỏi ) thì doanh nghiệp không có đủ năng lực để tài trợ.
Như vậy DNNN và NHTM quốc doanh đều là vốn của Nhà nước thì cần tách bạch rành rọt để cho mỗi chủ thể tự chủ trách nhiệm lấy nguồn vốn của mình và hoạt động có hiệu quả hơn. Tình trạng bỏ “túi lành”sang “túi thủng”như hiện nay là bất cập. Công tác thẩm định không có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp này.
Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ tồn tại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp thực sự cần thiết cho an sinh, tạo điều kiện cho mở rộng quy mô tín dụng. Cổ phần hoá DNNN là phương thức sắp xếp lại doanh nghiệp huy động được các nguồn lực từ nhiều thành phần kinh tế khác. Cổ phần hoá là một trong những biện pháp quan trọng để Doanh nghiệp có cơ hội tăng vốn tự có từ đó, doanh nghiệp có thể tiép cận với những khoản tín dụng đảm báo điều kiện đặt ra của NH về vốn tự có.
Hàng năm chính phủ đều có những kế hoạch đầu tư phát triển cho từng ngành thực hiện không đồng nhất : có hiẹn tượng cácdự án của ngành thì thừa, các dự án của vùng thì thiếu. Chính những mâu thuẫn này làm cho công tác thẩm định tại Ngân hàng trở nên khó khăn hơn. Bởi vì khi thẩm định phương diện thị trường thì nhu cầu những sản phẩm hàng hoá củadự án tại vùng thì thiếu, nhưng xét trên toàn ngành thì tổng sản lượng lại thừa. Hay tình trạng các dự án cùng loại cùng một lúc thực hiện, trước khi thực hiện thì tổng cung là nhỏ hơn tổng cầu, nhưng nhiều dự án đi vào hoạt động thì tổng cầu nhỏ hơn tổng cung. Những khó khăn này Ngân hàng khó mà lường hết được trong công tác thẩm định , nhưng mà Chính phủ, các bộ có liên quan có thể điều tiết dược theo kế hoạch. Vì vậy, Chính phủ cần lưu tâm hơn nữa về điều này.
Đặc biệt, các cơ quan chức năng phải chú trọng đến các chính sách hỗ trợ cho công tác thẩm định dự án đầu tư, mà quan trọng hơn là công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư: ban hành các chỉ tiêu chuẩn phục vụ cho các NHTM, các tổ chức tài chính .
Nhà nước cần quy định rõ các biện pháp chế tài biện pháp xử lý nghiên trọng các trường hợp doanh nghiệp cung cấp thông tin giả … để đưa các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lành mạnh nhằm nâng cao pháp chế XHCN.
Nhà nước cần phải chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ kế toán theo đúng quy định của Nhà nước, bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thông công viẹc phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp qua đó hạn chế phòng ngừa rủi ro. Hơn nữa tạo điều kiện cho các Ngân hàng đánh giá đúng sức mạnh tài chính của dự án cũng như của doanh nghiệp có dự án.
3.2. Kiến nghị với ngân hàng nhà nước
Tăng cường vai trò của các trung tâm thông tin Ngân hàng. Như được biết hiện nay NHNN đã có hai trung tâm thông tin Ngân hàng là: trung tâm phòng ngừa rủi ro viết tắt là (TRP)và trung tam thông tin tín dụng (CIC) đặt tại vụ tins dụng NHNN và có phân nhánh tại NHNN các tỉnh thành phố. Hiện tại, CIC là trung tam thu thạp các thông tin về các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp lứon và phát huy được những vai trò cơ bản. Nhưng đòi hỏi của ngành Ngân hàng còn cao hơn rất nhiều so với những gì mà CIC cung cấp. Cần thiết phải cải tiến cơ chế làm việc của trung tâm này : Một là, cần sắp xếp trung tâm này trở thành một thành viên độc lập, có thể cung cấp những dịch vụ thông tin liên quan đến ngành Ngân hàng tài chính cho những ai có nhu cầu. Hai là, ngoài những thông tin về Ngân hàng tài chính họ cần phối hợp với các cơ quan liên quan của Chính phủ như: uỷ ban kế hoạch Nhà nước, Tổng cục thống kê, … để thu thập những thông tin đa dạng và phong phú hơn nữa về mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân. Các cán bộ thẩm định của Ngân hàng, có thể trực tiếp thu thập hệ thống cơ sỏ dữ liệu tại trung tâm này thông qua mạng cục bộ của Ngân hàng, khai thác những số liệu cần thiết về doanh nghiệp về ngành có liên quan đến doanh nghiệp, về tình hình thị trường, nhữngdự báo,.. qua đó tăng cường thẩm định cácdự án.
NHNN cần thực thi chính sách lãi suất thị trường để cho các NHTM có sự linh hoạt cho lĩnh vực đầu tư các dự án. Mục tiêu của NHTM là tăng tối đa lợi nhuận, nhưng những quy định về lãi suất trong thời gian vừa qua mặc dù là một chủ trương đúng đắn nhưng nó vẫn có thể làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu chỉ với lãi suất thị trường thì lãi suất vẫn biến động theo tỷ lệ lãi suất chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước làm tăng tối đa lợi nhuận cho Ngân hàng, nhất là những dự án đầu tư trung dài hạn. Những hạn chế của lãi suất cố định làm cho khi thẩm định dự án và quyết định cho vay, Ngân hàng vẫn có thể là người chịu thiệt thòi. Bởi vì, cácdự án cho vay dự án thường là trung dài hạn nhưng hiện tại lãi suất là thấp ví dụ 1%/ tháng nhưng một năm sau lãi xuất tăng 2%/tháng như có dự án vẫ chỉ được hưởng lãi suất 1%/tháng. Đối với các dự án thuộc ngành có lợi nhuận siêu ngạch như thuốc lá, đồ uống, …mà chúng ta không khuyến khích phát triển thì lãi suất trần sẽ gây cản trở cho Ngân hàng trong việc tăng lãi suất đối với các dự án đầu tư vào ngành này. Việc thay đổi chính sách với các dự án đầu tư vào các ngành này. Việc thay đổi chính sách lãi suất không những giúp Ngân hàng tăng đlãng định hướng của mình.
- Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành, trực tiếp của các NHTM thì nhất thiết phải có hỗ trợ các NHTM trong công tác thẩm định . NHNN cần ban hành một “cẩm nang”chung về quy trình, nội dung thẩm định dự án trên cơ sở thẩn định dự án của các cơ quan khoa học, Bộ kế hoạch và Đầu tư phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đồng thời hoà nhập dần với thông lệ quốc tế. Chẳng hạn như việc tính toán một số chỉ tiêu điểm hoà vốn, IRR của dự án có vốn vay Ngân hàng trong điều kiện có lạm phát. Mốc để so sánh các chỉ tiêu đó củadự án nhằm đưa ra quyết định cho vay hay không ? Hoặc quan điểm về tính nguồn trả nợ hàng năm.Ngoài những cuộc hội thảo nhằm bàn bạc bóc rút những kinh nghiệm thẩm định tại NHTM, nhất thiết phải tổ chức những khoá học thường niện cho các cán bộ thẩm định do các chuyên gia của WB, IMF hoặc của một số nước khác có ngành Ngân hàng phát triển để họ có thể nắm bắt được những tiến bộ, ứng dụng thành công vào công tác thẩm định của mình.
- Hiện nay Chính phủ cho phép các DNNN vay vốn không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo thì phải có quy định rõ ràng khi doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến bị phá sản thì vốn vay Ngân hàng được ưu tiên hàng đầu, để tránh tình trạng thất toát vốn của Ngân hàng cũng như của nền kinh tế.
- Để phát huy trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin tín dụng, chất lượng thông tin, cần lập các công ty tư vấn chuyên mua bán thông tin. Qua đãtách biệt vai trò quản lý NHà nước của NHNN và vai trò kinh doanh thông tin của các công ty tư vấn.
4. Kiến nghị đối với ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long
-Từ những chính sách của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long đều xây dựng một hệ thống, quy trình thẩm định mới cụ thể, phân tiết hơn cập nhật được những phương pháp tiên tiến trên thế giới. Hướng dẫn cụ thể cho các cán bộ thẩm định tại chi nhánh trong các khu vực, các tỉnh, thành phố. lĩnh vực phát huy vai trò của các cán bộ thẩm định, cho họ tự quyết định chịu trách nhiệm trước những quyết định là chịu trách nhiệm trước những quyêt định khi thẩm định các dự án.
- Xây dựng phương án nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là công tác thẩm định phải có một kế hoạch bố trí, sắp xếp, tuyển dụng những nhân viên làm công tác thẩm định tín dụng trong hệ thống . Trước hết là phải đánh giá được những cán bộ này về các mặt trình độ, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, sức khoẻ,.. từ đó phân loại, sắp xếp lại những bố trí cho những cán bộ có năng lực, trẻ, có sức khoẻ đi học tập, đào tạo lại và có cơ hội làm việc lâu dài tại Ngân hàng.
Ngân hàng cũng luôn phải chú trọng tới vấn đề tuyển nhân viên mới. Hiện tại thì số lượng những người tốt nghiệp các khoá học về Ngân hàng thì quá nhiều so với nhu cầu tuyển dụng. Nhưng trên thực tế để làm được việc thì còn phải học tập nhiều trong thực tế công việc. Vì vậy, trong tuyển dụng cần áp dụng những biện pháp tuyển dụng tiên tiến đã thực hiện ở một số Ngân hàng là đánh giá nhân viên cơ sở năng lực trí tuệ của chính bản thân nhân viên đó. Nghĩa là, đánh giá cao năng lực làm việc của nhân viên trong tương lai hơn là xem nhân viên đã biết được những gì.
KẾT LUẬN
Thời gian qua, ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long _ Phân nhánh Hà Nội đã tài trợ có hiệu quả cho nhiềudự án đầu tư, đóng góp vào sự phát triển của các DN nói riêng và trên địa bàn nói chung. Đạt được kết quả đó là có phần quan trọng của công tác thẩm định . Song bên cạnh những mặt đã đạt được trong công tác thẩm định vẫn còn những hạn chế, tồn tại nhất định .
Sau khi đã nghiên cứu về mặt lý luận và tìm hiểu thực tế công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Longg, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số vấn đề cơ bản về thẩm định dự án tài chính tại các ngân hàng thương mại, thực trạng hoạt động này tại ngân hàng phát triển nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long _ Chi nhánh Hà Nội theo ý kiến chủ quan của cá nhân, từ đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả các nội dung thuộc công tác thẩm định dự án đầu tư ..
Trong thời gian thực tập và làm chuyên đề tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ và các anh chị tại chi nhánh Ngân hàng cùng với sự chỉ bảo hướng dẫn của TH.S Nguyễn Thị Thu Hà vì vậy tôi đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp như trên, song do nhận thức còn nhiều hạn chế, chuyên đề không tránh khỏi những sai sót nhất định . Kính mong nhận được sự phê bình và góp ý của các cán bộ Ngân hàng, các thầy cô giáo và các bạn đọc để chuyên đề thêm hoàn thiện.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21601.doc