Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1

Hiệu quả quản lý về mặt tài chính phù hợp với Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 tức là vừa quản lý tài chính chặt chẽ theo pháp luật vừa tạo điều kiện cho công ty phát triển trong nền kinh tế ngày càng cạnh tranh và xu thế hội nhập ngày nay. Trong quá trình thực tập, khảo sát thực tế tại công ty Cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 em đã đi sâu nghiên cứu, phân tích đề tài ‘ Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1’ một cách nghiêm túc. Về mặt quản trị, từ xưa đến nay quản trị tài chính vẫn luôn là lĩnh vực khó khăn,phức tạp nhất. Nhất là khi công ty vừa mới chuyển đổi sang hình thức cổ phần .Có rất nhiều thay đổi đòi hỏi việc quản trị tài chính phải được điều chỉnh phù hợp với cơ chế mới. Trên cơ sở tiếp cân với thực tế và tổng hợp lý thuyết em đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiên hoạt động quản lý của công ty phù hợp với cơ chế mới. Em hy vọng với những đề xuất này, sẽ được ban lãnh đạo Công ty xem xét và đưa vào áp dụng để hoàn thiện hiệu quả quản lý tài chính trong công ty.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1653 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chính: quản lý quỹ tiền mặt, quản lý tài sản…..hướng dẫn các bộ phận trong toàn công ty thực hiện. Tổ chức công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, hướng dẫn nghề nghiệp cho nhân viên trong quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng thời quản lý sử dụng tốt đội ngũ nhân viên kế toán. Số lượng nhân viên tại phòng tài chính kế toán gồm có 10 người, mỗi người phụ trách một khâu với các nhiệm vụ sau: - Kế toán trưởng: là người phụ trách chung, có nhiệm vụ kiểm tra giám sát mọi việc trên sổ sách kế toán, đôn đốc các bộ phận chấp hành các quy định, chế độ kế toán mà Nhà nước ban hành. Kế toán trưởng cũng là người trực tiếp cung cấp thông tin kế toán cho giám đốc và cơ quan chủ quản. - Phó phòng kế toán: Giúp việc cho kế toán trưởng cùng tổ chức và điều hành công tác kế toán tại công ty - Kế toán tổng hợp: Có nhiệm vụ kiểm tra tính pháp lý của chứng từ về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh mà các cán bộ công nhân viên hoàn ứng báo cáo quyết toán của bộ phận văn phòng công ty, tập hợp các nhật ký, bảng kê của các kế toán để lên báo cáo quyết toán của bộ phận văn phòng công ty, tập hợp chi phí và phân bổ chi phí cho các nghành hàng - Kế toán ngân hàng: có nhiệm vụ tập hợp chứng từ thu, chi về tiền gửi ngân hàng, tiền vay ngân hàng, làm thủ tục cho vay, giúp lãnh đạo phòng ban trong việc theo dõi trả nợ đúng hạn, đúng cam kết trong khế ước vay nhân hàng - Kế toán kho: Có nhiệm vụ phản ánh đầy đủ kịp thời tình trạng nhập, xuất và tồn kho từng loại vật tư hàng hoá trên cơ sở giám sát tình hình thực hiện kế hoạch mua bán hàng -Kế toán thanh toán nội bộ: Theo dõi việc mua và bán hàng, đối chiếu với các đơn vị cơ sở trực thuộc về tình hình vay vốn và hoàn trả vốn cho công ty, phân bổ các khoản chi phí cho đơn vị trực thuộc. - Bộ phận kiểm tra kế toán: Kiểm tra tính hợp pháp của hệ thống chứng từ về việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, bộ phận này hoạt động như là một bộ phận kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ chấn chỉnh công tác kế toán trong đơn vị. - Kế toán thanh toán: Có nhiệm vụ theo dõi các khoản thanh toán với các đơn vị bên ngoài và theo dõi các khoản thanh toán với mọi bộ phận trong công ty. - Kế toán TSCĐ và CCDC: Có nhiệm vụ theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ và CCDC, đồng thời còn theo dõi các khoản trích khấu hao của các TSCĐ và việc phân bổ chi phí sử dụng CCDC trong đơn vị - Thủ quỹ: Chịu trách nhiệm theo dõi và quản lý tiền mặt tại quỹ cụ thể: làm nhiệm vụ thu, chi tiền mặt khi có phiếu thu và phiếu chi - Kế toán tại các đơn vị, xí nghiệp, nhà máy trực thuộc công ty: Bao gồm trưởng bộ phận kế toán và các phần hành. 1.3. Về tình hình công khai hoá tài chính. Quản trị công ty cần phải là một hình thức văn hoá kinh doanh. Trách nhiệm của các thành viên Hội đồng quản trị, các cán bộ cao cấp của công ty trước cổ đông và những người có quyền lợi có liên quan đến công ty, chức năng lãnh đạo và giám sát có hiệu quả do các thành viên Hội đồng quản trị chuyên nghiệp thực hiện cũng như cơ chế công bố thông tin kịp thời và chính xác tới người đầu tư và thị trường cần được thấm nhuần và được thể chế hoá như là các chuẩn mực và giá trị được tuân thủ bởi các thành viên trong công ty. Tuy nhiên, hiện nay vẫn rất khó tiếp cận với thông tin liên quan đến tình hình tài chính của công ty. Mọi thành viên trong công ty vẫn đang quen với hiện tượng “ số liệu tài chính kế toán là thông tin bất khả lộ, chỉ phòng tài chính kế toán và ban giám đốc mới được quyền biết” 2. Phân tích tình hình tài chính Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1. 2.1 Khả năng thanh toán Tỉ số thanh toán hiện hành (CR) và tỉ số thanh toán nhanh(QR) phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ lưu động hay nợ ngắn hạn của công ty trong kỳ. Ta xét bảng sau: Bảng 10: Các tỉ số thanh toán Đơn vị tính:Trđ Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 Tài sản lưu động 136.532 133.641 135.752 138.143 140.351 Nợ ngắn hạn 75.760 74.764 78.943 86.273 89.768 Hàng tồn kho 75.134 75.113 78.214 85.927 85.137 CR 1,802 1,788 1,72 1,601 1,563 QR 0,81 0,783 0,729 0,605 0,615 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Hệ số thanh toán hiện thời(CR)= Tài sản lưu động/nợ ngắn hạn. Thường được sử dụng để xem xét khả năng thanh toán nợ đến hạn thanh toán của công ty. Còn hệ số thanh toán nhanh(QR)= (tài sản lưu động- hàng tồn kho)/ Nợ ngắn hạn. Hay còn gọi là hệ số thử 1, là một cách tính khả năng thanh toán nợ ngắn hạn chính xác hơn so với hệ số thanh toán hiện thời bởi vì tính thanh khoản nhanh. Nhìn vào bảng tính toán trên ta thấy hệ số thanh toán hiện thời có xu hướng giảm. Năm có hệ số thanh toán hiện thời lớn nhất là năm 2002 và năm có hệ số này thấp nhất là năm 2006. Tỉ số thanh toán thấp chứng tỏ khả năng thanh toán nợ lưu động của công ty càng thấp và ngược lại.Nếu tỉ số thanh toán cao quá sẽ giảm hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng và vốn sản xuất kinh doanh nói chung. QR năm 2002 là 0,81 và liên tục giảm những năm sau đó. Năm 2006 có tăng nhưng không đáng kể. Theo các chuyên gia tài chính thì doanh nghiệp nên duy trì CR=2 và tỉ số thanh toán nhanh QR=1 là tốt. Do vậy, xu hướng giảm của CR và QR của công ty là không tốt. Do vậy, công ty cần có biện pháp để duy trì khả năng thanh toán ở mức cần thiết. Dưới đây là bảng xu hướng biến động của hệ số nợ . Biểu đồ 1: Sự biến động của hệ số nợ Vậy, Hệ số nợ CR và QR đều có xu hướng giảm. Chứng tỏ, trong những năm gần đây khả năng thanh toán nợ của công ty ngày càng giảm đi. 2.2. Tình hình sử dụng vốn và tài sản 2.2.1.Tình hình sử dụng vốn kinh doanh Để đánh gía tình hình sử dụng vốn kinh doanh của công ty chúng ta xem xét bảng tổng hợp sau: Bảng 11: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Đvt Năm 2002 Năm2003 Năm2004 Năm2005 Năm2006 Doan thu trđ 238.077 225.352 268.667 301.000 304.050 Lợi nhuận trđ 18.880 22.489 44.083 35.574 38.095 Vốn bình quân trđ 198.720 196.212 206.558 213.223 225.164 Sức sản xuất của vốn trđ 1,19 1,15 1,3 1,41 1,35 D.lợi/ 1.000.000 vốn trđ 0,095 0,0115 0,213 0,167 0,169 Nguồn: Phòng tài chính- kế toán Từ bảng tổng hợp trên ta có những nhận xét sau: Sức sản xuất của đồng vốn được tính = DT/ vốn BQ. Có nghĩa cứ 1tr đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu triệu đồng doanh thu. Nhìn vào bảng ta thấy, năm 2005 có sức sản xuất vốn lớn nhất hay 1,41. Có nghiã là trong năm 2005, cứ 1tr vốn bỏ ra thì thu được 1,41 triệu đồng.. Năm 2003 có mức sản xuất vốn thấp nhất , cứ 1tr đồng vốn bỏ ra chỉ thu được 1,15 triệu đồng . Và nó đã tăng đều 2 năm tiếp theo, điều này chứng tỏ việc sử dụng vốn của công ty đang ở mức trung bình, công ty chưa khai thác tối đa được sức sản xuất của vốn. Chỉ tiêu doanh lợi trên 1 triệu đồng vốn kinh doanh của Công ty cũng ở mức trung bình: Mức sinh lời trên đồng vốn cao nhất vào năm 2004 là 0,213 . Có nghĩa là cứ 1tr đồng vốn bỏ ra thu được 0,213 trđ lợi nhuận. Nhưng nó lại giảm vào năm 2005 là 0,167 và tăng rất ít năm 2006 là 0,169. Năm có mức doanh lợi thấp nhất là năm 2002là 0,095 nhưng nó tăng đều vào các năm sau đó. Để thấy rõ hơn về xu hướng về sự biến động về sức sản xuất và doanh lơi/ vốn ta có bảng sau: Biểu đồ 2: Sự biến động sức sản xuất và doanh lợi /vốn Như vậy, Sức sản xuất vốn kinh doanh của Công ty bình thường, mức lợi nhuận do vốn sinh ra chưa cao và tốc độ tăng chỉ tiêu này còn chưa ổn định. Do vậy hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh cũng chưa được cao. 2.2.2. Tình hình sử dụng tài sản cố định. Tài sản cố định chiếm một tỉ trọng lớn và có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm cũng như chất lượng của nó trong mỗi công ty. Do vậy quản lý, sử dụng tài sản cố định tốt là chìa khoá tốt giúp cho công ty có thể thành công trên thương trường Bảng12 : Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của công ty Đơn vị tính: trđ Chỉ tiêu Đvt 2002 2003 2004 2005 2006 Doan thu Trđ 238.077 225.352 268.667 301.000 304.170 Lợi nhuận trđ 18.880 22.489 44.083 35.574 38.095 TSCĐbình quân trđ 62.188 62.571 70.806 75.080 81.214 Sức sản xuất của TSCĐ trđ 3,828 3,601 3,794 4,009 3,745 Sức sinh lời 1 trđồng TSCĐ trđ 0,303 0,359 0,622 0,473 0,469 Suất hao phí TSCĐ trđ 0,216 0,277 0,263 0,249 0,267 Nguồn: Phòng tài chính- kế toán Từ bảng số liệu trên ta có các nhận xét sau: Chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ của công ty ở mức độ khá cao. Năm 2005 có sức sản xuất cao nhất là 4,009, có nghĩa là cứ 1trđ TSCĐ năm 2005 tạo ra 4,009 trđ doanh thu. Nhưng đến năm 2006 lại giảm xuống còn 3,745. . Sức sản xuất năm 2002 là 3,828, nhưng 2 năm sau đó lại giảm tương ứng là 3,601 và3,794. Vậy,ta thấy sức sản xuất TSCĐ của công ty ở mức khá nhưng có biến động không đều qua các năm. Sự biến động không ổn định chỉ tiêu sức sản xuất kéo theo chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ cũng không ổn định, cứ 1trđ TSCĐ bỏ ra năm 2002 thu được 0,303 trđ lợi nhuận. Và nó đã tăng lên ở những năm tiếp theo. Năm có sức sinh lời lớn nhất là năm 2004 là 0,622. Xét chỉ tiêu hao phí TSCĐ cho thấy giữa chỉ tiêu này với 2 chỉ tiêu trên có mối quan hệ với nhau: năm có hao phí TSCĐ thấp sẽ có tỉ suất sinh lời và sức sản xuất của TSCĐ cao. Năm 2002,.có suất hao phí thấp nhưng sức sản xuất và sức sinh lời vẫn cao. Năm 2003 có suất hao phí lớn nhất là 0,277. Như vậy, chỉ tiêu sức sinh lời của TSCĐ ở mức trên trung bình. Tình trạng này đã xảy ra ở các chỉ tiêu sức sản xuất của TSCĐ, chỉ tiêu sức sản xuất của vốn đồng thời chỉ tiêu suất hao phí TSCĐ của Công ty lại có xu hướng tăng. Điều này cho thấy tình hình quản lý và sử dụng TSCĐ của Công ty chưa được hoàn thiện. Đê thấy rõ xu hướng biến động của các chỉ tiêu tài chính trên ta có các biểu sau: Biểu đồ 3: Sức sản xuất tài sản cố định Biểu đồ 4: Sức sinh lời TSCĐ Biểu đồ 5: Suất hao phí TSCĐ 2.2.3. Tình hình sử dụng TSLĐ. Tài sản lưu động là bộ phận thứ 2 tạo nên toàn bộ nguồn vốn của công ty. Để xem xét tình hình sử dụng tài sản lưu động công ty chúng ta xét bảng tổng hợp sau: Bảng 13: Tình hình sử dụng tài sản lưu động của Công ty Đơn vị tình: trđ Chỉ tiêu ĐVT 2002 2003 2004 2005 2006 Doan thu Trđ 238.077 225.352 268.667 301.000 304.170 Lợi nhuận Trđ 18.880 22.489 44.083 35.574 38.095 TSLĐBQ Trđ 136.532 133.641 135.752 138.143 140.351 Mức sinh lời TSLĐ Trđ 0,138 0,168 0,324 0,257 0,271 Số vòng quay TSLĐ Lần 1,743 1,686 1,979 2,178 2,167 Thời gian luân chuyển Ngày 206,540 213,523 181,910 165,289 166,128 Hệ số đảm nhiệm TSLĐ trđ 0,573 0,593 0,505 0,459 0,461 Nguồn: phòng tài chính- kế toán Nhìn vào bảng trên ta thấy: Mức sinh lời của TSLĐ ở mức trung bình. Năm có mức sinh lời lớn nhất là năm 2004 là 0,324 tức là cứ 1 trđ TSLĐ bình quân bỏ ra thu được 0,324 trđ lợi nhuận. Nhưng nó lại giảm suống 2 năm sau đó tương ứng là 0,257 và 0,271. Mức sinh lời củaaTSLĐ biến động trong 5 năm cho thấy tình hình sử dụng TSLĐ của công ty còn chưa có hiệu quả. Chỉ tiêu vòng quay của vốn lưu động của Công ty ở mức độ thấp. Năm có số vòng quay thấp nhất là năm 2003 là 1,686 lần. Còn năm có số vòng quay lớn nhất là năm 2005 là 2,178 lần. Số vòng quay TSLĐ có xu hướng tăng cho thấy dấu hiệu tốt trong công tác nâng cao hiệu quả sử dụng TSLĐ. Ngược với chỉ tiêu số vòng quay, chỉ tiêu hệ số đảm nhiệm TSLĐ có xu hướng biến động ngược lại, nó cho biết 1 trđ TSLĐ tạo ra Chỉ tiêu thời gian luân chuyển của TSLĐ= 360 ngày/ chỉ tiêu số vòng quay của TSLĐ. Do vậy, nó có sự biến động với cùng chiều với số vòng quay của TSLĐ. Để vốn lưu động quay được 1 vòng trong năm thì năm 2002 cần 206,540 ngày. Năm 2003 cần 213,523 nhưng nó có xu hướng giảm so với những năm sau đó.Xu hướng giảm của thời gian luân chuyển TSLĐ phản ánh dấu hiệu tốt trong công tác thực hiện huy động vốn cũng như thu hồi vốn, quoay vòng vốn lưu động của công ty. 2.3. Mức độ sử dụng vốn nợ trong cơ cấu vốn và khả năng sinh lời. Quan sát hệ số nợ cho phép chúng ta đánh giá khả năng tự đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Hệ số nợ phản ánh số vốn nợ có trong 1 đồng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ số nợ càng cao thì khả năng tự tài trợ vốn của doanh nghiệp càng thấp và ngược lại. Hơn nữa mức độ sử dụng vốn nợ càng cao thì rủi ro tài chính của doanh nghiệp càng cao. Sự tồn tại của vốn nợ trong cơ cấu vốn sẽ làm phát sinh chi phí trả lãi cố định hàng kỳ và chi phí trả lãi sẽ làm gia tăng mức độ dao động của thu nhập sau thuế. Chỉ tiêu ROA cho biết khả năng sinh lời trên tổng tài sản. Chỉ tiêu ROE cho biết khả năng sinh lời trên một đòng vốn chủ sở hữu. Đây là 2 hệ số được sử dụng để đánh giá mức độ hiệu quả chung của công ty trong việc quản lý chung các khoản đầu tư vào tài sản và khả năng tạo ra doanh thu cho các cổ đông. Bảng14 : Các chỉ tiêu đánh giá tình hình tài chính Chỉ tiêu ĐV 2002 2003 2004 2005 2006 DT thuần Tr.đồng 238.077 225.352 268.667 301.000 304.050 LNST Tr.động 18.880 22.489 44.083 35.574 38.095 Tổng TS Tr.đông 198.720 196.212 206.558 213.223 219.782 VCSH Tr.đồng 105.267 105.350 108.973 110.210 120.356 Vốn nợ Tr.đồng 93.453 90.862 97.585 103.013 104.808 ROA % 9,5 11,46 21,34 16,68 17,33 ROE % 17,93 21,34 40,45 32,27 31,65 Hệ số nợ 0,89 0,86 0,89 0,93 0,87 Nguồn: phòng tài chính kế toán. Nhìn vào bảng ta thấy năm 2004 có ROA là 21,34% và ROE là 40,45%, là năm có 2 chỉ tiêu này cao nhất. Điều này thể hiện đây là một năm làm ăn hiệu quả nhất. Nhưng đến năm 2005,2006 thì 2 hệ số này lại giảm suống cụ thể là. Năm 2005 ROA là 16,68%, còn ROE là 32,27%. Năm 2006 có ROA cao hơn năm 2005 là 0,65% nhưng ROE lại thấp hơn 0,62%. Xét hệ số nợ trong 5 năm qua thì năm 2005 có hệ số nợ lớn nhất là 0,93%. Tức vốn nợ của công ty tăng lên so với vốn chủ sở hữu. Còn năm có hệ số nợ thấp nhất là năm 2003 là 0,86% nhưng đã tăng liên tục những năm sau đó. Điều này chứng tỏ khả năng tự tài trợ nợ của công ty giảm là không tốt. Để xét một cách rõ ràng hơn về xu hướng biến động của các chỉ tiêu tài chính này, ta xét bảng sau: Biểu đồ 6: Sự biến động xu hướng ROA, ROE Hệ sốnợ Nhìn vào bảng ta dễ dàng thấy được xu hướng biến động của các chỉ tiêu ROA, ROE và hệ số nợ. Năm có ROA, ROE cao nhất là năm 2004. Điều này cũng cho thấy đây là năm công ty làm ăn tốt nhất do công ty có được nhiều hợp đồng lớn và kinh doanh có hiệu quả tại năm tài chính này. Và xu thế có sự thay đổi tương đối giữa các năm. Còn đường xu thế của hệ số nợ cho thấy sự thay đổi rất nhỏ trong cả 4 năm. 2.3. Đánh giá về hoạt động quản trị tài chính của công ty - Vấn đề nợ tồn đọng của quá trình cổ phần hoá chưa được xử lý dứt điểm. Nợ đọng trước khi cổ phần hoá ( nợ khó đòi tồn đọng nhiều năm, khó có khả năng thu hồi mặc dù con nợ vẫn tồn tại) nên doanh nghiệp sau cổ phần tiếp tục gặp khó khăn trong đòi nợ, trả nợ , trả lãi đối với khoản nợ khó đòi này . Đây cũng là 1 gánh nặng không nhỏ đối với công ty sau cổ phần hóa. - Quản lý vốn và tài sản nhà nước của công ty còn nhiều vướng mắc: Công ty sau cổ phần hoá vẫn tiếp tục giữ hộ nhà nước số tài sản không cần sử dụng (đã được công ty đề nghị là không đưa vào giá trị cổ phần hoá). Nhưng chưa được giải quyết dứt điểm, điều đó vừa không rõ ràng trong quản lý tài sản, vừa dẫn đến tình trạng thiếu trách nhiệm trong quản lý đối với tài sản. đồng thời công ty vẫn tiếp tục khai thác số tài sản này mặc dù là không phải của mình. Do chưa có quyết định rõ ràng, cụ thể, hợp lý quyền lợi và trách nhiệm của người đại diện hoặc kiêm nhiệm quản lý cổ phần nhà nước trong công ty. Thẩm quyền và phương hướng xử lý việc bán bớt hay tăng thêm cổ phần nhà nước trong công ty chưa đủ rõ ràng và hiệu lực. Thực tế, gây khó khăn trong việc tăng, giảm vốn điều lệ của công ty. - Việc huy động vốn, vay vốn từ ngân hàng của công ty cũng còn nhiều khó khăn. Theo quy định thì doanh nghiệp cổ phần hoá được vay vốn như doanh nghiệp nhà nước. Nhưng trên thực tế chỉ những công ty có cổ phần chi phối mới được hưởng những ưu đãi như vậy. Còn công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1( là công ty không có cổ phần chi phối do tỷ lệ cổ phần của nhà nước chỉ 10% ). Phải thế chấp khi vay vốn, trong khi doanh nghiệp nhà nước có thể vẫn được tín chấp. Các ngân hàng thương mại không thực hiện cơ chế đối với công ty giống như khi vẫn còn là doanh nghiệp nhà nước. Trong khi Chính phủ quy định quyền vay vốn của doanh nghiệp cổ phần hoá, thì về phía ngân hàng lại quy định những doanh nghiệp có cổ phần chi phối của nhà nước mới được áp dụng. - Nhà quản lý chức năng và giám đốc điều hành tuy có trình độ kỹ thuật, chuyên môn tốt nhưng thiếu kiến thức về tài chính, kế toán. Do đó , khả năng tham gia quản lý tình hình tài chính của họ bị hạn chế. Thông tin tài chính- kế toán ít được sử dụng trong quá trình ra các quyết định quản lý. Các quyết định quản lý thường dựa vào cảm tính của nhà quản trị và dựa trên cơ sở định lượng. Cho nên, cần phải trang bị kiến thức quản trị tài chính và kế toán quản trị cho các nhà quản lý cấp trung trong công ty thông qua các khoá huấn luyện ngắn hạn. Khi đề bạt giám đốc điều hành cần chú trọng những người có chuyên môn tài chính- kế toán. Kết luận: Hoạt động QTTC trong công ty có tầm quan trọng đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến việc bảo tồn vốn và tăng lợi ích tài chính lâu dài của các nhà đầu tư trên thị trường. Loại hình công ty cổ phần có cơ cấu sử hữu hỗn hợp hình thành từ quá trình cổ phần hoá 1 bộ phận doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Sau khi cổ phần hóa, quy mô hoạt động và kết quả sản xuất kinh doanh của công ty tăng lên đáng kể nhưng hiệu quả sản xuất có xu hướng chưa ổn định. Ngoài ra, tình hình tài chính vẫn không vững mạnh do hoạt động QTTC vẫn chưa được tổ chức thực hiện tốt và chưa phù hợp với loại hình công ty cổ phần hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Tình hình tổ chức quản trị nói chung và QTTC nói riêng chưa có sự thay đổi đáng kể, thậm chí vẫn mang đậm nét đặc trưng của doanh nghiệp nhà nước. Do đó tìm kiếm giải pháp hợp lý, khả thi và có cơ sở khoa học để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị tài chính của công ty là mục tiêu chủ yếu của chuyên đề này. Phần tiếp theo, em muốn nêu ra 1 số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1. Phần 3: Các giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1. I. Phương hướng phát triển của công ty trong thời gian tới Sau quá trình cổ phần hoá Công ty đã có nhiều chính sách cải cách về bộ máy hành chính, giải tán và sát nhập một số phòng ban thu gọn bộ máy quản trị nhằm tiết kiệm chi phí nâng cao hiệu quả quản lý góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh xây lắp của Công ty. Cùng với sự chuyển đổi toàn diện về hình thức và bản chất từ một Công ty nhà nước sang Công ty cổ phần, Công ty thương mại cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 đã xác định phương hướng cụ thể cho công ty trong những năm tới như sau: Về lĩnh vực xây lắp: Mục tiêu là phát triển nhiệm vụ xây lắp theo định hướng kết hợp mở rộng công tác tiếp thị nhận thầu xây lắp với việc đầu tư tìm kiếm dự án xây dựng nhà ở, cơ sở sản xuất khu công nghiệp, các công trình cải tạo nhà ở, công trình giao thông, công trình thuỷ lợi,… Bên cạnh đó Công ty nỗ lực hoàn thành các công trình đang thi công dở dang, khẩn trương hoàn thành để ban giao trước thời hạn nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Với bộ máy quản trị mới, Công ty đang đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng quản lý xây lắp, từng bước xây dựng và phát triển thương hiệu cho công ty trong lĩnh vực xây lắp. Trong xây lắp đặc biệt chú ý phát triển đẩy mạnh tham thầu và tranh thầu các dự án khu đô thị mới quy mô lớn. Đồng thời đa dạng, phát triển các kênh huy động vốn nhằm tăng tiềm lực tài chính tạo lợi thế trong đấu thầu xây lắp. Về hoạt động sản suất: Tập trung cao độ vừa đầu tư sản xuất, vừa tổ chức nâng cấp , đầu tư mở rộng dây truyền sản xuất thép xây dựng. Ban giám đốc dự định cuối năm 2007 Công ty tự đảm bảo đủ xi măng và thép xây dựng cho hoạt động xây lắp của Công ty đồng thời đủ sức cung ứng cho nhu cầu khách hàng xây lắp về mặt hàng này. Về hoạt động kinh doanh của công ty: Mặt hàng chủ yếu vẫn là VLXD, củng cố thị phần tăng cường tiếp thị, tham gia các hội chợ triển lãm VLXD, đồng thời xây dựng chính sách giá, chính sách chiết khấu rõ ràng hợp lý. Dự tính phát triển buôn bán VLXD vượt ra khỏi khu vực Hà Nội sang các tỉnh miền Trung như Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hoá đây là thị trường Công ty có nhiều tiềm năng mở rộng. Công ty dự tính đầu năm 2007 bắt đầu tham gia kinh doanh bát động sản. II. Các biện pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính Công ty sau cổ phần hoá. 1. Tiếp cận mục tiêu QTTC phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế nước ta hiện nay và đặc điểm của cổ phần hoá. Vì mục tiêu lợi nhuận nếu được xem xét trong sự tương quan với rủi ro mà công ty phải đối mặt khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì công ty không nên chỉ xem lợi nhuận là mục tiêu sống còn của công ty. Trong nền kinh tế thị thường có tính cạnh tranh công ty phải phấn đấu sao cho có thể luôn “ Tồn tại và phát triển” trong mọi tình huống kinh tế. Trong đó tồn tại là điều kiện cần và phát triển là điều kiện đủ. Các nhà đầu tư trên thịn trường khi tìm kiếm cơ hội đầu tư thường hướng đến những công ty có triển vọng – nơi hứa hẹn sẽ tạo ra những dòng thu nhập ổn định và tăng trưởng không ngừng trong tương lai, đảm bảo lợi ích đầu tư tức là bảo đảm khả năng tạo ra hệ số hoàn vốn hay tỉ suất sinh lời mong đợi. Các nhà đàu tư luôn đánh giá cao những công ty có tiềm năng phát triển và tình hình tài chính lành mạnh và do đó, khả năng sinh lời của công ty là nền tảng xác lập giá trị của nó trên thị trường. Công ty nào càng được các nhà đầu tư quan tâm chú ý đến và sẵn sàng đầu tư khi có cơ hội thì giá trị thị trường càng cao vì giá cổ phần đầu tư sẽ tăng. Như vậy đứng trên góc độ của quản trị tài chính thì công ty nên hướng tới mục tiêu không ngừng nâng cao và tối đa hoá giá trị thị trường của nó. Nói cách khác , nhà quản trị tài chính phải không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đồng vốn đầu tư của công ty cũng như đảm bảo sự an toàn của vốn đầu tư để thu hút vốn của các nhà đầu tư trên thị trường tài chính.. Khi đánh giá 1 công ty người ta căn cứ vào quy mô hoạt động. Sau đó , giá trị của công ty được xác định dựa vào lãi ròng, tỉ suất tái đầu tư, hiệu suất sử dụng vốn và thu nhập cổ phiếu. Hiện nay người ta đặc biệt chú trọng đến mức giá thị trường và giá trị kinh tế của công ty. Và trong cơ chế mới thì các thông tin và tính minh bạch tài chính của công ty được đặt lên hàng đầu : Để đáp ứng được các yêu cầu của công tác công bố thông tin và tính minh bạch có hiệu quả thì Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp cần chú ý tới : Cổ đông và những người có quyền lợi liên quan cần được biết thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý điều hành của công ty. Việc công bố thông tin trong báo cáo thường niên của công ty bao gồm : - Kết quả tài chính và kết quả hoạt động sản xuất- kinh doanh của công ty Các mục tiêu và chiến lược của công ty, các yếu tố rủi ro về vật chất có thể lường trước Cơ cấu vốn của công ty, các quyền sở hữu cổ phiếu và biểu quyết chính Thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, các cán bộ quản lý cấp cao Cơ cấu và chính sách quản trị ; Các tài liệu phát hành có liên quan đến người lao động và những người có quyền lợi liên quan đến công ty. Cần sử dụng các phương tiện phổ biến thông tin có hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất Báo cáo kiểm toán thường niên của công ty phải do một công ty kiểm toán bên ngoài lập, được thẩm định của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát ; Các báo cáo kiểm toán nội bộ và kiểm toán độc lập bên ngoài công ty, báo cáo tài chính và các thông tin khác phải được chuẩn bị, sử dụng các chuẩn mực kế toán, kiểm toán ; Công bố thông tin đầy đủ và minh bạch cần được đảm bảo thực hiện trong công ty nhằm giúp cho hội đồng quản trị, ban kiểm soát, các cán bộ cấp cao thực hiện đầy đủ và hiệu quả trách nhiệm của mình. Các cổ đông cần phải được cung cấp kịp thời các báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của công ty và các vấn đề khác sẽ được đưa ra bàn bạc tại Đại hội đồng cổ đông thường niên. Thành viên của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát, tổng giám đốc điều hành và đội ngũ cán bộ quản lý cao cấp phải có quyền kiểm tra sổ cổ đông của công ty, danh sách cổ đông và các sổ sách, chứng từ khác với điều kiện là các thông tin đó phải được giữ bí mật 2. Hoàn thiện tổ chức hoạt động tài chính của công ty sau cổ phần hoá và nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tài chính- kế toán. Một khi cách tiếp cận mục tiêu QTTC trong công ty sau cổ phần hoá thay đổi thì công tác tổ chức hoạt động của bộ phận tài chính- kế toán trong công ty cũng cần được thay đổi cho phù hợp với việc thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu như đã được xác định. Quản trị tài chính cổ điển thường chú trọng vào quản trị vốn luân chuyển và tìm các nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mà việc tìm các nguồn tài trợ khá lớn đòi hỏi công ty phải tiêu tốn nhiều công sức vì phải trả giá rất đắt khi mắc phải sai lầm. Do việc tìm kiếm nguồn tài trợ chỉ thực hiện ở những khoảng thời gian cách nhau xa nên chỉ chiếm phần nhỏ thời gian của nhà quản trị tài chính. Phần lớn thời gian và năng lực của họ được dành vào quản trị vốn luân chuyển hay vốn lưu động. Do đó có nhiều quan điểm cho rằng quản trị tài chính nên tập trung vào việc quản trị vốn luân chuyển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, phải xác định vị trí của các nhà quản trị tài chính trong khung cảnh quản trị chung và vai trò của họ tham gia trong việc hoạch định và kiểm soát các loại chiến lược của công ty. Do đó, quản trị tài chính của công ty sau cổ phần nên tập trung vào các hoạt động sau: Phân tích, hoạch định và kiểm soát tài chính Quản trị vốn luân chuyển Hoạch định các kế hoạch tài trợ và tìm kiếm các nguồn tài trợ hấp dẫn. Tìm kiếm các cơ hội đầu tư tiềm năng, đánh giá các cơ hội đầu tư và hoạch định ngân quỹ đầu tư tối ưu cho từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp. Xây dựng cơ cấu tài chính và chính sách phân chia lợi tức cổ phần tối ưu. Quản trị các loại rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính của công ty và nguy cơ bị thâu tóm, sát nhập… Nâng cao trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ tài chính- kế toán: Củng cố đội ngũ cán bộ tài chính- kế toán có nghiệp vụ giỏi và tinh thần trách nhiệm cao là 1 nhân tố quyết định đến chất lượng công tác quản lý tổ chức. Đội ngũ cán bộ tài chính kế toán có nghiệp vụ giỏi, tinh thần trách nhiệm cao được xem như khâu then chốt trong việc phát triển công tác quản lý tổ chức ở doanh nghiệp nói chung và Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp nói riêng. Đê thực hiện giải pháp này cần từng bước thực hiện những nội dung sau. Rà soát, đánh giá đúng năng lực, phẩm chất của từng cán bộ tài chính - kế toán 1 cách thường xuyên liên tục. Sắp xếp luôn chuyển công việc đối với từng cán bộ tài chính kế toán để một mặt nâng cao nghiệp vụ người quản lý có điều kiện để nhìn nhận đúng mặt mạnh, yếu chuyên môn đội ngũ tài chính- kế toán. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong tổ chức. Cử cán bộ tham gia lớp tập huấn chế độ mới các lớp chuyên môn, nghiệp vụ cũng như lớp quản lý kế toán cán bộ làm công tác tài chính- kế toán. Khuyến khích động viên, tạo điều kiện để cán bộ tài chính- kế toán học tập nâng cao kiến thức chuyên môn, cũng như ứng dụng khoa học- công nghệ vào công việc kế toán. Cán bộ tài chính- kế toán phải là những người trung thực, có phẩm chất chính trị tốt, trình độ chuyên môn giỏi. Do đó việc đào tạo bôi dưỡng cán bộ phải có tính chất toàn diện cả về lý luận, chuyên môn, phẩm chất đạo đức và năng lực thực tiễn. 3. Giải quyết vấn đề nợ, tài sản và huy động vốn kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Công ty phải áp dụng đồng bộ các giải pháp về tài chính- tín dụng như việc cơ cấu lại nợ trong nội bộ doanh nghiệp. Nếu khoản nợ là do nguyên nhân chủ quan của doanh nghiệp thì phải cương quyết xử lý bồi thường vật chất, nếu không quy được trách nhiệm cá nhân thì doanh nghiệp tự quyết định xử lý các khoản nợ phải thu này vào kết quả hoạt động kinh doanh. Đối với những khoản nợ do nguyên nhân khách quan, kể cả nguyên nhân do cơ chế, chính sách nếu là khoản nợ ngân sách nhà nước thì coi như vốn nhà nước tại công ty được thực hiện chuyển đổi sở hữu để trả nợ ngân hàng. Tính đến đầu năm 2006 công ty đầu tư thương mại xây lắp 1 có quy mô khoảng 213.223 triệu đồng, so với các Công ty như vinaconex : HUD… thì đây là số vốn còn quá bé nhỏ. Trong khi đó thị trường của BIC tương đối rộng kéo dài từ Lạng Sơn đến thành phố Hồ Chí Minh.. Công ty mới có khả năng tranh những gói thầu qui mô nhỏ, số vốn đầu tư ít. Vậy, trước hết chúng ta nên bắt đầu việc xác định nhu cầu về vốn.. Với khả năng huy động còn hạn chế và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn có được trước hết, Công ty phải xác định nhu cầu vốn còn thiếu của mình. Hình thành nên cơ cấu vốn cố định và vốn lưu động. Đối với vốn cố định : Nếu muốn mở rộng thị trường kinh doanh VLXD công ty nên đầu tư mở rộng qui mô sản xuất xi măng và nhà máy cán thép nhằm thực hiện chính sách vừa tự sản xuất để đáp ứng VLXD cho các công trình đang thi công vừa đẩy mạnh bán ra thị trường các loại VLXD cơ bản. Dần dần hạn chế nhập các mặt hàng mà Công ty có thể tự sản xuất với giá thành thấp hơn thuê gia công bên ngoài hay các VLXD của công ty khác bán ra. Khả năng sản xuất xi măng và thép của Công ty vẫn còn hạn chế và đầu tư chưa được thích đáng, lượng thép và xi măng sản xuất ra mới đủ cung cấp cho nhu cầu vật liệu xây lắp của Công ty. Ngoài ra công ty nên tổ chức liên danh sản xuất thép theo đơn đặt hàng và theo khối lượng công trình trúng thầu. Theo ước tính của em thì công ty cần khoảng 2,5 tỷ đồng cho đầu tư dây chuyền sản xuất xi măng lò quay với công suất 9 tấn/giờ. Nâng sản lượng sản xuất xi măng từ 40.000 tấn/ năm lên 80.000 tấn/ năm. Và 3,5 tỷ đồng cho đầu tư thêm một là cán thép xây dựng. lò quay với công suất 9tấn/giờ. Nâng sản lượng sản xuất xi măng từ 40.000 tấn/năm lên 80.000 tấn/ năm. Và 3,5 tỷ đồng cho đầu tư thêm một lò cán thép xây dựng Đối với vốn lưu động : nhu cầu vốn lưu động không lớn như vốn cố định tính đến đầu năm 2006 công ty có khoảng 32 tỷ đồng, nằm nhiều trong lĩnh vực buôn bán VLXD và máy móc thiết bị. Để thực hiện chương trình trên, công ty cần thêm 3 tỷ đồng vốn lưu động nữa, phục vụ cho khâu dự trữ nguyên vật liệu và các khâu liên quan đến công tác tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian tới Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 sẽ có kế hoạch bán cổ phần ra bên ngoài công ty và tham gia trên thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư ở trong và ngoài nước. Việc công chúng mua cổ phiếu được phát hành của công ty nhiều hay ít sẽ có ý nghĩa như 1 cuộc bỏ phiếu tán thành hay bác bỏ về sự ra đời, tồn tại và phát triển của công ty. Khi thành lập và trong suốt quá trình hoạt động công ty không chỉ cạnh tranh trên thị trường hàng hoá, dich vụ mà cả thị trường vốn để giành nhà đầu tư sẵn sàng cung ứng vốn cho công ty. Các ngân hàng, các tổ chức tài chính, các công ty chứng khoán, các công ty bảo hiểm là những khách hàng lớn của công ty khi phát hành cổ phiếu. Do đó, công ty có thể chào bán trực tiếp cho các đối tượng này. 4 Tối ưu hóa cơ cấu vốn và hạn chế mức rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính công ty. Cơ cấu vốn là tổng hợp các nguồn tài trợ dài hạn của công ty. Bao gồm: nợ dài hạn, vốn cổ phần ưu đãi, vốn cổ phần thường và quan hệ tỉ lệ giữa các thành phần vốn đó trong tổng vốn dài hạn thông qua các thị trường vốn đó trong tổng vốn dài hạn của công ty. Doanh nghiệp có thể tìm nguồn tài trợ dài hạn thông qua các thị trường vốn như thị trường tín dụng thuê mua, thị trường tín dụng thế chấp đặc biệt công ty có thể huy động nguồn vốn dài hạn trên thị trường chứng khoán. Vốn nợ của công ty được hình thành từ các nguồn như vốn vay dài hạn của ngân hàng, vốn thuê của các công ty cho thuê tài chính và vốn vay trực tiếp từ nhà đầu tư qua việc phát hành chứng khoán nợ. Vốn cổ phiếu ưu đãi là do công ty phát hành cổ phiếu ưu đãi trên thị trường chứng khoán sơ cấp. Vốn cổ phần hay vốn chủ sở hữu gồm vốn phần ban đầu do phát hành cổ phiếu phổ thông và phần lợi nhuận lưu trữ để tái đầu tư. Do công ty cổ phần thường tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nó bằng nhiều nguồn khác nhau nên phí tổn sử dụng vốn của công ty là số trung bình chỉ trọng. Bởi vì mỗi thành phần vốn có mức chỉ trọng khác nhau. Phí tổn vốn trung bình chỉ trọng thực chất là khoản chi phí tài chính công ty phải trả cho nhà đầu tư để được sử dụng 1 đồng vốn của họ trong 1 kỳ thường là 1 năm. Cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu vốn xác lập được sự tương quan hợp lý giữa mức rủi ro của khoản đầu tư và mức lợi nhuận kiếm được và do đó có thể tối đa hoá giá trị công ty. Có 5 yếu tố ảnh hưởng đến quyết định về cơ cấu vốn Mức rủi ro kinh doanh của công ty: Rủi ro kinh doanh cao thì hệ số vốn tối ưu càng thấp Thuế suất thu nhập công ty: thuế suất càng cao thì hệ số nợ tối ưu càng cao Vị thế tài chính công ty: Nếu công ty dễ dàng huy động vốn trong những trường hợp khẩn cấp thì hệ số nợ tối ưu cao và ngược lại. Thái độ của nhà quản lý đối với rủi ro : Nhà quản trị ghét rủi ro không muốn sử dụng vốn nợ nhiều cho nên hệ số nợ tối ưu có xu hướng thấp. Tối ưu hoá cơ cấu vốn là duy trì hệ số nợ ở mức làm cho phí tổn sử dụng vốn của doanh nghiệp thấp nhất và do đó giá trị của nó cao nhất. Hạn chế mức rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính công ty: Rủi ro kinh doanh của công ty là sự bất định của thu nhập ròng khi công ty không sử dụng vốn nợ, được đo lường bằng độ giao động của tỉ suất thu nhập ròng trên vốn chủ sở hữu do sự thay đổi của các điều kiện kinh tế, các điều kiện hoạt động của công ty. Cụ thể rủi ro kinh doanh của công ty cao hay thấp phụ thuộc vào các nhân tố sau: Sự thay đổi nhu cầu sản phẩm xây lắp của công ty trên thị trường Sự thay đổi giá bán sản phẩm do áp lực cạnh tranh hay quan hệ cung cầu Sự thay đổi giá cả của các loại nguyên, vật liệu xây dựng trên thị trường làm ảnh hưởng đến chi phí hoạt động và do đó tác động đến thu nhập Những yếu tố trên là nhân tố chính gây ra rủi ro kinh doanh cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có vốn nợ trong cơ cấu vốn thì rủi ro của doanh nghiệp sẽ gia tăng do tồn tại của rủi ro tài chính. Rủi ro tài chính là sự biến động của thu nhập ròng do ảnh hưởng của chi phí trả lãi vay cố định khi tình hình kinh tế biến động . Để hạn chế sự biến động giá đầu vào hay đầu ra nhằm ổn định dòng thu nhập dự kiến công ty có thể sử dụng kỹ thuật “Hedge” trên thị trường tài chính. Nếu công ty muốn ổn định gía đầu vào hay chặn không cho giá vật tư nguyên liệu biến động tăng vượt quá mức có thể chấp nhận được công ty nên mua nguyên vật liệu thông qua hợp đồng tương lai. Công ty cũng nên trích các quỹ dự phòng sự biến động giá trị các loại tài sản nhằm giảm thiểu tổn thất khi có sự biến động bất lợi của thị trường. Theo các chuyên gia tài chính, thì hệ số nợ của công ty không nên vượt quá 0.55. Ngoài ra, công ty cần phải dự trữ hệ số nợ cho những trường hợp khẩn cấp khi cần có nguồn tài chính tức thời để giải quyết những tổn thất không mong muốn như khi hoả hoạn xảy ra hay taì sản bị phá huỷ do động đất, bão lụt. Trong thực tế, khi mức rủi ro công ty càng cao thì nhà đầu tư càng kì vọng mức sinh lời cao và doanh nghiệp sẽ bị định giá thấp nếu mức thu nhập kiếm được không tăng hoặc tăng không tương xứng. 5 Nâng cao chất lượng các quyết định đầu tư 5.1 Trong đầu tư mới Quyết định đầu tư là một trong những quyết định tài chính quan trọng vì sai lầm không thể sửa chữa được cho nên trước khi quyết công ty nên xem thẩm định dự án nhiều góc độ, hiệu quả tài chính cũng như hiệu quả kinh tế- xã hội. Thực tế hiện nay , khi thẩm định tài chính thì các dự án đầu tư các công ty thường sử dụng chiết khấu k bằng với lãi suất vay vốn dài hạn của ngân hàng và cách làm này có bốn điều không ổn thoả sau Đánh gía đồng mức rủi ro của dự án đầu tư mới với mức rủi ro cho vay vốn có tài sản thế chấp Bỏ qua chi phí đầu tư cơ hội của vốn tự có của doanh nghiệp Không xem xét lợi thế về thuế của vốn nợ Không tính đến phí tổn sử dụng vốn của công ty hay nói cách khác là không quan tâm đến tỉ suất sinh lợi kỳ vọng của nhà đầu tư Do vây, để nâng cao chất lương của quyết định đầu tư công ty nên xác định suất chiết khấu thích hợp để xác định hiện gía thuần của dự án. Nếu dự án có mức rủi ro trung bình tức là khi đầu tư vào dự án này không làm thay đổi tình trạng rủi ro hiện tại của doanh nghiệp thì suất chiết khấu nên lấy bằng đúng với mức phí tổn sử dụng vốn trung bình chỉ trọng của công ty được xác định căn cứ vào phương án tài trợ vốn cho dự án. Hiện giá thuần sẽ được xác định như công thức sau: n NCFt NPV= ∑ ––––––— + Co f =1 (1+WACC)t Giá trị dương của NPV là giá trị tăng thêm của công ty sau khi dự án được đầu tư và lợi ích kỳ vọng của nhà đầu tư đã được thoả mãn. Mức sinh lời tối đa của dự án thể hiện qua tỉ suất sinh lời thu nhập nội tại (IRR) và được xác định IRR= k* khi NPV=0 Trong đó NCFt là lưu kim ròng của dự án, bao gồm thu nhập ròng và chi phí khấu hao hàng năm ; Co là tổng chi phí đầu tư tại thời điểm dự án vào hoạt động(t=0) ; WACC là phí tổn vốn trung bình chỉ trọng của vốn tài trợ cho dự án và n là chu kỳ của dự án đầu tư xác định vào thời giaíaử dụng của thiết bị. Tỉ suất nội tại (IRR) là khả năng sinh lời tối đa của dự án hay mức phí tổn vốn trung bình chỉ trọng cao nhất mà công ty chấp nhận đầu tư vào dự án. NPV >= 0 nghĩa là khả năng sinh lời của dự án cao hơn hoặc ít nhất là =với phí tổn trung bình chỉ trọng của vốn tức là IRR>WACC. Khi NPV>0 thì dự án được chọn vì nó làm gia tăng giá trị công ty 1 lượng bằng đúng với giá trị của NPV. Nếu NPV= 0 , có nghĩa tỉ suất thu nhập nội tại dự án (IR) đúng bằng phí tổn sử dụng vốn, và giá trị công ty không thay đổi cho dù dự án được đầu tư Đầu tư là một hoạt động rủi ro vì kết quả đầu tư thực tế không phải là 1 giá trị chắc chắn và được biết trước. Khi thẩm định dự án, chúng ta dựa vào những kết quả dự báo hay kết quả kỳ vọng và kết quả thực tế chỉ được biết chắc chắn khi dự án đã được thực hiện và hoàn tất. Kết quả thực tế có thể khác xa với kết quả kỳ vọng. Khi đầu tư vào 1 dự án đồng nghĩa việc từ bỏ 1 lượng giá trị của cải hiện có để đổi lấy cơ hội sở hữu một dòng thu nhập không chắc chắn trong tương lai. 5.2.Trong danh mục đầu tư Khi doanh nghiệp đầu tư vào 1 dự án mới tình trạng rủi ro của nó đã thay đổi, mức độ rủi ro của doanh nghiệp có thể tăng hay giảm đi tuỳ thuộc và sự tương quan giữa dự án mới với các dự án đang thực hiện. Vì vậy, khi lựa chọn các dự án đầu tư công ty phải tính đến sự tương quan giữa dự án mới với các hoạt động hay dự án hiện đang được thực hiện . Độ rủi ro của danh mục đầu tư mới phụ thuộc 2 yếu tố : Rủi ro đặc thù của dự án mới và Hệ số tương quan của tài sản mới được đầu tư với các tài sản hiện có trong quá trình tạo ra dòng thu nhập kỳ vọng cho công ty. Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bằng độ phân tán của tỉ suất sinh lời kỳ vọng của danh mục đầu tư. Nếu gọi mức rủi ro của danh mục đầu tư bao gồm 2 dự án A và B là δp thì δp sẽ được xác định theo công thức sau : δp = Trong đó , δa và δb là mức độ giao động của thu nhập kỳ vọng của dự án A và B tương ứng Wa, Wb là chỉ trọng vốn đầu tư vào dự án A, B tương ứng ,Pab là hệ số tương quan giữa dự án A,B với Pab thuộc {-1,1} . Nếu Pab= 1 thì A,B tương quan thuần hoàn hảo, ngược lại Pab=-1 có nghĩa A,B tương quan nghịch hoàn hảo. Pab=0 thì A,B hoàn toàn độc lập. Sự phụ thuộc chặt chẽ giữa tài sản mới đầu tư với tài sản hiện có sẽ không cải thiện được mức độ rủi ro của danh mục đầu tư mới. Ngược lại, tương quan nghịch có thể giảm đáng kể hoặc có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro đặc thù của doanh nghiệp. Nếu dự án mới làm tăng tình trạng rủi ro của công ty thì công ty nên điều chỉnh suất chiết khấu theo hướng tăng thêm x%. Độ lớn của x tuỳ thuộc vào mức rủi ro của người ra quyết định . Khi suất chiết khấu tăng sẽ làm giảm hiện giá thuần và do đó sẽ giảm khả năng chấp nhận dự án hay nói cách khác khi quyết định đầu tư nhà quản trị tài chính trở nên thận trọng hơn và kiểm soát tốt hơn tình trạng rủi ro của doanh nghiệp. III.Các đề xuất lên ban lãnh đạo công ty và kiến nghị với cơ quan nhà nước 1. Đề xuất lên ban lãnh đạo 1.1 Cần tăng cường vai trò kiểm soát tài chính của công ty sau cổ phần hoá Hoạt động kiểm soát tài chính trong công ty nhằm đảm bảo tính chính xác của các số liệu kế toán tài chính và tính minh bạch của hoạt động quản trị tài chính của công ty. Vai trò và hiệu quả kiểm soát tài chính được nâng cao giúp công ty kịp thời điều chỉnh các hoạt động bị chệch hướng, góp phần giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp cũng như cho các nhà đầu tư trên thị trường vốn và phát triển thị trường tài chính nền kinh tế.` Hoạt động giám sát tài chính không chỉ được thực hiện bởi ban kiểm soát công ty mà còn được thực hiện bởi các cổ đông, người mua cổ phiếu của công ty , ngân hàng tổ chức cho công ty vay vốn các cơ quan quản lý doanh nghiệp. Hoạt động kiểm soát này nhằm bảo đảm các hoạt động của doanh nghiệp đi đúng hướng, không phạm luật, không gây phương hại cho những người có quyền lợi liên quan đến nó như người lao động, nhà cung cấp đầu vào, khách hàng và Chính phủ. Hoạt động kiểm soát tài chính chỉ được thực hiện chỉ khi các thông tin kiểm toán tài chính được công bố rộng rãi và sẵn có cho mọi người vì khi không có đầy đủ thông tin để phân tích đánh giá thì hoạt động kiểm soát hay giám sát chỉ là hình thức và tình hình đó sẽ dẫn đến các kết quả khó lường. Do đó việc xem xét công khai hoá tài chính và có khung hình phạt nhằm bảo đảm sự thực thi nguyên tắc này. 1.2 Sử dụng các biện pháp khuyến khích Hệ thống các biện pháp khuyến khích dựa trên cơ chế thị trường cần được thực hiện nhằm khuyến khích ban quản lý và người điều hành cao cấp của công ty nỗ lực làm việc Mức thù lao của thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát và Tổng giám đốc điều hành phải đủ để thu hút , khuyến khích và giữ họ ở lại công ty và do Đại hội đồng cổ đông thường niên thông qua. Một phần trong tiền lương các thành viên tham gia điều hành trong Hội Đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành phải dựa trên cơ sở công việc quyết định mức lương của chính họ. Hội đồng quản trị cần thành lập một Ban tiền lương khen thưởng trực thuộc Hội đồng quản trị có nhiệm vụ quyết định và đưa ra kiến nghị lên Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông thường niên về chế độ tiền lương của thành viên Hội đồng quản trị tham gia điều hành công ty và Tổng giám đốc điều hành. Ban tiền lương, khen thương : Phải được thành lập riêng biệt với thành phần là các thành viên Hội đồng quản trị không tham gia điều hành công ty, độc lập đối với ban giám đốc và không ràng buộc với bất kỳ hoạt động kinh doanh hay mối quan hệ nào khác có thể ảnh hưởng về vật chất đối với việc thực hiện đánh giá độc lập của họ. Cần kiến nghị lên Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông thường niên trong khuôn khổ các điều khoản tham chiếu đã thoả thuận, về chính sách, khuôn khổ của cơ chế tiền lương cho các cán bộ quản lý của công ty cũng như chi phí của chế độ lương thưởng, đồng thời thay mặt cho Hội đồng quản trị quyết định toàn bộ mức lương và trợ cấp cụ thể( bao gồm quyền nhận lương hưu và bất kỳ khoản thanh toán bồi thường nào). Đối với từng thành viên hội đồng quản trị tham gia điều hành công ty và Tổng giám đốc điều hành . Phải xin ý kiến của Ban tiền lương khen thưởng đối với mức lương của Hội đồng quản trị( không bao gồm chủ tich), đồng thời có ý kiến tư vấn từ bên trong và bên ngoài công ty. Phải trình một bản báo cáo kế toán của công ty, đưa ra danh sách các thành viên của Ban tiền lương khen thưởng, chính sách tiền lương của công ty và mức lương cụ thể cho mọi thành viên của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành. Tiền lương của thành viên Hội đồng quản trị không tham gia điều hành công ty và của Ban kiểm soát phải do Đại hội đồng cổ đông thường niên quyết định Ngoài tiểu ban lương thưởng, các công ty cần thiết phải lập ra các tiểu ban chuyên trách nhằm làm cho công tác quản trị được tốt hơn. 1.3 Chuẩn bị các thủ tục, điều kiện để niêm yết công ty trên thị trường chứng khoán. Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi cơ bản của người mua chứng khoán.... Để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Muốn vậy, công ty phải soạn ra một bản cáo bạch hay bản công bố thông tin. Bản cáo bạch là một lời mời chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của công ty phát hành. Bản cáo bạch phải bao gồm những thông tin liên quan đến đợt phát hành. Do đó, thông tin đưa ra trong bản cáo bạch sẽ gắn với các điều khoản thực hiện lời mời hay chào bán. bản cáo bạch được lập xong để gửi lên Uỷ ban chứng khoán nhà nước xem xét, gọi là bản cáo bạch sơ bộ. Khi được uỷ ban chứng khoán nhà nước chấp thuận thì được gọi là bản cáo bạch chính thức. Bản cáo bạch phải bao gồm những thông tin chính sau : Trang bìa ; Tóm tắt Bản cáo bạch ; Các nhân tố rủi ro ; Các khái niệm ; Chứng khoán phát hành ; Các đối tác liên quan tới đợt phát hành ; Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành ; Phụ lục. 2 Các kiến nghị với cơ quan nhà nước 2.1 Xoá bỏ ưu đãi tín dụng để thúc đẩy DNNN sau CPH huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Điều kiện ưu đãi tín dụng đối với DNNN sau CPH có cổ phần chi phối sẽ hạn chế động cơ phát hành cổ phiếu để huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Việc phát hành CP mới có nguy cơ làm nới lỏng quyền kiểm soát công ty của các cổ đông cũ. Ưu đãi về tín dụng vô hình chung làm cho rủi ro tài chính của doanh nghiệp thấp khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Vậy, nếu điều này được áp dụng thì hiệu quả sử dụng vốn của công ty sẽ được cải thiện, đem lại những kết quả tích cực cho nền kinh tế và sẽ làm tang thêm hàng hoá cho thị trường chứng khoán trong giai đoạn này 2.2 Phát triển thị trường chứng khoán chính thức. Cơ chế định giá giá trị CTCP nhằm tạo động lực nâng cao hiệu quả QTTC của doanh DNNN sau cổ phần. Để tạo cung cầu chứng khoán thật sự cần phải làm phong phú hàng hoá trên TTCK và làm cho TTCK trở thành nơi đầu tư đáng tin cậy, nơi mà nhà đầu tư cho rằng quyền lợi chân chính của họ được bảo vệ. TTCK không chỉ là thị trường đầu tư mà còn là 1 cơ chế để các doanh nghiệp thực hiện các nghiệp vụ tài chính nhằm ngăn ngừa và phòng chống rủi ro. Do vậy chính phủ nên hoàn thiện 1 khung pháp lý chặt chẽ, rõ ràng nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoaì nước . Hiện nay có nhiều vấn đề còn bỏ ngõ như việc mua bán thông tin nội giám sẽ bị xử lý như thế nào ? Nếu nhầ đầu tư còn thiếu niềm tin vào tính minh bạch của các thông tin tìa chính mà các CTCP niêm yết cung cấp và còn nghi ngờ tính hiệu lực của các qui định pháp lý về đầu tư kinh doanh chứng khoán thì thị trường chứng kháo không thể phát triển vững chắc 2.3 Ban hành kịp thời các văn bản tháo gỡ vướng mắc cổ phần hoá Sau cổ phần hoá xuất hiện nhiều vướng cần xử lý . Biện pháp xử lý các vướng mắc từ các cơ quan nghiên cứu về CPH có thể áp dụng cho nhiều doanh nghiệp. Khi không có những hướng dẫn xử lý một cách thống nhất sẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp lúng túng, mất nhiều thời gian và việc xử lý khác nhau gây tranh cãi trong doanh nghiệp. Những vướng mắc cần xử lý kịp thời và những cái đã được tháo gỡ phải thông báo rộng rãi.Cần thống nhất đầu mối xử lý giải quyết các vấn đề sau cổ phần hoá và cần ban hành cơ chế đấu giá mua cổ phiếu trong doanh nghiệp. Kết luận : Hiệu quả quản trị tài chính của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó bao gồm các yếu tố tác động từ môi trường bên ngoài và những điều kiện đặc thù của doanh nghiệp. Do đó, để cải thiện hiệu quả hoạt động quản trị tài chính công ty không chỉ ý thức tự thân là phải không ngừng hoàn thiện các mặt hoạt động của nó mà còn tạo ra những áp lực từ môi trường bên ngaòi thúc đẩy, ép buộc phải hoàn thiện nếu muốn tồn tại và phát triển. Phương thức quản lý của doanh nghiệp do môi trường kinh doanh áp đặt và mực tiêu quản lý ảnh hưởng quyết định đến việc tổ chức thực hiện mục tiêu. Một khi mục tiêu quản đã được xác định rõ ràng và việc tổ chức thực hiện mục tiêu tốt thì hiệu quả quản lý sẽ được nâng cao. Kết luận Hiệu quả quản lý về mặt tài chính phù hợp với Công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 tức là vừa quản lý tài chính chặt chẽ theo pháp luật vừa tạo điều kiện cho công ty phát triển trong nền kinh tế ngày càng cạnh tranh và xu thế hội nhập ngày nay. Trong quá trình thực tập, khảo sát thực tế tại công ty Cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1 em đã đi sâu nghiên cứu, phân tích đề tài ‘ Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản trị tài chính của công ty cổ phần đầu tư thương mại xây lắp 1’ một cách nghiêm túc. Về mặt quản trị, từ xưa đến nay quản trị tài chính vẫn luôn là lĩnh vực khó khăn,phức tạp nhất. Nhất là khi công ty vừa mới chuyển đổi sang hình thức cổ phần .Có rất nhiều thay đổi đòi hỏi việc quản trị tài chính phải được điều chỉnh phù hợp với cơ chế mới. Trên cơ sở tiếp cân với thực tế và tổng hợp lý thuyết em đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiên hoạt động quản lý của công ty phù hợp với cơ chế mới. Em hy vọng với những đề xuất này, sẽ được ban lãnh đạo Công ty xem xét và đưa vào áp dụng để hoàn thiện hiệu quả quản lý tài chính trong công ty. Vì thời gian thực tập có hạn và do trình độ lý luận chưa cao trong quá trình nghiên cứu không tránh khỏi những thiếu sót và những vấn đề bất cập, em mong muốn sự chỉ bảo của các cô, chú, anh, chị trong Công ty, đặc biệt sự hướng dẫn của cô Hoàng Thị Thanh Hương, người đã tận tình giúp đữ em hoàn thành tốt bản chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Thị trường chứng khoán và quản trị công ty - Uỷ ban chứng khoán nhà nước 2. Phân tích báo cáo tài chính - Khoa kế toán 3. Giáo trình Phân tích hoạt động kinh doanh - Khoa kế toán 4. Giáo trình thống kê doanh nghiệp - Khoa thống kê 5. Tạp chí bất động sản- 89/2006 6. Tạp chí xây dựng- số 12/2005 7. Tạp chí kinh tế và dự báo số 5/ 2001 8. Tạp chí đầu tư khoa học số 126 tháng 5/2002 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31967.doc
Tài liệu liên quan