Trung tâm cần phải mở rộng mạng lưới kênh phân phối sang những địa bàn lân cận như mở thêm một số văn phòng đại diện ở khu vực phía Bắc và một số tỉnh ở miền Trung. Bên cạnh đó có các chính sách thưởng, phạt đối với các thành viên của kênh. Đối những kênh làm kém hiệu quả thì phải kỷ luật thật nghiêm như trừ vào tiền lương, nếu nặng hơn thì sa thải.
Công tác đào tạo, tuyển chọn nhân viên kênh phân phối phải được tổ chức thường xuyên hơn như mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn. Thiết lập kênh phân phối trực tiếp tới khách hàng để gây được mối thiện cảm với khách hàng cụ thể Trung tâm phải có một danh sách cụ thể về các doanh nghiệp, danh sách này có thể lấy qua danh bạ hoặc là điều tra, sau khi đã có danh sách Trung tâm có thể gửi thư mời hoặc liên hệ trực tiếp qua điện thoại.
4.Xúc tiến hỗn hợp
Trung tâm phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu marketing ,đặc biệt là thị trường mà mình thâm nhập nhằm phát hiện nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Việc xác định đúng cho phép Trung tâm phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu, thuận lợi cho công tác đánh giá đối tượng hay khách hàng mục tiêu. Việc làm này là rất cần thiết bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế thông điệp quảng cáo và lựa chọn chiến lược truyền thông được lượng hoá thông qua các phương tiện quảng cáo. Ngoài ra phải thường xuyên cập nhập thông tin về thị trường. Thông tin có thể được khai thác từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng có hai loại chính là thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Đối với thông tin thứ cấp có thể lấy được thông qua (sách, báo, ấn phẩm, phim ảnh, mạng internet.v.v.).Thông tin sơ cấp có thể lấy qua các cuộc điều tra, nghiên cứu thị trường. Nguồn thông tin này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định sau này.
Trung tâm cần phân tích, đánh giá các hoạt động xúc tiến dặt biệt là các chương trình quảng cáo do mình làm chủ phương tiện trong mối liên hệ với các hoạt động marketing và chiến lược kinh doanh, bởi vì lựa chọn công cụ nào phải dựa trên tiền lực tài chính của Trung tâm, mục tiêu cũng như các chiến lược khác để làm sao đạt hiệu quả cao nhất. Trong trường hợp này Trung tâm cần cân nhắc khi lựa chọn phương tiện truyền thông hay khuyến mãi phương tiện nào quan trọng thì cần phải tập trung và đầu tư nhiều hơn còn các hoạt động khác đóng vai trò hiểm trợ. đối với Trung tâm do kinh doanh trong trong lĩnh vực quảng cáo nên phải khai thác triệt để các chương trình mình sản xuất.
52 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp hoàn thiện Marketing mix tại Trung tâm khai thác và sản xuất chương trình Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, biên dịch đạo diễn các phương trình truyền hình, chịu trách nhiệm về nội dung của các chương trình.
Thứ tư, phòng kỹ thuật, chức năng, quản lý, bảo quản, vận hành hoạt động của hệ thống các trang thiết bị sản xuất ( kỹ thuật tiêu kỳ, hậu kỳ, thiết kế, kỹ sảo) và tư liệu truyền hình.
2. Phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh của trung tâm:
Trung tâm hoạt động theo phương thức hoạch toán báo số theo đúng quy định của luật pháp, chính sách nhà nước và quy chế biện hành của công ty.
Trung tâm chủ động giao dịch, đàm phám, triển khai thực hiện các hợp đồng sản xuất kinh doanh trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và phải nộp nghĩa vụ với công ty, cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với dự án sản xuất phim, sản xuất chương trình quảng cáo do trung tâm thực hiện phải ký hợp đồng với đơn vị có nhu cầu (khách hàng) và dự trữ kinh phí, quy định tạm thời về chế độ nhuận bút và thanh toán tài chính, làm chương trình phải trình giám đốc trước khi thực hiện.
Thứ hai, dịch vụ quảng cáo phải thực hiện đúng quy chế cơ quan, tổ chức dịch vụ hoạt động quảng cáo ( Đài phát thanh truyền hình Hà Nội, Đài truyền hình Việt Nam, các đài địa phương).
Thứ ba, trung tâm được phép thành hợp quỹ tiền lương tiền thưởng, dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi..... phù hợp với quy chế của công ty theo hướng dẫn của phòng kế toán tài chính và được giám đốc của công ty chấp thuận các phương án do trung tâm trình.
3. Chức năng và nhiệm vụ của trung tâm:
Trung tâm có các chức năng và nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, khai thác sản xuất các chương trình truyền hình cung ứng theo yêu cầu trên kênh truyền hình cáp của đài phát thanh truyền hình Hà Nội (HCTV)
Thứ hai, sản xuất chương trình truyền hình, các sản phẩm nghe nhìn theo đơn đặt hàng của các đơn vị cá nhân trong và ngoài nước.
Thứ ba, phát hành, in sao, băng đĩa các loại.
Thứ tư, cho thuê phương tiện, thiết bị sản xuất chương trình truyền hình.
Thứ năm, dịch vụ phát quảng cáo trên các đài phát thanh truyền hình của nước .
Thứ sáu, tiếp nhận quảng cáo trên kênh HCTV ( truyền hình cáp Hà Nội).
II. KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
Trung tâm mới đi vào hoạt động được gần một năm so sánh với tuổi đời các công ty quảng cáo khác là còn non trẻ, tuy nhiên trung tâm đã chứng tỏ cho lớp đàn anh để trước mình không thua kém gì họ. Trong thời gian hoạt động trung tâm đã đạt được những kết quả đáng khả quan, điều này được phản ánh qua kết quả kinh doanh.
Doanh thu trong 6 tháng đầu năm 2003 của trung tâm đạt 676.924.000đ
Doanh thu cả năm 1.545.095.000đ
Trung tâm đã sản xuất được tám phiếu quảng cáo, đăng ký mười bốn phiếu phát sóng quảng cáo, sản xuất hai mươi phim phóng sự, một chương trình liên hoan.
Để đạt được những thành công trên là nhờ vào nhiều yếu tố trong đó có cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan.
Yếu tố khách quan:
Thứ nhất, trên thị trường hiện nay còn khá hiếm các đơn vị sản xuất chương trình truyền hình chuyên nghiệp có đủ tư cách pháp nhân và trung thiết bị sản xuất chương trình theo yêu cầu, hầu hết trong số các công ty chi chuyển làm về một máy truy lĩnh việc quảng cáo.
Thứ hai, nền kinh tế hàng hoá càng phát triển thì nhu cầu quảng cáo của các doanh nghiệp ngày càng nhiều. Ngày nay quảng cáo đóng một vai trò khá quan trọng và là một công cụ kinh doanh không thể thiếu được đối với cá nhân, tổ chức, (bao gồm tổ chức chính phủ và phi chính phủ ) hoạt động kinh doanh. Quảng cáo là một chiếc cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng thông qua các thông điệp quảng cáo mà nhà sản xuất muốn truyền đạt tới khách hàng bất kỳ một doanh nghiệp nào khi tung sản phẩm mới ra thị trường họ đều tiến hành hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm của mình tới công chúng qua đó hứa hẹn họ sẽ đón nhận sản phẩm của mình. Đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn do vậy nhu cầu về quảng cáo càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết.
Thứ ba, mức sống chung toàn xã hội được nâng cao do vậy nhu cầu về sản xuất các chương trình vui chơi, giải trí, chương trình phim truyền thống đã được những cơ quan tổ chức, công ty, trường đại học đặt ra.
Những yếu tố chủ quan:
Được sự quan tâm ưu ái, tin tưởng của lãnh đạo công ty, đặc biệt là đội ngũ cán bộ nhân viên và cộng tác viên trẻ, năng động, nhiệt tình, được đào tạo đúng chuyên nghành, đồng tâm hiệp lực, sẵn sàng chịu khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
III.PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH
1.Môi trường vĩ mô
1.1.Môi trường kinh tế
Nền kinh tế càng phát triển thu nhu cầu quảng cáo của các cá nhân, tổ chức ngày càng nhiều ( bao gồm tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước) điều đó có nghĩa nhu cầu quảng cáo tỷ lệ thuận với sự phát triển kinh tế đất nước. Quảng cáo ngày càng đóng một vai trò quan trọng bởi tính hữu ích của nó mang lại, tính hữu ích ở chỗ là vừa có lợi cho nhà sản xuất, khách hàng và hơn thế nữa là xã hội. Như ta đã biết bất cứ một doanh nghiệp nào khi trung tâm sản phẩm mới ra thị trường công việc đầu tiên mà doanh nghiệp phải làm là tiến hành quảng cáo sản phẩm tới công chúng nhận tin ( bao gồm khách hàng mục tiêu và những người ảnh hưởng) qua đó tạo dựng niềm tin với khách hàng và thúc đẩy động cơ mua sắm. Quảng cáo không chỉ giúp doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm mà còn nâng cao uy tín, hình ảnh công ty trên thị trường.
Như vậy hoạt động quảng cáo là cần thiết, nó có thể được bỏ ra một khoản kinh phí khá lớn giành cho quảng cáo. Thị trường quảng cáo đang nóng dần lên, đây là một cơ hội tốt cho các cá nhân, tổ chức nhảy vào cuộc chơi cùng nhau chia sẽ phần thị trường.
1.2.Môi trường chính trị - luật pháp.
Môi trường chính trị luật pháp có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh không chỉ riêng gì Trung tâm mà còn cả các doanh nghiệp khác. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính trị cũng ảnh hưởng ít nhiều đến công ty chẳng hạn sự thay đổi về nhân sự trong bộ máy lãnh đạo, nội chiếu, sự tranh chấp giữa các đảng phái hoặc sự thay đổi chính sách,pháp luật, buộc công ty cũng phải điều chỉnh theo để thích ghi. Để đảm bảo sự ổn định và phát triển nhà nước phái ban hành pháp luật để điều chỉnh các quan hệ trong xã hội. Đứng trên góc độ quảng cáo với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ quảng cáo cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều công ty cơ sở quảng cáo thì việc nhà nước ban hành pháp luật quy định về hoạt động quảng cáo là một tất yếu. Dĩ nhiên là các văn bản này có tác động tới các hoạt động kinh doanh của công ty.
Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế phạm vi cạnh tranh không chỉ diễn ra giứa các ngành nghề mà trong nội bộ ngành. Trong đó trung tâm không nằm ngoài ngoại lệ. Ngày nay khi mà mức sống với người dân không ngừng được cải thiện và nâng lên với hoạt động vui chơI giải trí thì nhu cầu quảng cáo của các doanh nghiệp này ngày càng nhiều đây là điều kiện thuận lợi để trung tâm có thể duy trì và khai thác.
1.3.Môi trường công nghệ
Công nghệ đóng một vai trò tối quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và là công cụ hữu hiệu được sử dụng trong sản xuất kinh doanh. Bởi lẽ một công nghệ hiện đại tiên tiến sẽ góp phần tăng năng xuất lao động, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu khách hàng cũng thay đổi. Do đó đổi mới công nghệ là tất yếu khách quan. Để đổi mới công nghệ doanh nghiệp có thể tự chế tạo, sản xuất, hoặc thuê ngoài theo hình thức chuyển giao công nghệ ( Chủ yếu là công nghệ nước ngoài )
Cũng như các công ty kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo thì công nghệ có ý nghĩa đặt biệt đối vơí Trung tâm. Để từng bước hoàn thiện nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu khách hàng Trung tâm đã không ngừng hiện đại hoá máy móc trang thiết bị sản xuất nhưng do hạn chế về mặt tài chính nên khả năng mua sắm máy móc thiết bị có phần nào bị hạn chế. Do không có đủ các trang thiết bị xuất nên có một số hợp đồng quảng cáo mà trung tâm bỏ qua. Điểm hình là trong thời gian vừa qua Trung tâm có ký được hợp đồng về quảng cáo sữa. Mọi công đoạn trong quá trình sản xuất đều hoàn thành tốt ( Từ khâu viết kịch bản, biên tập, biên dịch, quay phim ) nhưng đến phần xử lý hình ảnh thì lại kém do không có thiết bị, chính vì vậy mà chất lượng chương trình không được cao.
Khắc phục những mặt yếu kém này , trong thời gian sắp tới Trung tâm sẽ đầu tư mua sắm thêm các trang thiết bị sản xuất mới như: Bàn dựng cơ phi tuyến, hệ thống lý bằng kỹ xảo hoạt hình 3D…
1.4.Môi trường văn hoá
Môi trường văn hoá có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp quảng cáo nói riêng và của các nghành khác nói chung. Văn hoá là các giá trị được một cộng đồng thừa nhận và chia sẻ, được đúc kết bởi một quá trình lâu dài. Một mẫu quảng cáo dù thành công ở quốc gia này nhưng chưa chắc đã thành công ở quốc gia khác. Nguyên do là nó không phù hợp về văn hoá. Yếu tố văn hoá đang len nỏi , thâm nhập vào mọi hoạt động quảng cáo. Ngày nay khi mà mức sống của người dân ngày càng nâng cao thì nhu cầu về vui chơi giải trí cũng tăng nên . Vì vậy văn hoá trong quảng cáo càng phải được chú trọng. Một mẫu quảng cáo phải là sự hài hoà cả về mặt nội dung lẫn hình thức. Nội dung phải phù hợp với phong tục tập quán, tôn giáo..tránh tình trạng quảng cáo vi phạm đạo đức, văn hoá.
2.Môi trường vi mô
2.1.Khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, việc khuếch trương tên tuổi và xây dựng một thương hiệu riêng cho mình là một trong những vấn đề hàng đầu mà doanh nghiệp chú ý khi xây dựng chiến lược kinh doanh. Một trong những biện pháp phổ biến nhất để xây dựng thương hiệu và hình ảnh công ty mà các doanh nghiệp thực hiện là hoạt động quảng cáo. Có rất nhiều hình thức quảng cáo ( Quảng cáo trên bảng hiệu, pano, báo , tạp chí, truyền thanh, truyền hình..). Có thể nói rằng hoạt động quảng cáo mang lại hiệu quả cao, nó không chỉ giúp công ty nâng cao hình ảnh uy tín của mình tên thương trường mà còn kích thích khả năng tiêu thụ sản phẩm.
Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi chất lượng của chương trình quảng cáo càng cao. Thông thường các doanh nghiệp thường lựa chọn các công ty có uy tín trên thị trường (Chủ yếu là công ty nước ngoài ) để quảng cáo cho sản phẩm. Một chương trình quảng cáo độc đáo, gây ấn tượng mạnh không chỉ giúp cho doanh nghiệp nâng cao hình ảnh, vị thế trên thị trường mà còn kích thích tiêu thụ. Chính vì vậy các công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng quảng cáo.
Cũng như các doanh nghiệp khác, khách hàng là đối tác không thể thiếu được với Trung tâm. Các đối tác của trung tâm bao gồm các đơn vị, cá nhân, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực sản xuất – kinh doanh. Trung tâm coi khách hàng là đối tác tin cậy dựa trên nguyên tắc bên đều có lợi, đặt chữ tín lên hàng đầu.
2.2.Đối thủ cạnh tranh.
Các nhà kinh doanh thường nói “ thương trường như chiến trường” hầu hết các doanh nghiệp khi bước vào lĩnh vực sản xuất- kinh doanh đều phải đối mặt rủi ro, thách thức rủi ro lớn nhất là áp lực từ phía đối thủ cạnh tranh. Với sự xuất hiện này đã làm giảm đi sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường bởi lẽ thị phận thu hẹp đó phải san sẻ cho các đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp nâng cao được vị thế của mình. Ngày nay các công ty quảng cáo đặc biệt là các công ty quảng cáo nước ngoài xuất hiện ngày càng nhiều, dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp tác, liên doanh, hoặc thành lập các văn phòng đại diện, với đội ngũ có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu khách hàng. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các công ty quảng cáo càng làm cho thị trường quảng cáo thêm nóng bỏng, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Với trung tâm thì đây là mối deo doạ rất lớn. Các đối thủ canh tranh của trung tâm chủ yếu các công ty quảng cáo, đài truyền thanh truyền hình trong nước ( Đài truyền hình Việt Nam, truyền hình cáp Việt Nam VCTV, truyền hình kỹ thuật số VTC của bộ bưu chính viễn thông, các đài truyền hình địa phương)
IV. PHÂN TÍCH MA TRẬN SWOT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA TRUNG TÂM
1. Điểm mạnh (S – strength)
Ngay từ những ngày đầu đi vào hoạt động Trung tâm đã gặp không ít khó khăn về cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ nhân viên nhưng bằng sự nỗ lực, ý chí tự lực tự cường chỉ trong một thời gian ngắn Trung tâm đã khắc phục được khó khăn và trở thành một đối thủ mạnh trên thị trường.
Được trang bị bởi đội ngũ cán bộ nhân viên trẻ, nhiệt tình sáng tạo, tận tâm với công việc, nắm bắt nhanh những thay đổi thị trường sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mặc khác các thành viên đều được đào tạo qua trường lớp ,đúng chuyên môn.
Ngoài ra Trung tâm có lợi thế hơn các đối thủ cạnh tranh khác là một đơn vị trực thuộc sự quản lý của đài phát thanh truyền hình Hà Nội nên
có sự hỗ trợ về máy móc, trang thiết bị hiện đại, sự hỗ trợ tài chính để sản xuất các chương trình như phim quảng cáo , phim truyền hình …Bên cạnh đó Trung tâm có thể sử kênh phát sóng trên truyền hình các Hà Nội để quảng cáo cho dịch vụ của mình với chi phí thấp .
2. Điểm yếu ( W- weakness)
Trung tâm có hơn 30 thành viên nhưng số lượng nhân viên có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao chiếm tỷ số nhỏ, phần lớn nhân viên được đào tạo qua trường lớp nhưng không chuyên nghiệp. Ví dụ: một nhân viên quảng cáo tốt nghiệp trường Đại học Mỹ thuật anh ta có kiến thức về mỹ thuật nhưng lại không có tư duy về kinh tế. Vì vậy không đạt hiệu quả cao. Một nhà quảng cáo chuyên nghiệp thì không những phải am hiểu về quảng cáo mà còn phải nắm bắt được tình hình thị trường để mà đưa ra những chiến lược thích hợp. Các nhân viên của trung tâm cũng rơi vào tình trạng như vậy. Đây là một điểm yếu mà trung tâm cần phải khắc phục.
Ngoài ra công tác nghiên cứu marketing, quảng cáo chưa được chú trọng. Phần lớn các chương trình quảng cáo mới chỉ dừng lại ở khâu phát sóng trên truyền hình.
Đàm phán, giao dịch với khách hàng là khâu rất quan trọng bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả sản xuất kinh doanh. Trong quá trình đàm phám với đối tác Trung tâm còn gặp nhiều khó khăn .Nguyên nhân chính là do khâu chuẩn bị chưa cẩn thận, còn nóng vội nên nhiều hợp đồng bị bỏ lỡ.
3. Cơ hội (O-opportunities)
Nền kinh tế ngày càng phát triển, do vậy nhu cầu quảng cáo của cá nhân, tổ chức (bao gồm tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ) các doanh nghiệp ngày càng xuất hiện nhiều và đây là một cơ hội tốt để Trung tâm có thể khai thác triệt để các khúc thị trường, mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao thị phần trên thị trường.
Là cơ hội để tăng lợi nhuận giảm chi phí do cầu về quảng cáo tiếp tục tăng. Theo kết quả đánh giá của các chuyên gia quảng cáo thì trong những năm tiếp theo số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ngày càng tăng, Do vậy nhu cầu về quảng cáo, giới thiệu doanh nghiệp sẽ tăng.
4. Đe doạ (T- threats)
Cơ hội ngày càng nhiều bao nhiêu thì mối đe doạ càng nhiều bấy nhiêu đặt biệt khi đất nước hội nhập nền kinh tế khu vực (AFTA) và quốc tế càng làm cho tình hình cạnh tranh thêm khốc liệt hơn "như dầu đổ vào lửa". Đe dọa thì nhiều nhưng đe dọa lớn nhất từ phía trung tâm là từ phía đối thủ cạnh tranh. Các đối thủ cạnh tranh ngày càng xuất hiện nhiều cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Nếu như vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX số lượng các doanh nghiệp quảng cáo chỉ chiếm số lượng nhỏ khoảng hơn 100 doanh nghiệp thì cho đến hiện tại đã lên tới gần 1000 doanh nghiệp. Theo dự báo của Cục Thống Kê con số này sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Phần lớn các doanh nghiệp được trang bị máy móc, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến của nước ngoài với đội ngũ chuyên gia giỏi được đi học và đào tạo ở nước ngoài. Ngoài ra sự xuất hiện của một số lượng lớn các công ty quảng cáo nước ngoài với nhiều hình thức như liên doanh liên kết, mở các văn phòng đại diện trên khắp đất nước. Mục đích chính của họ là khai thác các hợp đồng từ phía khách hàng rồi chuyển về nước sở tại có kỹ thuật hiện đại hơn. Với sự xuất hiện nay không chỉ gây khó khăn cho bản thân Trung tâm mà còn cho các doanh nghiệp khác.
Khách hàng đóng một vai trò rất quan trọng, nó là nguồn cung cấp đầu vào nhưng đồng thời cũng là mối đeo doạ cho trung tâm. Trong xu thế ngày nay khi mà mức sống của người dân được nâng cao thì nhu cầu về vui chơi giải trí cũng tăng theo. Tuy nhiên nhu cầu đòi hỏi của họ ngày càng cao và khách hàng trở nên khó tính hơn.Cũng như các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp cũng phải cân nhắc khi ra quyết định lựa chọn công ty quảng cáo. Họ sẽ mở rộng kênh thông tin để lựa chọn đánh giá khi ra quyết định. Các tiêu chí của họ chủ yếu tập trung vào: giá cả, chất lượng…
V. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MARKETING MIX TẠI TRUNG TÂM SẢN XUẤT VÀ KHAI THÁC TRUYỀN HÌNH HÀ NỘI
1.Sản phẩm
1.1.Thực trạng sản phẩm
Như chúng ta đã biết sản phẩm là mọi thứ có thể đen chào bán trên thị trường để chú ý mua sử dụng hay tiêu dùng, có thể thoả mãn được một mong muốn hay nhu cầu. Sản phẩm có hai loại ,sản phẩm vô hình và sản phẩm hưu hình . Khác với các loại doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác là sản phẩm của họ được sản xuất và đem chào bán trên thị trường. Với Trung tâm do kinh doanh trong lỉnh vực dịch vụ nên có những điểm giống và khác so với các doanh nghiệp sản xuất. Điểm giống nhau là ở chỗ , Trung tâm sản xuất các chương trình phục vụ nhu cầu của khách hàng mà sản phẩm của nó là các phim (phim quảng cáo ,phóng sự, phim giới thiệu doanh nghiệp…) và cũng tuân thủ theo các quy trình sản xuất (Từ khâu sáng tạo, hình thành ý tưởng, viết kịch bản và quay ) nếu xét về hình thức thì nó là sản phẩm vô hình.
Điểm khác nhau cơ bản là ngoài việc sản xuất các chương trình Trung tâm còn thực hiện các dịch vụ khác như cho thuê máy móc trang trang thiết bị phục vụ các nhu cầu khách hàng như máy quay, bàn dựng phi tuyến…Thực hiện phát sóng các chương trình chủ yếu là chương trình quảng cáo trên truyền hình vì nó phù hợp với chức năng nghiệp vụ của Trung tâm . Trọng tâm là phát sóng trên truyền hình Hà Nội. Bên cạnh các dịch vụ trên còn có dịch vụ in sao băng đỉa theo đơn đặt hàng.
Ngoài ra Trung tâm còn xúc tiến mở rộng các loại hình dịch vụ của mình .Ví dụ, sản xuất các chương trình phục vụ kênh HCTV. Sản phẩm của chương trình tập trung vào thể loại phim truyện, các trò vui chơi giải trí . Hiện nay Trung tâm đang đấu thầu kênh phát sóng quảng cáo trên truyền hình cáp nếu trúng thầu Trung tâm sẽ sản xuất và khai thác các chương trình. Như chúng ta đẫ biết truyền hình cáp không còn xa lạ gì đối với mọi người dân và ngày càng được công chúng lắp đặt. Không những thế nó sẽ mở ra cho Trung tâm các cơ hội kinh doanh trong việc phát triển và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ mà các đối thủ cạnh tranh không có. So với các sản phẩm hay dịch vụ của các công ty kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo thì dịch vụ của Trung tâm có nhiều ưu điểm hơn : Một là ngoài chức năng chính là sản xuất các chương trình quảng cáo Trung tâm còn triển khai các loại hình dịch vụ như các hoạt động tài trợ , cho thuê máy móc, trang thiết bị trong khi đó trên thị trường chỉ có một số ít các công ty có dịch vụ này. Thứ hai là Trung tâm có lợi thế là sử dụng kênh phát sóng riêng của mình để thực thi.
Xét về chất lượng các chương trình ngày càng được nâng lên, từng bước khẳng định uy tín trên thị trường. Các dịch vụ ngày càng được khách hàng tín nhiệm và đánh giá cao. Số lượng khách hàng có nhu cầu chảy vào công ty mỗi lúc một nhiều. Theo kết quả báo cáo của trung tâm ,trong quý I năm 2004 số lượng khách hàng ký hợp đồng là khá cao gần 10 hợp đồng trong đó nhiều hơp đồng có giá trị lớn hàng 100 triệu đồng, ngoài ra có nhiều đối tác đang trong giai đoạn đàm phám . Bên cạnh đó hợp đồng cho thuê máy móc trang thiết bị , dịch vụ mới như tài trợ có nhiều dấu hiệu khởi sắc. Tài trợ mới được đưa vào là chức năng mới của Trung tâm. Ngay trong những ngày đầu hoạt động mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về mặt nhân lực nhưng bằng chính sự nnỗ lực phấn đấu của nhân viên, chương trình tài trợ đẫ sớm theo kịp các công ty kinh doanh trong trong lĩnh vực này và đang từng bước khẳng định uy tín của mình. Tuy thời gian làm tài trợ ngắn chưa đầy một năm nhưng Trung tâm đã kêu gọi được nhiều doanh nghiệp tài trợ cho chương trình khoảng 4-5 chương trình tài trợ. Rõ ràng tài trợ là một chức năng quan trọng của Trung tâm .
Để đạt được kết quả này là do nhiều nguyên nhân nhưng tập trung vào những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, được sự hỗ trợ về mặt tài chính từ công ty nên nhiều hợp đồng đẫ được thực thi, bởi lẽ để sản xuất một chương trình quảng cáo phải tiêu tốn đến hàng trăm triệu nếu điều kiện tài chính eo hẹp thì khó lòng có thể thực thi. Cũng như công ty khác thì trước khi đối tác làm việc với ta thì vấn đề trước tiên mà họ đánh giá là uy tín, giá cả và khả năng tài chính.
Thứ hai,do lợi thế là kênh truyền hình Hà Nội nên chương trình được sản xuất ra là có thể trực tiếp phát sóng mà không phải thông qua một khâu trung gian nào.
Thứ ba, một yếu tố rất quan trọng để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh là nhân tố con người. Con người được coi là yếu tố then chốt quyết định sự thành công hay thất bại. Bởi lẽ sản phẩm là do con người tạo ra, là sự kết tinh trí tuệ, sức sáng tạo nhưng khác với các doanh nghiệp khác quảng cáo là nghệ thuật
2.Giá cả
Theo kinh tế học giá cả là sự thoả thuận giữa người mua và người bản trên thị trường, chỉ khi người bán đồng ý bán và người mua đồng ý mua thì giá cả được hình thành. Người bán muốn bán ở mức giá cao nhằm tối đa hoá lợi nhuận ttrong khi đó người mua lại muốn mua ở mức giá thấp nhằm tối thiểu hoá chi phí.
Ngày nay các công ty sử dụng giá như là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường, giá cả phản ánh chất lượng sản phẩm , theo thông lệ giá cao thì chất lượng cao và ngược lại tức là (Tiền nào của đấy) .Có rất nhiều cách khác nhau để định giá cho sản phẩm nhưng thường thì các doanh nghiệp định giá bằng cách cộng lời vào chi phí. Với các công ty lớn thì họ lại có cách định giá khác, để làm sao với mức giá đó có thể vừa túi tiền của người tiêu dùng mà vẫn đảm bảo có lãi.
Thật vậy để định giá cho sản phẩm mà là vô hình thì không đơn giản chút nào chẳng hạn các dịch vụ vui chơi, giải trí, ngân hàng, bảo hiểm,…Mỗi một loại hình dịch vụ đều có cách định giá khác nhau.Đối với Trung tâm do kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ nên có cách định giá khác so với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm . Thông thường thì tuỳ từng loại hình dịch vụ, đối tượng mà trung tâm địng giá sao cho phù hợp. Chẳng hạn đối với các phim quảng cáo, thì Trung tâm dựa vào các khoản chi phí để sản xuất phim. Chi phí này được xác định thông qua các tiêu chí sau : Chi phí viết kịch bản quảng cáo ,phí dịch vụ ( thuê diễn viên điện ảnh, đạo diễn..), quay phim, kỹ thuật tiền kỳ,hậu kỳ, khấu hao máy móc, trang thiết bị…thời lượng phim quảng cáo dài hay ngắn, phạm vi phát sóng của phương tiện, tần xuất quảng cáo. Xác định được rõ các khoản này cho phép Trung tâm định giá quảng cáo .
Tương tự định giá với phim quảng cáo thì định giá với các thể loại khác như phim tài liệu, phóng sự, phim truyền thống, phim giới thiệu doanh nghiệp…thì cũng căn cứ vào các khoản trên và dựa vào giá cả đối thủ canh tranh.
Đối với máy móc trang thiết bị cho thuê Trung tâm có cách định giá khác. Giá cho thuê làm sao phải bù đắp được các khoản chi phí về khấu hao thiết bị và có lãi. Giá này thay đổi tuỳ theo yêu cầu từ phía khách hàng.
Về các chương trình tài trợ. Định giá cho chương trình này rất phức tạp. Để tiến hành thẩm định vá ấn định giá Trung tâm phải căn cớ vào quy mô chương trình, xác định loại hình tài trợ (Tài trợ độc quyền hay đồng tài trợ ) thời gian, địa điểm diễn ra các chương trình tài trợ. Nếu đó là các chương trình tài trợ mà tường thuật trực tiếp trên TV, thời lượng diễn ra bao lâu thì sẽ quyết định mức giá.Ví dụ, trong thời gian vừa qua Trung tâm có chương trình mới là “Trăm năm tình khúc” khi các công ty tham ra chương trình này họ sẽ được hưởng các quyền lợi như được phép quảng cáo sản phẩm của mình. Giá hoạt động này được xác định trên cở thoả thuận giữa các đơn vị tham ra phối hợp sản xuất .
Về phía Trung tâm để định giá cho chương trình tài trợ thì trước khi ra quyết định chính thức. Trung tâm sẽ thăm dò các công ty mà mình sẽ kêu gọi tài trợ, tình hình tài chính của họ ra sao. Bởi lẽ có nhiều chương trình tài trợ đòi hỏi kinh phí lớn thì mới làm dược, phản ứng của họ về mức giá mà Trung tâm đưa ra. Giá chương trình tài trợ còn căn cứ dựa trên cơ sở loại hình tài trợ. Đối với các nhà tài trợ độc quyền thì chỉ duy nhất họ được phép quảng cáo trong chương trình đó trong trường hợp này mức giá ấn định rất cao thông thường chỉ có những công ty có tiềm lực tài chính mạnh mới làm . Nói chung các doanh nghiệp thường là các nhà đồng tài trợ, tài trợ chính , tài trợ phụ và giá trị của hợp đồng được chia sẻ cho các nhà tài trợ dựa trên các quyền lợi mà họ được hưởng mà theo nguyên tắc “ Quyền lợi nhiều thì giá cao và ngược lại ” loại hình tài trợ này thích hợp với công ty cỡ trung bình.
Ngoài ra với cá khách hàng khác nhau Trung tâm định giá khác nhau. Thứ nhất với khách hàng quen biết, thường là các đối tác trung thành thì được ấn định với một mức giá thấp hơn, mức giá này được ấn định thông qua tổng giá trị hợp đồng. Chẳng hạn giá trị thực tế của hợp đồng là 100 triệu đồng vì là khách hàng quen biết nên được giảm từ 1-5%. Thứ hai, với khách hàng tiềm năng, phần lớn khách hàng của Trung tâm là các doanh nghiệp này, định giá cho loại khác hàng này dựa trên giá cả đối thủ cạnh tranh là chính.
Tựu trung lại , Tuỳ từng loại hình dịch vụ, đối tượng , gía cả đối thủ canh tranh mà Trung tâm định gía cho phù hợp. Phần lớn mức giá dựa trên cơ sở sự thoả thuận giữa Trung tâm với khách hàng.
Một số nhược điểm
Thứ nhất, định giá một số loại dịch vụ còn hơi cao cho nên cần có những điều chỉnh thích hợp.
Thứ hai, các chính sách và chiến lược về giá chưa hấp dẫn để thu hút các đối tác, cách định giá còn có phần chủ quan.
3.Phân phối
Trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập nền kinh tế quốc tế, cạnh tranh càng trở nên khốc nghiệt thì việc các doanh nghiệp chú ý tới mạng lưới kênh phân phối là điều tất yếu. Kênh phân phối ngắn liền với hoạt động kinh doanh và là chiềc cầu nối giữa doanh nghiệp với khách hàng. Kênh phân phối ngày càng trở nên quan trọng nhưng làm thế nào để thiết kế được kênh phân phối có hiệu quả, kinh phí dành cho hoạt động này như thế nào ? ai sẽ là thành viên của kênh?
Đối với trung tâm do mới đi vào hoạt động nên mạng lưới phân phối còn hẹp, mới chỉ tập trung ở một số tỉnh thành phố phía Bắc như mới chỉ thành lập các văn phòng đại diện ở Hải Phòng, Nam Định, Hà Tây, Bắc Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Thanh Hoá, Quảng Ninh. Nhiệm vụ và chức năng của phòng này là làm việc trực tiếp với các đài để phát sóng các chương trình quảng cáo theo yêu cầu của khách hàng. Trong thời gian gần đây có một số văn phòng làm việc không hiệu quả, chẳng hạn có một số chương trình quảng cáo bị khách hàng phàn nàn về lịch phát sóng… Nguyên nhân chính là thiếu sự gắn kết giữa Trung tâm với các văn phòng đại diện, thông tin hai chiều đôi khi còn gặp khó khăn, mặc khác khả năng phân tích đánh giá thông tin còn hạn chế
4.Xúc tiến hỗn hợp
4.1.Thực trạng hoạt động xúc tiến hỗn hợp
Ngay từ những ngày đầu hoạt động kinh doanh Trung tâm đã thực thi nhiều hoạt động truyền thông và khuyến mãi , nhằm mụch đích giới thiệu quảng bá hình ảnh, dịch vụ của mình, tạo dựng các mối quan hệ với khách hàng.Để thực thi điều này Trung tâm đã xúc tiến, triển khai trên các phương tiện thông tin đại chúng như quảng cáo trên truyền hình Hà Nội, trên mạng internet, báo (Báo Hà Nội, báo lao động, báo thanh niên, báo kinh tế ), tạp chí, tờ rơi , tờ gấp… Các bài phóng sự giới thiệu doanh nghiệp, các hoạt động quan hệ công chúng bằng các hình thức tài trợ cho các chương trình (chương trình văn nghệ, liên hoan, ca nhạc…) tổ chức hội nghị, tham ra đóng góp các quỹ từ thiện, ủng hộ đồng bào lũ lụt và một số hình thức khác.
Trong các hoạt động xúc tiến, Trung tâm tập chung chủ yếu vào các công cụ quảng cáo, bằng việc quảng cáo trên một số phương tiện trong đó tiêu điểm chính là quảng cáo trên truyền hình cáp. Bởi vì: một là, Trung tâm có thể sử dụng kênh riêng của mình là đài phát thanh truền hình Hà Nội để quảng cáo cho dịch vụ. Vì vậy kinh phí dành cho hoạt động này là không nhiều. Hai là, là một chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo nên ngoài các chức năng sản xuất các chương trình quảng cáo theo yêu cầu của khách hàng trung tâm có thể tự sản xuất các chương trình quảng cáo hoặc tham ra quảng cáo trên báo mà không phải thông qua một khâu trung gian nào nên kinh phí sản xuất không tốn kém.
Ngày nay các doang nghiệp rất thận trọng trong việc ra quyết định lựa chọn phương tiện truyền thông, bởi vì lựa chọn sai phương tiện không những gây tốn kém về mặt chi phí mà còn ảnh hưởng đến uy tín hình ảnh doanh nghiệp. Trong các phương tiện quảng cáo, quảng cáo trên truyền hình có thể được coi là công cụ cạnh tranh hữu hiệu, nó bổ sung cho hoạt động marketing cũng như chién lược kinh doanh giữa chúng có mỗi quan hệ mật thiết với nhau, một chiến lược quảng cáo không hiệu quả sẽ ảnh hưởng không tốt đến doanh nghiệp. Vì vậy lựa chọn phương tiện quảng cáo nào có ý nghĩa tối quan trọng không chỉ riêng gì Trung tâm mà còn cả các doanh nghiệp khác, nó đóng vai trò nòng cốt cho mọi hoạt động.
Để tiến hành quảng cáo trên các phương tiện Trung tâm phải xây dựng cho mình kế hoặch quảng cáo, mục tiêu và ngân sách quảng cáo , việc phân bổ phải phù hợp với ngân sách và chiến lược marketing. Do kinh doanh trong lĩnh vực quảng cáo đồng thời là chủ phương tiện quảng cáo nên hầu hết các chương trình quảng cáo là do Trung tâm tự sản xuất ( Từ khâu sáng tác ý tưởng, viết kịch bản, dàn dựng, thuê diễn viên, đạo diễn, hoạ sỹ…) sau khi đã hoàn thành một mẫu phim quảng cáo Trung tâm phải tiến hành phân bổ ngân sách. Sau đây là ngân sách quảng cáo phân bổ cho từng phương tiện
Đơn vị: Triệu đồng
Phương tiện truyền thông
Kinh phí (q/cáo đợt I)
Đợt 2 (II)
Truyền hình
200
150
Truyền thanh
50
45
Tạp chí
40
47
Tờ rơi, tờ gấp
15
13
Quảng cáo khác
20
15
(Nguồn: Báo cáo hoạt động quảng cáo của trung tâm năm 2003)
Theo bảng trên ta thấy trong năm 2003 Trung tâm đã tiến hành quảng cáo thành hai đợt, ngân sách giành cho mỗi đợt khác nhau và được phân bổ cho từng phương tiện quảng cáo. Nếu như ngân sách quảng cáo trong đợt I là 335 triệu đồng thì ngân sách giành cho quảng cáo đợt hai là 270 triệu đồng. Nguyên nhân chính là ở trong đợt một Trung tâm phải giành nhiều kinh phí để xây dựng, quảng bá sản phẩm dịch vụ của mình tới khách, xây dựng lòng tin với khách hàng bước đầu tạo lập các mối quan hệ với khách hàng.
Tuy nhiên trong đợt II ngân sách giành cho quảng cáo có giảm xuống 65 triệu đồng nguyên do chính là trong thời gian này một mặt khó khăn về tài chính (do phải đầu tư mua sắm máy móc thiết bị) mặt khác hình ảnh của Trung tâm từng bước được khẳng định và nâng cao điều này được khẳng định rõ thông qua số hợp đồng ký kết với đối tác ngày càng tăng. Trung bình một tháng trung tâm ký kết từ 3 đến 4 hợp đồng sản xuất phim quảng cáo.
Kinh phí giành cho phát sóng quảng cáo trên truyền hình chiếm tỷ trọng lớn nhất với kinh phí đợt I là 200 triệu đồng, đợt II là 150 triệu đồng. Quảng cáo qua các phương tiện khác chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng ngân sách giành cho quảng cáo. Nói chung việc phân bổ ngân sách cho từng phương tiện là hợp lý.
Cũng như trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác thì ngoài việc phân bổ chi phí quảng cáo cho các phương tiện thì doanh nghiệp cần phải nghiên cứu, phân tích, đánh giá để lựa chọn kênh truyền đạt thông tin sao cho có tính khả thi nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đối với quảng cáo trên TV thì lựa chọn kênh phát sóng có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ riêng gì với trung tâm mà còn các doanh nghiệp khác. Lựa chọn kênh phát sóng nào?, thời gian phát sóng như thế nào?, phát vào thời điểm nào?, kinh phí giành cho từng kênh phát sóng bao nhiêu? Lựa chọn đúng sẽ góp phần tăng tính hiệu quả quảng cáo, giảm thiểu chi phí. Sau đây là kinh phí phân bổ cho từng kênh phát sóng
Đơn vị : triệu đồng
Kênh phát sóng
Kinh phí (q/cáo đợt I)
Đợt 2 (II)
TH Hà Nội
100
80
TH Hà Tây
55
50
TH Hải Phòng
45
40
(Nguồn: Báo cáo hoạt động quảng cáo của trung tâm năm 2003)
Bảng trên cho thấy sự phân bổ ngân sách cho từng loại đài truyền hình. Kinh phí giành cho phát sóng trên đài truyền hình Hà Nội cao nhất 100 triệu đồng (đợt I) và 80 triệu đồng đợt hai, thấp nhất là phát sóng trên truyền hình Hải Phòng (đợt I 45 triệu, đợt II 40 triệu đồng). Sở dĩ quảng cáo trên đài truyền hình Hà Nội cao là do .
Thứ nhất: thị trường mục tiêu của Trung tâm là Hà Nội
Thứ hai: Tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng hiện tại tại thị trường mục tiêu của mình trước khi khai thác sang các thị trường mục tiêu khác.
Đối với thời gian phát sóng quảng cáo: Thì tuỳ từng kênh phát mà Trung tâm bố trí thời gian, địa điểm phát sóng khác nhau. Chẳng hạn kênh Hà Nội phát sóng từ 5h30 đến 24h00, kênh Hà Tây 6h00 đến 22h00 và thời điểm phát sóng trong ngày không liên tục.
Đối với kênh Hà Nội: Trung tâm tập trung phát sóng quảng cáo vào buổi tối, cụ thể:
Buổi sáng: trước bản tin trưa
Buổi chiều: trước thời sự chiều
Buổi tối: Sau phim và giải trí tối.
Đối với kênh Hà Tây:
Buổi sáng: sau thời sự
Buổi tối: sau thời sự
Đối với kênh Hải Phòng:
Buổi sáng: Trước giải trí sáng
Buổi trưa: Trước giải trí chưa
Buổi tối: Trước giải trí tối
Về thời lượng phát sóng quảng cáo khoảng 30 giây.
Nói chung số lượng phát sóng của trung tâm không nhiều chủ yếu phát vào trước vào sau bản tin. Bình quân một ngày một đợt phát sóng khoảng từ 3 đến 4 spot. Chính vì vậy mà hiệu quả của quảng cáo không được cao theo kết quả điều tra cho thấy thì số lượng khách hàng biết về Trung tâm không nhiều, khi được hỏi thì không biết gì. Vì vậy Trung tâm cần nhìn nhận và đánh giá lại kế hoạch của mình.
Bên cạnh đó sự sắp xếp lịch phát sóng quảng cáo còn chưa được hợp lý. Thông thường để quảng cáo cho sản phẩm của mình, đặc biệt đối với sản phẩm thì các doanh nghiệp thường lựa chọn các thời điểm thích hợp như quảng cáo trước và sau bộ phim, trước hoặc sau các chương trình giải trí thể thao chi phí có cao hơn nhưng đổi lại số lượng khách hàng biết đến sản phẩm nhiều hơn. Tạo sự ấn tượng ,lưu giữ hình ảnh trong tâm trí khách hàng lâu hơn từ đó tạo động lực thúc đẩy động cơ mua sắm.
Ngoài sử dụng các phương tiện quảng cáo thì để hỗ trợ cho hoạt động trên Trung tâm đã xúc tiến nhiêù hoạt động khác như tham ra các kỳ hội trợ, triển lãm thương mại , các hoạt động quan hệ công chúng, marketing trực tiếp dưới nhiều hình thức (Liên hệ qua điện thoại , gửi thư mời )
4.2.Định hướng phát sóng quảng cáo của Trung tâm trong năm tới
Thứ nhất: Tiến hành xây dựng phim quảng cáo để phát trên truyền hình, theo kế hoạch dự kiến đến cuối năm 2004 trung tâm sẽ triển khai.
Thứ hai: Đấu thầu phát sóng quảng cáo trên truyền hình cáp Hà Nội. Nếu trúng thầu Trung tâm sẽ mở rộng phát sóng quảng cáo và cho thuê phát sóng quảng cáo trên truyền hình (đối với các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh ).
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động quan hệ công chúng, tham ra hội chợ triển lãm thương mại.
Thứ tư, tiến hành quảng cáo trên mạng, theo kế hoặch sẽ hoàn thành vào tháng 6.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MARKETING MIX TẠI TRUNG TÂM SẢN XUẤT VÀ KHAI THÁC CHƯƠNG TRÌNH HÀ NỘI
I. DỰ BÁO CẦU VỀ QUẢNG CÁO TRONG NHỮNG NĂM TỚI
1.CẦU HIỆN TẠI
Nhu cầu sản xuất phim, chương trình phục vụ công tác phát sóng trên truyền hình phim truyền thống cho các đơn vị đặc biệt là phim quảng cáo trong thời gian gần đây tăng mạnh. Các đơn vị cung cấp dịch vụ cho thuê thiết bị khan hiếm không đáp ứng đủ nhu cầu.
Những đơn vị chuyên sản xuất chương trình bằng ngân sách không nhỏ của nhà nước, được đầu tư trang bị từ rất nhiều nguồn trong và ngoài nước. Điểm hình như Đài THVN, Hãng phim THVN.... đôi khi còn phải đi thuê thiết bị của các đơn vị tổ chức kinh doanh dịch vụ khác.
Lấy ví dụ, một đơn vị điển hình ( Công ty nghe nhìn Hà Nội). Có chức năng và nhiệm vụ về sản xuất phim, chương trình như công ty dịch vụ truyền thanh-truyền hình Hà Nội. Tuy thời gian tồn tại trên thị trường lâu hơn, ước tính trung bình một ngày làm việc sử dụng các phương tiện sản xuất phim từ 10-14h, với những thiết bị được đầu tư từ 2-3 năm. Do sự phát triển như vũ báo của KHKT, đặc biệt là kỹ thuật số, những trang thiết bị này trở lên lỗi thời. lạc hậu. Mặt khác công tác Marketing chưa được chú trọng còn nặng tư tưởng bao cấp nên chất lượng dịch vụ chưa cao. Các công việc phục vụ chủ yếu là sản xuất phim, chương trình theo đơn đặt hàng của các đài, cho thuế thiết bị đôi khi sản xuất phim quảng cáo.Vì vậy nếu như được đầu tư thiết bị hiện đại cùng với chất lượng dịch vụ và công tác Marketing tốt, chắc chắn là nhu cầu sử dụng dịch vụ của trung tâm sẽ khá cao. Tuy nhiên, hiện nay đã bắt đầu đã có những đơn vị, cá nhân quan tâm tới đầu tư trên lĩnh vực này do được sự nới lỏng về thủ tục nhà nước.
2. Dự báo cầu tương lai
Thực tế trên thị trường hiện nay, nhu cầu về sản xuất phim, chương trình các loại tăng nhanh do nhu cầu văn hoá của nhân dân tăng nhanh. Đài phát thanh- Truyền hình Hà Nội có kế hoạch năng số lượng chương trình phát sóng, tăng thêm kênh UHF, sản xuất chương trình phục vụ truyền hình cáp HCTV. Để thực hiện yêu cầu của một kênh hiện nay, đài đã huy động hết khả năng về thiết bị máy móc, phục vụ tốt yêu cầu tăng số lượng và chất lượng chương trình, chắc chắn ngoài việc giao cho công ty nghe nhìn sản xuất phim như trước đây, đồng thời với điều này, nhu cầu thuê cộng tác viên để sản xuất chương trình sẽ tăng.
Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cạnh tranh ngày càng mạnh nhu cầu quảng cáo lớn và thay đổi thường xuyên . Điều này sẽ dẫn đến những doanh nghiệp trong và ngoài nước phải tăng sức cạnh tranh, đẩy mạnh công tác Marketing. Đồng thời thể loại, mẫu mã sản xuất phim quảng cáo, phim giới thiệu doanh nghiệp để quảng cáo sẽ tăng mạnh và thương xuyên.
Hiện nay trên thị trường Hà Nội có khả nhiều đơn vị có phương tiện sản xuất phim, chương trình trong đó có chứa đến 10 đơn vị chuyên cho thuê và nhận sản xuất phim chương trình quảng cáo. Đó là chưa kể còn một số dịch vụ chuyên sản xuất kỹ xảo, phục vụ một số công đoạn quan trọng trong lĩnh vực phim quảng cáo. Tuy nhiên phần nhiều trong số đó là các đơn vị thu kinh doanh hoặc chịu ảnh hưởng của cách làm việc cũ, cho nên cũng chỉ mới bắt đầu phát triển thời gian gần đây.
Trong cả nước,số lượng các đơn vị sản xuất phim có chất lượng không nhiều tập trung chủ yếu ở một số tỉnh thành phố có kinh tế phát triển. Mốt số đài truyền hình có bộ phận dịch vụ sản xuất phim ( Đài PTTH Hà Nội, Đài PTTH Hải Phòng, Đài PTTH Lâm Đồng, Đài PTTHTPHCM...) nhưng còn rất nhiều hạn chế do công việc chính được giao là phát sóng tuyên truyền, phục vụ công tác chính trị. Nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ sản xuất phim chủ yếu phim quảng cáo nhưng trên thực tế không có đủ cơ sở vật chất, phương tiện để thực hiện thiếu chủ động. Hiện cũng có nhiều văn phòng của các hãng lớn nước ngoài đặt trụ sở tại VN mục đích trước mắt là nhận những hợp đồng và đưa ra nước ngoài để sản xuất phim quảng cáo.
Trong một đến hai năm tới việc gia tăng số lượng các nhà cung cấp dịch vụ sản xuất phim chương trình trong và ngoài nước rất cao. Đặc biệt là những đơn vị sản xuất phim chương trình của nước ngoài thì sản phẩm của họ chắc chắn là có chất lượng cao hơn tuy giá cao hơn.
Hiện nay thị trường lớn nhất của công ty là các chương trình trên HCTV bởi lẽ nguồn thu nhập chính, chủ yếu từ tiền thuê bao hàng tháng. Việc các công ty tiến hành phát sóng quảng cáo trên các kênh truyền hình cáp Hà Nội ( HCTV) sẽ tạo cho HCTV một vị thế nhất định trên địa bàn thành phố Hà Nội.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN MARKETING MIX TẠI TRUNG TÂM KHAI THÁC VÀ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH HÀ NỘI
1.Giải pháp sảm phẩm
Trung tâm phải thành lập phòng nghiên cứu Marketing, bởi vì xuất phát từ tình hình thực tế là phần lớn các phim quảng cáo do Trung tâm sản xuất hầu như không có hoạt động điều tra nghiên cứu thị trường về sảm phẩm (Từ phía khách hàng) mà mình cần quảng cáo cho đối tác, vấn đề này Trung tâm có thể đề xuất trực tiếp với đối tác và giải thích cho họ sự cần thiết phải tiến hành điều tra (Đối với doanh nghiệp chưa tiến hành hoạt động này ). Có được thông tin đầy đủ về đối tác thì sẻ đảm bảo chất lượng chương trình sẽ được từng bước cải thiện và nâng cao.
Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ nhân viên, đặt biệt là các kỹ thuật viên quay tiền kỳ, hậu kỳ, thường xuyên mở những lớp đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn. Với cá nhân có trình độ chuyên môn cao có thể đề cử đi nước ngoài. Có các chính sách đãi ngộ với nhân viên
có những sáng kiến cho Trung tâm, bên cạnh đó tổ chức các cuộc hội thảo để phổ biến cho nhau những kiến thức thông tin cập nhập, đưa ra các vấn đề mà Trung tâm đang gặp phải để cùng nhau tháo gỡ. Nói chung trình độ của đội ngũ nhân viên đang là vấn đề bức xúc của Trung tâm hiện nay, phần lớn họ còn thiếu kinh nghiệm, nghiệp vụ chuyên môn, chủ yếu học hỏi là chính, cho nên hạn chế phần nào đến chất lượng của chương trình.
Con người đóng vai trò quan trọng và là hạt nhân quyết định sự thành công hay thất bại của Trung tâm. Một chương trình quảng cáo hay phải có những con người giỏi, có óc sáng tạo. Bởi vì, quảng cáo là nghệ thuật mà nghệ thuật phải có trí tưởng tượng phong phú.
Đối với nhân viên phòng quảng cáo thì đàm phán có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi lẽ nó quyết địng nội dung, chất lượng thông tin mà mình có về đối tác. Để tiếp cận với khách hàng, nhân viên phải có thông tin đấy đủ về những vấn đề sẽ phục vụ cho cuộc tiếp xúc để làm sao có được thông tin tối đa về đối tác, chất lượng thông tin sẽ ảng hưởng trực tiếp đến chất lượng của chương trình sau này. Ví dụ, khi sản xuất một mẫu phim quảng cáo, hay các thể loại khác. Thì công việc đầu tiên là thu thập thông tin, thông tin này sẽ được phân tích, xử lý, đánh giá trước khi chuyển sang công đoạn sáng tác ý tưởng. Nếu thông tin mà không chính xác thì sẽ tác động không nhỏ đến chất lượng chương trình. Vì vậy Trung tâm cần nâng cao khả năng đàm phám, Cụ thể, trong đàm phám, nhân viên phải chuẩn bị đầy đủ tài liệu liên quan đến các vấn đề mà mình sẽ trao đổi thong cuộc tiếp xúc, kết hợp với việc dùng thủ thuật để có lượng thông tin tối đa và chính xác. Thực tế khả năng lấy thông tin của nhân viên trung tâm còn rất hạn chế nên xuất hiện tịnh trạng thiếu hụt thông tin.
Về công tác đào tạo : Tổ chức tiến hành những khoá đáo tạo ngắn hạn từ 3 đến 6 tháng nhưng phải tuỳ từng đối tượng. Ngoài ra phải có các chính sách đãi ngộ với cán bộ nhân viên trong Trung tâm. Trung tâm có thể nâng mức tiền thưởng nên để khuyến khích nhân viên làm việc tích cưc hơn và có hiệu quả. Chẳng hạn có thể nâng từ mức 200000 lên 220000 nghìn đồng đối với các cá nhân ký được hợp đồng trị giá trên 10 triệu đồng, còn tập thể từ 500000 lên 600000 nếu hoàn thành vượt mức kế hoặch. Việc làm này có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo động lực thúc đẩy làm việc.
Trung tâm cần đầu tư mua sắm máy móc trang thiết bị để sản xuất các chương trình, bởi một chương dù kịch bản có hay đi chăng nữa nhưng nếu không có máy móc hiện đại , tiên tiến thì không thể có một chương trình hay được. Chẳng hạn, khi một công ty sáng tạo ra một ý tưởng hay nhưng do kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu, nên hình ảnh mẫu quảng cáo không được đẹp & sắc nét, thế nhưng vẫn ý tưởng đó nhưng do công ty khác sử dụng và dùng các phương tiện tiên tiến hiện đaị thực hiện sẽ tạo ra mẫu quảng cáo hay, máy móc là nguồn hỗ trợ đắc lực cho sản xuất phim, Một chương trình hay không chỉ cần những con người tài giỏi mà phải có ác phương tiện kỹ thuật hiện đại. Nhưvậy giữa chúng có mỗi quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung lẫn nhau. Mặc khác Trng tâm cần mua thêm thiết bị mới như thiết bị phục vụ hậu kỳ, các phần mền phục vụ kỹ xảo hoạt hình 3D…
Đối với các chương trình quảng cáo Trung tâm phải tăng cường hoạt động điều tra, thử nghiệm các chương trình quảng cáo, thử nghiệm tiền quảng cáo trước khi phát sóng sóng trên các phương tiện truyền thông. Để thực hiện được chức năng này thì Trung tâm phải thành lập phòng nghiên cứu thử nghiệm, việc thành lập phòng này có ý nghĩa quan trong việc phân tích, xử lý, đánh giá chất lượng chương trình. Chẳng hạn sau khi một chương trình quảng cáo đã hoàn thành Trung tâm có thể thử nghiệm bằng cách mời một nhóm khoảng 10 đến15 người, cho họ xem mẫu phim quảng cáo rồi yêu cầu họ nhận xét hay bình phẩm về mẫu quảng cáo đó. Nếu mẫu đó mà được khán giả đánh giá là dược thì sẽ cho phát.
2.Giá cả
Trung tâm cần xây dựng cho mình chiến lược về giá ccả cụ thể “Chiến lược giá cả vừa, chất lượng cao” để khẳng định uy tín của mình trên thương trường, sau đó tuỳ từng đối tượng khách hàng cụ thể, tương quan cung cầu trên thị trường mà có những điều chỉnh sao cho phù hợp.
Đối với giá sản xuất các trương trình như phim quảng cáo , phim phóng sự… phải có những quy định cụ thể rõ ràng để làm sao khi giải thích cho khách hàng biết với mức giá này là hoàn toàn thích hợp. Mặt khác phải kết hợp với việc tham khảo gía của đối thủ cạnh tranh, đặt biệt phải chú ý đến các khoản chiết khấu để có thể cạnh tranh được với các công ty khác.
Về giá cho thuê thiết bị, để định giá cho máy móc thiết bị Trung tâm phải dựa vào giá thị trường hiện tại. Trung tâm có thẻ áp dụng nhiều hình thức như hợp đồng thuê mua : Nhgiã là Trung tâm có thể cho đối tác thuê với mức giá hợp lý: Giá trị thiết bị + lãi suất + thời gian cho thuê, đến khi hết thời hạn hựp đồng bên phía đối tác có thể mua với giá rẻ hơn, qua đó sẽ khuyền khích được khách hàng thuê sản phẩm của mình. Giá thuê thiết bị phải căn cớ vào giá đối thủ cạnh tranh.
Bên cạnh đó Trung tâm nên điều chỉnh lại tiền hoa hồng mà công ty được hưởng từ phía các doanh nghiệp thuê quảng cáo . Hiện nay tiền hoa hồng của Trung tâm khoảng từ 10 đến 25%. Ngoài ra giảm các phí dịch vụ xuống, mức phí hiện nay còn hơi cao tờ 5 -10% tổng giá trị hợp đồng.
3.Phân phối
Trung tâm cần phải mở rộng mạng lưới kênh phân phối sang những địa bàn lân cận như mở thêm một số văn phòng đại diện ở khu vực phía Bắc và một số tỉnh ở miền Trung. Bên cạnh đó có các chính sách thưởng, phạt đối với các thành viên của kênh. Đối những kênh làm kém hiệu quả thì phải kỷ luật thật nghiêm như trừ vào tiền lương, nếu nặng hơn thì sa thải.
Công tác đào tạo, tuyển chọn nhân viên kênh phân phối phải được tổ chức thường xuyên hơn như mở các lớp đào tạo để nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn. Thiết lập kênh phân phối trực tiếp tới khách hàng để gây được mối thiện cảm với khách hàng cụ thể Trung tâm phải có một danh sách cụ thể về các doanh nghiệp, danh sách này có thể lấy qua danh bạ hoặc là điều tra, sau khi đã có danh sách Trung tâm có thể gửi thư mời hoặc liên hệ trực tiếp qua điện thoại.
4.Xúc tiến hỗn hợp
Trung tâm phải đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu marketing ,đặc biệt là thị trường mà mình thâm nhập nhằm phát hiện nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng. Việc xác định đúng cho phép Trung tâm phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu, thuận lợi cho công tác đánh giá đối tượng hay khách hàng mục tiêu. Việc làm này là rất cần thiết bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến thiết kế thông điệp quảng cáo và lựa chọn chiến lược truyền thông được lượng hoá thông qua các phương tiện quảng cáo. Ngoài ra phải thường xuyên cập nhập thông tin về thị trường. Thông tin có thể được khai thác từ rất nhiều nguồn khác nhau nhưng có hai loại chính là thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Đối với thông tin thứ cấp có thể lấy được thông qua (sách, báo, ấn phẩm, phim ảnh, mạng internet..v.v..).Thông tin sơ cấp có thể lấy qua các cuộc điều tra, nghiên cứu thị trường. Nguồn thông tin này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ra quyết định sau này.
Trung tâm cần phân tích, đánh giá các hoạt động xúc tiến dặt biệt là các chương trình quảng cáo do mình làm chủ phương tiện trong mối liên hệ với các hoạt động marketing và chiến lược kinh doanh, bởi vì lựa chọn công cụ nào phải dựa trên tiền lực tài chính của Trung tâm, mục tiêu cũng như các chiến lược khác để làm sao đạt hiệu quả cao nhất. Trong trường hợp này Trung tâm cần cân nhắc khi lựa chọn phương tiện truyền thông hay khuyến mãi phương tiện nào quan trọng thì cần phải tập trung và đầu tư nhiều hơn còn các hoạt động khác đóng vai trò hiểm trợ. đối với Trung tâm do kinh doanh trong trong lĩnh vực quảng cáo nên phải khai thác triệt để các chương trình mình sản xuất.
Trung tâm phải nhanh chóng xúc tiến công tác tuyên truyền, tham ra các kỳ hội chợ,triển lãm thương mại, việc tham ra các kỳ hội chợ là cơ hội tốt để Trung tâm có thể giới thiệu lĩnh vực kinh doanh của mình đến đông đảo người tiêu dùng. Đồng thời cũng là dịp tốt để ký hợp đồng làm ăn với đối tác trong và ngoài nước. Khi tham gia kỳ hội chợ do tính chất đặc thù là ngành dịch vụ nên Trung tâm cần phải chuẩn bị kỹ càng: chẳng hạn mở băng giới thiệu về trung tâm các hình thức dịch vụ với chất lượng cao..v..v. Trung tâm nên thành lập một bộ phận chuyên đảm nhiệm chức vụ phát sóng quảng cáo. Bộ phận này có nhiệm vụ đàm phán (giao dịch) với đối tác (các đài truyền hình) lựa chọn kênh phát sóng, thời gian, thời gian phát sóng (phân tích đánh giá, lựa chọn khung phát sóng).
Lựa chọn kênh phát sóng nào đối với trung tâm không phải là dễ nhưng kênh đó có phù hợp với mục đích quảng cáo hay không, đây thực sự là một việc làm không dễ chút nào. Đã có không ít các doanh nghiệp lựa chọn kênh phát sóng quảng cáo không đúng gây tốn kém kinh phí (điều quan trọng là giảm thiểu các rủi ro về mặt vật chất). Để lựa chọn đúng Trung tâm cần phải lập một danh sách các đài phát sóng, giá cả cụ thể phát sóng và bảng giá chi giảm giá quảng cáo. Từ đó tiến hành so sánh, phân tích đánh giá để lựa chọn kênh phát sóng quảng cáo thích hợp.
Về thời gian phát sóng quảng cáo. Để làm được điều này trung tâm cần phải trả lời câu hỏi phát sóng vào thời gian nào? Chi phí cho hoạt động này bao nhiêu? Thời lượng phát sóng quảng cáo bao lâu? Thông thường để nâng cao tính hiệu quả quảng cáo Trung tâm cần cân nhắc kỹ trước khi ra quyết định (phụ thuộc vào ngân sách quảng cáo). Nhưng tốt nhất nên bố trí phát sóng vào buổi trưa, chiều hoặc tối bởi vì tại thời điểm đó số lượng khán giả xem truyền hình là đông nhất đặc biệt là buổi tối, tuy chi phí có cao hơn nhưng hiệu quả đem lại hiệu quả đem lại lớn hơn nhiều.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 14069.doc