Chuyên đề Một số giải pháp khắc phục và nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ nước ta

+ Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp ngoài nước. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần mở rộng theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi. + Mở rộng đối tượng ưu đãi: đến nay trong các chính sách thuế của nhà nước, đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều chỉ có một số doanh nghiệp ở vùng núi cao, hải đảo và một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho ác doanh nghiệp tích luỹ để phát triển sản xuất và mở rộng quy mô. + Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn dè dặt chỉ giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1 - 2 năm, hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 - 5năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và đào tạo chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới. + Có hình thức ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng tăng. Như vậy sẽ không khuyến khích được các doanh nghiệp mở rộng quy mô mà quy mô nhỏ quá sẽ kinh doanh không có hiệu quả.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1623 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp khắc phục và nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ỏ nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hế pháp lý; môi trường chính tri xã hội (hệ tư tưởng, thiết chế chính trị, cơ cấu xã hội...); môi trường khoa học-công nghệ; môi trường văn hoá-xã hội; môi trường tự nhiên. Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển thuận lợi, môi trường kinh doanh bao gồm: môi trường kinh tế (trong đó yếu tố quan trọng nhất là thị trường); môi trường thể chế pháp lý; môi trường chính tri xã hội (hệ tư tưởng, thiết chế chính trị, cơ cấu xã hội...); môi trường khoa học-công nghệ; môi trường văn hoá-xã hội; môi trường tự nhiên. ở Việt Nam, việc chuyển sang cơ chế thị trường và những cố gắng của nhà nước trong việc cải cách nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội bước đầu đã tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Điều đó thể hiện trên thực tế như bảo đảm ổn định chính trị, kiềm chế lạm phát, xử lý lãi xuất theo quan hệ thị trường, ban hành một số luật, cải cách hệ thống thuế, khuyến khích xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế (đường, điện, nước...). Tuy vậy, môi trường kinh doanh chung còn nhiều khó khăn. Để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể hoạt động hiệu quả, cần phải giải quyết nhiều vấn đè để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn. ã Môi trường luật pháp: Thời gian qua nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo lâpj khuôn khổ pháp lý cho các loại hình doanh nghiệp hoạt động. Tính đến cuối năm 1996, nước ta có 55 luât (bộ luật, luật, đạo luật) 64 pháp lênh, 251 nghị định. Chỉ trong 2 năm, từ năm 1994 đến tháng 3/1996. Quốc hội đã thông qua 16 luật và 25 pháp lệnh. Trong đó, có các luật quan trọng mới được ban hành như luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật thuế chuyển quyền sử dụng đất, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật hợp tác xã... đến hết nhiệm ký Quốc hội khoá IX (1997) đã ban hành 28 luật và 24 pháp lệnh, trong đó có các luật quan trọng về kinh tế như luật thương mại, luạt đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (sửa đổi), luật thẩm quyền trình tự ban hành văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật chung cho toàn bộ nền kinh tế chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ, thiếu những đạo luật quan trọng như luật hợp đồng kinh tế, luật hải quan, luật ngân hàng, luật thừa kế, các luật về tài chính... đồng thời, qua việc thực thi luật pháp và các chính sách trên thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm như: + Môi trường pháp lý đối với các loại hình doanh nghiệp chưa bình đẳng, kể cả khi hình thành doanh nghiệp cũng như trong quá trình hoạt động kinh doanh. Việc hoạch định chính sách chủ yếu vẫn theo loại hình sở hữu, chưa chú trọng hỗ trợ theo ngành nghề, quy mô doanh nghiệp. Thiếu bình đẳng giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Môi trường pháp lý thiếu ổn định thường xuyên thay đổi trong các quy định pháp lý đối với doanh nghiệp, gây tác động xấu đến môi trường đầu tư do mức độ rủi ro cao. + Nhiều quy định pháp lý hiện nay cò rắc rối, rườm rà, bên cạnh đó, việc tuyên truyền luật pháp lại rất hạn chế, khiến cho các doanh nghiệp có tâm lý ngại không muốn thực hiện các quy định đó. + Các văn bản pháp lý thường được ban hành không kịp thời, thếu đồng bộ, nhiều quy định pháp lý không còn phù hợp, chưa được rà soát kịp thời vừa gây khó khăn, bó buộc hoạt động của các doanh nghiệp, vừa tạo ra các kẽ hở để các doanh nghiệp lợi dụng, làm mất hiệu lực của quản lý nhà nước, đặc biệt là những quy định về thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn, xuất nhập khẩu, thuê đất. + Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm và xử lý vi phạm thiếu nghiêm minh đã dẫn đến tình trạng kinh doanh thiếu lành mạnh gây rối loạn trong hoạt động kinh doanh. + Chưa có luật khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ như ở nhiều nước khác. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc có luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ (1966), luật khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ (1978). ở Indonêxia có luật doanh nghiệp nhỏ (1995). Nhiều nước khác đều có các luật riêng để khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ. ã Môi trường thị trường: Thị trường là một trong những khó khăn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Nói đến khó khăn về thị trường phải nói đến hai nguyên nhân từ phía doanh nghiệp vừa và nhỏ (chưa thích nghi kịp với thi trường, sản phẩm xấu, kém, giá thành cao... nên không thâm nhập được thị trường) và từ phía Nhà nước (tạo lập môi trường thị trường). Về thị trường trong nước: Thị trường nước ta còn kém phát triển, thiếu đồng bộ và bị chia cắt. hiện nay mới có thị trường hàng hoá và dịch vụ còn các loại thị trường khác chưa có hoặc còn manh nha. Thị trường còn bị độc quyền và đặc quyền nặng nè làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ khi ra đời đã phải cạnh trnh không cân sức. Thị trường đầu vào như đất đai, vốn... đang là khó khăn lớn, về cơ bản vẫn là cơ chế “xin - cho” bất lợi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khó khăn lớn nhất của thị trường trong nước là sức mua thấp, đặc biệt là ở nông thôn, phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa vươn ra được thị trường ngoại tỉnh và nước ngoài. Thị trường đầu ra bị chèn ép do hàng ngoại nhập lậu tràn lan, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thiếu thông tin hướng dẫn về thị trường. Về thị trường ngoài nước: Do hạn chế về công nghệ, chất lượng sản phẩm, thiếu thông ti và ít có điều kiện tiếp xúc với thị trường nước ngoài nên khó xuát khẩu. Nhiều ngành nghề như thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, chạm khảm... bị đình đốn khi mất thị trường Đông Âu và Liên Xô (cũ). Hơn nữa, chính sách xuất khẩu theo hạn ngạch hoặc quy định mức vốn tối thiểu đối với các doanh nghiệp tham gia sản xuất đã gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp trên thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta chủ yếu làm gia công cho các tổ chức trung gian trong và ngoài nước, xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn. 1.2. Các chính sách của nhà nước ã Chính sách thuế: hệ thống thuế và chính sách thuế còn nhiều hạn chế, làm giảm tác dụng của thuế, như: + Các quy định vè thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn nhiều bất hợp lý: nặng về cơ chế thu, chưa có cơ chế động viên, nuôi dưỡng các nguồn thu. Gần đây, tuy thuế suất có giảm nhưng vẫn còn cao và còn nhiều khoản thu ngoài thuế, nhất là ở các địa phương. + Hệ thống thế suất cao, phức tạp, chẳng hạn thuế doanh thu có 16 mức (từ 0 - 40%) trên giá bán, hơn nữa, một doanh nghiệp có thẻ phải trả nhiều loại thuế khác nhau: 2% (nước đá), 1% đối với muối, 4% đối với sữa đặc, 8% đối với cà phê. Hơn nữa, thuế suất không ổn định, hay thay đổi, nhất là thuế xuất nhập khẩu. Điều đó vừa gây khó khăn cho các cơ quan quản lý và thực hiện chính sách thuế của Nhà nước vừa lamf hạn chế quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, dẫn tới giảm sức cạnh tranh của họ trên thị trường quốc tế, gây trở ngại cho quá trình hội nhập khu vực, hội nhập quốc tế. + Các quy định về thuế còn rườm rà. Về thuế lợ tức, có 19 loại văn bản liên quan (từ luật đến các loại văn bản hướng dẫn thực hiện); về thuế môn bài, có 9 văn bản; về thuế doanh thu, có 19 văn bản; về thuế tài nguyên , có 8 văn bản; thuế xuất nhập khẩu có 24 văn bản; thuế tiêu thụ đặc biệt có 13 văn bản. Đó là chưa kể các văn bản hướng dẫn ở địa phương. + Chưa bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, việc thực hiện các loại thuế chưa thống nhất. Theo nghị định 29/HĐBT ngày 9/3/1998, các hộ tiểu thủ công nghiệp thuộc kinh tế gia đình không phải nộp thuế kinh doanh. Quy định này không hợp lý vì vừa gây ra bất bình đẳng giữa kinh tế cá thể với kinh tế gia đình và tạo kẽ hở cho nhiều người lợi dụng núp dưới danh nghĩa “kinh tế gia đình” để trốn thuế. + Thuế còn trùng lặp và thuế suất cao đã kích thích doanh nghiệp trốn lậu thuế. + Cơ chế thu thuế chưa khoa học, không chặt chẽ, chưa có sự độc lập giữa người định thuế, người thu thuế và người kiểm tra thuế. trên thực tế, vẫn áp dụng chế độ kế toán thu đối với một số lượng rất lớn các doanh nghiệp nhỏ và kinh tế cá thể. Điều đó vừa thiếu chính xác trong khâu định thuế, vừa dẫn đến tiêu cực và thất thoát lớn. Sự bất cập của một số cán bộ thuế đã gây ra tệ nạn ăn hối lộ, tham nhũng lớn. + Sự phân định nghĩa vụ thuế theo hình thức tổ chức sản xuất (công ty, doanh nghiệp tư nhân, các cơ sở đăng ký theo Nghị định 66/HĐBT, ...) với mức thuế suất rất khác nhau vừa khó quản lý vừa tạo ra kẽ hở cho nhiều cơ sở trốn thuế (chỉ đăng ký theo nghị định 66/HĐBT để hưởng mức thuế thấp). ã Chính sách khuyến khích đầu tư: Trong chính sách đầu tư còn một số hạn chế, đó là: + Mức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tuy đã được chú ý nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu tạo được môi trường kinh doanh thuân lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. + Đầu tư của nhà nước chủ yếu tập trung cho các donh nghiệp nhà nước, mặc dù có rất nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài. + Chính sách đất đai hiện hành còn nhiều bát hợp lý là một cản trở không nhỏ cho hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó khăn trong viẹc tìm kiếm địa điểm kinh doanh, việc chuyển từ chế độ thuế sử dụng đất sang chế độ thu tiền thuê đất với mức cao hơn nhiều so voứi mức thuế cũ, cũng như những khó khăn, phiền phức trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đều là những vấn đề cấp bách, cần phải giải quyết để cải thiện môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp. + Thiếu định hướng phát triển dài hạn cho công nghiệp, các chính sách thiếu ổn định, không nhất quán, không có cơ sở khoa học cho các nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư được thuận lợi. Nói cách khác, nhà nước chưa có những chỉ dẫn cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư chung cho toàn xã hội. Những hạn chế của các chính sách kinh tế hiện hành cùng với các yếu kém của hệ thống tài chính, ngân hàng ở Việt Nam là những yếu tố làm cho tiết kiệm và đầu tư nội địa chững lại trong vài năm gần đây. ã Chính sách lãi suất và tín dụng của các ngân hàng: Cùng với sự ổn định của kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính, tín dụng đã có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong tổng dư nợ tín dụng, tỷ lệ dành cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có chiều hướng tăng lên dù vẫn chưa tương xứng với số lượng doanh nghiệp ngời quốc doanh cũng như đóng góp của khu vực đó trong GDP. Sự ổn định giá cả ở mức tương đối như trong một số năm trở lại đây có tác dụng tốt đối với đầu tư và sản xuất kinh doanh. sự ổn định của thị trường làm cho lưu thông hàng hoá diễn ra thuận lợi, hầu như không có hiện tượng đầu cơ, tích trữ trục lợi. Việc hạch toán từng chu kỳ sản xuất được tiến hành trên cơ sở giá đầu vào và đầu ra ổn định là yếu tố khuyến khích nhà đầu tư yên tâm bỏ vốn vào các chu kỳ tái sản xuất. Tuy vậy, trong năm 1996, đầu năm 1997, việc giảm giá liên tục một số mặt hàng phản ánh sức mua của xã hội giảm sút, đã làm cho sản xuất phần nào bị chững lại, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động đầu tư và tái đầu tư cho sản xuất. Các thủ tục vay tín dụng còn quá phức tạp. Các quy chế đăng ký tài sản cá nhân và tài sản của pháp nhân là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc thế chấp, cầm cố khi vay mượn. Các thủ tục thế chấp cũng còn phức tạp và có nhiều điểm chưa hợp lý như quy định về công chứng đánh giá tài sản, lệ phí công chứng... Thông thường, các ngân hàng không muốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vì chi phí cao, không đủ cán bộ tín dụng để quản lý các khoản vay nhỏ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thường gặp khó khăn trong việc thế chấp tài sản. Vì vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phải huy động vốn trong khu vực tài chính phi chính thức với lãi suất cao, bất lợi cho việc kinh doanh. ã Chính sách thị trường và cạnh tranh: Thị trường Việt Nam đang bị ảnh hưởng rất lớn bởi hàng hoá nhập lậu. Hàng lậu thuế, hàng gian lận thương mại, nhất là hàng hoá tieu dùng, ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đó là thị trường của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các biện pháp chống buôn lậu chưa được thực hiện tốt. Một số biện pháp chắc chắn có tác dụng tốt đã được bàn đến như dán tem thuế vào hàng nhập, nhưng vẫn chưa được áp dụng rộng rãi. ã Chính sách xuất nhập khảu và tỷ giá: Sự điều hành chính sách xuất nhập khẩu trong thời gian qua có một số điểm gây khó khăn cho doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ví dụ, tình trạng thay đổi thường xuyên trong chính sách mặt hàng khiến nhiều doanh nghiệp trở tay không kịp trong việc xuất nhập khẩu, dẫn đến bị thua thiệt, lỗ vốn. Thủ tục xuất nhập khẩu còn phức tạp chưa thuận lợi cho các doanh nghiệp có sản lượng nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phải uỷ thác. Tình trạng này làm cho chi phí xuất nhập khẩu cao, người sản xuất bị thiệt về giá, mặt khác lại không tiếp cận trực tiếp với bạn hàng nên khó nắm bắt nhu cầu, thị hiếu. ã Chính sách đất đai: Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu mặt bằng sản xuất , nhất là ở các thành phố và trung tâm công nghiệp còn thiếu quy hoạch. Các trung tâm công nghiệp tập trung dành riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chính sách rõ ràng về đất đai cho sản xuất. ã Chính sách công nghệ: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp phải khó khăn liên quan đến thông tin, như không biết kỹ về đối tác, nhất là các đối tác nước ngoài, không biết nguồn công nghệ cần tìm ở đâu, cũng như các thông tin để đánh giá vè tính thích hợp và tính cạnh tranh của công nghệ. Bên cạnh đó, yếu tố con người cũng rất quan trọng để có thể tiếp thu được công nghệ chuyển giao. Nói chung, chính sách của ta chưa chú trọng đến những vấn đề này của doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhìn chung, chính sách công nghệ của ta mới chỉ dừng lại ở những phương hướng, chưa có chính sáchthật cụ thể và rõ ràng về công nghệ. Vì thế, công nghệ chậm được đổi mới, việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào nhiều khi gây thiệt hại lớn cho Việt Nam. Tiềm lực công nghệ vừa yếu, vừa phân tán. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ trong chuyển giao công nghệ lại rất kém. Bên cạnh đó, chính sách vĩ mô cũng mâu thuẫn nhau. Ví dụ, Nhà nước khẳng định khuyến khích việc đổi mới công nghệ. Nhưng, chính sách thuế hiện chưa thực sự mở ra rộng rãi với việc cho phép bất cứ doanh nghiệp nào cũng được khấu hao nhanh máy móc và trang thiết bị mới. Các chính sách thuế chưa thực sự khuyến khích và triển khai áp dụng công nghệ mới, vật liệu mới, sản phẩm mới. 2. Về doanh nghiệp: Phần đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ (1 phần 3) đã phần nào nêu lên một số khó khăn từ phía doanh nghiệp sau đây ta sẽ đánh giá thêm một số khó khăn tiếp theo như : Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhà nước. Trong hu vực ngoài quốc doanh, tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ lớn hơn so với khu vực quốc doanh. Trong những năm qua, cùng với chính sách cải cách kinh tế, phát triển kinh tế nhiều thành phần, số lượng doanh nghiệp các loại thuộc khu vực ngoài quốc doanh tăng lên nhanh chóng, đồng thời số lượng DNNN cũng như hợp tác xã giảm đi đáng kể do sắp xếp, cơ cấu lại hai laọi hình doanh nghiệp này. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng doanh nghiệp làm cho mức đầu tư vốn cho mỗi doanh nghiệp có xu hướng giảm đi. Điều đó làm xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt là trong khu vực ngoài quốc doanh. Việc ngày càng có nhiều doanh nghiệp ra đời là yếu tố tích cực trong phát triển kinh tế, góp phần tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho xã hội, tăng thu nhập cho các tầng lớp dân cư, tạo điều kiện để các nhà đầu tư bỏ vốn cua rmình vào kinh doanh. Tất cả các điều đó là yếu tố tích cực đối với sự phát triển của nèn kinh tế. Tuy nhiên, một số nhà đầu tư vội vã thành lập doanh nghiệp của mình khi chưa đủ điều kiện chín muồi (thiếu vốn để đăng ký, chưa có trụ sở cố định...) nên một số doanh nghiệp ra đời nhưng không hoạt động được hoặc hoạt động cầm chừng, nặng về chụp giật, và cuối cùng rơi vào tình trạng khó khăn, dễ dẫn đến phá sản. Trong những năm qua, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có bước phát triển đáng kể cả về số lượng lẫn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm trong nước, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, việc đầu tư của doanh nghiệp vừa và nhỏ vào sản xuất để tạo ra sản phẩm vật chất không được quan tâm và chú ý nhiều nếu so sánh với đầu tư vào kinh doanh buôn bán, dịch vụ. Đây là một hạn chế trong thực trạng phát triển khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, hạn chế vai trò của khu vực này trong phát triển kinh tế . Điều đó còn phản ánh sự bất cập của chính sách nhà nước chưa hướng được các nhà đầu tư bỏ tiền vào lĩnh vực không chỉ mang lại lợi ích cho cá nhân nhà đầu tư mà còn phải mang lại lợi ích chung cho toàn bộ nền kinh tế. Trình độ công nghệ, trang thiết bị, máy móc và cả trình độ quản lý của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lạc hậu, hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Điều này có nhiều nguyên nhân song chủ yếu là nguyên nhân khách quan. Thứ nhất, phần lớn số doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta mới được thành lập trong những năm đổi mới gần đây. Tuy mới thành lập, nhưng do thiếu vốn, thiếu kỹ năng quản lý cần thiết nên các nhà đầu tư chưa thể mua sắm được trang thiết bị, máy móc hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm sản xuất ra. Phần lớn máy móc, thiết bị cũ được mua lại từ các doanh nghiệp nhà nước bị giải thể, thanh lý để đáp ứng nhu cầu sản xuất trước mắt mà chưa có chiến lược đầu tư trung và dài hạn. Một nguyên nhân khách quan khác gây khó khăn nhiều cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là tình trạng hàng lậu của nước ngoài nhất là hàng tiêu dùng tràn ngập thị trường với giá quá rẻ một cách phi lý trong một thời gian dài đã làm thui chột ý đồ của các nhà đầu tư trong nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu quả kinh tế không cao do năng suất lao động bị hạn chế. Bù lại, doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết tình trạng thiếu công ăn việc làm và tạo thu nhập cho người lao động. Việc đầu tư vào doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh chóng tạo ra sản phẩm và dịch vụ, không mất nhiều thời gian xây dựng, lắp đặt như đối với các dây truyền sản xuất lớn, tạo điều kiện cho nhà đầu tư có khả năng nhanh chóng thu hồi vốn. Mặt khác, quy mô vừa và nhỏ là yếu tố thuận lợi cho doanh nghiệp chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu quản lý một cách nhanh chóng, điều có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường khi mà doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng phải sẵn sàng đáp lại tín hiệu thay đổi thường xuyên của thị trường. Về đội ngũ lao động và cán bộ quản lý của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, như đã phân tích ở trên còn rất hạn chế về trình độ hiểu biết, về tay nghề, về kỹ năng quản lý. Tình trạng đó là do phần lớn đội ngũ lao động được đào tạo tốt ở Việt Nam lại đang làm việc trong khu vực nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn. Chỉ một bộ phận nhỏ trong số lao động được đào tạo tốt đó làm việc ngoài khu vực nhà nước và các doânh nghiệp nhà nước quy mô lớn. Ngoài ra, hệ thống dào tạ của ta còn nặng vè đào tạo lý thuyết (từ mức cao đẳng trở lên) trong khi nhu cầu của các doanh nghiệp đối với công nhân kỹ thuật, lao động lành nghề lại rất lớn. Hệ thống đào tạo cán bộ quản lý có từ thời bao cấp chưa thay đổi kịp theo đòi hỏi của kinh tế thị trường. Chương trình bổ túc cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý vừa thiếu, vừa mang nặng tính lý luận không đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của cán bộ quản lý doanh nghiệp. Hệ thống thông tin và các dịch vụ tư vấn hỗ trợ cho các nhà sản xuất kinh doanh còn rất hạn chế, không đáp ứng được nhu cầu thông tin Chương III Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta I. Những quan niệm chung và định hướng doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.1. Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là nhằm đảm bảo và nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế. Cạnh tranh là động lực phát triển và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Để cạnh tranh, trên thị trường phải có nhièu chủ thể tham gia. Trong nền kinh tế thị trường tự do ở các nước tư bản, các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia luôn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ hơn theo kiểu cá lớn nuốt cá bé. Để tránh bị thôn tính trong các điều kiện như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có xu thế liên kết lại để đần đần hình thành các doanh nghiệp lớn nhằm chống lại sự thôn tính của các doanh nghiệp lớn và cũng để thôn tính các doanh nghiệp nhỏ hơn mình nhằm giành thêm thị trường. Kết quả là một nền kinh tế gồm chủ yếu là các chủ thể độc quyền và người tiêu dùng bị thiệt hại. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường yếu kém về nhiều mặt nếu không được hỗ trợ thì khó có thể tồn tại và phát triển được, gây gánh nặng và khó khăn cho phát triển kinh tế và xã hội. Sự hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là để đảm bảo bình đẳng trong hoạt động kinh tế, hạn chế và loại bỏ độc quyền trong kinh doanh của các công ty lớn. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh cụ thể ở nước ta là để duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế thi trường, tránh những méo mó do sự độc quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể kinh tế trong môi trường kinh doanh những yếu tố đó có vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng hoá sản phẩm trong hoạt động của nền kinh tế. Hỗ trợ và khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao khả năng cạnh tranh, xét về mặt nội dung, trước hết là tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhà nước là người quyết định phân phối toàn bộ nguồn lực Quôc gia theo kế hoạch định sẵn tập trung nguồn lực cho sản xuất lớn. Phát triển các ngành công nghiệp với quy mô lớn về vốn và lao động để đạt hiệu quả cao là xu thế phổ biến của cơ chế kế hoạch tập trung. Nếu coi phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một cách tiếp cận mới về phát triển thì có thể nói cách tiếp cận này nhìn chung không tồn taị và không phù hợp với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chỉ khi chuyển sang cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc phân bố một phần nguồn lực của nền kinh tế tập trung vào một số mục tiêu then chốt, Việc phân bổ phần nguồn lực còn lại được thực hiện theo cơ chế thị trường bởi các chủ thể là các thành phần kinh tế khác nhau và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mới có đầy đủ điều kiện để được thực hiện. Có ý kiến cho rằng Đảng và Nhà nước đã chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần thì không cần phải có chủ trương riêng về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ nữa. Xét về quy mô thì hầu như chỉ có khu vực kinh tế nhà nước là có doanh nghiệp có quy mô lớn, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung chúng ta chủ yếu chỉ quan tâm phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã. Còn hiện nay chúng ta chủ trương phát triển mọi thành phần kinh tế, huy động sức mạnh của mọi người, mọi tầng lớp để phát triển, cũng có nghĩa là chúng ta khuyến khích phát triển các loại doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ mà chủ đầu tư không chỉ còn là nhà nước. Nhà nước đã ban hành khuôn khổ pháp luật thích ứng với từng loại hình doanh nghiệp, đoa là nền tảng pháp lý cơ bản để các doanh nghiệp phát triển. Ngoài ra Chính phủ đã ban hành một số chính sách riêng cho một số thành phần kinh tế, thí dụ chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã, chính sách đối với các cụm, nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, chính sách ưu đãi với đầu tư trong nước, các chính sách đặc biệt đối với các cơ sở sử dụng nhiều lao động là các đối tượng chính sách của nhà nước... hầu hết các chính sách đó về thực chất là các chính sách dành cho các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Tuy nhiên, nếu tiếp tục duy trì sự phân biệt trong chính sách đối với các thành phần kinh tế khác nhau thì sẽ không bảo đảm được sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp này và kết cục là các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp không có lợi thế về vốn và công nghệ tiếp tục có được nhiều ưu ái hơn các doanh nghiệp dân doanh, các doanh nghiệp nhỏ. Do đó, thực hiện chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ không những vẫn đảm bảo thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước, mà còn góp phần duy trì sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đó trong nền kinh tế thị trường. Có thể nói, “phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ” chính là một phần nội dung của “Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần có chú ý theo chiều sâu”. 1.2. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều viẹc làm góp phần thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta đang cần nhiều vốn để đầu tư phát triển trong những năm trước mắt, do nguồn vốn hạn chế, nhà nước chỉ có khả năng huy động từ ngân sách chủ yếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng thay vì đầu tư nhiều cho các ngành sản xuất như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Vì vậy các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là cách huy động thêm các nguồn đầu tư từ trong dân để phát triển kinh tế. Nước ta đang dư thừa lao động. Doanh nghiệp vừa và nhỏ lại có ưu thế trong tạo việc làm: suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn, tổng vốn đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao; có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động; yêu cầu về tay nghề và trình độ lao động không cao. Do đó, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, là phương hướng và cách đi thích hợp để thực hiện công nghiệp hoá nông thôn chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ được phát triển ở các vùng nông thôn tránh gây sức ép về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di dân vào các thành phố và trung tâm tạo nên. 1.3. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế đặc biệt là tạo mối liên kết công nghiệp trong chức năng hỗ trợ cho các doanh nghiệp quy mô lớn (phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ) trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế. Về lâu dài, theo kinh nghiệm của nhiều nước, kể cả các nước công nghiệp, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là do lợi thế của loại hình doanh nghiệp này, đặc biệt là do khă năng tạo mối liên kết công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp quy mô lớn (phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ) đó là những yếu tố rát quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đồng thời, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trước mắt, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (nhất là phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ) nhằm mục tiêu: + Tạo mối liên kết công nông nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, tạo sự phân công lao động mới trong nông thôn, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. + Tạo mối liên kết công nghiệp giữa công nghiệp lớn với công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển mạng lưới công nghiệp hỗ trợ có hiệu quả với công nghệ cao. Hai mục tiêucơ bản trên có thể phát triển đan xen lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau nhằm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời là yếu tố quan trọng trong phát triển các ngành dịch vụ, tăng hiệu quả của nền kinh tế. Vì những căn cứ chủ yếu nêu trên cần thiết phải hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2. Những quan điểm chung và định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 2.1. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vì những lý do đã phân tích ở mục I/1 gồm:1.1, 1.2, 1.3, 1.4. 2.2. DNV&N cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thi trường trong một số ngành có lựa chon là: + Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh. + Các ngành tạo đầu vào cho các doanh nghiệp lớn cũng như trong các lĩnh vực phục vụ đầu ra cho các sản phẩm cho doanh nghiệp lớn (tức mạng lưới phân phối gia công bán thành phẩm, chế biến sâu...). + Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc các làng nghề. 2.3. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cả trong công nghiệp và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Hiện nay nươc ta có khoảng 80% dân số sống ở nông thôn. quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tình trạng nguồn nhân lực rồi rào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đang dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên nghững biến động xã hội khó lường trước được. Kinh nghiệm của nhiều nước đông dân ở châu á cho thấy chiến lược phát triển đi từ nông nghiệp nông thôn là sự lựa chọn khôn ngoan và hiệu quả do một số lý do sau: + Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn góp phần giảm thiểu nhu cầu di cư vào thành phố và trung tâm công nghiệp, ổn định xã hội, tránh cho các thành phố lớn lâm vào tình trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt. + Thu nhập của cư dân nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết kinh tế giữa thành thị và nông thôn góp phần giảm chênh lệch vể trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn. + Sử dụng được nguồn lực lao động rồi rào - một trong hai yếu tố quan trong cho tăng trưởng (vốn và lao động) trong khi thiếu vốn. + Phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phân phối, lưu thông hàng hoá ở nông thôn góp phần thúc đẩy thị trường ở nông thôn phát triển, thu hút được số lượng lớn lao động nhàn dỗi. phát triển mạng lưới phân phối nhiều cấp rộng khắp ở nông thôn sẽ tạo điều kiện tiêu thụ hàng hoá công nghiệp tốt hơn. Tuy nhiên, vì nhiều cấp nên hệ thống này có thể sẽ làm tăng chi phí dịch vụ. + Nông thôn có sẵn nguồn nguyên vật liệu tại chỗ phong phú cho phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng nhất là cho các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm. Công nghiệp nông thôn có thể tập chung phát triển ở một số ngành và sản phẩm sau: + Các ngành đáp ứng yêu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm kim loại. + Cơ khí, sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống. + May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ. 2.4. Doanh nghiêp vừa và nhỏ được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định nà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. Xét về mặt kinh tế. Nguyên lý chung là sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế nói chung, chứ không phải riêng của một doanh nghiệp hay công ty nào, thì không hoàn toàn như vậy. Thị trường có nhiều phân đoạn: phân đoạn dành cho các sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn; phân đoạn dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng như cầu hết sức thích hợp với loại thị trường thứ hai này. Thông thường, nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì doanh nghiệp lớn thường có xu hướng tìm cách chiếm mọi thị trường. Vì vậy, nên chăng cần có khung khổ luật pháp rõ ràng quy định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào, với tỷ trọng bao nhiêu được ưu tiên dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhận. 2.5. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp lớn Trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước xuất phát từ định hướng chung phát triển kinh tế xã hội đã đặt ra những chương trình phát triển quy mô lớn, theo đó những định hướng phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ tạo ra mối liên kết hỗ trợ lẫn nhau thông qua cơ chế chính sách của nhà nước, tạo môi trường thuận lợi để các doanh nghiệp lớn, vừa và nhỏ ký các hợp đồng tạo mối liên kết chặt chẽ cùng phát triển. Mối liên kết chặt chẽ đó thể hiện qua các khía cạnh sau: + Phân công chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ vf doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả, doanh nghiệp vừa và nhỏ vừa tạo đầu vào góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn. + doanh nghiệp lớn hỗ trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuỷen giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý. + Giao thầu lại cho doanh nghiệp vừa và nhỏ những phần việc trong hợp đồng lớn mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước. + Hỗ trợ tài chính lẫn nhau trong quá trình phát triển. 2.6. Nên ngiên cứu thành lập một số khu công nghiệp tập trung ở các thành phố lớn dành riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ về cơ sở hạ tầng: điện, nước, thông tin liên lạc, tiếp cận thị trường, giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với chi phí thấp hơn các khu công nghiệp tập trung hiện có mà chỉ các doanh nghiệp lớn mới có khả năng. + Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nằm trong khu công nghiệp. 3. Đổi mới quan điểm và phương thức hỗ trợ. 3.3. Đổi mới quan điểm hỗ trợ. + Để có thể đổi mới quan điểm hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trước hết cần phải nhận thức đúng vai trò quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, cần quán triệt xâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và chiến lược kết hợp quy mô lớn trong sự đan xen với quy mô vừa và nhỏ. Nghị quyết đai hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả”. Đây là một quan điểm chiến lược rất quan trọng, vừa có ý nghĩa định hướng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển đúng đắn, vừa định hướng hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp này từ phía các ngành, các cấp. Như vậy, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ không phải là sự ban ơn, mà là trách nhiệm của các tổ chức của Đảng, của chính quyền và toàn xã hội trong đó có các doanh nghiệp lớn. + Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm làm cho các doanh nghiệp này phát triển theo hướng công nghiệp hoá, kinh doanh ngày càng văn minh hiện đại. Để thực hiện mục đích công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần đặc biệt chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các khâu quan trọng như công nghệ, đào tạo chủ doanh nghiệp, cung cấp thông tin thị trường và dự báo xu hướng phát triển trong nước và quốc tế. Đồng thời cần có những giải pháp để khuyến khích đầu tư công nghệ sạch, công nghệ mới, tìm kiếm các giải pháp cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất... để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh ngày càng văn minh, cần khuyến khích các doanh nghiệp này kinh doanh đúng luật làm ăn công khai... cùng với việc hỗ trợ cần thiết phải có biện pháp tốt để kiểm soát việc sử dụng các công nghệ, đặc biệt là công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường. 3.2. Đổi mới phương thức hỗ trợ Việc lựa chọn phương thức hỗ trợ có ý nghĩa quan trọng quyết định tính thực thi hiệu quả của các hình thức hỗ trợ. Hiện nay phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thực tế ở Việt Nam thường theo hai hướng: đối với doanh nghiệp nhà nước quy mô vừa và nhỏ trong thời kỳ đầu thì thiên về hỗ trợ trực tiếp (cấp vốn, cấp mặt bằng, đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp) với nhiều chính sách ưu đãi hơn, đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh phương thức hỗ trợ chủ yếu là gián tiếp dưới dạng giảm thuế, cho vay với lãi suất ưu đãi.. .Tuy nhiên, mức độ hỗ trợ còn ít ỏi so với nhu cầu của các doanh nghiệp. Có nhiều phương thức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ: hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp, kết hợp cả trực tiếp và gián tiếp, hỗ trợ dẫn đường (đi tiên phong), hỗ trợ thông qua trung gian... Hỗ trợ trực tiếp bao gồm: + Đơn giản hoá thủ tục cấp giấy phép, kiểm tra. + Cấp vốn. + Xây dựng cơ sở hạ tầng. + Đào tạo chủ doanh nghiệp. + Cung cấp thông tin. + Cung cấp ưu đãi về mặt bằng sản xuất kinh doanh. Hỗ trợ gián tiếp chủ yếu là: Tác đông thông qua môi trường kinh doanh nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Các giải pháp chủ yếu là: + Hình thành môi trường kinh doanh ổn định, an toàn và bảo hộ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (bao gồm môi trường, thể chế, môi trường luật pháp, môi trường thị trường, môi trường cơ sở hạ tầng). + Ưu đãi thuế (giảm hoặc miễn thuế). + Bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý, chống nhập lậu hàng ngoại. + Tạo điều kiện để doanh nghiệp vừa và nhỏ hợp tác liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra cần chú ý đến cách thức hỗ trợ bằng quy hoạch phát triển, tạo lập cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở kinh tế làm tiên phong trong một số lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn như công nghệ cao, hỗ trợ thông qua các tổ chức nhỏ cũng như có biện pháp cụ thể, thiết thực kuyến khích hình thành và phát triển các công ty dịch vụ tư vấn, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (thay vì nhà nước phải đứng ra thành lập các cơ sở hỗ trợ thì chỉ cần hỗ trợ một phần cho các trung tâm này hoạt động). II. Một số giải pháp khắc phục 1. Chức năng quản lý của nhà nước. Chức năng quản lý của nhà nước trước hết được thể hiện bằng việc: + Tạo lập môi trường kinh doanh an toàn và thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. + Định hướng và hướng dẫn. + Điều tiết và hỗ trợ. + Hỗ trợ là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước đối với nền kinh tế, dặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần phát hjuy vai trò trên các lĩnh vực: 1.1. Hình thành khung khổ pháp lý Việc tạo lập khung khổ pháp lý rõ ràng và chuẩn xác là điều kiện đầu tiên làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ bao gồm: ã Ban hành, bổ xung và sửa đổi các chính sách, quy định hiện hành liên quan đến doanh nghiệp vừa và nhỏ: đây là giải pháp loại bỏ mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật gây cản trở cho các thủ tục hành chính, bổ xunh thêm những điểm không phù hợp với môi trường kinh doanh hiện tại. Các văn bản phải bảo đảm tính ổn định, tính thống nhất, tính lâu dài, tính đồng bộ để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tức là khi soạn thảo phải tính đến cả những đòi hỏi của sự phát triển trong tương lai. ã Ban hành pháp luật riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Xác định rõ đối tượng điều chỉnh. + Các giải pháp chung để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và các tổ chức liên quan trong việc hỗ trợ này. 1.2. Kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ Các cơ quan này có chức năng chủ yếu như: + Giúp nhà nước hoạch định chiến lược và chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Nắm bắt tình hình, nguyện vọng và cung cấp thông tin cần thiết về chính sách thị trường, công nghệ, lao động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ. Xúc tiến hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm các đối tác trong kinh doanh, thực hiện việc kiểm tra chất lượng và quản lý môi trường. + Đào tạo chủ doanh nghiệp. Kiểm tra việc chấp hành luật pháp của các doanh nghiệp. 1.3. Khuyến khích phát triển các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ + Nhà nước cần có chính sách hợp lý và hỗ trợ một phần cho các tổ chức làm chức năng hỗ trợ mà không cần đầu tư nhiều nguồn lực nhà nước nhưng vẫn đạt được mục đích. + Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các chương trình, dự án về tài chính. + Cho phép thực hiện hỗ trợ theo phương thức ứng xử thị trường thay cho phương thức cung cấp không mất tiền thường dẫn đến trì trệ, ỉ lại và rễ thất thoát. 1.4. Khuyến khích thành lập các hiệp hội và các tổ chức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhu cầu bức xúc hiện nay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần có những tổ chức đại diện để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp này đồng thời có điều kiện hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, trao đổi kinh nghiệm, cung cấp thông tin, hỗ trợ nhau về vốn công nghệ...Các tổ chức này có thể được thành lập dưới dạng các hội nghề nghiệp, hiệp hội, các câu lạc bộ...Hoạt động thường xuyên hoặc định kỳ dưới nhiều hình thức đa dạng, phong phú. 1.5. Hoàn thiện chính sách. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề cấp bách hiện nay vì: số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ khá lớn. Mặc dù chính sách đó có vai trò lớn nhưng trong chính sách của nhà nước hiện nay có nhiều trở ngại cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Dưới đây là một số đề xuất về đổi mới chính sách. ã Chính sách đầu tư: chính sách đầu tư đổi mới theo hướng khuyến khích mọi nỗ lực đầu tư phát triển kể cả các nguồn lực trong và ngoài nước, khuyến khích những công dân Việt Nam có vốn, có kiến thức đứng ra kinh doanh. ã Chính sách vốn; đổi mới chính sách tài chính tiền tệ: có chính sách chống độc quyền kinh doanh ngân hàng, giảm dự trữ bắt buộc, nhà nước chỉ nên điều tiết lãi suất bằng phương pháp thị trường mở và dự trữ bắt buộc, điều chỉnh lãi suất một cách linh hoạt, sát với cung - cầu vốn trên thị trường. + Mở rộng cạnh tranh trong kinh doanh ngân hàng: giải pháp này nhằm thiết lập lãi suất thị trường thực sự, ổn định lãi suất, giảm bớt phiền hà cho khách hàng trong việc vay vốn. + Giảm bớt thủ tục vay vốn: mở rộng mạng lưới cho vay và các hình thức huy động, khuyến khích cạnh tranh hợp pháp. + Quỹ phát triển tín dụng nhân dân. + Phát triển các định chế tài chính, cung cấp vốn trung và dài hạn, như thị trường chứng khoán, thị trường vốn trung - dài hạn. + Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu... + Ưu đãi lãi suất: trong chính sách ưu đãi vốn cần chọn đứng đối tượng với nguồn lực ít mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiêu quả các doanh nghiệp gắn với các nhiệm vụ chiến lược và hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghẹe mới, sản xuất thử nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nghề, các hoạt động tư vấn. Một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho các đối tượng được hỗ trợ tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ được vay. + Thành lập các quỹ hỗ trợ: các nguồn có thể làm từ ngân sách trung ương và địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, các tổ chức trong và ngoài nước.Quỹ này có thể do nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng này do nhà nước quản lý với sự nhất trí của người tài trợ thông qua trung gian chuyên trách (thường là ngân hàng). + Thành lập trung tâm bảo lãnh đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, một trong những khó khăn lớn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó, rất cần một tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong những hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay (doanh nghiệp) và người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) và nhà nước. Nhờ đó mà giảm bớt rủi do khi vay vốn. ã Chính sách đất đai: mở rộng quyền cho chính quyền địa phương trong việc sử dụng vào mục đích sản xuất và cho thuê đất. + Cho thuê, đấu thầu những cơ sở bị giải thể. + Tăng thời hạn sử dụng, miễn và giảm thuế đối với phần bỏ vốn vào việc mở mang đất đai, tận dụmg đât thừa, ao, hồ, đầm...để đưa vào sản xuất. + Hình thức các khu công nghiệp tập trung để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Khuyến khích các doanh nghiệp liên kết xây dựng hạ tầng để cho thuê mặt bằng, nhà xưởng với giá ưu đãi đó là cách thức xây dựng “khu công nghiệp nội địa” mà thành phố Hà Nội đang làm. ã Chính sách thuế: đổi mới theo hai nội dung hệ thống thuế chung, đổi mới theo xu hướng. + Đơn giản hoá hệ thống thuế suất, hạ mức thuế suất, tránh đánh thuế chồng chéo, cải cách cơ chế định - thu kiểm tra thuế theo hướng độc lập giữa các bộ phận này, có thể kiểm tra lẫn nhau, thực hiện cơ chế tự khai báo mức thuế, Nhà nước kiểm định và doanh nghiệp tự nộp thuế. + Đảm bảo công bằng, bình đẳng giữa các doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước hơn các doanh nghiệp ngoài nước. Chính sách thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cần mở rộng theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi. + Mở rộng đối tượng ưu đãi: đến nay trong các chính sách thuế của nhà nước, đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều chỉ có một số doanh nghiệp ở vùng núi cao, hải đảo và một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản. Như vậy, trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hỗ trợ cho các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó, chính sách ưu đãi thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, có như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho ác doanh nghiệp tích luỹ để phát triển sản xuất và mở rộng quy mô. + Tăng mức độ ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn dè dặt chỉ giảm thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1 - 2 năm, hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn thuế còn ít. Để các doanh nghiệp có tích luỹ ban đầu cho phát triển sản xuất, đứng vững thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 - 5năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và đào tạo chủ doanh nghiệp, cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới. + Có hình thức ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng tăng. Như vậy sẽ không khuyến khích được các doanh nghiệp mở rộng quy mô mà quy mô nhỏ quá sẽ kinh doanh không có hiệu quả. Kết luận Sau một thời gian dài thực tập, nghiên cứu các tài liệu tham khảo của vụ doanh nghiệp cùng với các tư liệu của tổng cục thống kê, một số sách lí luận về đề tài doanh nghiệp vừa và nhỏ. trên cơ sở đó, rút ra một số khó khăn và phương hướng giải quyết từ tầm vĩ mô, vi mô nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của cả hệ thống doanh nghiệp. Trong khuôn khổ cho phép của chuyên đề, em đã cố gắng trình bày một số khó khăn lớn thường gặp. Tất nhiên, sẽ không tránh khỏi sơ suất trong lí luận và sắp xếp, rất mong sự thông cảm của các thầy cô, cũng như tập thể cơ quan nơi em thực tập. Em xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo Kinh tế ngoài quốc doanh thời kỳ mở cửa 1991-1995. NXB thống kê Hà nội, 1996 Tập san phát triển kinh tế 1992-1997 Niên giám thống kê 1990-1996. NXB Thống kê, hà nội. 1996 Đổi mới doanh nghiệp vừa & nhỏ. Nguyễn Hữu Hinh. Các vấn đề xã hội. NXB Chính trị quốc gia 1996 Một số tham luận & báo cáo đệ trình chính phủ, đề tài khoa học của Vụ doanh nghiệp Tập san nghiên cứu kinh tế số 212-234 Mục lục Trang lời mở đầu 1 chương I: tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2 I. Tiêu chí, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ 2 1. Một số vấn đề về tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ 2 2. Định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ 10 II. vai trò, vị trí của doanh nghiệp vừa và nhỏ 12 1. Đóng góp vào kết quả của hoạt động kinh tế của nền kinh tế quốc dân 13 2. Tạo việc làm cho người lao động 13 3. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng các nguồn lực của xã hội 15 4. Làm cho nền kinh tế năng động, hiệu quả hơn 16 5. Khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân 17 6. Đa dạng hoá và tăng thu nhập của dân cư 17 7. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế 17 8. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là cơ sở kinh tế ban đầu để phát triển các doanh nghiệp lớn 18 9. Đóng góp một phần đáng kể ngân sách 18 10. Những lợi thế và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ 19 III. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 21 1. Khung khổ pháp lý khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 21 2. Chiến lược phát triển & chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ 22 3. Thành lập cơ quan quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 22 4. Thành lập các tổ chức hỗ trợ & các hiệp hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 23 Chương II : Thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong thời gian qua 25 I. tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 25 1. Quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 25 2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ 27 3. Đặc điểm của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ 30 4. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển kinh tế, xã hội ở Việt Nam 37 II. một số khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp vừa và nhỏ 40 1. Môi trường kinh doanh và các chính sách của Nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 40 2. Về doanh nghiệp 46 Chương III : một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ của nước ta 48 I. những quan điểm chung và định hướng doanh nghiệp vừa và nhỏ 48 1. Sự cần thiết phải hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 48 2. Những quan điểm chung và định hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 51 3. Đổi mới quan điểm và phương thức hỗ trợ 53 II. một số giải pháp khắc phục 55 1. Chức năng quản lý Nhà nước 55 Kết luận 60 Tài liệu tham khảo 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28447.doc
Tài liệu liên quan