Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội

MỞ ĐẦU Tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng luôn là một hoạt động chủ đạo và mang lại thu nhập chủ yếu của ngân hàng thương mại. Đối với doanh nghiệp, tín dụng trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn để cải tiến công nghệ, kỹ thuật, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Cho đến nay, loại tín dụng này vẫn là kênh tài trợ vốn chủ yếu cho doanh nghiệp dù trong bất kỳ thời đại hay nền kinh tế nào. 'Trên phương diện toàn bộ nền kinh tế tín dụng trung và dài hạn là công cụ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hóa thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới toàn diện. chúng ta đang thực sự rất cần vốn để phát triển tín dụng trung và dài hạn là công cụ đắc lực để đáp ứng nhu cầu đó. Tuy vậy, để hoạt động tín dụng trung và dài hạn thực sự có hiệu quả thì vẫn còn nhiều bất cập. Các doanh nghiệp luôn cho rằng họ thiếu vốn trong khi ngân hàng lại rất khó thực hiện việc cho vay vì các dự án mà các đơn vị vay vốn đưa ra nhiều khi không chứng minh được tính hiệu quả của nó. Hơn nữa, trong một vài năm vừa qua đã xảy ra những biến động xấu trong hoạt động ngân hàng như một số vụ đổ bể tín dụng với mức thất thoát lên tới hàng ngàn tỷ đồng, hiện tượng ứ đọng vốn trong các ngân hàng, Hiện tượng này đã buộc các ngân hàng thương mại phải quan tâm hơn đến hoạt động tín dụng của mình và vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trở thành mối quan tâm lớn đối với những người hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng. Được thành lập và đi vào hoạt động từ lâu nhưng Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mới chỉ thực sự hoạt động như một ngân hàng thương mại từ đầu năm 1995. Là một ngân hàng thương mại phục vụ chủ yếu trong lĩnh vực đầu tư phát triển, hoạt động trên địa bàn Thủ đô - là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội luôn xác định tín dụng trung và dài hạn là nghiệp vụ truyền thống và quan trọng trong hoạt động của mình. bước sang giai đoạn mới, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội đã và đang xây dựng cho mình một chiến lược phát triển toàn diện trong đó tín dụng trung và dài hạn vẫn luôn được xác định là hoạt động hàng đầu. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội“ Để thực hiện chuyên đề tốt nghiệp của mình. Bản chuyên đề này gồm 3 phần và có bố cục như sau: Phần 1: Lời nói đầu Phần 2: Nội dung Chương I: Chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng tín dụng trung và dài hạn tại chính nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội. Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội. Phần 3: Kết luận Tuy nhiên do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm thực tiễn cho nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ hướng dẫn để bản luận văn được hoàn thiện hơn. Trong quá trình thực hiện bản luận văn này em đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy cô giáo trong khoa. Đặc biệt là của thầy giáo hướng dẫn: Vũ Thị Ngọc Phùng cũng như các cán bộ hướng dẫn của phòng tín dụng 1 chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội. PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU PHẦN 2: NỘI DUNG CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI I. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thƯơng mại 1 Khái quát về ngân hàng thương mại 2 Vai trò tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế 2.1 Hoạt động tín dụng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế quốc dân 2.2 Hoạt động tín dụng đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, phát triển kinh tế 2.3 Hoạt động tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc điều hoà lưu thông tiền tệ 2.4 Hoạt động tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại 3. Các hình thức của hoạt động tín dụng ngân hàng. 3.1 Hoạt động tín dụng ngắn hạn 3.2 Hoạt động tín dụng trung và dài hạn 4. Chất lợng hoạt động tín dụng trung và dài hạn 4.1 Khái niệm 4.2 Chất lợng tín dụng theo quan điểm của ngân hàng TM 4.3 Chất lợng hoạt động tín dụng theo quan điểm của xã hội và khách hàng 4.4 Các chỉ tiêu đo lờng chất lợng hoạt động tín dụng của ngân hàng thơng mại 4.5 Chỉ tiêu tổng dƯ nợ 4.6 Chỉ tiêu lợi nhuận thu đợc từ hoạt động tín dụng 5. nhân tố ảnh hởng tới chất lợng hoạt động tín dụng 5.1 Những nhân tố khách quan 5.2. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn 6. ý nghĩa của việc nghiên cứu chất lợng hoạt động tín dụng CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI I- Khái quát về chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Lịch sử phát triển của Ngân hàng Đầu tư Phát triển Hà Nội 2. Hệ thống tổ chức của ngân hàng đầu tư phát triển Hà Nội 3. Tình hình sản xuất kinh doanh của Chi nhánh NH ĐT&PT Hà Nội 3.1. Hoạt động huy động vốn 3.2. Hoạt động sử dụng vốn 3.3. Các hoạt động khác 3.4 Hoạt động kiểm tra- kiểm tóan nội bộ ngân hàng II- Thực trạng hoạt động tín dụng trung dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua chi tiêu tổng dư nợ 2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng ĐT & PT Hà Nội thông qua chỉ tiêu tổng dư nợ 3. Chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn 3.1. Thực trạng nợ quá hạn trung và dài hạn tại Chi nhánh 3.2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn 4. Chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh NHĐTPT Hà Nội qua chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn 4.1. Thực trạng thu thập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh 4.2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh thông qua thu nhập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn 4.3 Chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội qua sự đóng góp của nó tới sự phát triển kinh tế – xã hội 5. Nhận xét chung về chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI I. Định hướng hoạt động tín dụng của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng 1.1. Thuận lợi 1.2. Khó khăn 2- Định hướng hoạt động của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 3. Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của chi nhánh ngân hàng ĐTPTHN II- Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt hơn để cho các khoản vay của chi nhánh hấp dẫn hơn 1.1 Thực hiện cho vay với lãi suất linh hoạt theo thời gian 1.2 Có chính sách lãi suất phù hợp theo mức độ sử dụng sản phẩm của chi nhánh 1.3 Lãi suất cho vay nên giảm dần theo mức tăng qui mô của khoản tiền vay 1.4. Có chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng cụ thể 2. Thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội 1. Kiến nghị đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước 2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước 3. Kiến nghị đối với ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam 4. Kiến nghị với chi nhánh ngân hàng đầu tư & phát triển Hà Nội PHẦN 3 – KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc65 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỢ. Căn cứ vào dư nợ tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh trong những năm qua ta thấy chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh là tốt vì với dư nợ tín dụng cao điều này chứng tỏ sản phẩm tín dụng trung dài hạn này sẽ đem lại những khoản lợi nhuận lớn cho Chi nhánh đồng thời nó cũng phần nào đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên với sự giảm sút của tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng trung dài hạn, nó là dấu hiệu cho thấy chất lượng hoạt động tín dụng nếu xét theo chỉ tiêu này đang có xu hướng giảm sút. Do vậy nhiệm vụ của Chi nhánh trong những năm tới là chặn đứng việc giảm sút của dư nợ tín dụng trung và dài hạn, tạo lập cho nó một bước phát triển mới phù hợp với qui mô tín dụng của chi nhánh và kế hoạch của Nhà nước. 3. CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI THÔNG QUA CHỈ TIÊU NỢ QUÁ HẠN. 3.1. Thực trạng nợ quá hạn trung và dài hạn tại Chi nhánh. Khi xét chất lượng tín dụng của một ngân hàng thì một chỉ tiêu không thể bỏ qua (có thể coi là quan trọng nhất) là tỷ lệ giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ. Nợ quá hạn thường là dấu hiệu chính thức đầu tiên đối với một khoản vay có vấn đề. Nợ quá hạn cao chắc chắn sẽ tạo nên những hoài nghi về hoạt động tín dụng của ngân hàng hay ít nhất đó cũng là dấu hiệu của việc xác định không phù hợp các điều kiện cho vay như thời hạn trả nợ và phương thức trả nợ. Nợ quá hạn thấp luôn là cái đích mà các ngân hàng hướng tới, tuy nhiên, các ngân hàng thương mại cũng không nên quá quan trọng tới mức cực đoan khi tìm mọi cách làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn, bởi vì hoạt động ngân hàng vốn đã hàm chứa nhiều rủi ro, nếu quá tập trung vào việc làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn ngân hàng có thể bỏ qua những khoản vay có chất lượng mặc dù nhìn bề ngoài có thể đó là một khoản vay chưa hội đủ những yêu cầu . Trong những năm vừa qua Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt nam nói chung và chi nhánh Hà Nội nói riêng là ngân hàng hoạt động ổn định nhất trong các ngân hàng thương mại. Tuy tổng nợ quá hạn hàng năm có tăng về số tuyệt đối nhưng đây là do kết quả của việc tăng lên của các khoản vay chứ không phải do sự gia tăng của các khoản vay yếu kém. Để xét cụ thể hơn, ta đi vào một số chỉ tiêu quan trọng. Tỷ lệ nợ quá hạn TDH/ tổng nợ quá hạn. Tỷ số này cho biết trong tổng số nợ quá hạn thì có bao nhiêu phần trăm (%) là do nợ quá hạn đối với các khoản vay trung dài hạn gây nên. Từ tỷ lệ này và căn cứ vào đặc điểm hoạt động của ngân hàng để xét xem tỷ lệ này có là hợp lý hay không. Xét về diễn biến của chỉ số này trong những năm qua ta thấy chúng liên tục giảm mặc dù về số tuyệt đối của các khoản nợ quá hạn đối với các khoản vay trung và dài hạn lại tăng lên cùng với sự gia tăng của nợ quá hạn. Thông qua chỉ tiêu này ta cũng thấy, tốc độ gia tăng của nợ quá hạn đối với các khoản cho vay ngắn hạn tăng nhanh hơn tốc độ gia tăng của nợ quá hạn đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, điều này chứng tỏ những khoản tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh là đang hoạt động tốt. Tỷ lệ nợ quá hạn TDH/ tổng dư nợ TDH. Tỷ lệ này cho biết trong tổng dư nợ trung và dài hạn thì có bao nhiêu phần trăm là nợ quá hạn. Tỷ lệ này là quan trọng vì các ngân hàng khi quyết định cấp tín dụng cho một dự án thì kỳ hạn thu nợ là vô cùng quan trọng, việc thu hồi nợ đúng với kỳ hạn ghi trong hợp đồng tín dụng sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động theo đúng kế hoạch kinh doanh của mình. Bài viết này chỉ đề cập tới các khoản cho vay trung và dài hạn và tỷ lệ của nợ quá hạn trung và dài hạn so với các khoản cho vay trung và dài hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội là tương đối thấp (năm 2005 là 1,14%, năm 2006 là 0,2% ,năm 2007 là 0% dư nợ, biến động không đều và có xu hướng giảm nhiều những năm gần đây. Điều này được giải thích bởi Chi nhánh đã quán triệt đến từng cán bộ tích cực tận thu nợ quá hạn và được sự hỗ trợ của các chính sách nhà nước trong việc xóa, khoanh nợ... Nợ khó đòi. Khoản nợ này luôn là một chủ đề được quan tâm nhiều nhất của tất cả các ngân hàng cũng như một khách hàng trước khi đến với một ngân hàng và là một vấn đề mà tất cả các ngân hàng đều gặp phải. Giống như tên gọi của nó, khi gặp phải vấn đề này các ngân hàng luôn phải đối mặt đối với một khoản tiền mà ngân hàng có thể mất không, không thu hồi được. Các khoản nợ khó đòi sẽ tác động làm giảm thu nhập hay lãi ròng của ngân hàng, chính vì vậy mục tiêu của các ngân hàng là phấn đấu để khoản nợ này càng nhỏ càng tốt. Nhưng việc làm giảm thiểu nợ khó đòi là một vấn đề vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi sự nỗ lực của tất cả đội ngũ lãnh đạo và nhân viên của ngân hàng cũng như các đơn vị có liên quan. Để xét chỉ tiêu này, bài viết đề cập tới 2 chỉ tiêu có liên quan và hai chỉ tiêu này không phải là chỉ tiêu khác biệt nhau mà chúng sẽ bổ xung cho nhau. Đó là Tỷ lệ nợ khó đòi trung và dài hạn/ tổng nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi tổng nợ quá hạn trung và dài hạn. Từ số liệu nợ qúa hạn trung dài hạn chiếm 0% dư nợ ta thấy: Các khoản nợ quá hạn đối với các dự án trung và dài hạn là rất thấp cả về số tuyệt đối và số tương đối. Về số tuyệt đối nợ quá hạn đối với các dự án trung dài hạn chỉ chiếm 4 tỷ đồng trong năm 2007. Về số tương đối ta thấy các tỷ lệ khó đòi/ tổng nợ quá hạn và tỷ lệ nợ khó đòi/ tổng nợ quá hạn trung và dài hạn là thấp và cũng đang có xu hướng giảm trong thời gian gần đây. Đây thực sự là những tín hiệu tốt đối với hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Việc có sự gia tăng đột biến về nợ khó đòi trong năm 1998 vì một lý do chính đó chính là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu á xảy ra đúng năm này, điều này đã tác động xấu tới nền kinh tế của các nước trong khu vực và Việt nam, nó làm cho một số doanh nghiệp bị khủng hoảng và một số dự án phải đình chỉ lại và hậu quả tất yếu là các ngân hàng cũng chịu tổn thất đó là các khoản nợ khó đòi tăng cao. Nguyên nhân của tỷ lệ quá hạn và nợ khó đòi thấp. Đạt được tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó đòi thấp là do Chi nhánh đã chủ động tìm hiểu, đánh giá hiệu quả của dự án, nhất là các dự án mà Chi nhánh tự tìm kiếm. Mặt khác các chính sách mới của Nhà nước cũng tạo sự tự chủ hơn cho Ngân hàng, chi nhánh có thể từ chối các dự án dù đã nằm trong kế hoạch Nhà nước nhưng Ngân hàng thấy không đạt hiệu quả. Theo quyết định số 13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 thì những dự án có quyết định đầu tư sau ngày 31/3/1999, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra quyết định đầu tư sau khi có ý kiến của tổ chức cho vay về hiệu quả đầu tư, khả năng trả nợ, khả năng nguồn vốn cho vay. Các dự án nhóm A do bộ kế hoạch đầu tư thẩm định, tổ chức cho vay được tham gia ngay từ khâu thẩm định và thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Qui định này làm cho ngân hàng tự chủ hơn nhưng cũng buộc họ phải thận trọng hơn đối với các khoản cho vay của mình. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ cũng như kết hợp các đoàn thanh tra, kiểm tra trong và ngoài ngành cũng luôn được Chi nhánh thực hiện tốt. Đặc biệt từ năm 1995 đến nay, nhận thức được quan trọng của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo các hoạt động ngân hàng được thực hiện theo đúng pháp luật, Chi nhánh đã thành lập “Ban thanh tra nhân dân”, Phó Giám đốc Chi nhánh trực tiếp làm trưởng ban để thực hiện tốt công tác kiểm tra kiểm soát, chấn chỉnh hoạt động của Chi nhánh. Đồng thời, Chi nhánh tập trung đẩy mạnh công tác thu hồi nợ quá hạn, rà soát lại hồ sơ pháp lý cũng như quy trình thủ tục cho vay để giảm phát sinh nợ quá hạn, không để phát sinh nợ khó đòi nhằm thực hiện triển khai tốt việc chuyển nợ quá hạn theo quyết định 1627/2001-QĐ-NHNN và hướng dẫn tại công văn 405/CV-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.Chi nhánh đã thành lập Ban xử lý nợ tồn đọng để thực hiện tốt chất lượng tín dụng. Chi nhánh còn tổ chức kiểm soát sau chứng từ kế toán theo tinh thần công văn 1208/CV/KT-KT của Ban Kiểm tra ngân hàng cấp trên, tiến hành kiểm tra đánh giá, phân loại nợ quá hạn mà đặc biệt là các khoản nợ quá hạn lớn để đề ra biện pháp thu nợ có hiệu quả. Ngân hàng còn tổ chức tốt việc học tập, nghiên cứu các văn bản chế độ có liên quan tạo thành phong trào nghiên cứu thực hiện các văn bản chế độ, tổ chức và tham gia thi cán bộ tín dụng giỏi từ cấp cơ sở cho tới cấp trung ương qua đó thực hiện tốt qui trình tín dụng và cho vay có hiệu quả. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam cũng quan tâm theo dõi, chỉ đạo sát sao bằng các công văn hướng dẫn cụ thể trong đó có các văn bản về hướng dẫn chuyển và xử lý nợ như 3263/TC-KT2 ngày 22/10/2002 . Một số tồn tại về nợ quá hạn trung và dài hạn. Từ việc xem xét thực trạng nợ quá hạn và nợ khó đòi ở phần trên ta thấy không tồn tại những vấn đề lớn ảnh hưởng không tốt đến hoạt động của Chi nhánh. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề còn tồn tại trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh. Đó là: Tốc độ xử lý nợ khó đòi còn chậm. Nguyên nhân: Nợ khó đòi tại Chi nhánh chủ yếu là các khoản nợ của các doanh nghiệp Nhà nước từ trước năm 1995 để lại do đó chi nhánh không thể phát mại tài sản thế chấp để thu nợ vì cho vay các doanh nghiệp Nhà nước không cần tài sản thế chấp và thu nợ cung gặp khó khăn vì phải liên quan tới nhiều cơ quan và tổ chức khác nhau. Hơn nữa, do là một Ngân hàng Chi nhánh cho nên Chi nhánh cũng không có toàn quyền áp dụng tất cả các biện pháp để giải quyết vấn đề này - như khoanh nợ hay xoá nợ - mà chỉ được phép đề nghị Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam áp dụng các biện pháp này. Nợ quá hạn tại chi nhánh đang có những khó khăn trong xử lý . Mặc dù nợ quá hạn trung và dài hạn tại chi nhánh vẫn ở mức thấp nhưng xu hướng xử lý vẫn còn gặp những khó khăn trong việc phối hợp giữa các cơ quan chức năng với ngân hàng và là một vấn đề đáng quan tâm của Chi nhánh. Nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất: Việc mở rộng qui mô tín dụng trung và dài hạn trong những năm gần đây của Chi nhánh. Mở rộng qui mô tín dụng cũng đồng nghĩa với những khoản vay có rủi ro cũng tăng theo vì không một ngân hàng nào có thể loại bỏ hoàn toàn rủi ro trong việc cấp tín dụng của mình. Nguyên nhân thứ hai: Do cạnh tranh giữa các ngân hàng. Việc cạnh tranh giữa các ngân hàng làm cho việc tìm kiếm dự án để cho vay trở nên khó khăn hơn. Vì vậy để hoàn thành kế hoạch kinh doanh của đơn vị nhiều khi đơn vị dễ dãi hơn trong việc quyết định vay - điều này làm cho số các dự án không thực sự có hiệu quả nhưng vẫn được cho vay tăng lên. Nguyên nhân thứ ba: Do sở trường làm việc của cán bộ Chi nhánh. Truyền thống của chi nhánh là cho vay các doanh nghiệp Nhà nước, với loại hình doanh nghiệp này thì hoạt động thẩm định dự án đôi khi thực hiện chưa kỹ lưỡng, đánh giá của các cán bộ thẩm định về tính hiệu quả của dự án nhiều khi chưa chính xác do việc am hiểu ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù nên việc tìm kiếm dự án thực sự hiệu quả cao để cấp tín dụng còn gặp khó khăn . 3.2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Chi nhánh thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn. Thông qua thực trạng nợ quá hạn của Chi nhánh trong những năm vừa qua ta dễ dàng thấy rằng chất lượng hoạt động tín dụng của chi nhánh là rất tốt. Vấn đề đối với Chi nhánh là phải duy trì được kết quả này, thúc đẩy nhanh việc giải quyết nợ khó đòi, ngăn chặn đà tăng trưởng của nợ quá hạn trong những năm tới. 4. CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NHĐTPT HÀ NỘI QUA CHỈ TIÊU THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN: 4.1. Thực trạng thu thập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh. Tình hình thu thập từ hoạt động kinh doanh tại chi nhánh đã được thể hiện cụ thể trên tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của Chi nhánh trong những năm vừa qua. Phần này chúng ta chỉ quan tâm tới tình hình thu thập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Bảng sau sẽ trình bày tình hình thu thập từ hoạt cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh. Trong đó có chú ý: Chi phí cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn = I + C I: Lãi phải trả cho phần nguồn vốn được dùng để cho vay trung và dài hạn. C: Chi phí khác trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Thu nhập từ các hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, chênh lệch thu chi 11 tháng năm 2007 là tương đương 80tỷ đồng. Từ số liệu trên ta thấy, các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng nói chung, trung và dài hạn nói riêng chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng lợi nhuận của Chi nhánh . Điều này là phù hợp với thực tế vì với đặc điểm của mình Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội có khoản tín dụng chíêm tỷ lệ cao và trong khi các nghiệp vụ ngân hàng khác chưa đầu tư đầy đủ để phát huy hết tác dụng thì cấp tín dụng vẫn là nghiệp vụ cơ bản nhất. Tuy nhiên do việc phát triển mạnh các khoản cho vay ngắn hạn cho nên lãi thu từ các khoản tín dụng trung và dài hạn mặc dù vẫn chiếm tỷ lệ khá cao trong những năm qua nhưng tỷ lệ của nó trong tổng thu nhập của chi nhánh có xu hướng chưa cân bằng. Nó cho thấy rằng hoạt động k inh doanh của Chi nhánh đang có những thay đổi quan trọng trong những năm gần đây, phù hợp hơn đối với một ngân hàng thương mại thực sự. Từ việc ta thấy dư nợ tín dụng trung và dài hạn tăng chắc chắn rằng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh đã đạt mức cao. Đây là kết quả của việc cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng trong cùng khu vực cũng như kết quả của sự phấn đấu không mệt mỏi của Ban lãnh đạo và tập thể cán bộ toàn chi nhánh. 4.2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Chi nhánh thông qua thu nhập từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Trong những năm vừa qua, mặc dù gặp khó khăn trong hoạt động của mình nhưng lợi nhuận thu được từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn vẫn duy trì được ở mức cao. Điều này chứng tỏ rằng chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh trong những năm vừa qua là tốt. 4.3 Chất lượng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội qua sự đóng góp của nó tới sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong các năm qua, Chi nhánh đã cấp tín dụng cho rất nhiều dự án với tổng số tiền hàng nghìn tỷ đồng. Đây là một hoạt động có ý nghĩa, đóng góp một phần vào sự tăng trưởng kinh tế của thủ đô và góp phần ổn định các vấn đề xã hội. Nhiều dự án của các đơn vị được Chi nhánh cấp vốn đã phát huy hiệu quả và trả nợ tốt như Công ty sữa Việt nam, Công ty bánh kẹo Hải châu,Công ty chè Hà Nội, Nhà máy bia Việt Hà, và nhiều Công ty xây lắp khác. Chi nhánh cũng cho vay nhiều dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Các dự án này đã góp phần làm tăng lượng hàng xuất khẩu, tạo được nguồn thu ngoại tệ cho đất nước như Tổng công ty Chè Việt Nam, Tổng công ty Nông sản Việt Nam , đồng thời cũng góp phần tháo gỡ khó khăn cho các ngành trong việc tìm thị trường để tiếp tục sản xuất, tạo việc làm cho cán bộ công nhân viên của các đơn vị được vay vốn. Đặc biệt từ năm 2007, Chi nhánh đã tập trung đầu tư vào các ngành mũi nhọn phục vụ quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước như ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông. Các dự án này đã và đang góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá Thủ đô nói riêng và đất nước nói chung. Đối với các ngành kinh tế của địa phương, Chi nhánh rất chú trọng để có thể đáp ứng vốn một cách đầy đủ và có hiệu quả. Trong năm 2000, Chi nhánh đã dành nhiều thời gian để tiếp cận, thẩm định các dự án mới, các dự án lớn trong chương trình phát triển kinh tế của Chính phủ và của Thành phố Hà Nội như: Dự án 200 tỷ của Tổng công ty muối Việt nam, dự án khu công nghiệp Bắc Thăng Long (10 triệu USD), dự án khu nhà ở Bắc Linh đàm (100 tỷ đồng), dự án khu nhà ở Đại kim, Định công (100 tỷ đồng), 100 tỷ đồng vốn ưu đãi Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam dành để hỗ trợ các doanh nghiệp và các dự án của thủ đô Hà Nội ,các dự án về hạ tầng đô thị và nhà ở 300 tỷ đồng, dự án nhà cho sinh viên thuê, dự án nhà dành cho những người có thu nhập thấp... Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh thông qua chỉ tiêu về phát triển kinh tế – xã hội. Lĩnh vực Chi nhánh đã cho vay rất đa dạng và tổng số tiền mà chi nhánh đã giải ngân cũng rất lớn. Các dự án được vay vốn từ Chi nhánh hoạt động hiệu quả, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế và cũng góp phần giải quyết những vấn đề xã hội như chỗ ở hay việc làm. Những kết quả này đã phản ánh chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh là đang hoạt động có hiệu quả tốt. 5. NHẬN XÉT CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. Nhìn nhận một cách khái quát trong những năm vừa qua thì chất lượng tín dụng đối với các dự án trung và dài hạn có chất lượng tốt, có thể nói là tốt nhất so với các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam. Trong những năm vừa qua trong hoạt động của mình Chi nhánh luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ của Nhà nước giao phó cũng như các kế hoạch của bản thân Chi nhánh góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế Thủ đô và cả nước. Trong hoạt động Chi nhánh Hà Nội nói riêng và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam nói chung cũng không gặp phải những vấn đề lớn như đổ bể tín dụng, cho vay sai mục đích như các ngân hàng thương mại khác gặp phải. Tuy nhiên, là một ngân hàng mới thực sự được đổi mới trong những năm gần đây, thời gian hoạt động trên thị trường chưa lâu cũng như do đặc điểm của mình cho nên vẫn còn một số điểm còn tồn tại trong hoạt động của mình. Điều này được thể hiện ở những điểm sau: Là một Ngân hàng có truyền thống cho vay trong lĩnh vực đầu tư phát triển, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội luôn phát huy được các lợi thế của mình. Tuy vậy, có một thực trạng là Chi nhánh chưa mở rộng các sản phẩm dịch vụ như cho vay mua nhà trả góp, cho vay đối với người Việt Nam làm việc có thời hạn tại nước ngoài... là các lĩnh vực có rủi ro cao hơn nhưng rất năng động,với những ưu thế và uy tín sẵn có của mình nếu có những hoạt động đó thì sản phẩm của Chi nhánh sẽ phong phú và hấp dẫn hơn rất nhiều. Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội trong những năm vừa qua đã cố gắng cho vay các dự án tự tìm kiếm nhưng có thể thấy rằng các dự án tự tìm kiếm còn hạn chế. Hơn nữa, các dự án này thường gặp phải khá nhiều khó khăn trong công tác tiếp cận khách hàng, thẩm định dự án cũng như thu hồi nợ vay. Các dự án cho vay của Chi nhánh là các dự án trong lĩnh vực đầu tư phát triển có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành và chịu tác động của nhiều loại văn bản pháp lý khác nhau, do tác động của các yếu tố trên mà tiến độ giải ngân nhiều khi chậm trễ. Các dự án cho vay theo kế hoạch của Nhà nước vốn là lĩnh vực truyền thống của Chi nhánh nhưng thực tế là tiến độ cho vay còn chậm, nhiều dự án phải chuyển tiếp sang năm sau. Sự chậm trễ này là do các chủ đầu tư chưa chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết (đặc biệt là các thủ tục pháp lý) để vay vốn và do lãi suất ưu đãi chưa thay đổi kịp thời với biến động lãi suất thị trường. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NGÂN HÀNG. Trong một vài năm vừa qua, nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đã gặp phải nhiều khó khăn nhất định. Nền kinh tế bị suy giảm dẫn đến các hoạt động kinh tế kém sôi động hơn. Riêng trong ngành ngân hàng, ngoài sự tăng trưởng thấp hơn còn gặp phải những tác động tâm lý nhất định từ các vụ đổ bể tín dụng lớn. Với tầm quan trọng của ngành ngân hàng, trong năm 2002 và những năm tiếp theo, ngành ngân hàng phải khắc phục khó khăn để vươn lên, hỗ trợ nền kinh tế phát triển.Và với chủ trương hiện đại hóa ngành ngân hàng để hội nhập thế giới thì các ngân hàng cần phải vươn lên nỗ lực nhiều. Tình hình môi trường kinh doanh trong những năm tới có các thuận lợi và khó khăn sau: 1.1. Thuận lợi. Sau một thời gian tạm thời lắng xuống, các hoạt động kinh tế đã bắt đầu có những biểu hiện sôi động trở lại. Nền kinh tế đã tăng trưởng khá hơn, đầu tư nước ngoài có dấu hiệu tăng lên, các doanh nghiệp đã tiếp tục đẩy mạnh sản xuất. Đây là tiền đề để đẩy mạnh hoạt động ngân hàng. Thực hiện các mục tiêu kinh tế đất nước, trên địa bàn Thủ đô kinh tế đã bắt đầu khởi sắc và có chiều hướng phát triển. Các khu công nghiệp mới đã bắt đầu triển khai, các dự án lớn về hạ tầng và nhà ở của Thủ đô đã được khởi công xây dựng. Ngoài ra các khu vui chơi giải trí đã được xúc tíên như các khu vui chơi, đầu tư nhiều vào các phương tiện công cộng theo chỉ đạo Chính phủ.... Những tiền đề đó đã tạo ra cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Luật ngân hàng luật các Tổ chức tín dụng có xu hướng sửa đổi và tiếp tục phát huy tác dụng cùng với việc thực hiện các chủ trương, giải pháp lớn của Chính phủ đã tạo thêm nhiều thuận lợi về môi trường kinh tế, môi trường pháp luật và môi trường tâm lý cho hoạt động ngân hàng để tiếp tục đổi mới và làm lành mạnh hoá hệ thống tài chính tiền tệ. Đầu năm 2005, mặc dù gặp phải nhiều khó khăn trở ngại nhưng Chính phủ vẫn quyết tâm đưa vào thực hiện luật doanh nghiệp. Chính phủ cũng đã cho bãi bỏ các loại giấy phép không cần thiết, và tiến tới tiếp tục xét để bãi bỏ thêm. Quốc hội đã Thông qua việc sửa đổi , bổ sung Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam vào tháng 5/2005. Nhìn chung, việc sửa đổi, bổ xung này được đánh giá cao, tháo gỡ được một số vướng mắc và khuyến khích đầu tư nước ngoài. Tất cả các cải thiện trên về môi trường pháp lý đã và sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hoạt động ngân hàng. Lãi suất tái cấp vốn liên tục giảm, đến đầu năm 2006 còn 0,5% tháng. Dự trữ bắt buộc cũng đã 2 lần được giảm trong năm 2004 cũng là điều kiện để Ngân hàng mở rộng tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cũng đang gấp rút chuẩn bị các điều kiện pháp lý cũng như công cụ cho hoạt động thị trường mở để thị trường này có thể đi vào hoạt động trong những năm tới. Với sự tham gia của hiệp hội ngân hàng, sự cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng được lành mạnh hoá. Sự ra đời và hoạt động của bảo hiểm tiền gửi chắc chắn sẽ có tác động hoàn thiện môi trường hoạt động ngân hàng. Cùng với thắng lợi của đất nước nói chung, riêng đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hà Nội, kết quả hoạt động kinh doanh đạt được trong năm 2007 đã củng cố thêm những thành quả và kinh nghiệm, tạo đà thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng trong các năm tiếp theo. 1.2. Khó khăn. Mặc dù đã có nhiều chuyển biến nhưng hiện nay vẫn có nhiều doanh nghiệp hoạt động khó khăn. Một khi doanh nghiệp đã hoạt động khó khăn thì việc sử dụng các loại hình sản phẩm của ngân hàng cũng bị thu hẹp lại. Nói chung các doanh nghiệp chưa phát triển đồng bộ, doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn nhiều. Mặc dù các doanh nghiệp quốc doanh đã và đang được cổ phần hoá và tư nhân hoá nhưng tiến bộ vẫn còn chậm. Trong khi đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại nhỏ bé, tình trạng làm ăn manh mún, nhỏ hẹp còn khá phổ biến. Các doanh nghiệp hiện nay vốn tự có còn quá nhỏ để tham gia vào dự án, phứong án sản xuất kinh doanh. Hầu hết các doanh nghiệp không tự chủ được nguồn vốn của mình để huy động vốn song song với hoạt động vay ngân hàng. Các dịch vụ ngân hàng ở Việt nam hiện nay cũng chưa phát triển mạnh. Trong số các sản phẩm ngân hàng chỉ có tín dụng thông thường là chủ đạo. Ngân hàng không được kiêm hoạt động chứng khoán và thuê mua mà phải thành lập Công ty con, trong khi chỉ mới một vài ngân hàng lớn mở ra các công ty tài chính và Công ty chứng khoán. Điều kiện kinh tế chưa cho phép các ngân hàng đa dạng hoá hoạt động như các nước phát triển. Cá nhân hầu như chưa sử dụng nhiều các dịch vụ ngân hàng. Nhiều loại hình cho vay, nhất là do các quỹ tương trợ, các hiệp hội tiết kiệm và các thể chế tài chính khác chưa xuất hiện để có thể hoàn thiện thị trường tài chính ở Việt nam. Môi trường pháp lý mặc dù đã được cố gắng cải thiện nhưng vẫn còn nhiều bất cập, nhất là các văn bản pháp luật về quyền sở hữu, về phá sản, giải thể doanh nghiệp, về sự phối hợp của các cơ quan chức năng, chẳng hạn, sở địa chính nhà đất chưa thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với nhà đất và công trình trên đất.Cho nên việc cho vay các loại hình doanh nghiệp mới, chưa thực sự làm chỗ dựa cho hoạt động ngân hàng. Riêng đối với Chi nhánh Ngân Hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, công nghệ ngân hàng, nhất là công nghệ thông tin còn chưa mạnh, sản phẩm ngân hàng chưa được đa dạng. Ngân hàng cũng gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. Là một ngân hàng chi nhánh, hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội, chi nhánh Ngân hàng ĐTPTHN vừa hoạt động kinh doanh thu lợi thuận, vừa góp phần xây dựng Thủ đô theo định hướng phát triển kinh tế đất nước. Là một ngân hàng thương mại đa năng, chi nhánh Ngân hàng ĐTPTHN luôn cố gắng đa dạng hoá các sản phẩm ngân hàng để phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng, đồng thời thực hiện mục tiêu tăng trưởng của Chi nhánh. Phương châm của Chi nhánh là “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của chi nhánh”, đồng thời gắn liền hiệu quả kinh doanh của khách hàng với hiệu quả của an toàn trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh. Nhằm phục vụ yêu cầu củng cố và mở rộng thị phần, ngoài việc giữ quan hệ với khách hàng truyền thống, khách hàng có quan hệ tín nhiệm đối với Chi nhánh, các khách hàng lớn. Chi nhánh còn chủ động tìm kiếm thêm nhiều khách hàng mới, thiết lập mối quan hệ tín nhiệm gắn bó trên cơ sở hợp tác, bình đẳng và cùng có lợi. Các chương trình hoạt động của Ngân hàng trong năm 2003 bao gồm: - Gắn chiến lược huy động vốn với sử dụng vốn. - Đa dạng hoá nguồn vốn huy động dưới mọi hình thức, mọi kênh. - Tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để đảm bảo cơ cấu nguồn vốn - Tiếp tục phát huy thế mạnh đầu tư phát triển. - Nghiên cứu hướng dẫn cách áp dụng hệ thông quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 đối với khách hàng để tinh giảm thủ tục tại Ngân hàng. - Tiếp tục mở rộng nghiệp vụ Ngân hàng đối ngoại, thanh toán thẻ quốc tế - Tăng cường kiểm tra kiểm soát nội bộ về an toàn tín dụng, bảo lãnh, hạch toán kế toán và chỉ tiêu tài chính đúng pháp luật. - XÂY DỰNG MÔ HÌNH TỔ CHỨC ĐẾN NĂM 2003 KIỆN TOÀN CHI NHÁNH VÀ TỪNG phòng ban. Phân loại cán bộ, đánh giá phẩm chất năng lực sở trường của cán bộ để từng bước điều chỉnh cho phù phù hợp. Bổ xung gấp cán bộ chuyên môn cho từng phòng như chuyên gia tín dụng cho Phòng kiểm soát, kỹ sư tin học cho Phòng thông tin điện toán. - Hoàn thiện trương trình tin học hiện nay để tin học hoá các nghiệp vụ ngân hàng, cung cấp các dịch vụ một cách nhanh nhất, chất lượng tốt nhất. - Tiếp tục hoàn thiện các chương trình điện toán để phục vụ cho việc cấp nhập thông tin và công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo. - Mở rộng đối tượng khách hàng sử dụng dịch vụ rút tiền tự động tại hệ thông máy rút tiền tự động ATM - Kết hợp với Công ty cho thuê tài chính và Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - úc để phổ biến các loại hình dịch vụ mới nhằm tăng nguồn thu phí dịch vụ ngân hàng. - Thực hiện tốt Quy chế hoạt động của Đảng bộ Chi nhánh Ngân hàng ĐTPTHN, coi sự lãnh đạo của Đảng bộ là nhân tố quyết định kết quả hoạt động của Chi nhánh. - Đẩy mạnh hoạt động của đoàn thể, công đoàn, đoàn thanh niên, động viên cán bộ nhân viên góp ý và trực tiếp tham gia tìm kiếm khách hàng để đảm bảo chỉ tiêu kinh doanh và thu nhập ổn định. Các chỉ tiêu kinh doanh chủ yếu năm 2008 - Mức tăng trưởng tài sản tăng 25% so với năm 2007. - Phấn đấu nâng cao thị phần trên địa bàn năm 2008, tăng 0,2% so với năm 2007 cả về huy động và tín dụng. - Nguồn huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và dân cư tăng 35% so với năm 2007. - Dự nợ tín dụng tăng 22% so với năm 2007, (chỉ tiêu đối với toàn nền kinh tế là 15-16%). - Thu phí dịch vụ tăng 22% so với năm 2007. 3. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐTPTHN. Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại chi nhánh Ngân hàng ĐTPTHN luôn phù hợp với định hướng phát triển chung toàn Ngân hàng và định hướng chỉ đạo của Ngân hàng ĐTPT Trung ương. Định hướng tín dụng trung và dài hạn bao gồm: - Gắn cho vay trung và dài hạn với nguồn vốn và dài hạn. Tích cực huy động vốn trung và dài hạn phục vụ các dự án trong kế hoạch và các dự án tự tìm kiếm. - Phát huy thế mạnh phục vụ đầu tư phát triển, chủ động tìm kiếm các dự án có hiệu quả để mở rộng tín dụng. Tập trung cho vay các dự án lớn, đầu tư hạ tầng cơ sở, nhất là các dự án về nhà ở, khu đô thị mới, khu công nghiệp, khu giải trí. Tiếp tục đôn đốc xét duyệt giải ngân các dự án được ghi kế hoạch năm trước và thực hiện đồng tài trợ các dự án lớn có điều kiện thực thi và hiệu quả kinh tế cao. Đẩy mạnh tăng trưởng là các Tổng công ty, mở rộng phục vụ các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá. Mở rộng tín dụng theo hướng an toàn và hiệu quả, bám sát dự án có tính khả thi cao, vốn chủ sở hữu lớn và tài sản thế chấp bảo đảm. Rà soát phân loại doanh nghiệp để có hướng đầu tư, tập chung khai thác triệt để thị phần vốn đầu tư tại các tổng công ty, xí nghiệp đang có hoạt động vay vốn tại NH. - Tập trung chỉ đạo, có sách lược biện pháp thường xuyên tiếp cận khai thác các dự án đầu tư mới có hiệu quả, thực hiện chính sách khách hàng một cách mềm dẻo theo quy định của NHĐT&PT Việt Nam. Tiếp tục đổi mới tác phong làm việc tận tình chu đáo sâu sát cơ sở, áp dụng chương trình quản lý tín dụng mới nhằm quản lý và tạo điều kiện cho khách hàng vay vốn một cách nhanh nhất. Những thủ tục, giấy tờ không cần thiết trong hoạt động cho vay từng bước phải được cải tiến, đơn giản hoá. Đẩy mạnh cho vay kinh tế ngoài quốc doanh, tiếp cận các khu công nghiệp đang hình thành; đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ; tập trung vào các đơn vị công ty, xí nghiệp sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu giải quyết được lao động, kinh doanh ổn định và có khả năng tài chính tốt. - Mở rộng cho vay kinh tế hộ, cho vay sinh hoạt tiêu dùng trong cán bộ công nhân viên và tiếp tục cho vay chính sách đối với học sinh, sinh viên tại các trường đại học và cao đẳng. Tiếp tục mở rộng thị phần, có kế hoạch khai thác các tổ chức, đơn vị kinh tế vay vốn mới ngoài hệ thống NH ĐT&PT Việt Nam. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. 1. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT LINH HOẠT HƠN ĐỂ CHO CÁC KHOẢN VAY CỦA CHI NHÁNH HẤP DẪN HƠN. Lãi suất là một yếu tố rất quan trọng trong việc thực hiện các khoản vay của các ngân hàng thương mại. Một chính sách lãi suất phù hợp sẽ làm cho thu nhập của các ngân hàng tăng lên, rủi ro lãi suất được giảm bớt, đồng thời nó cũng là một nhân tố cạnh tranh làm cho các sản phẩm tín dụng của ngân hàng có sức hấp dẫn hơn đối với các khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh. Một chính sách lãi suất cho vay thực sự hiệu quả đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải nắm được thực tế lãi suất và xu hướng biến động của lãi suất của thị trường để từ đó đưa ra danh mục lãi suất huy động cho vay và lãi suất huy động hợp lý, nhưng làm được điều này là cũng rất khó khăn. Trong những năm vừa qua, Chi nhánh đã cố gắng để đưa ra một biểu lãi suất của riêng mình sao cho phù hợp nhất với tình hình thị trường và tạo lợi thế so với các ngân hàng khác trên địa bàn trên cơ sở của lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố và lãi suất của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam. Những việc làm của Chi nhánh trong năm vừa qua đã mang lại một số thành công. Bước sang thế kỷ 21, với sự tham gia ngày một đông đảo của các ngân hàng liên doanh, các chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài – các tổ chức tín dụng có thể mạnh về nguồn vốn, về trang bị kỹ thuật và kiến thức ngân hàng, các ngân hàng thương mại cổ phần mới thành lập, cùng với sự hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh làm cho việc mở rộng thị trường của chi nhánh trở nên khó khăn hơn. Để tiếp tục đứng vững và phát triển trong giai đoạn tới, Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội đã xác định lãi suất là một trong những nhân tố quan trọng để thực hiện chiến lược kinh doanh của mình. Tuy nhiên Chi nhánh cũng cần phải làm cho chính sách lãi suất của chi nhánh của mình linh hoạt hơn nữa, trong đó có một số điểm đáng chú ý là: 1.1 Thực hiện cho vay với lãi suất linh hoạt theo thời gian. Đặc thù của cho vay trung và dài hạn là thời gian cho vay dài, dễ gặp phải những bất lợi do những biến động về lãi suất cả với khách hàng và ngân hàng. Một biện pháp để giảm bớt rủi do lãi suất gây ra đó là Chi nhánh nên áp dụng triệt để hơn nữa việc cho vay với lãi suất linh hoạt. Lãi suất năm đầu tiên được xác định theo lãi suất thị trường. 1.2 Có chính sách lãi suất phù hợp theo mức độ sử dụng sản phẩm của chi nhánh. Lãi suất cho vay giảm dần theo mức tăng của số dư tiền gửi bình quân đối với những khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh. Điều này đã được Chi nhánh áp dụng nhưng mức độ phổ biến là chưa cao. Với những khách hàng có số dư tại tài khoản mở tại Chi nhánh lớn nó đã là một sự bảo đảm tuyệt vời cho các khoản vay của họ. Với những khách hàng loại này, Chi nhánh không phải mất thời gian và chi phí để xác định giá trị của tài sản đảm bảo điều này tác động làm giảm chi phí của khoản này. Do đó, nếu Chi nhánh thực hiện cho vay với lãi suất thấp hơn thì cũng sẽ không ảnh hưởng tới lợi nhuận từ khoản vay này, đồng thời nó còn làm cho khoản vay của Chi nhánh có sức cạnh tranh hơn, uy tín của Chi nhánh cũng vì thế mà gia tăng và thông qua đó sẽ làm gia tăng qui mô tín dụng và lợi nhuận của Chi nhánh. 1.3 Lãi suất cho vay nên giảm dần theo mức tăng qui mô của khoản tiền vay. Đối với những khoản vay có qui mô lớn, Chi nhánh cũng nên nghiên cứu có xu hướng giảm lãi suất để tận dụng tính chất hiệu quả tăng theo qui mô. Mặt khác, với những khoản vay lớn các cán bộ tín dụng cũng chỉ cần một lần để thẩm định dự án, xác định giá trị của tài sản đảm bảo, do đó mà chi phí cho khản vay sẽ giảm bớt và Chi nhánh có điều kiện để giảm bớt lãi suất cho vay. 1.4. Có chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng cụ thể. Việc duy trì được những khách hàng truyền thông và phát triển được những khách hàng mới là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Những năm vừa qua, Chi nhánh đã thực hiện khá tốt chính sách khách hàng của mình. Những năm tới, Chi nhánh nên dùng chính sách ưu đãi suất để duy trì những đối tượng được ưu đãi lãi suất là việc làm quan trọng. Những đối tượng được hưởng ưu đãi có thể là: Lãi suất được ưu đãi cho những khách hàng là đối tượng mở rộng thị phần. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để phát triển thị trường tương lai của Chi nhánh. Áp dụng biện pháp này lợi nhuận của Chi nhánh có thể bị giảm sút nhưng đây là việc nên làm vì mục tiêu dài hạn. Với tình tài chính của chi nhánh hiện nay thì Chi nhánh hoàn toàn có thể áp dụng biện pháp này. Lãi suất được ưu đãi cho những khách hàng truyền thống. Với những khách hàng là khách hàng truyền thống, Chi nhánh sẽ giảm tối đa chi phí thực hiện các khoản vay, đây cũng là một nhân tố giúp cho Chi nhánh duy trì thị phần của mình, đặc biệt là trong trường hợp Chi nhánh gặp khó khăn khi thị trường có những biến động xấu. Với những lý do trên đây không những với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội mà với tất cả các ngân hàng thương mại khác, khách hàng truyền thống luôn là đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi về lãi suất. Các doanh nghiệp lớn, các tổng Công ty là đối tượng quan trọng được hưởng ưu đãi về lãi suất. Các doanh nghiệp lớn với tình hình tài chính lành mạnh, các Tổng công ty luôn là đối tượng để các ngân hàng thương mại thực hiện chính sách ưu đãi lãi suất của mình vì các đơn vị này khi thực hiện các khoản vay thì doanh số của món vay là rất lớn và mức độ rủi ro thấp. Trong những năm vừa qua thì Chi nhánh cũng đã tiến hành tiếp cận với các Tổng công ty nhưng mức độ còn hạn chế, khách hàng là Tổng công ty mới chỉ dừng lại ở một số ngành như xây dựng và giao thông vận tải. Nhiệm vụ của Chi nhánh trong những năm tới là tăng cường quan hệ khách hàng với các Tổng công ty thuộc các ngành nghề khác trong đó ưu đãi lãi suất là một nhân tố quan trong để mang lại thành công. Trên đây là những giải pháp khả thi về việc áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt để Chi nhánh có thể gia tăng qui mô tín dụng, thắng lợi trong cạnh tranh và giảm bớt rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình trong giai đoạn tới. 2. THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC. Con người luôn là nhân tố quan trọng trong mọi hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói chung. Chất lượng của các khoản tín dụng trung và dài hạn ngoài việc phụ thuộc vào việc thực hiện qui trình tín dụng và các biện pháp kiểm soát thì khả năng phân tích, xét đoán tình hình cũng như kinh nghiệm của các bộ tín dụng là vô cùng quan trọng đặc biệt là trong điều kiện ngày nay các cá nhân cán bộ tín dụng là người có vai trò chính trong việc thẩm định tính hiệu quả của các hồ sơ xin vay và tự phải thực hiện kiểm soát tới quá trình hoạt động của dự án cũng như việc thu nợ. Trong giai đoạn tới với sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các ngân hàng thương mại, sự thay đổi nhanh chóng của nền kinh tế và sự đổi mới nhanh chóng của công nghệ ngân hàng sẽ đòi hỏi các ngân hàng thương mại phải có một đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt, năng động, có khả năng nắm bắt thị trường, có sức khoẻ và khả năng chịu áp lực cao trong khi vẫn không mất đi những tính chất căn bản của một cán bộ ngân hàng là cẩn thận và trung thực. Những tiêu chí về một cán bộ ngân hàngnhiều khi có vẻ như mâu thuẫn nhau như cán bộ vừa phải thông minh, năng động vừa phải cẩn thận, trung thực, điều đó chứng tỏ để có được một cán bộ ngân hàng tốt là một công việc khó khăn. Chính vì những đòi hỏi như vậy nên các ngân hàng thương mại luôn xây dựng cho mình một chiến lược để phát triển nguồn nhân lực. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực của các ngân hàng phải nâng cao được năng lực của đội ngũ cán bộ và nhân viên, khuyến khích tinh thần làm việc, phát huy tính sáng tạo, chủ động, tích cực của cán bộ và nhân viên. Để thực hiện công việc này, các ngân hàng thương mại ở Việt nam đã chú trọng việc tuyển mộ nhân viên mới, bố trí đúng người đúng việc để các cán bộ có thể phát huy tối đa năng lực của mình, tạo điều kiện cho mọi cán bộ trong đơn vị có điều kiện để tìm hiểu, nghiên cứu, học hỏi thêm từ các công việc từ các cán bộ tín dụng. Chính sách khuyến khích, đãi ngộ con người cũng là một yếu tố quan trọng đã được các ngân hàng chú ý áp dụng, trong đó việc khuyến khích đã kết hợp được giữa mặt lợi ích và mặt tinh thần. Tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, công tác nguồn nhân lực cũng là một việc được lãnh đạo Chi nhánh và Ngân hàng Đầu tưvà Phát triển Việt nam coi trọng và tạo điều kiện để phát triển. Hiện tại Chi nhánh đang có trong một đội ngũ cán bộ mà đặc biệt là các cán bộ tín dụng tương đối tốt – thể hiện ở đội ngũ cán bộ trẻ, có năng lực (100% cán bộ có trình độ đại học). Chi nhánh tích cực hoạt động nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ nhân viên hiện có như mời các chuyên gia về lĩnh vực ngân hàng – Tài chính đến nói chuyện để tổ chức chi cán bộ tín dụng giỏi, tạo điều kiện cho các cán bộ tham gia các chương trình học cao hơn - hiện tại có một số cán bộ của Chi nhánh đang tham gia học tập ở chương trình sau đại học. Công tác tuyển nhân viên mới cũng được chú trọng và có những thay đổi quan trọng đó là việc chi nhánh đã công khai việc tuyển nhân viên và tất cả các đối tượng có thể tham gia thi tuyển tự do. Tuy nhiên cũng có một số điều còn tồn tại ở Chi nhánh. Thứ nhất: Do thói quen làm việc chủ yếu với các khoản vay theo chỉ định và cho vay các doanh nghiệp Nhà nước cho nên một đôi khi tâm lý chủ quan, dễ dãi trong việc xét duyệt cho vay đã tồn tại trong tâm lý của các cán bộ tín dụng. Tinh thần tự chịu trách nhiệm ở một số cán bộ là chưa cao, việc kiểm soát việc sử dụng vốn vay của các doanh nghiệp đôi khi được thực hiện chưa chặt chẽ . Thứ hai: Là một doanh nghiệp Nhà nước cho nên vẫn còn những đặc điểm chứa sức ỳ cũng chưa hoàn toàn được loại bỏ, trình độ cán bộ chưa thực sự đáp ứng nhu cầu đòi hỏi. Tuy nhỏ nhưng những điều này đã có tác động tới việc làm giảm chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh. Nhiệm vụ của Chi nhánh trong thời gian tới là phải làm tốt công tác tư tưởng, thay đổi lối tư duy của các cán bộ, tăng tính tự chịu trách nhiệm của họ thông qua việc tổ chức các buổi nói chuyện, tổng kết kinh nghiệm, áp dụng các biện pháp thưởng phạt công minh đối với tất cả các cán bộ và nhân viên. Ngoài ra, Chi nhánh cũng nên sớm đưa chính sách khoán vào thực hiện, việc giao khoán này sẽ là một yếu tố kích thích cán bộ tín dụng làm việc hiệu quả hơn, tuy nhiên việc giao khoán này phải được thực hiện song song với các biện pháp kiểm tra, kiểm soát để tránh tình trạng cho theo lợi ích trước mắt mà làm bừa, làm ẩu ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI: 1. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CHÍNH PHỦ VÀ CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, luật pháp. Do đó một môi trường pháp lý đồng bộ và hoàn thiện sẽ giúp cho ngân hàng thực hiện các khoản vay của mình một cách hiệu quả hơn. Để đạt được điều này, Quốc hội cũng như các cơ quan khác bên cạnh luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng thì cần sửa đổi và hoàn thiện một số luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư trong nước, Luật bảo hiểm, Luật phá sản, Luật thế chấp. Việc này có tác dụng đảm bảo cho quan hệ tín dụng được dựa trên một nền tảng vững chắc, đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Chính phủ cần tăng cường các biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, đảm bảo các doanh nghiệp hoạt động theo đúng chức năng, ngành nghề đã đăng ký kinh doanh, qui mô hoạt động phù hợp với vốn điều lệ, năng lực và trình độ quản lý. Thu hồi có thời hạn hoặc vĩnh viễn giấy phép đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh của mình như buôn lậu, làm hàng giả, lừa đảo… Cần có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện kế hoạch kiểm toán bắt buộc hằng năm đối với các doanh nghiệm nhằm xác lập sự lành mạnh của các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế vì điều này sẽ giúp nền kinh tée vận hành mạnh hơn qua đó sẽ giúp các ngân hàng xác định chính xác năng lực tài chính của các đơn vị vay vốn. Các cơ quan quản lý vĩ mô cần có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc cân đối giữa nhu cầu đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng. Tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một lĩnh vực, một ngành nào đó gây lên sự lãng phí do thừa cung, nhưng cũng tránh việc đầu tư một cách quá dàn trải vì những điều này sẽ dẫn tới việc thực hiện dự án đầu tư không hiệu quả làm suy hại đến hiệu quả kinh tế nói chung và chất lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nói riêng. Nhà nước cũng cần có chính sách ưu tiên, khuyến khích các ngân hàng thương mại cho vay trung và dài hạn để phát triển kinh tế như giảm thuế đối với hoạt động này, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại Việt nam có thể cạnh tranh đối với các ngân hàng nước ngoài. Một trong những khó khăn lớn hiện nay của các ngân hàng thương mại Việt nam là tình trạng tài sản thế chấp quay vòng (tức là một tài sản được đem thế chấp nhiều lần, nhiều nơi), mà lỗi là do sự quan liêu, thiếu trách nhiệm của các bên liên quan. Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần kiểm tra, chấn chỉnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, các tài sản chỉ được cấp một giấy chứng nhận một bản gốc duy nhất để ngăn chặn tình trạng trên. Mặt khác việc phát mại tài sản thế chấp cũng hiện nay cũng còn rất nhiều khó khăn vướng mắc. Nhà nước cần sớm cho ra đời một uỷ ban đặc biệt của Chính phủ, hoạt động với một cơ chế đặc biệt, có đủ thẩm quyền để xử lý các tài khoản thấp chấp, cầm cố, bảo lãnh một cách nhanh chóng giúp các ngân hàng thuận lợi hơn trong việc thu hồi nợ, chuyển các tài sản này thành nguồn vốn luân chuyển được. Chính phủ cần thành lập các Công ty có chức năng kinh doanh bất động sản và mua bán nợ dưới các hình thức doanh nghiệp Nhà nước, Công ty cổ phần hay liên doanh để mua lại các tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh của các ngân hàng thương mại nhằm giải phóng nợ đọng, làm lành mạnh hoá tình trạng tài chính của các ngân hàng. Nói cách khách Chính phủ cần đẩy mạnh hoạt động thị trường mua bán nợ và tài sản bảo đảm của các ngân hàng thương mại. Đẩy nhanh tốc độ phê duyệt các dự án đầu tư, giảm thời gian ở từng khâu của dự án trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Điều này là thực sự có ý nghĩa đối với Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội vì lĩnh vực đầu tư chủ yếu của Chi nhánh là lĩnh vực xây dựng cơ bản, đặc điểm của lĩnh vực đầu tư là trình tự tiến hành đầu tư trải qua nhiều khâu đòi hỏi, nhiều thời gian. Do đó nếu chỉ cần một vài khâu thực hiện không tốt sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với việc giải ngân của Chi nhánh làm giảm qui mô tín dụng của Chi nhánh. 2. KIẾN NGHỊ VỚI NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC. Ngân hàng Nhà nước cần có văn bản để yêu cầu các ban ngành liên quan phối hợp với ngân hàng thật chặt chẽ để thực hiện thông tư liên tịch hướng dẫn thủ tục xử lý tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của các tổ chức tín dụng. Đề nghị Nhà nước đẩy nhanh, mnạh tiến độ cấp bù hoặc xoá nợ cho những ngân hàng có những khoản nợ quá hạn vì lý do khách quan, xác định và cấp nâng đủ vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại quốc doanh. Sớm đưa ra những qui định về thiết lập quĩ bù đắp rủi ro để các tổ chức tín dụng chủ động giải quyết các khoản nợ có vấn đề của mình. Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần có một chương trình hiệu quả để qui hoạch và cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, loại bỏ các ngân hàng hoạt động không có hiệu quả để trong tương lai Việt nam có một hệ thống ngân hàng hoạt động lành mạnh, hiệu quả đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ cần có sự điều chỉnh để làm cho lãi suất đối với các khoản vay theo chỉ thị của Chính phủ linh hoạt hơn, tránh tình trạng lãi suất cho vay ưu đãi không phù hợp với lãi suất thị trường. 3. KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM. Là ngân hàng “mẹ” của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, cho nên những hoạt động và quyết định của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam có ảnh hưởng rất lớn tới Chi nhánh. Việc giải quyết nợ khó đòi tại Chi nhánh Hà Nội chậm chạp một phần phụ thuộc vào ngân hàng “mẹ”. Bởi vì theo nguyên tắc, ngân hàng chi nhánh không được khoanh nợ và xoá nợ đối với các khoản nợ khó đòi, mà việc này phải do ngân hàng cấp cao nhất quyết định trên cơ sở quyết định của Chủ tịch Hội đồng quản trị và Hội đồng xoá nợ. Do vậy trong những năm tới, Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt nam sớm đưa ra những quyết định của mình về việc giải quyết những khoản nợ kông có khả năng thu hồi tại Chi nhánh Hà Nội, giúp tình tình tài chính của Chi nhánh mạnh hơn. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam phải làm cho quĩ dự phòng rủi ro của mình hoạt động hiệu quả hơn nữa trên cơ sở tính toán rủi ro của các chi nhánh trong toàn hệ thống để có thể bù đắp các khoản mất mát của Chi nhánh trong thời gian ngắn nhất, giúp Chi nhánh sớm cân đối tình hình tài chính của đơn vị mình trong trường hợp rủi ro xảy ra chi nhánh được tự chủ kịp thời xử lý 4. KIẾN NGHỊ VỚI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ & PHÁT TRIỂN HÀ NỘI. Trong Chương II và Phần I của Chương III, bài viết này đã phân tích thực trạng, những tồn tại và nguyên nhân của nó trên cơ sở các số liệu mà Chi nhánh cung cấp và từ đó đã đưa ra một số giải pháp. Để những giải pháp này phát huy được hiệu quả Chi nhánh cần xem xét và sớm đưa ra quyết định về việc áp dụng các giải pháp đó. PHẦN 3 – KẾT LUẬN Tín dụng trung và dài hạn là một hoạt động cơ bản của một ngân hàng thương mại và cũng là một vấn đề được quan tâm rất nhiều trong những năm gần đây. Tuy vậy, trong việc thực hiện loại hình tín dụng này vẫn còn nhiều vướng mắc và bất cập. Để có thể giải quyết triệt để những vấn đề của hoạt động tín dụng là điều không đơn giản và đòi hỏi nhiều thời gian và trí tuệ, đặc biệt là cần có sự đồng bộ trong các chính sách kinh tế và pháp luật cũng như sự đồng bộ trong phát triển kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Nhận thức được vấn đề này, dưới sự nhìn nhận của một sinh viên thực tập, bài viết này mong muốn đề cập đến hoạt động tín đối với các dự án dụng trung và dài hạn để từ đó đưa ra một số kiến nghị với mong muốn có thể mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với các dự án trung và dài hạn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Như đã đề cập, tín dụng trung và dài hạn có ảnh hưởng tới nhiều vấn đề và lĩnh vực kinh tế xã hội khác nhau, đồng thời loại tín dụng này cũng chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố. Tuy vậy, với tốc độ phát triển kinh tế như hiện nay cùng với những kinh nghiệm, nỗ lực và những tấm lòng tâm huyết vì sự nghiệp ngân hàng của toàn bộ lãnh đạo và tập thể Cán bộ của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, chúng ta tin chắc rằng trong một tương lai không xa, Chi nhánh sẽ đạt được mục tiêu nâng chất lượng tín dụng đối với các dự án trung dài hạn của mình như mong muốn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng – ngày 12/12/1997 Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính – Frederic S. Mishkin – NXB Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội 1994 Ngân hàng thương mại – Edward W. Reed và Edward K.Gill – NXB Thành phố Hồ Chí Minh – tháng 5/1993 Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại – David Cox – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội 1997 Quản trị rủi ro trong kinh doanh ngân hàng Giáo trình: Lập và quản lý Dự án đầu tư - Trường ĐHKTQD – NXB Thống kê - 2000. Qui chế hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội. Qui chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng. MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 62 NHẬN XÉT CỦA NGÂN HÀNG ĐT&PT HÀ NỘI

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH36.doc
Tài liệu liên quan