Nâng cao chất lượng NNL Việt Nam là một đề tài rất cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay vì tính cấp thiết của nó. Có thể khẳng định lại rằng nguồn nhân lực luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong sự phát triển kinh tế đất nước. Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay của Việt Nam, nguồn nhân lực càng tỏ rõ vai trò của mình. Xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có bản lĩnh vững vàng, có niềm tin, có trị thức, có trình đọ và quyết tâm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đòi hỏi phải có sự kết hợp những nỗ lực chung của toàn xã hội cũng như bản thân từng người lao động.
51 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1825 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trọng điểm đều đạt trên mức trung bình cả nước, bước đầu có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung(8) Nguồn: www.mpi.gov.vn
. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy mạnh lợi thế so sánh của từng ngành, từng vùng; chưa tạo được động lực thúc đẩy mạnh mẽ các thành phần kinh tế phát triển.
Về nguồn nhân lực. Tham gia quá trình toàn cầu hoá đang đặt ra cho lao động nước ta những yêu cầu cấp bách, không những cần phải nâng cao khả năng cạnh tranh về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tay nghề mà còn các phẩm chất khác như ngoại ngữ, tác phong và văn hoá ứng xử công nghiệp hiện đại, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, hiểu biết pháp luật... Ngoài ra, đặc điểm của nền sản xuất–kinh doanh hiện đại, kinh tế thị trường với cạnh tranh cao đòi hỏi người lao động nước ta phải có phẩm chất mới như: Thích ứng, linh hoạt, các khả năng hợp tác trong quá trình hoạt động, sức khẻo dẻo dai... Nhìn chung, các phẩm chất mới này của nguồn nhân lực nước ta còn có bất cập, đặc biệt với lao động nông thôn, lao động chưa một lần làm việc trong môi trường sản xuất kinh doanh công nghiệp. Để tham gia vào quá trình toàn cầu hoá có hiệu quả, Việt Nam cần nâng cao sự phát triển toàn diện con người, ở phạm vi nhất định thể hiện bằng chỉ số phát triển con người (Human Development Index-HDI) liên quan mật thiết đến chất lượng nguồn nhân lực và được đánh giá tổng hợp từ các chỉ tiêu: GDP/đầu người, tỷ lệ người biết chữ, số năm đi học của dân cư, tuổi thọ bình quân của dân cư. Hiện nay, chỉ số HDI của nước ta là 0,678 xếp thứ 108/174 nước, thuộc nhóm các nước phát triển trung bình trên thế giới. Các chỉ tiêu mức sống, giáo dục và đào tạo, y tế, phản ánh chất lượng nguồn nhân lực của nước ta còn có khoảng cách lớn so với nhân lực của các nước phát triển.
Hiện nay, lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật của Việt Nam còn ở mức thấp. Tính đến năm 2005, trong tổng số 18.410.327 thuộc nhân khẩu thực tế thường trú tham gia lực lượng lao động của 3 vùng kinh tế trọng điểm có 6.508.038 người đã qua đào tạo nói chung chiếm 35,35%. Trong đó có 4.189.413 người đã qua đào tạo nghề và tương đương (bao gồm sơ cấp, có chứng chỉ nghề, có bằng công nhân kỹ thuật, và công nhân kỹ thuật không bằng) chiếm 22,75%; có 858.490 người tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp chiếm 4,66% có 1.461.343 tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học chiếm 7,97%. Như vậy, nguồn nhân lực nước ta hiện nay phần lớn vẫn là lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp và chưa qua đào tạo.(9) Nguồn: www.thitruonglaodongj.gov.vn
Về khả năng cạnh tranh. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh được coi là cơ sở quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế cũng như của doanh nghiệp. Khi hội nhập, một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam chính là năng lực cạnh tranh thấp trên cả 3 phương diện: Năng lực cạnh tranh quốc gia, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm.
Mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định trong những năm qua, song năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam vẫn ở mức thấp so với thế giới và khu vực. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia có khả năng cạnh tranh thấp. Năm 2001, Việt Nam chỉ đứng vị trí 60/70 quốc gia được xếp hạng. Đến năm 2002, tình hình tuy có khả quan hơn nhưng vị trí xếp hạng của Việt Nam vẫn là 65/80 quốc gia được xếp hạng. Năm 2003, năng lực cạnh tranh quốc tế của Việt Nam xếp ở vị trí 60/80 quốc gia được xếp hạng. Năm 2004 năng lực cạnh tranh của Việt Nam giảm 17 bậc so với năm trước, theo đó Việt Nam xếp ở vị trí 77/104 nước. Trong đó, chỉ số về định chế của Việt Nam là 82, trong khi năm trước xếp thứ 63. Chỉ số công nghệ còn sút giảm mạnh hơn nữa, 92/104 (con số của năm 2003 là 65).(10) Nguồn: www.moi.gov.vn
Năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam thấp do năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và của các sản phẩm thấp. Các doanh nghiệp Việt Nam thua ngay tại sân nhà về khả năng cạnh tranh, nguy cơ bị mất thị trường nội địa khi hàng rào thuế quan bãi bỏ vẫn đè nặng trên vai nhiều doanh nghiệp.
Về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ có một số doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt, còn lại đa số các doanh nghiệp vẫn chưa chưa có khả năng thâm nhập thị trường khu vực và quốc tế. Giá thành sản xuất của nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yếu của ta cao hơn mức chuẩn quốc tế. Giá bán xuất xưởng vì thế cao hơn mức giá của sản phẩm cùng loại nhập khẩu. Hầu hết đây chính là sản phẩm của các ngành công nghiệp sống dựa vào độc quyền, bảo hộ mậu dịch. Chính bảo hộ trong nhiều trường hợp có tác động xấu, làm đầu tư sai lệch, kém hiệu quả gây tác hại lâu dài cho nền kinh tế, lãng phí nguồn lực quốc gia. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn rất thấp, Tính đến năm 2004, 1 đồng vốn hoạt động trong 1 năm tạo ra 0,043 đồng lãi (4,3%), trong đó: doanh nghiệp nhà nước 2,9%, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 2,3%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 10,0% (chủ yếu do lợi nhuận của doanh nghiệp khai thác dầu khí lớn, trên 45%)(11) Nguồn www.moi.gov.vn
. Mức tỷ suất lợi nhuận này còn thấp xa so với mức lãi suất tiền vay vốn, vì vậy phần lớn các doanh nghiệp vay vốn nhiều thì hoạt động kinh doanh có lãi chỉ đủ trả cho lãi suất tiền vay.
Năng lực cạnh tranh yếu là do:
Thứ nhất, khả năng cạnh tranh yếu về mặt tài chính. Quy mô vốn và năng lực tài chính (kể cả vốn của chủ sở hữu và tổng nguồn vốn) của nhiều doanh nghiệp còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả, vừa thiếu tính bền vững. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vô cùng nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao. Việt Nam có hơn 72.000 doanh nghiệp đang hoạt động, số lượng có tăng lên nhưng quy mô chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm tới 44,1%, quy mô lao động dưới 10 người chiếm 46,6%. Nếu so sánh năm 2004 với năm 2000, số vốn và số lượng lao động bình quân trong mỗi doanh nghiệp đã giảm từ 26 tỷ đồng và 84 lao động xuống còn 24 tỷ đồng và 72 lao động (theo số liệu của Tổng cục Thống kê).
Thứ hai, khả năng cạnh tranh yếu về quản lý. Đội ngũ chủ doanh nghiệp, giám đốc và cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp, giám đốc giỏi, trình độ chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế. Từ đó dẫn đến khuynh hướng phổ biến là hoạt động quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức trên các phương diện: Quản lý tổ chức, phát triển thương hiệu, chiến lược cạnh tranh, sử dụng máy tính và công nghệ thông tin. Một số chủ doanh nghiệp thậm chí mở công ty chỉ vì có sẵn tiền vốn và thích kinh doanh, trong khi thiếu kiến thức và kỹ năng về kinh doanh, vì vậy đã dẫn đến rủi ro và thất bại.
Thứ ba, năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Vấn đề này có thể thấy rõ khi so sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines,…
Thứ tư, nhận thức và sự chấp hành luật pháp còn hạn chế làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh. Một số khá lớn doanh nghiệp Việt Nam còn chưa chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, đặc biệt là các quy định về thuế, quản lý tài chính, quản lý nhân sự, chất lượng hàng hoá và sở hữu công nghiệp. Tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam bị các cơ quan chức năng phàn nàn, thậm chí “thổi còi” vì vi phạm các chế độ về thuế, tài chính còn khá phổ biến. Một trong những nguyên nhân của tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng là do việc nhận thức, hiểu biết của DN về luật pháp còn nhiều hạn chế.
Thứ năm, sự yếu kém về thương hiệu cũng góp phần làm yếu khả năng cạnh tranh. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được các thương hiệu mạnh, chưa khẳng định được uy tín và khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế. Vài năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã quan tâm và chú trọng hơn vào việc xây dựng, phát triển thương hiệu nên đã thu được những thành công. Những thương hiệu như Vinamilk, Kinh Đô, Cà phê Trung Nguyên, Hoà Phát, Bitis, Dệt Thái Tuấn… đã chiếm được vị thế cao trên thị trường và vươn lên tầm những doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp ở Việt Nam, chưa có chiến lược xây dựng thương hiệu, chưa tạo được uy tín về chất lượng sản phẩm và dịch vụ, do đó khả năng cạnh tranh còn yếu. Xây dựng thương hiệu và phát triển bền vững là một vấn đề rất quan trọng đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO.
III. THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN ĐỐI VỚI NNL NƯỚC TA TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
1. Thuận lợi
Nguồn nhân lực nước ta có lợi thế là được tiếp thu truyền thống lịch sử của đất nước: Truyền thống cần cù, siêng năng, chịu khó, yêu lao động. Người lao động Việt Nam được đáng giá là thông minh cần cù, khéo léo, có trình độ dân trí, học vấn khá cao so với mức thu nhập quốc dân, tiếp thu nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới. Đây là lợi thế so sánh có ý nghĩa đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình tham gia hội nhập.
Lực lượng lao động dồi dào. Quy mô dân số nước ta lớn, đồng thời cơ cấu lao động lại trẻ nên số người trong độ tuổi lao động cũng lớn. Tỷ lệ tăng bình quân năm của NNL qua nhiểu năm đều lớn hơn tỷ lệ tăng dân số, hệ số phụ thuộc có xu hướng giảm. Lực lượng lao động nước ta liên tục tăng qua các năm. Vơi một lự lượng lao động lớn, đồng thời giá cả lao động lại thấp là một lợi thế so sánh của ta, nhằm giảm giá trị sản lượng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việt Nam là một trong những nước đông dân với quy mô dân số đứng thứ hai Đông Nam Á và thứ 13 trên thế giới. Một đất nước với cơ cấu dân số trẻ với số người trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu người lao động: nguồn bổ sung hàng năm là 3% tức khoảng 1,24 triệu người. Theo tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, quy mô dân số nước ta là 76,3 triệu người và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số nước ta vào khoảng 95 triệu và số người trong độ tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7 dân số. Dự báo thời kỳ 2005-2010 bình quân mỗi năm cần phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm việc mới. So với các nước trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhưng nếu so sánh với thế giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt Nam xếp thứ 2, chỉ sau Indonexia. Điều đó được thể hiện qua bảng sau:
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nước ASEAN
Nước
Dân số 1994
(Triệu nười)
Tỷ lệ tăng dân số (%)
Lực lượng lao động
1960-1992
1992-2000
1994 (triệu người)
% tăng giai đoạn 90-94
% trong dân số
Brunay
0,284
3,8
2,1
0,112
---
Indonexia
192,2
2,2
1,7
81,2
1,1
43
Malaixia
19,5
2,6
2,1
7,85
2,8
38
Philippin
68,6
2,7
2,0
27,48
3,0
56
Thái Lan
59,4
2,4
1,1
32,84
1,1
56
Việt Nam
72,5
2,2
2,1
33,7
2,8
49
Xingapo
2,93
1,7
1,7
1,69
2,9
56
Nguồn: Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con người, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999.
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số. Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm được tỷ lệ tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. Điều này dẫn đến sự gia tăng lực lượng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nước trong khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là 2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn được duy trì như vậy, tỷ lệ tăng lực lượng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu người trong độ tuổi lao động thì đến 1995 đã tăng đến 40,2 triệu người, bình quân mỗi năm tăng khoảng 1 triệu người, tức là khoảng 3,22%. Ngoài ra còn phải kể đến số người ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có làm việc cũng tăng lên, tạo thành một nguồn cung cấp về lao động khá dồi dào: Cuối năm 1995 có 3,7 triệu người, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em(11) Nguån: Kim Ngäc C¬ng, ''Ph©n tÝch vµ dù b¸o thÞ trêng lao ®éng ë níc ta'', Bé kÕ ho¹ch vµ §Çu t, T¹p chÝ Kinh tÕ vµ Dù b¸o
. Như vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thường xuyên được bổ sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hậu, tạo nên một trong những ưu thế lớn cho Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ cấu dân số nước ta là cơ cấu dân số trẻ do đó cơ cấu lực lượng lao động cũng trẻ. Dưới đây là biểu đồ cơ cấu lực lượng lao động nói chung của cả nước chia theo nhóm tuổi (1/7/2003 - 1/7/2004)(12)Nguồn: www.thitruonglaodong.gov.vn
:
Cơ cấu lực lượng lao động qua 2 năm 2003-2004
Qua biểu đồ ta thấy lực lượng lao động năm 2004 ở nhóm tuổi 15-24 chiếm 21,5% (không thay đổi so với thời điểm 1/7/2003), nhóm tuổi 25-34 chiếm 25,3% (giảm 1,3%), nhóm tuổi 35-44 chiếm 27,1% (giảm 0,3%), nhóm tuổi 45-54 chiếm 18,4 (tăng 1,2%), nhóm từ 55 tuổi trở lên chiếm 7,7% tăng (0,4%). Lực lượng lao động ở nhóm tuổi 25-44 chiếm nhiều nhất (khoảng 52,4%). Đây là độ tuổi người lao động đang sung sức nhất về thể lực, trí lực, trưởng thành về mặt kiến thức, hiểu biết, sôi nổi, giàu nhiệt huyết nên làm việc năng nổ, xông xáo, nhiệt tình hăng say, có hiệu quả nhất.Với ưu thế này nếu được khai thác triệt để sẽ là yếu tố quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước, và cũng là lợi thế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
Cùng với ưu thế quy mô dân số đông, cơ cấu dân số trẻ, thì nguồn nhân lực tham gia vào hoạt động kinh tế lớn. Tại thời điểm 1/7/2005 nói chung của ba vùng kinh tế trọng điểm có 17.919.059 người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân so với tổng số 18.410.327 người thuộc lực lượng lao động của ba vùng kinh tế trọng điểm (chiếm 97,33%).
Quốc gia
Phụ nữ (%)
Nam giới (%)
Việt Nam
90,6
95,3
Lào
30,6
61,9
Myanmar
79,5
88,7
Thái Lan
93,2
96,9
Philippines
96,4
95,1
Tỷ lệ biết chữ các quốc gia trong khu vực
Nguồn: Báo cáo phát triển của Việt Nam năm 2000.
www.undp.org.vn
Ta thấy tỷ lệ biết chữ của Việt Nam thuộc mức cao trong khu vực, đây là lợi thế rất cơ bản để tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật và công nghệ mới cho tăng trưởng kinh tế - xã hội đất nước, đồng thời tăng sức cạnh tranh của lao động trên thị trường sức lao động trong nước và quốc tế.
Trong các năm qua, mạng lưới đào tạo, dạy nghề của ta có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng đào tạo. Ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo năm 2005 là trên 15%. Đến tháng 6/2005 cả nước có 233 trường dạy nghề với 196 trường công lập, 37 trường ngoài công lập, 404 trung tâm dạy nghề, trong đó có 165 trung tâm cấp huyện, 212 trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp có dạy nghề và 839 cơ sở khác có dạy nghề. Hàng năm, đào tạo hơn 900 nghìn học sinh học nghề và 1 triệu sinh viên cao đẳng, đại học(13) Nguồn:
Cải cách về giáo dục và đào tạo đã có tác động đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng tri thức, khả năng sáng tạo, phát minh óc tưởng tượng và kỹ năng thực hành nghề nghiệp của người lao động. Bộ phận lớn người lao động nước ta đã làm chủ được khoa học, công nghệ mới hiện đại chuyển gia từ nước ngoài, đáp ứng được sự phát triển tăng tốc của ngành công nghệ cao, ngành dịch vụ mới (như công nghệ thông tin, viễn thông, vật liệu mới, công nghệ sinh học, máy móc thiết bị chính xác, hàng không, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tư vấn kinh tế và pháp luật...). Chất lượng lao động nước ta đang ngày được nâng cao. Người Việt Nam có truyền thống cần cù, thông minh, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có ý chí và tinh thần tự lực tự cường dân tộc, phát triển khá về thể lực, trí lực, có tính cơ động cao có thể tiếp thu nhanh kiến thức khoa học công nghệ tiên tiến hiện đại. Có thể nói đây là một trong số các lợi thế so sánh cảu ta trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới quy mô và chất lượng nguồn nhân lực nước ta vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn trong cạnh tranh và hội nhập vào quá trình toàn cầu hoá.
Cơ chế chính sách của Đảng và Nhà nước đang ngày càng hoàn thiện tạo điều kiện phát triển NNL. Từ năm 1995 đến nay, Bộ Luật lao động đầu tiên ở nước ta được ban hành có hiệu lực và đang phát huy trong cuộc sống. Bộ Luật lao động điều chỉnh các quan hệ lao động theo một cơ chế mới, dựa trên cơ sở tự do hoá lao động, giải phóng mọi tiềm năng lao động và nâng cao tính năng động xã hội của lao động. Chính phủ đã có nhiều chủ trương lớn về việc làm như: Quyết định 176-HĐBT, QĐ 315-HĐBT về việc sắp xếp lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước; QĐ 109-HĐBT, QĐ 111-HĐBT về sắp xếp lao động khu vực hành chính sự nghiệp và Nghị 120-HĐBT về chủ trương, phương hướng, biện pháp giải quyết việc làm và thành lập Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm. Thực hiện các quyết định trên, cùng với việc tạo cơ chế chính sách thông thoáng để thu hút mọi nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển sản xuất, số lao động được huy động vào làm việc trong nền kinh tế quốc dân đã tăng từ trên 30,2 triệu người năm 1990 lên 40,6 triệu người năm 2000, tức là tăng thêm gần 10,4 triệu người, bình quân mỗi năm tăng hơn 1 triệu người, trong đó năm 1996-2000, mỗi năm tăng 1,2 triệu người. Nhìn lại quá trình mở cửa, trong vòng 16 năm trở lại đây, đất nước ta đã 3 lần điều chỉnh thị trường. Lần thứ nhất liên quan tới những đảo lộn chính trị ở Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa ở Đông Âu; lần thứ 2 liên quan tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Châu Á (1997-1998) và lần thứ 3 là sau khi ký hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ, cùng với liên minh Châu Âu (EU) mở rộng. Qua những lần điều chỉnh, hiệu quả mọi mặt tăng lên, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài được mở rộng và găn kết với nhau, việc hội nhập kinh tế quốc tế của ta phát triển cả diện rộng và diện sâu. Đến cuối năm 2003, nướcc ta đã có quan hệ kinh tế thương mại với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hơn 80 hiệp định thương mại song phương. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 20 tỷ USD, tăng 4,6 tỷ USD so với năm 2002 và gấp 10 lần so với năm 1991. Hơn 67 nghìn lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Kim ngạch nhập khẩu năm 2003 khoảng 24 tỷ USD(14) Nguån www..mpi.gov.vn
. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Chính phủ về việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước, nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, đối ngoại, ngoại thương đã gắn kết thị trường nội địa với thị trường quốc tế, bước đầu tạo lập được một hệ thống doanh nghiệp và doanh gia tương đối năng động, biết vận dụng các quy luật thị trường, biết phát huy các yếu tố nội lực và ngoại lực để phát triển. Thị trường sức lao động đã hình thành và ngày càng phát triển trở thành một thị trường thống nhất, xoá bỏ hàng rào hành chính, người lao động được tự do di chuyển và hành nghề theo pháp luật và sự hướng dẫn của Nhà nước. Tiền công lao động ngày càng phản ánh đúng giá cả lao động, có tính đến quan hệ cung cầu lao động trên thị trường sức lao động. Lao động được tự do, được giải phóng tạo ra động lực mới để mọi người lao động sáng tạo, có năng suất cao.
2. Khó khăn.
Về NNL. Chất lượng NNL vẫn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tiễn. Lao động nước ta tuy dồi dào nhưng tay nghề thấp, ít có thợ lành nghề, tác phong công nghiệp yếu, sức mạnh cạnh tranh kém so với thế giới. Theo thang điểm 10, Việt Nam được quốc tế đánh giá chất lượng nguồn nhân lực đạt 3,79 điểm, đứng sau Thái Lan (4,04), Philippines (4,53), Malaysia (5,73), Ấn Độ (5,76). Ta có đủ và thừa về mặt số lượng, nhưng lại quá yếu và thiếu về trình độ tay nghề của người lao động. Theo số liệu Tổng điều tra cơ sở kinh tế-hành chính sự nghiệp (2002) thì tỷ trọng lao động không được đào tạo chiếm tới 50,6%. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm thì lao động là cán bộ khoa học kỹ thuật năm 2000 chiếm 8,1%; năm 2002 còn 6,8% và những lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật cũng có xu hướng giảm tương đối. Đặc biệt đối với lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp nhà nước thuộc địa phương quản lý thì lao động không được đào tạo chiếm từ 55 đến 75%.
Bên cạnh đó trình độ non kém, lạc hậu về khoa học công nghê, tác phong lao động, kỷ luật, sự thiếu hiều biết về kinh tế thị trường, tính từ chịu trách nhiệm cá nhân thấp ảnh hưởng đến sức cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam khi hoà nhập vào thị trường nhân lực tiên tiến của thế giới.
Cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý. Cấu trúc đào tạo nguồn nhân lực nươc ta không hợp lý cả về cơ cấu các loại lao động và cơ cấu đầu tư ngân sách giữa các bậc học. Trong thời gian vừa qua, dù Nhà nước đã rấ nỗ lực điều chỉnh thực trạng trên nhưng hiệu quả mang lại chưa cao. Ngân sách chi cho giáo dục của chúng ta còn thấp. Mặc dù còn tăng hơn thời kỳ trước nhưng trong các năm từ 1990 đến 2002 ngân sách chỉ chiếm 10-11% trong tổng ngấn sách Nhà nước. So với các nước trong khu vực thì đầu tư này của chúng ta còn kém xa. Chẳng hạn ngân sách dành cho giáo dục của singapo là 23%, của Malaixia là 20%...
Chưa có chính sách phân luông trong giáo dục và đào tạo, cơ cấu đào tạo còn bất hợp lý, tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng, trung học và công nhân kỹ thuật. Ở các nước phát triển, với chất lượng đào tạo đã được chuẩn hoá, việc quản lý và sử dụng lao động đã đạt tới trình độ cao, cấu trúc đào tạo ở tầm quốc gia thường là 1-12-24 (tức là cứ 1 kỹ sư đại học thì cần 12 cán bộ cao đẳng và 24 công nhân kỹ thuật). Với nước ta, nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khoá IX) đã đề ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2010 cấu trúc đào tạo nói chung của cả nước là 1-4-10. Tuy nhiên với thực trạng đào tạo như những năm qua, chưa nói đến việc không thể thực hiện được mục tiêu đề ra mà thậm trí có xu hướng ngày càng bất hợp lý hơn.
Giáo dục, đào tạo nặng về bằng cấp, thi cử, xu hướng thương mại hoá trong đào tạo khá phổ biến; đào tạo không gắn với sản xuất và thị trường sức lao động (không găn với sử dụng); lao động trong nông nghiệp nông thôn hầu như không được đào tạo. Ngành giáo dục và đào tạo còn nhiều khó khăn trước những đòi hỏi bức xúc của thời đại. Giáo dục ở vung sâu, vùng xa phát triển chậm. Chất lượng dạy và học tuy có tiến bộ, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp cả về kiến thức, năng lực thực hành và đạo đức. Năm 2000, cả nước thiếu gần 11 vạn giáo viên phổ thông, chất lượng dạy học của nhiều giáo viên còn thấp, đặc biệt là về phương pháp giảng dạy và kỹ năng thực hành. Quy chế đóng góp cho việc đi học chưa rõ ràng, hợp lý là trở ngại lớn đối với học sinh gia đình nghèo. Tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan đã được uốn nắn nhưng chưa được giải quyết triệt để. Hiện tượng mua bán điểm, mua bằng vẫn chưa được chấm dứt. Những năm gần đây, quy mô đào tạo đại học và cao đẳng tăng quá nhanh so với các điều kiện dạy và học. Tỷ lệ bình quân số sinh viên so với giáo viên của ra hiện nay đang là quá tải (26,5 sinh viên/ giáo viên), là một rong những nguyên nhân làm cho chất lượng đào tạo giảm thấp. Một số trường đại học phát triển quy mô quá mức, thiên về lợi ích kinh tế (nhất là hệ tại chức). Một số trường đại học dân lập tuyển sinh quá mức cho phép, vượt xa các điều kiện bảo đảm việc dạy và học, tổ chức quản lý đào tạo lỏng lẻo, chất lượng đào tạo chưa cao.
Cơ cấu đào tạo mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, người học dồn nhiều vào bậc đại học và một số ngành nghề có nhu cầu trước mắt, không có sự hướng dẫn, điều chỉnh của Nhà nước về ngành nghề đào tạo. Trong đào tạo mất cân đối theo vùng và lãnh thổ, học sinh tốt nghiệp đại học tập trung xin việc ở thành phố và đồng bằng nhiều trường hợp phải làm việc trái nghề. Ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cứ 100 người tham gia lực lượng lao động thì có 36 người đã qua đào tạo, trong đó có 9 người tốt nghiệp cao đẳng, đại học và trên đại học; trong khi vùng kinh tế trọng điểm miền Trung các chỉ số này chỉ là 31 và 6. Chưa có cơ chế quản lý tốt và định hướng tốt để hình thành và phát triển các trường đại học dân lập. Cơ sở vật chất của ngành giáo dục đào tạo mặc dù đã được chú ý đầu tư, nhưng so với nhu cầu nâng cao chất lượng thì ở mức rất thấp, đặc biệt là thiếu thiết bị phục vụ cho học tập và giảng dạy, thư viện nghèo nàn, thiếu ký túc xá cho học sinh, sinh viêcn. Sự tăng cơ sở vật chât thấp xa so với tăng quy mô học sinh, sinh viên.
Ở Việt Nam, số học sinh và sinh viên thuộc các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học trong cả nước từ năm 1997 đến năm 2002 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ chính quy) như sau:
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Trung học chuyên nghiệp
107,8
119,0
155,6
170,5
172,4
164,1
Số tốt nghiệp
43,5
44,9
49,0
56,3
59,3
68,3
Công nhân kỹ thuật
57,6
68,7
74,7
58,7
69,9
102,5
Số tốt nghiệp
35,2
38,0
64,9
66,4
75,1
70,6
Cao đẳng, đại học
136,8
157,1
203,3
297,9
509,3
662,8
Số tốt nghiệp
24,8
29,1
36,9
58,5
78,5
74,1
Đơn vị tính: 1.000 người
Nguồn: Niên giám thống kê 2003-Nxb Thống kê.
Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số sinh viên cao đẳng, đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm và biến đổi bất thường khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu năm 1999 các trường công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh thì năm 2000 còn 58.700 học sinh, song đến năm 2002 lại tăng lên 102.500 học sinh. Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có trình độ trung cấp, và ngược lại dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học đảm nhận những công việc của công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2005 số sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1 triệu bằng 1,8 lần năm 1995.(15) Nguồn Niên giám Thống kê 2002-Nxb Thống kê.
Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học năm 1997 là 103.500 người thì đến năm 2001 là 212.900 người và năm 2002 là 213.000 người bổ sung cho nguồn nhân lực đất nước.
Tỷ lệ lao động được đào tạo trong tổng số lực lượng lao động xã hội tăng lên hàng năm được thể hiện qua bảng sau:
Năm
Tỷ lệ lao động được đào tạo trên tổng lực lượng lao động xã hội (%)
1992
10,4
1996
14
1999
16,6
2001
17,5
Nguồn: www.mofa.gov.vn
Tỷ lệ lao động được đào tạo trên tổng lực lượng lao động xã hội tăng nhanh qua các năm. Năm 2001 tăng 68,3% so với năm 1992.
Hội nhập kinh tế quốc tế, người Việt Nam cần phải có tác phong công nghiệp, giám nghĩ giám làm, minh bạch trong công việc,... Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta vẫn còn tình trạng mang nặng tính quan liêu như ỷ lại, “giờ cao su”, con ông cháu cha... Trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lao động Việt Nam cũng bộc lộ những nhược điểm lại hậu về trình độ kỹ thuật – công nghệ, kỷ luật và thói quen lao động. Năng lực quản lý kinh tế yếu kém, tính tuỳ tiện của người sản xuất nhỏ, ý thức dân tộc, ý thức cộng đồng chưa cao tạo nên bất lợi và thua thiệt về kinh tế cho phía Việt Nam.
Thị trường lao động mặc dù đã hình thành nhưng vẫn còn non trẻ. chưa phát triển mạnh. Thị trường lao động Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức cũng là một khó khăn đối với người lao động. Có sự mất cân bằng giữa cung và cầu lao động. Lợi thế của chúng ta là lực lượng lao động đông đảo đồng thời lại là thách thức của chúng ta. Một mắt các ngành kinh tế chưa phát triển, chưa tạo đủ việc làm cho người lao động, mặt khác có những công việc vẫn thiếu người làm nhưng cung lao động trên thị trường lại không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Vì thế nên có tình trạng vừa thừa lại vừa thiếu lao động.
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
1.Đồng bằng sông Hồng
7,34
7,07
6,64
6,37
6,03
5,61
2.Đông Bắc
6,49
6,73
6,10
5,94
5,45
5,12
3.Tây Bắc
6,02
5,62
5,11
5,10
5,30
4,91
4.Bắc Trung Bộ
6,87
6,72
5,82
5,45
5,35
4,98
5.Duyên hải Nam Trung Bộ
6,31
6,20
5,50
5,46
5,70
5,52
6.Tây Nguyên
5,16
5,60
4,90
4,39
4,53
4,23
7. Đông Nam Bộ
6,16
5,90
6,30
6,08
5,92
5,62
Cả nước
6,42
6,28
6,01
5,78
5,60
5,31
đơn vị %
Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị của cẩ nước và các vùng lãnh thổ giai đoạn 2000-2005
Nguồn: Kết quả điều tra lao động-việc làm hàng năm(1/7/2000-1/7/2005)
www.thitruonglaodong.go.vn
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ thất nghiệp ở các vùng qua các năm đều có xu hướng giảm (tỷ lệ thất nghiệp của cả nước giảm 17,29% năm 2005 so với năm 2000), tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp vẫn còn ở mức cao (cả nước là 5,31). Một điều trớ chêu là nhu cầu về nguồn nhân lực ở nước ta lại đang lên cơn “sốt”n. Chẳng hạn, trong ngành Ngân hàng, từ đầu năm 2006, các ngân hàng nội địa đã lên kế hoạch tuyển mộ và săn lùng lao động ở các lĩnh vực, vị trí làm việc từ trung cấp đến cao cấp. Cụ thể, Ngân hàng ACB có kế hoạch tuyển dụng khoảng 700 người, chia đều cho từng quý, Sacombank tuyển dụng từ 400-500 người; SCB cũng tuyển dụng 300 người... mặc dù hàng năm có tới hàng ngàn sinh viên các ngành kinh tế, tài chính, ngân hàng... tốt nghiệp ra trường nhưng trước yêu cầu tuyển dụng với số lượng lớn như trên, cung vẫn không đáp ứng cầu. Hay như ở ngành Công nghệ Thông tin “cơn sốt” nguồn nhân lực cũng đang trở nên cấp bách. Công ty Paragon Solutions Vietnam (PSV) cho biết đang có 400 lập trình viên và mục tiêu vạch ra là phải từ 500-1.000 lập trình viên. Công ty tin học Tường Minh (TMA) hiện có 550 lập trình viên, nhưng yêu cầu của năm nay là 1.200 người. Kế hoạch kinh doanh của FPT cũng đòi hỏi đến năm 2009 cần 2.000 lập trình viên và năm 2014 là 10.000-17.000 lập trình viên(16) Nguån www.mof.gov.vn
. Theo đánh giá của mạng cung ứng dịch vụ tuyển dụng Vietnamworks.com, nhu cầu nhân lực ở Việt Nam năm 2005 tăng 30% so với năm 2004, trong đó nhu cầu ngành công nghệ thông tin tăng 12%. Nguyên nhân thất nghiệp chủ yếu đối với lao động tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học là đào tạo không đúng ngành nghề mà thị trường lao động ở địa phương đang cần; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu kỹ năng, tay nghề; một số doanh nghiệp lại có mức tiền lương quá thấp, trong khi các cơ sở hạ tầng thiết yếu để đảm bảo nhu cầu sinh hoạt tối thiểu cho người lao động, đặc biệt là lao động từ các địa phương khác đến còn nhiều bất cập, cường độ làm việc quá cao, điều kiện lao động không đảm bảo làm cho người lao động phải bỏ việc; thị trường lao động chưa thật sự thống nhất, còn mang tính cục bộ, người lao động chuyển từ tỉnh này đến tỉnh khác để mưu cầu có công ăn việc làm phù hợp thường gặp nhiều khó khăn, thiếu bình đẳng trong thu nhập cũng như trong việc thụ hưởng các dịch vụ xã hội.
Việc tiếp cận, thâm nhập, mở rộng thị trường xuất khẩu lao động chưa vững chắc; khả năng phân tích, dự báo, thông tin thị trường còn yếu kém, trong những trường hợp thông tin không đầy đủ, kịp thời, chính xác còn làm cho hoạt động thị trường bị rối loạn, việc phân bố các nguồn lực bị sai lệch, kém hiệu quả.
Đơn vị: Người
Năm
Quốc gia
2001
2002
2003
2004
2005
Tổng cộng
(2001-2005)
Hàn Quốc
3 910
1 190
4 226
4 779
12 102
26 207
Nhật Bản
3 249
2 202
2 264
2 752
2 953
130132
Malaysia
23
19 965
39 624
14 567
19 500
93 679
Đài Loan
7 782
13 191
27 981
37 144
20 750
106 848
Các nước khác
21 204
9 574
1 605
8 205
10 900
51 488
Tổng số
36 168
46 122
75 700
67 447
66 205
291 642
Lao động Việt Nam đi lao động ở nước ngoài
Nguồn: www.thitruonglaodong.gov.vn
Qua bảng trên ta thấy lực lượng lao động xuất khẩu ra nươc ngoài liên tục tang qua các năm (2005 tăng 58,98% so với năm 2001).
Thị trường Malayxia vẫn dẫn đầu về số lượng đưa đưa, với 19.500 lao động (tăng 30% so với năm 2004), nâng tổng số lao động Việt Nam làm việc tại đây lên gần 100 nghìn người.
Thị trường Đại Loan đã ngừng tiếp nhận lao động giúp việc gia đình của Việt Nam từ đầu năm, nhưng nhờ đẩy mạnh việc đưa lao động trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo nên chúng ta vẫn đưa sang được thị trường này 20.750 lao động (bằng 50,86% so với năm 2004)
Thị trương Hàn Quốc đã có sự tăng đột biến về số lượng với 12.102 lao động, tăng 153% so với năm 2004. Số tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản cũng tăng hơn 7% so với năm 2004, đạt 2953 người.
Cùng với việc mở rộng thị trường và sự gia tăng về số lượng lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng lao động, chất lượng lao động xuât khẩu ngày càng được nâng cao hơn. Tuy nhiên, tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về chất lượng lao động có xu hướng gia tăng, đặc biệt là chuyên gia và kỹ thuật viên cũng như công nhân kỹ thuật bậc cao. Tuỳ theo mỗi nước, nhu cầu về số lao động cũng như cơ cấu chia theo trình độ, kỹ năng và ngành nghề cụ thể rất khác nhau, nhưng nhìn chung nguồn cung hiện nay của ta chưa đáp ứng được. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản đang hạn chế sự phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động-chuyên gia của Việt Nam cả về quy mô, tốc độ và hiệu quả kinh tế-xã hội.
NNL phân bố chưa hợp lý theo ngành và vùng.
Theo ngành: Về cơ bản, nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Chính vì vậy, lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực sản xuất truyền thống là nông-lâm-ngư-nghiệp. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, sự phân bố trên sẽ có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần lực lực lượng lao động trong lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và tăng dần trong các ngành công nghiệp dịch vụ. Số liệu điều tra năm 2005 cho thấy, số lượng sinh viên ngành văn hoá nghệ thuật chiếm 1,3% so với số lượng sinh viên cả nước; nông-lâm-ngư-nghiệp là 3,13%; khoa học cơ bản là 15,5%; khoa học công nghệ và kỹ thuật là 15,2%; khoa học xã hội là 42,78%. Thực tế này tạo ra tình trạng cung lao động chuyên môn kỹ thuật cao hơn nhiều so với cầu lao động đối với một số ngành nghề lĩnh vực. Tính chung cho cả 3 vùng kinh tế trọng điểm của nước ta, có 7.402.504 người làm việc chính ở khu vực I (nông-lâm-thuỷ sản), chiếm 41,31%; 4.657.206 người làm việc chính ở khu vực II (công nghiệp và xây dựng), chiếm 25,99% và 5.859.349 người làm việc chính ở khu vực III (dịch vụ), chiếm 32,7%. Trong 3 vùng, vùng có cơ cấu lao động theo ngành tiến bộ nhất là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (32,84%-29,15%-38,01%), hai vùng còn lại, tuy còn kém nhiều nhưng cũng tiến bộ hơn so với cơ cấu lao động trung bình của cả nước. So với thời điểm 1/7/2004, cơ cấu lao động chia theo 3 khu vực ngành kinh tế quốc dân của 3 vùng kinh tế trọng điểm tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm tỷ lệ lao động làm việc ở khu vực I và tăng tỷ lệ làm việc ở cả 2 khu vực II và III; Trong 3 vùng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và miền Trung cơ cấu lao động đang có xu hướng chuyển dịch tương đối nhanh theo hướng tích cực.
Theo vùng: Cũng giống như các nước đang phát triển khác trên thế giới, lực lượng lao động nước ta hiện nay chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn và ít ở khu vực thành thị và ngày càng có xu hướng tăng dần ở khu vực thành thị, giảm dần ở khu vực nông thôn. Chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế trọng điểm cũng như giữa Việt Nam với các nước trong khu vực về số lượng, tỷ lệ và chất lượng lao động đã qua đào tạo cũng như tiền lương tiền công và năng suất lao động ngày càng lớn làm mất dần cơ hội tham gia thị trường lao động phát triển của lực lượng lao động nông thôn; sự phân hoá về thu nhập, giàu nghèo có cơ hội gia tăng. Tại thời điểm 1/7/2005, lực lượng lao động nói chung của 3 vùng kinh tế trọng điểm có 18.410.327 người, chiếm 41,48% tổng lực lượng lao động của cả nước; khu vực thành thị có 6.526.355 người, chiếm 35,45%, cao hơn so với tỷ lệ này của cả nước 10,51%. Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có lực lượng lao động đông nhất, chiếm 42,05%; tiếp đến là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, chiếm 40,73%; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ chiếm 17,22% tổng lực lượng cả 3 vùng. So với 1/7/2004, lực lượng lao động đều tăng ở cả 3 vùng, trong đó tăng nhanh nhất là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (3,56%); tiếp đến là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (2,53%); thấp nhất là vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (2,22%). Tốc độ tăng của lực lượng lao động cả nước là 2,5%(17) Nguồn: www.thitruonglaodong.gov.vn
.
Số lượng và tỷ lệ thất nghiệp lực lượng lao động
ở khu vực thành thị
2004
2005
Lực lượng lao động (người)
Lao động thất nghiệp (người)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Lực lượng lao động (người)
Lao động thất nghiệp (người)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1.KTTĐ Bắc Bộ
1.880.332
111.276
5,92
2.143.148
115.730
5,54
2.KTTĐ Miền Trung
848.060
46.447
5,48
899.177
47.493
5,28
3.KTTĐ Phía Nam
3.372.773
195.954
5,81
3.536.798
193.569
5,47
Cả 3 vùng
6101165
353.677
5,80
6.526.355
356.792
5,47
Cả nước
10549249
574195
5,44
11071158
567771
5,13
Nguồn điều tra lao động việc làm 1/7/2004 và 1/7/2005
www.thitruonglaodong.gov.vn
Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ thất nghiệp ở cả ba vùng kinh tế trọng điểm đều ở mức thấp hơn so với cả nước. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp khu vực kinh tế trọng điểm miền trung là thấp nhất. Sở dĩ tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này thấp trong khi lực lượng lao động của khu vực này không phải là cao là do số lượng lao động thất nghiệp ở khu vực này ở mức thấp nhất so với 2 vùng còn lại. Tỷ lệ thất nghiệp đều giảm ở cả ba vùng và trong cả nước, tuy nhiên ta thấy số lượng lao động thất nghiệp năm 2005 so với năm 2004 thì lại hầu như không giảm hoặc giảm không đáng kể, thậm trí có vùng số lượng thất nghiệp lại có biểu hiện tăng như vùng KTTĐ miền Trung (tăng 2,25%), hay như vùng KTTĐ miền Bắc (tăng 4%). Trong khi đó, lực lượng lao động lại tập trung quá đông, và có xu hướng tăng mạnh ở khu vực KTTĐ Bắc Bộ (13,98%) còn ở khu vực KTTĐ Miền Trung lại tăng không đáng kể (6,02%). Gây ra tình trạng lực lượng lao động ở khu vực KTTĐ Bắc Bộ đã đông lại càng đông hơn, trong khi đó lực lượng lao động ở vùng KTTĐ Miền Trung đã thấp lại tăng không đáng kể làm cho tình trạng phân bố lực lượng lao động càng có xu hướng phân bố không đồng đều.
Chính sách của Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhất là chính sách thuế, đất đai, tín dụng v.v...chưa khuyến khích và tạo ra động lực đẩy mạnh đầu tư vào các ngành sản xuất, mà chủ yếu đầu tư vào dịch vụ, buôn bán, phi sản xuất. Trong hoạt động mở rộng thị trường, kể cả thị trường nội địa và ngoài nước thì năng lực tổ chức thị trường còn yếu kém, chưa có chính sách khuyến khích tiêu dùng đúng hướng, nhất là tiêu dùng hàng nội để kích thích sản xuất trong nước phát triển từ đó tạo thêm nhiều chỗ việc làm mới. Sự đổi mới các chính sách phát triển nguồn nhân lực của Chính phủ các năm qua đã có tác động lớn đến phát triển quy mô và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực. Tuy nhiên, theo đánh giá của các nhà kinh tế và hoạt định chính sách trong nước và quốc tế thì các thể chế phát triển nguồn nhân lực nước ta còn thiếu, chưa đồng bộ, một số chưa phù hợp với thông lệ quốc tế đã có tác động hạn chế phát triển nguồn nhân lực tham gia vào phân công và hợp tác lao động ở quy mô rộng lớn.
PHẦN III
MỘT SỐ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ
1. Về thị trường lao động.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng và vận hành đồng bộ các thị trường nhân tố sản xuất, trong đó thị trường lao động là yêu cầu khách quan mang tính quy luật.
Những năm tới để tiếp tục phát triển thị trường lao động cần có những giải pháp vừa mang tính cấp thiết, vừa mang tính lâu dài. Trong đó, cần ưu tiên các nhóm giải pháp sau:
Các giải pháp nhằm thu hẹp khoảng cách giữa cung và cầu lao động (cả về số lượng và chất lượng) trên thị trường:
+ Để giảm sức ép đối với cung lao động, cần thực hiện tốt hơn nữa chính sách dân số và cấu trúc tuổi hợp lý; coi trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
+ Nhằm mục tiêu thu hẹp dần khoảng cách giữa đầu ra của đào tạo với nhu cầu của thị trường lao động, cần khuyến khích, đa dạng hoá các hình thức đào tạo, nhất là đào tạo nghề; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hoá trang thiết bị, cải tiến chương trình nội dung và phương pháp giảng dạy trong các trường và trung tâm đào tạo; phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các bên tham gia thị trường lao động (các doanh nghiệp có nhu cầu về lao động đã qua đào tạo, các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan) trong quá trình hoạch định các chính sách về đào tạo bội dưỡng nguồn nhân lực. Mặt khác, cần có các biện pháp thúc đẩy tăng cầu về lao động thông qua việc thực hiện nhất quan chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ các hoạt động phi nông nghiệp, các ngành tiểu thủ công nghiệp, nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động ở nông thôn. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, tham gia tích cực vào thị trường lao động khu vực và quốc tế.
Các giải pháp thúc đẩy hoạt động giao dịch trên thị trường lao động, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thông tin thị trường lao động, hoàn thiện hệ thống thể chế và chính sách phát triển thị trường lao động.
Trong điều kiện của nước ta hiện nay, cần xây dựng hệ thống thể chế và chính sách phát triển thị trường lao động không chỉ nhằm hỗ trợ cho người lao động mà còn cho cả người sử dụng lao động (cả trong và ngoài nước) để có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực cho phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của thị trường lao động.
2. Về đào tạo và phát triển NNL.
Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu nghèo hèn. Đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới, có ý thức vươn lên về khoa học và công nghệ. Nâng cao khả năng cạnh tranh của lao động nước ta trên phương diện thế lực, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, kỷ luật công nghệ, khả năng thích ứng và các phẩm chất khác của lao động quốc tế thông qua môi trường giáo dục huấn luyện, đào tạo và tạo ra các quy trình, tiêu chuẩn hoạt động tại các cơ sở.
Nâng cao chỉ số HDI của nước ta thông qua các kế hoạch, giải pháp và thực hiện tăng tốc phát triển kinh tế nhằm không ngừng nâng cao nhanh chóng mức sống, tăng số năm đi học, đảm bảo tốt chăm sóc y tế, an ninh xã hội cho dân cư và người lao động.Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực, phát huy mọi tiềm năng của các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Để thực hiện mục tiêu đó, trong 10 năm tới cần:
Phát triển giáo dục mầm non. Củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước; phần lớn thanh, thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và vùng nông thôn đồng bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo nghề. Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên, suốt đời.
Điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và các mục tiêu của Chiến lược. Chú trọng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học; tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia ngang tầm khu vực, tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triển giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát triển; khuyến khích, tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài. Coi trọng đào tạo đội ngũ công nhân tay nghề cao, kỹ sư thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao động, một số ngành mũi nhọn.
Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, thực nghiệm, ngoại khóa, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay. Đổi mới và tổ chức thực hiện nghiêm minh chế độ thi cử. Đề cao tính tự chủ của trường đại học.
Phát triển đội ngũ giáo viên, coi trọng chất lượng và đạo đức sư phạm, cải thiện chế độ đãi ngộ. Bảo đảm về cơ bản đội ngũ giáo viên đạt chuẩn quốc gia và tỷ lệ giáo viên so với học sinh theo yêu cầu của từng cấp học. Tăng cường cơ sở vật chất và từng bước hiện đại hóa nhà trường (lớp học, sân chơi, bãi tập, phòng thí nghiệm, máy tính nối mạng Internet, thiết bị giảng dạy và học tập hiện đại, thư viện, ký túc xá...). Phấn đấu đến năm 2010 phần lớn các trường phổ thông có đủ điều kiện cho học sinh học tập và hoạt động cả ngày tại trường.
Tăng đầu tư cho giáo dục từ ngân sách nhà nước và đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, đào tạo. Khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế đầu tư phát triển giáo dục ở tất cả các bậc học, đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Ngân sách nhà nước tập trung nhiều hơn cho các bậc giáo dục phổ cập, cho vùng nông thôn, miền núi, cho đào tạo trình độ cao và những ngành khó thu hút đầu tư ngoài ngân sách nhà nước; bảo đảm điều kiện học tập cho con em người có công và gia đình nghèo. Tăng cường quản lý nhà nước, đặc biệt là hệ thống thanh tra giáo dục, thiết lập kỷ cương, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực. Tăng cường quản lý và giúp đỡ người đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.
3. Về cơ chế chính sách của Nhà nước trong công tác quản lý và sử dụng lao động. Hội nhập là mở cửa tham gia vào quá trình toàn cầu hóa - cũng có nghĩa là quá trình cạnh tranh và phân công lao động quốc tế. Việc phá sản hoặc thu hẹp sản xuất kinh doanh, thu hẹp quy mô sử dụng lao động của một bộ phận doanh nghiệp hoạt động trong một lĩnh vực, ngành nào đó kéo theo sự mất việc của một bộ phận người lao động trong các doanh nghiệp đó là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, bên cạnh việc có thể một hoặc một số ngành, nghề bị mất hoặc thu nhỏ đi, sẽ có những ngành, nghề mới ra đời hoặc được tập trung phát triển hơn, thu hút lao động làm việc nhiều hơn trong các doanh nghiệp thuộc khu vực ngành, nghề này. Như vậy, trong xã hội ở những thời điểm nhất định có thể sẽ có tình trạng một bộ phận người lao động mất việc và phải tìm việc làm mới. Nhà nước cần chủ động có chính sách và biện pháp thích hợp giải quyết vấn đề này, tránh để nó trở thành một vấn đề có thể gây bùng nổ xã hội bằng việc hỗ trợ cho sự hình thành mạng lưới an sinh xã hội nhằm giải quyết các nhu cầu của những người không có khả năng tự lo cho mình và có các chương trình đầu tư xã hội để giúp mọi người được đào tạo những kỹ năng cần phải có trong một nền kinh tế hiện đại. Nhà nước cần sử dụng vai trò điều tiết phân phối lại thu nhập xã hội để hỗ trợ những người bị thất nghiệp (Qũy bảo hiểm xã hội, Qũy hỗ trợ thất nghiệp...) và có chính sách tái đào tạo nghề nghiệp giúp người lao động bị mất việc có thể chuyển sang nghề khác.
Cần bổ sung điều chỉnh và chi tiết hóa các quy định của Luật Lao động về các chế độ bảo hiểm xã hội bao gồm về hưu, bệnh tật, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, sinh đẻ, áp dụng cho các khu vực thành thị và các doanh nghiệp.
Hoàn thiện các chính sách liên quan đến thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực đảm bảo tham gia hiệu quả vào quá trình toàn cầu hoá. Trong đó đặc biệt là các chính sách như: khuyến khích người lao động tham gia vào đào tạo chuyên môn kỹ thuật, phát triển và điều chỉnh thị trường lao động (phát triển hệ thống cung ứng, tư vấn việc làm; chính sách tác động lên cung - cầu và quan hệ cung - cầu lao động, chính sách di chuyển lao động trên thị trường lao động...), tiền lương và tiền công đối với hệ thống những người làm công tác đào tạo, dạy nghề và lao động chuyên môn kỹ thuật cao, ưu tiên đối với học sinh các nghề tuy nền kinh tế có nhu cầu nhưng khó thu hút học sinh (nghề kém hấp dẫn, nghề nặng nhọc, độc hại...).
KẾT LUẬN
Nâng cao chất lượng NNL Việt Nam là một đề tài rất cần được nghiên cứu trong tình hình hiện nay vì tính cấp thiết của nó. Có thể khẳng định lại rằng nguồn nhân lực luôn luôn đóng một vai trò hết sức quan trọng và to lớn trong sự phát triển kinh tế đất nước. Trong tiến trình hội nhập kinh tế hiện nay của Việt Nam, nguồn nhân lực càng tỏ rõ vai trò của mình. Xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có bản lĩnh vững vàng, có niềm tin, có trị thức, có trình đọ và quyết tâm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một việc làm hết sức có ý nghĩa và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đây là vấn đề có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau đòi hỏi phải có sự kết hợp những nỗ lực chung của toàn xã hội cũng như bản thân từng người lao động.
Hiểu được điều đó và có những biện pháp hiệu quả để sử dụng được nguồn nhân lực một cách tối ưu sẽ là chìa khoá giúp Việt Nam mở thành công cánh cửa hội nhập kinh tế thế giới.
Trên đây em đã trình bày một cách sơ lược, khái quát về những lợi thế, thách thức đối với nguồn nhân lực Việt Nam, xu hướng phát triển và một số giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam. Em rất mong rằng bài viết của mình sẽ đóng góp được một điều gì đó có ý nghĩa dù vô cùng nhỏ bé vào công cuộc hội nhập kinh tế của đất nước. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Vũ Thị Thìn cùng các anh chị, cô chú bác trong Ban Phát triển nguồn nhân lực và Các vấn đề xã hội đã hướng dẫn, chỉ bảo, tận tình cho em để em hoàn thành được chuyên đề này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Các trang web:
www.mof.gov.vn
www.vietnamnet.vn
www.mpi.gov.vn
www.cuts-international.org
www.tchdkh.org.vn
www.moi.gov.vn
www.dpi.hochiminhcity.gov.vn
www.thitruonglaodong.gov.vn
www.vneconomy.com.vn
www.mof.gov.vn
2. Giáo trình Kinh tế Lao động-Trường ĐH KTQD-Nxb giáo dục.
3. Giáo trình Kinh tế Quốc tế-Trường ĐH KTQD-Nxb Khoa học và Kỹ thuật.
4. Niên giám Thống kê-Nxb Thống kê 2003.
5. Tạp trí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32391.doc