Trong thời đại khu vực hoá và toàn cầu hoá, chất lượng sản phẩm và dịch vụ có một vai trò hết sức quan trọng và đang trở thành một thách thức to lớn với mọi quốc gia trên con đường hội nhập vào thế kỷ XXI.
Thất bại hay thành công trong cuộc cạnh tranh vô cùng khốc liệt trên thương trường hoàn toàn phụ thuộc vào mức độ thích hợp của hàng hoá và dịch vụ, sự hợp lý về giá cả, điều kiện mua bán giao nhận, thời điểm đưa hàng hoá ra thị trường . Muốn cạnh tranh hữu hiệu, muốn đạt lợi nhuận cao thì doanh nghiệp cần phải xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp và tiên tiến.
Hiện nay, đối với Việt Nam việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ trở thành phương thức tất yếu, một biện pháp có hiệu lực để đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu xã hội và góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập.
Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7 trải qua 36 năm tồn tại và phát triển ngày nay đã trở thành một đơn vị vững mạnh của cả nước. Hiện nay sản phẩm của Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7 đã được khách hàng chấp nhận và chất lượng ngày một cái thiện rõ rệt, nhưng trong công tác quản lý vẫn còn một số hạn chế nhất định. Để tìm ra biện pháp thúc đẩy hơn nữa công tác quản lý chất lượng đặc biệt là việc nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7, trong quá trình thực tập tôi đã chọn đề tài: "Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7". làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Đề tài gồm ba phần chính sau:
Phần I: Một số lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng sản phẩm.
Phần II: Thực trạng chất lượng sản phẩm của Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7 - COMA 7.
Phần III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cơ khí & Xây lắp số 7.
95 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
0.823
0.80
Tỷ lệ vỡ
1.015
0.969
0.985
Chỉ số tổng hợp
0.915
0.9158
0.842
Chỉ số tổng hợp = Tích các chỉ số yếu tố thành phần
· Qua số liệu của bảng trên cho ta thấy được chất lượng bi sản xuất trong tháng 3/2002 giảm đáng kể so với tiêu chuẩn kỹ thuật. Thể hiện ở lượng bi đạn phải cho vào nấu lại của Xí nghiệp Đúc là 20 tấn (khối lượng ở hợp đồng sản xuất cho công ty Xi măng Hà tiên- Kiên Giang). Chỉ số chất lượng bi đạn còn giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.
Đánh giá chất lượng tổng hợp nhiều loại bi đạn khác nhau:
Trường hợp trên chỉ đề cập tới chất lượng của một loại bi đạn, để đánh giá chất lượng tổng hợp của nhiều loại bi đạn khác nhau, công ty sử dụng thêm chỉ tiêu chất lượng của nhiều loại sản phẩm ( ở đây loại sản phẩm ứng với các loại bi đạn mà công ty sản xuất).
Sici.qi1.pi
Ic = ¾¾¾¾¾¾¾
S qi1.pi
Trong đó
Ic - Chỉ số chất lượng tổng hợp
ici - chỉ số chất lượng tổng hợp của loại bi đạn thứ i
qi1- khối lượng sản phẩm loại i kỳ báo cáo
pi - giá đơn vị sản phẩm loại i
· Ta thấy tử số của chi tiêu phản ánh giá trị của sản phẩm có tính đến chất lượng của từng loại sản phẩm. Mẫu số phản ánh giá trị của các sản phẩm không xét tới chất lượng sản phẩm. Nếu chất lượng sản phẩm nâng lên thì Ic >1; Ic = 1:chất lượng sản phẩm không thay đổi so với kỳ trước còn Ic <1 chất lượng sản phẩm giảm sút.
· Do nâng cao (hoặc giảm sút) chất lượng bi đạn làm cho doanh thu của Xí nghiệp tăng hoặc giảm một lượng tuyệt đối là:DM
DM = Sici.qi1.pi - Sqi1.pi
Sự biến động về khối lượng sản phẩm có xét đến ảnh hưởng của chất lượng sản phẩm được xác định như sau:
Về số tương đối:
SI ci.qi1.pi
I cq¾¾¾¾
SQi0.pi
Qi0: sản phẩm kỳ gốc.
Biến động về số tuyệt đối, doanh thu tăng hay giảm do chất lượng và cơ cấu sản phẩm.
DG = S ici.qi1.pi -S qi0.pi
Bằng phương pháp phân tích chất lượng như thế này công ty sẽ nắm bắt rõ hơn thực trạng chất lượng của các loại bi đạn, từ đó có giải pháp phù hợp để khắc phục. Thông qua việc áp dụng các phương pháp phân tích trên chất lượng sản phẩm Đúc của công ty ngày càng có xu hướng hoàn thiện hơn trong một số năm gần đây.
Biểu 14 : Chất lượng bi đạn thực tế đạt được
Tên chỉ tiêu chất lượng
Đvt
Mức đăng ký chất lượng
Thực tế đạt được năm trước
Thực tế đạt được năm nay
Độ hao mòn
G/tấn
150
152,5
153
Độ cứng
HRC
55 - 62
57
60
Tỷ lệ vỡ
%
2%
2,3
2,05
Dung sai kích thước
Mm
£ 2
2,1
2,05
Rỗ bề mặt
%
£ 0,5
0,7
0,48
Thành phần Cr
%
15 - 17
14- 16
14,6- 16,8
Thành phần C
%
1,8 - 2,5
1,7 - 2,6
1,8 - 2,5
Thành phần Mn
%
£ 0,6
0,62
0,6
Thành phần Si
%
£ 0,6
0,63
0,6
Thành phần P+S
%
£ 0,6
0,63
0,6
Thành phần Ni
%
0,5 - 1,0
0,7 - 1,1
0,7 - 1,0
Nguồn T.L:p KTDA.
Nhận xét: Mặc dù công tác chất lượng sản phẩm đã được chú trọng nhiều hơn ở công ty, đặc biệt là ở Xí nghiệp Đúc đối với sản phẩm bi đạn truyền thống. Trong năm qua, các chỉ tiêu kỹ thuật của sản phẩm bi đã được nâng lên rõ rệt so với năm trước; đặc biệt là các chỉ tiêu thành phần hoá học của bi đạn. Có được thành quả đó là do Xí nghiệp Đúc đã đầu tư gần 2000$ cho máy phân tích thành phần hoá học.
Xong chỉ tiêu độ hao mòn vẫn chưa thực hiện được tốt, trước hết là so với chỉ tiêu đạt được trong năm trước là 0,5g/ tấn nguyên vật liệu nghiền, còn so với chỉ tiêu kỹ thuật tăng 3g/tấn nguyên vật liệu nghiền.
III. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY.
1. Những mặt đạt được:
· Theo định hướng của Đảng, Nhà nước và Tổng Công ty Cơ khí Xây dựng Việt Nam, Công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 – COMA7 đã và đang là mét trong những doanh nghiệp hàng đầu, quy mô lớn, có những sản phẩm truyền thống cũng như có truyền thống sản xuất kinh doanh.
· Trong quá trình hoạt động, cán bộ công nhân viên của công ty đã đạt được một bề đày thành tích và kịnh nghiệm đáng khích lệ. Do vậy, Công ty đã hoà nhập tốt với cơ chế mới, từng bước nắm bắt các nhu cầu của thị trường, cải tiến máy móc thiết bị, đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân và trình độ lãnh đạo của đội ngò cán bộ quản lý.Công ty đã thành công trong công tác nâng cao chất lượng, hiện nay công ty đang dùa trên kinh nghiệm của mình để nâng cao chất lượng sản phẩm đặc biệt là sản phẩm kết cấu thép phi tiêu chuẩn để có khả năng xuất khẩu.
· Trong công tác chất lượng , công ty đã đạt được những kết quả đáng kể. Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trong công ty đã đạt được thực hiện nghiêm túc và đều đặn trên tất cả các khâu của quá trình sản xuất sản phẩm. Nhờ đó mà chất lượng sản phẩm của công ty ổn định và đang có dấu hiệu tăng trưởng, nhanh đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
· Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm được thực hiện ở nhiều cấp trong công ty; từ sự kiểm tra của công nhân trong phân xưởng, kiểm tra của bộ phận KCS ở các Xí nghiệp thành viên trong Công ty cho đến tổ KCS của toàn công ty. Công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm còn được thực hiện theo từng khâu trong quá trình sản xuất sản phẩm; từ khâu nguyên vật liệu đầu vào, công đoạn chế tạo phôi cho đến công đoạn cuối cùng là đóng gói xuất xưởng. Khi có biến động về chất lượng sản phẩm thì dễ dàng phát hiện được và có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời, góp phần hạn chế những thiệt hại về vật chất, giảm các chi phí tái chế sản phẩm, qua đó góp phần giảm giá thành sản phẩm xuất xưởng.
· Công ty sản xuất ra những mặt hàng luôn có nhu cầu cao đối với các Công ty sản xuất Xi Măng trong Tổng Công ty Xi măng Việt Nam; như Bị đạn nghiền xi măng, sản phẩm kết cấu thép – lọc bụi, băng tải Công ty đã tập hợp được một đội ngò cán bộ kỹ thuật hùng hậu. Với đội ngò này công tác kiểm tra, giám sát chất lượng sản phẩm luôn được đẩy mạnh, mang tính chuyên môn hoá cao theo từng khâu của quá trình sản xuất. Đồng thời, công tác tự chế tạo nâng cấp, sửa chữa các máy móc thiết bị được đẩy mạnh làm giảm chi phí nhưng vẫn đảm bảo các yêu cầu về chất lượng sản phẩm và nâng cao năng suất lao động.
· Còng nhờ có đội ngò cán bộ kỹ thuật mà công tác lập tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm luôn đảm bảo đổi mới, đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bộ phận thiết kế lập quy trình về mẫu mã, định mức. Hơn nữa, đội ngò cán bộ kỹ thuật của Công ty có trình độ chuyên môn tốt 10/15 cán bộ của phòng có trình độ đại học. Từ đó giúp cho công ty có cơ sở để thích nghi với những máy móc thiết bị hiện đại.
· Hệ thống thông tin về chất lượng thông qua các báo cáo chi tiết về quá trình kiểm tra chất lượng trong các khâu đã phản ánh kịp thời các thông tin làm cơ sở hoật động cho công tác quản lý chất lượng. Hệ thống thông tin đã thông suốt trong toàn Công ty, đảm bảo sự liên lạc giữa các phòng ban trong Công ty.
Một đặc điểm nổi bật thể hiện tinh thần của quản lý trong công ty là mọi người đều có trách nhiệm đối với sản phẩm do mình sản xuất ra. Khi khách hàng có phàn nàn về chất lượng sản phẩm thì có thể kiến nghị các cán bộ phòng kế hoạch kinh doanh hoặc trực tiếp cán bộ ở phòng kỹ thuật sẽ giải quyết vấn đề này.
Mặt khác, Công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002 trong sản xuất kinh doanh, đã được tổ chức quốc tế BVQI Vương quốc Anh công nhận và cấp chứng chỉ ISO 9002 cho công ty vào tháng 7 năm 2001. Đây là một thuận lợi quan trọng giúp Công ty tạo được niềm tin cho khách hàng và mở rộng thị trường; không những thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế.
Sau gần một năm, Công ty thực hiện hoạt động quản lý của mình theo các thủ tục đã được nêu ra trong hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002. Hoạt động quản lý đang từng bước đi vào nề nếp. Các thành viên trong công ty đã thấy được vai trò của hệ thống quản lý chất lượng đối với sự phát triển của Công ty mình. Song để phát huy được hiệu quả của hệ thống quản lý chất lượng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như việc nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty thì trong quá trình thực hiện Công ty gặp phải một số vướng mắc sau đây;
2. Nhược điểm:
· Thứ nhất giống như các doanh nghiệp nhà nước khác, COMA7 sau khi chuyển sang cơ chế thị trường, cũng gặp phải những khó khăn, tồn tại do ảnh hưởng của cơ chế cũ mà cần phải có thời gian mới có thể khắc phục được. Đó là hệ thống quản lý chất lượng của công ty vẫn thiên về công tác kiểm tra chất lượng; đấy mới chỉ là một bộ phận nhỏ của công tác quản lý chất lượng được nêu ra trong hệ thống quản lý chất lượng. Qua đó thể hiện sự nhận thức chưa đầy đủ về hệ thống quản lý chất lượng hiện đại dùa trên phương pháp quản lý chất lượng đồng bộ. Cách tiếp cận về quản lý chất lượng vẫn còn bó hẹp trong khâu sản xuất, coi chất lượng sản phẩm là trách nhiệm của phân xưởng, của người lao động trực tiếp và đặc biệt là của phòng kỹ thuật; nơi có tố KCS của công ty. Phó mặc công tác quản lý chất lượng cho phòng kỹ thuật. Dường như, họ luôn có một tâm niệm là thực hiện theo các thủ tục ISO 9002, việc nâng cao chất lượng sản là trách nhiệm của tổ KCS. Do vậy mà công tác quản lý chất lượng của công ty chỉ tập trung vào khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm, chưa có tác động đến các khâu khác lên hiệu quả đạt được chưa khả quan.
· Thêm vào đó là công tác tố chức lao động, tổ chức sản xuất đôi lúc còn yếu , kém do đó cũng ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất, một số công nhân chưa phát huy tốt vai trò và nghĩa vụ đối với công việc của Công ty, còn dùa dẫm vào tập thể, năng suất lao động thấp.Công tác quản lý nhiều khi còn tuỳ tiện, chưa khoa học, còn mang tính hình thức. Do đó, ảnh hưởng xấu đến khả năng sáng tạo của người lao động và kìm hãm sản xuất.
· Thứ hai là hệ thống máy móc thiết bị, nhà xưởng của công ty quá lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng. Máymóc cho sản xuất cơ khí cũ kỹ, lạc hậu (được sản xuất chủ từ những năm 60 - 70) nhiều khi không đáp ứng được chất lượng và tiến độ của các đơn hàng. Trong thời gian gần đây, Công ty có đầu tư một số máy móc thiết bị như; máy tiện CNC, hệ thống công nghệ mài của Italia, hệ thống trang thiết bị cho xưởng sơn Decor. Nhưng hệ thống trang thiết bị cũ vẫn chiếm đa số do đó nó ảnh hưởng rất lớn đến tính ổn định và đồng bộ của chất lượng sản phẩm. Đặc biệt là trong công ty hiện nay thiết bị đo lường, kiểm tra chất lượng sản phẩm còn thiếu nghiêm trọng. Điều đó ảnh hưởng xấu đến công tác kiểm tra nói riêng và công tác nâng cao chất lượng sản phẩm nói chung. Các loại máy móc, thiết bị đã qua nhiều năm sử dụng trong điều kiện thiếu phụ tùng thay thế, thiếu sự chú ý bảo dưỡng theo định kỳ nên càng bị hư háng nhanh.
· Thứ ba là yếu tố nguyên vật liệu; đây chính là yếu tố không thể thiếu được trong quá trình sản xuất, yếu tố ảnh hưởng cơ bản đến chất lượng sản phẩm. Song nếu, quá trình cung ứng vật tư, nguyên vật liệu của công ty không được cung ứng kịp thời thì chất lượng sản phẩm không biết sẽ đi đến đâu. Cung ứng nguyên vật liệu về số lượng, thời gian, chung loại ảnh hưởng xấu đến tiến độ của quá trình sản xuất. Nhiều khi chỉ vì cung ứng nguyên vật liệu không đủ dẫn đến sản xuất bị động, lúc nhanh, lúc chậm, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất sản phẩm. Do vậy, chất lượng sản phẩm cũng bị ảnh hưởng theo. Hoạt động kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu đầu vào của công ty được thực hiện thiếu tính thường xuyên, chất lượng nguyên vật liệu mua về thiếu tính đồng bộ, chất lượng không đồng đều, dẫn đến ảnh hưởng xấu đến quá trình và đặc biệt ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của công ty. Nguyên vật liệu khi mua từ ngoài về được tổ KCS kiểm tra chặt chẽ, đánh dấu, kí hiệu. Nhưng khi xuất kho ra sản xuất, việc kiểm tra nguyên vật liệu chỉ ro công nhân đi lĩnh đảm nhận, chủ yếu thực hiện bằng cảm quan. Cán bộ kho chỉ có trách nhiệm thông kê số lượng nhập, xuất, tồn mà không có cán bộ KCS thường trực. Đây là nhược điểm rất lớn tồn tại trong công ty cần có sự điều chỉnh trong thời gian tới.
· Thứ tư là trong công tác quản lý kỹ thuật, quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty còn bộc lé nhiều nhược điểm. Mặc dù đã có cán bộ chuyên trách nhưng trong công tác giám sát kiểm tra, thực hiện vẫn còn thiếu sót, tuỳ tiện nên hiện tượng sản phẩm háng vẫn đưa đi giao cho khách hàng. Nhiều khi sản phẩm lầm đi làm lại, sai thiết kế do công tác kiểm tra các công đoạn không đực tiến hành thường xuyên, không nghiêm túc gây lãng phí cho Công ty rất nhiều: như hàng Gang cho Công ty Cơ khí điệnThuỷ Lợi, hàng bơm cho Xí nghiệp Thuỷ lợi, sản phẩm cho cao su sao vàng, hàng tấm lót khuôn, Thép Inox cho Công ty máy và thiết bị Kim Sơn, hàng Bơm cho Công ty xi măng Hà Tiên...
Mặc dù, Công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002 nhưng phối hợp giữa các phòng ban trong Công ty, phân xưởng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm còn chưa được phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ chủ yếu tập trung vào phòng kỹ thuật dự án. Công tác quản lý chất lượng chủ yếu tập trung vào khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng, việc nghiên cứu Ýt được chú ý đến. Bởi vì, các sản phẩm của công ty chủ yếu được sản xuất theo các đơn đặt hàng. Lực lượng lao động của công ty có trình độ không đồng đều, ý thức trách nhiệm chưa cao gây ra sản phẩm háng ở Xí nghiệp Đúc. Sản phẩm phải làm đi lầm lại nhiều lần ở Xí nghiệp Kết Cấu thép và Xây lắp, dấn đến làm tăng giá thành, giảm năng suất.
3. Nguyên nhân của những tồn tại:
· Để công ty có thể đi lên trong cơ chế thị trường thì điều quan trọng là công ty phảibiết tận dụng và khai thác mọi thế mạnh của mình, cũng như phát hiện ra được điểm yếu, những vướng mắc còn tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Trên cơ sở đó, Công ty phải phân tích, đánh giá và tìm ra những nguyên nhân cơ bản nhất thiết thực nhất gây ra những tồn tại để từ đó có những biện pháp tối ưu để khắc phục. Dưới đây là những nguyên nhân cơ bản nhất gây ra những tồn tại đối với chất lượng sản phẩm, cũng như công tác quản lý chất lượng sản phẩm ở công ty Cơ khí và Xây lắp số 7.
3.1 Nguyên nhân khách quan:
Trong quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường một cách nhanh chóng, những nếp nghĩ và nề lối làm việc trong cơ chế kế hoạch tập trung không thay đổi kịp. Bản thân người công nhân chưa quan niệm rằng chất lượng sản phẩm cũng như quản lý chất lượng nói chung là quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Mặt khác, ngành cơ khí nói chung gặp nhiều khó khăn, tình trạng thua lỗ kéo dài. Tính cạnh tranh trên thị trường của ngành Cơ khí, không gay gắt như một số ngành khác như: may mặc, giầy dép. Do đó thiếu sự trợ giúp của Đảng và Chính phủ trong công tác đầu tư vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh hơn các ngành khác. Chính vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành Cơ khí nói chung và của Công ty nói riêng không đạt hiệu quả cao. Không thu hồi đủ vốn đầu tư, để có thể tái sản xuất mở rộng, đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị càng lạc hậu.
Các thị trường đầu vào cho ở nước ta phát triển chậm như; thị trường vốn, thị trường lao động cho nên dẫn đến tình trạng các công ty thiếu lao động giỏi, thiếu nguồn lực về tài chính. Cơ chế vốn và hoạt động của Ngân hàng còn nhiều yếu kém làm cho việc huy động vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, do sù suy thoái của nền kinh tế Mỹ đã ảnh hưởng xấu đến các lĩnh vực kinh tế trong đó ngành Cơ khí.
3.2 Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân đầu tiên phải nói đến là máy móc thiết bị của công ty lạc hậu, cũ kỹ, không đồng bộ.Với trang thiết bị như vậy thì không thể nào sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được sự thay đổi nhu cầu nhanh chóng của các đối tác, trong thời đại ngày nay. Tuy gần đây, công ty có đầu tư thêm trang thiết bị nhưng cũng chỉ là chắp vá.
Thêm vào đó, quá trình tổ chức sản xuất của công ty không thật hợp lý. Sản phẩm phải qua nhiều công đoạn nhưng giữa những công đoạn này không liên hoàn, không tạo thành dây chuyền, việc bố trí phân xưởng quá bất hợp lý. Sản phẩm di chuyển vòng vo làm gián đoạn quá trình sản xuất. Do đó, giá thành sản phẩm tăng lên, làm giảm khả năng cạnh tranh về giá. Nguyên vật liệu đầu vào không ổn đinh cả về số lượng và chất lượng.
Ngoài ra còn do công ty chưa có biện pháp để công nhân tự giác làm việc, tự giác nâng cao chất lượng sản phẩm. Một phần do nhân thức của cán bộ, công nhân viên chưa thật rõ ràng. họ vẫn mơ hồ về khái niệm chất lượng và quản lý chất lượng; mặc dù công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002. Thêm vào đó, cán bộ KCS kiểm tra sản phẩm cuối cùng thì cũng không giải quyết gì được nhiều, sản phẩm háng thì đã háng rồi. Hơn nữa, trình độ của họ cũng hạn chế, dụng cụ kiểm tra thì thiếu cho nên sản phẩm lỗi dễ dàng được chấp nhận. Đồng thời là sự thiếu tự giác của công nhân và cán bộ. Công nhân biết sản phẩm háng nhưng vẫn cứ làm còn cán bộ KCS biết sản phẩm háng nhưng vẫn cứ làm ngơ.
Nói tóm lại, lỗi về chất lượng phần lớn thuộc về nhà quản lý. Lãnh đạo, bộ máy quản lý mà không chịu thay đổi tư duy về chất lượng và quản lý chất lượng. áp dụng ISO như là một cái mốt không chịu cải tiến, đổi mới nâng lên những tầm cao hơn. Duy trì hệ thống quản lý lạc hậu, với các phòng ban cồng kềnh, chỉ tập trung đến kiểm tra khắc phục chứ không quan tâm đến phòng ngõa. Như vâỵ, chất lượng sản phẩm liệu có nâng cao được hay không.
PHẦN III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM Ở CÔNG TY CƠ KHÍ VÀ XÂY LẮP SỐ 7
I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ KẾ HOẠCH NĂM 2002
1. Phương hướng chung của Công ty
Với định hướng là mở rộng đa dạng hoá ngành nghề sản xuất kinh doanh đặc biệt, mở rộng sang lĩnh vực xây lắp; Coi trong sản xuất sản phẩm cơ khí truyền thống. Đẩy mạnh đầu tư trong năm 2002 và những năm tiếp theo, tập thể lãnh đạo Công ty đã đề ra những biện pháp thực hiện sau:
- Tranh thủ sự quan tâm chỉ đạo và sự ủng hộ giúp đỡ của lãnh đạo Tổng công ty CKXD cững như sự hợp tác chặt chẽ, có hiệu quả với các công ty thành viên.
- Tích cực, chủ động khai thác tìm kiếm việc làm ở các nhà máy Xi măng. Trung ương và địa phương như sản xuất bi đạn, phụ tùng vật liệu xây dựng, phụ tùng xi măng, các sản phẩm kết cấu thép. Duy trì mối quan hệ truyền thống như Công ty Xi măng Hà Tiên II, Công ty Xi măng Bỉm Sơn, đảm bảo chất lượng, tiến độ đơn hàng do Tổng công ty giao. Về xây lắp tập trung khai thác các công trình thuộc ngành điện, ngành dệt, may.
- Tổ chức thực hiện sản xuất, nhất là lĩnh vực xây lắp cần bổ xung hoàn thiện để đủ mạnh đáp ứng với các công trình đã khai thác được, cần tuyển dụng thêm lao động: cán bộ, công nhân kỹ thuật, lao động chuyên ngành cầu đường, thuỷ lợi, điện có tay nghề khá dưới mọi hình thức hợp đồng lao động. Bổ xung thiết bị chuyên ngành đặc biệt là thiết bị xây dựng, điện, nước. Bổ xung và điều chỉnh chính sách, quy chế quản lý tài chính trong công ty, các đơn vị thành viên cho phù hợp hơn với cơ chế quản lý mới.
- Tổ chức thực hiện hoàn thiện, duy trì và giữ vững hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế đã được công nhân và cấp và cấp chứng chỉ thông việc tổ chức đánh giá nội bộ theo kế hoạch. Nhất là việc hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng tới từng người lao động, đồng thời áp dụng thực hiện sang các lĩnh vực Đúc, gia công cơ khí và xây lắp.
- Thực hiện kế hoạch đầu tư giai đoạn 2001 - 2005 theo nghị quyết hội nghị lần III của hội đồng quản trị Tổng công ty. Nhanh chóng đưa dây truyền sơn và trang trí trên thanh nhôm định hình và nhôm tấm vào hoạt động cuối quý 2/ 2002. Đầu tư thêm dây truyền sản xuất van, tê, cút: Đầu tư các máy gia công cơ khí cỡ trung như máy tiện đứng hai trụ, máy lăn răng. Để tạo điều kiện cho công ty sang lĩnh vực sán xuất hàng hoá, khai thác thị trường ở các nhà máy Xi măng về các mặt hàng phụ tùng xi măng, tạo thêm doanh thu cho công ty, thêm việc làm cho người lao động. Đồng thời tổ chức thực hiện dự án xây dựng nhà điều hành giới thiệu sản phẩm và cho thuê của COMA 7 để tạo điều kiện kinh doanh cho thuê và tạo điều kiện tiếp thi tìm việc làm thiết bị xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho công ty, đáp ứng nhu cầu cạnh tranh của công ty trên thương trường.
- Các công trình dự kiến thực hiện năm 2002: Tiếp tục hoàn thiện các công trình dở dang của năm 2001 như: Kết cấu lọc bôi Thổ Nhĩ Kỳ ( 2,4 tỷ), kết cấu thép Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn ( 1,5 tỷ ); Nhà điều dương Sầm Sơn Thanh Hoá (7,5 tỷ); Nhà điều dưỡng COMA3 (4,25 tỷ); Nhà truyền thống Huyện Thanh Trì (1,89 tỷ); Cải tạo nâng cấp trường dạy nghề Đông Anh (2,15 tỷ); Đường điện Yên Bái- lô 38 (2,6 tỷ), và các công trình khác.
- Đi đôi với sản xuất kinh doanh Công ty cần tăng cường công tác chăm lo đến đời sống và bảo vệ sức khoẻ cho người lao động, đặc biệt là công tác kiểm tra và thực hiện các chế độ của người lao động, của các đơn vị thành viên để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong điều kiện các đơn vị thành viên tự hạch toán.
- Mặt khác Công ty cần mở rộng mối quan hệ với các địa phương, đơn vị trong địa bàn huyện, thành phố để tạo liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh khai thác nguồn lực và việc làm ở địa phương nơi đơn vị đóng quân.
- Đi sâu và tăng cường công tác xã hội đời sống để Công ty phát triển toàn diện. Người lao động cần gắn bó với Công ty cũng là tạo thêm sức mạnh nội lực của Công ty.
2. Phương hướng về quản lý chất lượng.
- Phấn đấu đạt được chứng chỉ ISO 9000: 2000 dùa trên sự chuyển đổi hệ thống thủ tục ISO 9002: 1994 mà Công ty đã áp dụng.
- Nâng cao nhân thức của mọi thành viên trong công ty về lợi Ých của hệ thống quản lý chất lượng.
- Thực hiện thành công một dự án chế tạo, lắp dựng kết cấu thép phi tiêu chuẩn đạt chất lượng cao, đáp ứng các yêu cầu của khách hàng theo thủ tục hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002.
- Thực hiện thành công một dự án chế tạo sản phẩm cơ khí xuất khẩu đạt chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
- Tiếp tục tiến hành đào tạo về hệ thống quản lý chất lượng cho 100% các cán bộ, công nhân trực tiếp tham gia vào các dự án, công trình.
· Nâng cao chất lượng sản phẩm luôn là mối quan tâm của tất cả các doanh nghiệp. Chỉ có nâng cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường.
· Song thực tế hiện nay, nâng cao chất lượng sản phẩm là một vấn đề khó khăn. Bởi vì, ngành Cơ khí là mặt hàng có tính cạnh tranh kém, chủ yếu vẫn là những mặt hàng truyền thống trong thời kỳ bao cấp, khả năng thay đổi mặt hàng chưa cao.
Qua đánh giá tình hình hoạt động và việc nhìn nhận những khó khăn và thuận lợi của COMA 7 tôi xin đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty.
II. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM.
1. Nâng cao nhận thức về vai trò của chất lượng và quản lý chất lượng trong mọi hoạt động của Công ty
Hoạt động sản xuất được thực hiện nhờ sự kết hợp của ba nhân tố: Con người, công cụ sản xuất và đối tượng lao động. Trong đó, con người là nhântố quan trọng nhất, có tính sáng tạo và cơ động nhất. Do vậy, thực chất của quản trị nói chung và quản lý chất lượng nói riêng chính là quản lý con người. Qua đó, cho chóng ta thấy nhận thức của các nhân viên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp. Do đó, để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả quản lý chất lượng trong công ty thì cần mọi thành viên trong doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa nhận thức và tích cức tham gia vào công tác quản lý chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Từ thực trạng trên, việc đầu tiên mà ban lãnh đạo công ty cần phải có phương hướng giải quyết là vấn đề nâng cao nhận thức của cán bộ, công nhân viên trong Công ty về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm.
Các công việc cụ thể của giải pháp này là:
Đối với công tác đào tạo, Ban lãnh đạo Công ty cần phải coi như yếu tố quan trọng bậc nhất trong đổi mới quản trị chất lượng và từ đó góp phần đẩy mạnh nâng cao chất lượng sản phẩm. Đào tạo lại, đầo tao mới, bổ sung, nâng cao, Công ty thường xuyên phải tiến hành công tác đào tạo về chất lượng và quản lý chất lượng cho mọi người từ đội ngò lãnh đạo cho đến người lao động làm việc trong các phòng ban và trực tiếp trong các phân xưởng. Qua trình đổi mới từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường cần có sự đổi mới cả những thãi quen, tập quán cũ, phương thức làm việc, phương pháp quản lý ở mọi khâu, mọi cấp. Đây là một công việc quan trọng nhưng cũng rất phức tạp, không thể giải quyết trong thời gian ngắn, do đó phải tiến hành một cách thương xuyên.
Đào tạo là phương pháp để thực hiện các công việc một cách có khoa học nhưng đào tạo như thế nào để đem lại hiệu quả cao, lại là một công việc không phẩi dễ. Công ty nên tập trung đào tạo ở một số khâu sau:
Đào tạo cán bộ quản lý:
Cán bộ quản lý chất lượng là một bộ phận gián tiếp trong việc tạo sản phẩm nhưng lại có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Theo các chuyên gia hàng đầi về chất lượng thì 80% những sai sót, nguyên nhân thuộc về cán bộ quản lý. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì bất cứ quá trình sản xuất nào cũng phụ thuộc vào công tác kế hoạch và tố chức thực hiện. Nếu người công nhân mắc lỗi thì hậu quả chỉ có một số sản phẩm háng, còn như một kế hoạch bị định sai, bản thiết kế không theo đúng quy cách sẽ dẫn tới cả lô hàng bị háng. Do vậy, cán bộ quản lý phải có trình độ và am hiểu công việc của mình cũng như của các bộ phận có liên quan.
Đào tạo về quản lý là công việc thường xuyên trong công ty. Hiện nay,công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002. Cho nên, việc đào tạo về kiến thức, áp dụng các quy trình, thủ tục công ty cần tiến hành đào tạo ở cấp cao hơn về cách thức quản lý cho cán bộ chủ chốt và dần dần phổ biến phương thức quản lý này cho toàn bộ cán bộ, công nhân viên. Công tác đào tạo phải gắn liền với thực công ty để quản lý có thể áp dụng kiến thức của mình vào việc tổ chức thực hiện và cải tiến công việc. Người cán bộ quản lý còn có khả năng quyết đoán, truyền đạt kiến thức, trực tiếp đào tạo và tuyển mộ công nhân.
Đào tạo công nhân viên:
Có thể nói trình độ tay nghề của công nhân viên trong công ty còn chưa đáp ứng được nhu cầu của dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ tiên tiến. Sản phẩm lầm ra không thể có chất lượng tốt nếu không có một đội ngò công nhân có tay nghề cao am hiểu công nghệ sử dụng. Việc đào tạo công nhân mới, nâng cao trình độ của công nhân cũ là cơ sở để nâng cao chất lượng và tăng năng suất sản xuất. Ngoài ra cũng cần định kỳ tổ chức các cuộc kiểm tra và có kế hoạch cụ thể để nâng cao bậc, trình độ chuyên môn cho công nhân lâu năm.
Công tác quản lý chất lượng theo mô hình ISO 9000 có yêu cầu rất cao đối với công nhân về sự am hiểu của họ. Theo yêu cầu thì người công nhân phải hiểu rõ công việc họ làm và nhận thức được rằng; công đoạn tiếp theo của quá trình sản xuất là khách hàng của họ và giai đoạn sau là nhà cung ứng của mình.
Điều đó có nghĩa là người công nhân phải có trách nhiệm trong công đoạn của mình để sản xuất ra thành phẩm không có lỗi. Tất cả cá công đoạn đều được thực hiện tốt thì sản phẩm cuối cùng sẽ có chất lượng tốt, đáp ứng được nhu cầu của bên đối tác hay khách hàng của công ty.
Để công tác đào tạo có hiệu quả thì Công ty cần:
Tạo ra một môi trường thuận lợi, thoải mái cho công người lao động.
Tổ chức thực hiện tuyên truyền để mọi người am hiểu chính sách chất lượng của Công ty.
Đào tạo một cách khoa học, dễ hiểu để mọi người cùng thựchiện.
Tập trung vào các khâu như phòng ngõa, phát hiện nguyên nhân, các phương pháp cải tiến.
Hình thức và nội dung đào tạo chung cho Công ty có thể lùa chọn là:
Cử cán bộ chủ chốt đi học các líp đào tạo về quản lý chất lượng, các cuộc hội thảo chất lượng ở các Viện và các Trung tâm.
Tổ chức các líp đào tạo lại cán bộ với sự giảng dạy của các chuyên gia bên ngoài.
Tuyển các cán bộ về quản lý chất lượng đã được đào tạo ở các trường đại học vào làm công tác quản lý chất lượng.
Thường xuyên tố chức các cuộc kiểm tra đánh giá về chất lượng sản phẩm.
Công tác đào tạo cần phải tiến hành cùng với các biện pháp khen thưởng, khuyến khích thi đua và bắt buộc. Chế độ thưởng của công ty trước đây được thể hiện ở biểu sau:
Biểu 16: Hệ số khen thưởng.
Loại
A
B
C
KK
Hệ số của COMA 7
1.2
1.0
0.8
0.24
Hệ số của Bộ lao động
1
0.7
0.4
0.12
Nguồn: p.TCLĐTL Nguån: p.TCL§TL
Phải cho mọi người thấy công tác đào tạo không chỉ mang lại lợi Ých cho công ty mà còn mang lại lợi Ých cho bản thân người lao động. Qua biểu trên cho thấy hệ số khen thưởng của Công ty cao hệ số chung của Bộ lao đông. Điều này sẽ khuyến khích vật chất cho người lao động vì cùng xếp một bậc lao động nhưng được thưởng nhiều hơn do nhân hệ số khen thưởng cao hơn khuyến khích người lao động tích cực hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, theo hệ số quy định của Bộ lao động thì chênh lệch giữa các mức khen thưởng với nhau là rất rõ ràng, đều bằng 0.3: còn hệ số của Công ty thì chênh lệch giữa các ,mức khen thưởng chỉ là 0.2. Như vậy, người lao động sẽ không thấy rõ được sự chênh lệch giữa các mức khen thưởng và sẽ không khuyến khích họ phải cố gắng lên mức khen thưởng cao hơn.
Để tạo động lực cho người lao động thực hiện tốt chất lượng, Công ty nên đIều chỉnh lại mức chênh lệch giữa các loại khen thưởng, có thể là như sau:
Biểu 17: Bảng đề nghị điều chỉnh hệ số khen thưởng
Loại
A
B
C
Kế hoạch
Hệ số điều chỉnh
1.2
0.9
0.6
0.2
Hệ số của Bộ lao động
1.0
0.7
0.4
0.24
Khi có khoảng cách giữa các mức thưởng sẽ được kéo ra xa hơn. Người lao động càng nhận thức rõ sự khác biệt và càng phải phấn đấu hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được giao.
Đồng thời với các biện pháp trên, Công ty phải tiến hành công tác đào tạo lại cho công nhân. Trình độ tay nghề của công nhân sản xuất và đội ngò kỹ thuật của Công ty cần được nâng cao hơn nữa. Công nhân là người trực tiếp sản xuất, ngay cả khi sản xuất tự động hoá toàn bộ thì máy móc vẫn chịu sự chi phối của con người điều hành nó. Muốn cho các sản phẩm đạt tiêu chuẩn thiết kế thì Công ty phải luôn luôn chú trọng đến trình độ và năng lực của họ. Để thực hiện công việc này, Công ty có thể áp dụng nhiều hình thức khác nhau như:
Mở líp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kỹ thuật ngắn hạn ngay tại Công ty do các chuyên viên đảm nhiệm, đặc biệt đối với 22 công nhân chưa qua đào tạo.
Huấn luyện kỹ sư, công nhân đúc rút kinh nghiệm kỹ thuật cao ngay trong quá trình sản xuất, chuyển hoá về chiều sâu thợ bậc 5/7, 6/7 lên bậc thợ 7/7.
Cử nhân viên kỹ thuật đi học ở trình độ cao hơn: vấn đề này hiện nay Công ty còn đang rất hạn chế thực hiện. Đây là một nhược điểm của Công ty cần được khắc phục vì nếu trình độ của người lao động không được nâng, lên thì sẽ không bao giê theo kịp được sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuậtlà lực đẩy vô cùng quan trọng để tạo nên sản phẩm chất lượng cao.
Thường xuyên tố chức các cuộc thi tay nghề giỏi, nâng cấp , nâng bậc cho người lao động, phát động phong trào: “ một ngày làm việc không phế phẩm” , “ mét ca sản xuất không tái chế”.
Đối với cán bộ quản lý, Công ty mới chỉ thông kê về mặt trình độ thông qua bằng cấp chứ chưa tiến hành phân loại theo trình độ chuyên môn: giỏi, khá, trung bình và yếu kém. Việc phân loại theo trình độ chuyên môn có ý nghĩa rất quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ. Ngoài ra để khuyến khích đội ngò cán bộ phát huy hết tài năng sáng tạo trong chuyên môn. Công ty cần có các biện pháp thưởng bằng vật chất, lên lương trước thời hạn cho sự phát triển của Công ty, đề bạt đúng người vào vị trí lãnh đạo, có biện pháp xử lý thoả đáng với những cán bộ không đảm nhận được công việc, không có chuyên môn bằng cách bố trí công việc khác phù hợp hơn.
Nếu Công ty thực hiện tốt công tác này thì 22 công nhân chưa qua đào tạo sẽ nắm vững được trình độ chuyên môn để vận hành máy móc thiết bị. Đồng thời với những kinh nghiệmlàm việc sẵn có, chắc chắn sẽ giảm bớt được sai háng trong quá trình sản xuất. Kết quả là toàn bé cán bộ, công nhân viên của Công ty đã được qua đào tạo dù bằng bất cứ giá nào và số lượng công nhân bậc 7/7 được đào tạo chuyên sâu sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công nhân tay nghề kém.
Hỗ trợ kinh phí đào tạo cho những cán bộ, công nhân viên trẻ và có nhu cầu nâng cao trình độ. Đây là môt vấn đề Công ty chưa thực hiện được tốt, nguồn kinh phí chi cho đào tạo của Công ty còn hạn hẹp.
Biểu 18: Kinh phí đào tạo và nghiên cứu khoa học của COMA 7
Chỉ tiêu
Đơn vị
1999
2000
2001
2002 (KH)
1. Đào tạo
- Sè lượng học viên đào tạo
Người
8
10
15
40
- Kinh phí đào tạo
Tr.đ
1
2
3
28
2. Nghiên cứu khoa học
Qua biểu trên ta thấy, kinh phí cho đàp tạo của Công ty đã tăng lên. Nhưng Công ty chưa chú tâm đến công tác thí nghiệm trước sản xuất và đầu tư nghiên cứu khoa học. Còn trong công tác đào tạo đã thấy rõ sự quan tâm của đội ngò lãnh đạo đối với lực lượng lao động cũng như cán bộ quản lý trong Công ty. Với những công nhân có nhu cầu đi học đại học, cao đẳng Công ty cần hướng họ theo những ngành nghề mà công ty đang còn thiếu hoặc sẽ cần đến trong tương lai. Ngoài ra, Công ty có thể hỗ trợ một phần kinh phí để đảm bảo cho họ yên tâm công tác cũng như là học tập. Với đối tượng được bố trí theo học những líp mang tính chất nâng cao, thì công ty có thể hỗ trợ toàn bộ kinh phí. Thông qua đó, người được cử đi học sẽ gắn bó hơn với Công ty. Tuy nhiên, công việc này cần phải được tiến hành chu đáo và đảm bảo công bằng hiệu quả. Muốn như vậy lãnh đạo công ty cần giải quyết một số vấn đề sau:
Xác định vị trí cồng tác nào quan trọng nhất hoặc yếu kém nhất cần phải được đảm đương bởi những người có khả năng.
Thông báo rộng rãi tới toàn thể Công ty, tiến hành đánh giá, lùa chọn những cá nhân có triển vọng và cử đi đào tạo.
Sau khoá đào tạo tiến hành đánh giá, sát hạch thực tế. Nếu người được cử đi đảm bảo yêu cầu thì mới quyết định chính thức giao việc và đIều chỉnh mức lương thích hợp. Ngược lại nhất quyết không được thăng chức cho những người không có khả năng thực tế.
Ngoài ra, đối tượng tuyển dụng chủ yếu là con em đã từng công tác và cống hiến cho Công ty. Xét trên khía cạnh nào đó thì cách thức này có một số ưu điểm là gắn bó ngưòi công nhân với Công ty, lao động mới có thể nhanh chóng hoà đồng vào guồng quay củaCông ty do họ được líp người tiền thân đi trước truyền đạt kinh nghiệm và cổ vũ, đông viên. Nhưng cách thức này lại hạn chế sự lưa chọn cho lãnh đạo Công ty bá qua cơ hội tìm được những nhân viên giỏi từ nguồn bên ngoài. Cho nên, Công ty cần mở rộng phạm vi tuyển dụng hơn, xây dựng các kế hoạch nhân sự chính xác và khoa học.
Với biện pháp này cơ cấu cũng như chất lượng lao động của Công ty luôn luôn thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện với mục tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm.
2. Tiếp tục duy trì, đổi mới, cải tiến công nghệ có sẵn kết hợp với áp dụng những tiến bộ khoa học trong ngành cơ khí.
Thực trạng của Công ty là một số máy móc thiết bị đã quá lâu, của Trung Quốc từ những năm 60 –70 của thế kỷ XX. Những máy này chất lượng hiện nay đã giảm, còn khoảng từ 65 – 70% gây ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm mà Công ty sản xuất ra. Ngoài ra, máy móc của Công ty không có sự đồng bộ giữa các Xí nghiệp thành viên của Công ty, giữa các bộ phận giữa các khâu trong quá trình sản xuất. Do đó dẫn đến ứ đọng nhiều sản phẩm dở dang, nếu không bảo quản tốt sản phẩm sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cuối cùng.
Hiện nay, máy móc, thiết bị của Xí nghiệp Cơ khí còn lạc hậu so với các Xí nghiệp thành viên trong công ty, và còn lỗi thời hơn nữa khi so sánh với công nghệ của các Xí nghiệp của công ty cùng ngành như Nhà máy Cơ khí Hà nội.
Ngoài ra, công nghệ nấu thép của Xí nghiệp đúc đã cũ, không đảm bảo an toàn cho khâu sản xuất đặc biệt là khâu rót thép vào khuôn vẫn còn thủ công, công nhân trực tiếp thực hiện. Cho nên, số lượng công nhân bị lao phổi tại Xí nghiệp Đúc chiếm đa số công nhân mắc bệnh trong Công ty.
Vì nguồn vốn của công ty không nhiều, chủ yếu là nguồn vốn ngân sách, mà công nghệ tiên tiến phục vụ cho sản xuất của ngành cơ khí; Đặc biệt như trang thiết bị phục vụ sản xuất sản phẳm kết cấu thép phi tiêu chuẩn là rất lớn. Như máy cổng trục, cẩu trục để nâng các sản phẩm kết cấu thép, hiện nay công ty vẫn phải đi thuê. Xét một cách tổng thể thì hệ thống máy móc thiết bị của công ty đang trong thời kỳ xuống cấp nghiêm trọng.
Cho nên, vấn đề đặt ra là đầu tư vào khâu nào là hợp lý đối với công ty hiện nay. Vì trong một quá trình sản xuất các khâu sản xuất luôn phải được tiến hành liên hoàn thì mới đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Đối với hoạt động sản xuất kết cấu thép đóng vai trò quan trọng, đóng góp phần lớn vào doanh thu của công ty. Công ty cần có các biện pháp để nâng cao năng lực công nghệ vào lĩnh vực này. công ty có thể thực hiện theo những phương sau:
· Tiếp tục duy trì các thiết bị đã có của công ty như cẩu trục, máy hàn một chiều, máy hàn tự động..
· Để giải quyết những khó khăn về vốn công ty cần tiếp tục tự trang bị máy móc thiết bị phục vụ sản xuất cải tiến kỹ thuật.
· Lãnh đạo của công ty cần phải khuyến khích được công nhân trong công ty hay ở các Xí nghiệp thành viên tích cực có những sáng kiến trong cải tiến, đổi mới trang thiết bị. Trong năm vừa qua, tập thể cán bộ công nhân viên của công ty đã có 23 người với 47 sáng kiến trong sản xuất, làm lợi cho công ty 60 triệu đồng và công ty đã trích tiền thưởng sáng kiến cho 23 người là 3.030.000. Càng chứng tỏ cán bộ công nhân của công ty giàu tính sáng tạo.
· Với những lĩnh vực như đúc thép, đúc gang, gia công cắt gọt năng lực thiết bị vẫn còn khả năng khai thác công ty cần hỗ trợ chi phí bảo dưỡng , kết hợp với khai thác việc làm để cho các Xí nghiệp có thu nhập để có khả năng đầu tư vào các công nghệ mang tính chuyên sâu hơn. Như Xí nghiệp đúc có thể đầu tư hệ thống lò nấu tốt hơn, thiết bị đo lường định chuẩn thành phần hoá học.
· Với xí nghiệp cơ khí thì cần tăng cường các thiết bị điều khiển tự động, hay có tính tự động hoá cao như: Máy CNC, CN trong các khâu gia công cơ khí như tiện , doa, cắt gọt kim loại. Nguồn vốn có thể trích ra từ nguồn đầu tư xây dựng cơ bản.
Mọi doanh nghiệp tham gia trên thị trường, hiện nay đều thấy rõ khả năng cạnh tranh của năng lực công nghệ trong sản xuất sản phẩm, cũng như trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Quan hệ giữa máy móc và con là mối quan hệ hai chiều. Có những con người giỏi nhưng công nghệ tồi tàn, lạc hậu thì cũng khó mà nâng cao được chất lượng sản phẩm.
Ngoài biện pháp duy trì, cải tiến máy móc cũ công ty cần tích cực đầu tư công nghệ mới phục vụ cho sản xuất trước mắt và cho sự phát triển trong tương lại. công ty đã có những ý tưởng mới và kinh phí dành cho đầu tư phát triển công nghệ của công ty cũng được tăng lên..
3. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng ở mọi khâu, mọi công đoạn của quá trình sản xuất theo thủ tục của hệ thống QLCL ISO 9000: 2000
Với đặc điểm của quá trình sản xuất tương đối dài và phức tạp, người lao động chưa nhân thức rõ vai trò của chất lượng và quản lý chất lượng. Mặt khác, cán bộ, công nhân viên chưa tự giác trông công việc của mình Công ty cần áp dụng phương pháp kiểm tra chất lượng trên tất cả câc công đoạn của quá trình sản xuất để đảm bảo chất lượng sản phẩm , đáp ứng được nhu cầu của khách hàng truyền thông, cũng như những bạn hàng mới của Công ty. Biện pháp này đã đang được thực hiện ở Công ty, đã phân rõ trách nhiệm kiểm tra chất lượng sản phẩm cho tổ KCS và toàn thể phòng kỹ thuật nói chung. Cán bộ của phòng kỹ thuật, và chủ yếu là tổ KCS luôn có mặt ở các phân xưởng, ngoài trời trực tiếp kiểm tra. Ngoài những tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm ở mỗi công đoạn theo quy định của Bộ tiêu chuẩn ISO, Công ty còn cố gắng đảm bảo các yêu cầu của bạn hàng. Bởi vì, với mỗi một hợp đồng sản xuất sản phẩm thì bên đối tác đều có cán bộ trực tiếp kiểm tra chất lượng , xem sản phẩm có được đảm bảo trong từng khâu của quá trình sản xuất. Với sản phẩm kết cấu thép, hoặc thép phi tiêu chuẩn thì Công ty đều có cán bộ KCS kiểm tra theo từng công đoạn cụ thể như sau và đều phải đảm bảo những yêu cầu đã được nêu ra trong hệ thống quản lý chất lượng.
Kiểm tra quá trình cung ứng vật tư.
Kiểm tra công đoạn chuẩn bị phôi.
Kiểm tra công đoạn gia công cơ khí.
Kiểm tra công đoạn gá hàn.
Kiểm tra công đoạn hàn sản phẩm.
Kiểm tra công đoạn làm sạch trước khi sơn mạ.
Kiểm tra tổng hợp sản phẩm và lập biên bản nghiệm thu xuất xưởng.
Kiểm tra đóng gói.
Từ những thuận lợi trên, Công ty cần quán triệt hơn nữa quy trình kiểm tra chất lượng sản phẩm. Đặc biệt đối với những sản phẩm Đúc; như đúc bi đạn các loại thì Công ty cần bổ sung kiểm tra chặt chẽ khâu pha chế thành phần hoá học của các loại bi đạn. Bởi vì, thành phần hoá hoc của các loại bi đạn ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Do đó, Công ty cần phảI có một chiến lược kiểm tra các công đoận của quá trình sản xuất. Nội dung của công tác công ty cần có một số cải tiến như sau:
Trước tiên, Công ty cần phải phân rõ trách nhiệm, chức năng nhiệm vụ đối với từng công đoạn của quá trình sản xuất. Kết hợp với sự hướng dẫn những người sản xuất sản phẩm, trực tiếp ở từng công đoạn và chủ yếu là trách nhiệm của cán bộ phòng kỹ thuât, đăc biệt là tổ KCS và Các cán bộ KCS ở các Xí nghiệp thành viên. Nếu sự phân công càng chặt chẽ càng tránh được bộ phận thì có quá nhiều cán bộ kiểm tra, bộ phận thì chẳng có ai kiểm tra và giải quyết khi có các trục trặc xảy ra. Nhìn một cách tổng thể thì tổ KCS kiểm tra về mặt sản phẩm còn cán bộ còn lại của phòng kỹ thuật công nghệ chịu trách nhiệm về máy móc thiết bị. Khi đã có sự phân công chi tiết, cụ thể thì cán bộ kỹ thuật phải có nhiệm vụ:
Kiểm tra thường xuyên trên các công đoạn, các khâu của quá trình sản xuất mà mình được phân công.
Phát hiện các yếu tố làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, tiến hành phân tích và phân tích. Đây mới là ý nghĩa thiết thực của kiểm tra. Bởi vì, kiểm tra sẽ chẳng làm chất lượng sản phẩm tốt hơn mà còn làm tăng áp lực về phía người công nhân. Kiểm tra cần phải gắn liền với công việc giải quyết các yếu tố ảnh hưởng đến sự sai háng của sản phẩm, nếu cán bộ được phân công không có khả năng giải quyết thì phải thông tin ngược về tổ KCS ở phòng kỹ thuật dự án.
Kiểm tra không có nghĩa là cứ phải tìm ra một sự sai háng nào đó; điều này thật vô lý, mà qua việc kiểm tra cán bộ phải ghi nhận các kết quả đạt được trong khu vực của mình kiểm soát. Từ đó phổ biến kinh nghiệm cho toàn bộ Công ty phải là như thế nào để sản phẩm đạt chất lượng cao.
Để thực hiện giải pháp này có hiệu quả Công ty cần đào tạo và bổ sung thêm cán bộ và công nhân kiểm tra chất lượng cho tổ KCS. Bởi vì cán bộ của tổ KCS của Công ty chỉ có 3 người trực tiếp có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát mọi công đoạn của quá trình sản xuất trong toàn công ty, cũng như dưới các Xí nghiệp, đội thành viên.
Với lượng cán bộ chuyên trách của công ty về quản lý chất lượng là chưa có, tất cả nhiệm vụ về quản lý chất lượng đang được tổ KCS của công ty gánh vác. Đâylà công việc rất khó khăn nó có ảnh hưởng mang tính quyết định đến chất lượng sản phẩm.
Tổ KCS trình độ chuyên môn thì không được nâng cao còn trang thiết bị phục vụ công tác đo lường thì cũ kỹ, thiết chính xác. Do đó, giải pháp tiếp theo nhầm nâmg cao chất lượng sản phẩm ở công ty COMA 7 là tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002 công ty đã áp dụng.
4. Tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá và hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng của công ty
Cùng với đà phát triển của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, các nhân tố máy móc, thiết bị, công nghệ ngày càng trở nên quan trọng hơn bao giê hết; giữ vai trò quyết định cho việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Việc áp dụng các máy móc thiết bị phù hợp mang lại sức mạnh cạnh tranh to lớn cho công ty.
Với các mục tiêu chất lượng là trên hết, cho nên tong thời gian tới lãnh đạo công ty sẽ quyết tâm đưa chất lượng sản phẩm lên cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng.
Lãnh đạo công ty nhận thức được rằng : sản phẩm của công ty chủ yếu phụcvụ nhu cầu trong nước, nhưng các doanh nghiệp mà công ty phục vụ có các công nghệ chủ yếu của nước ngoài đầu tư như các Xí nghiệp sản xuất Xi măng, các loại lọc bụi cho các loại máy chọn nhựa áp phan phục vụ công trình xây dựng đường bộ. Do đó đòi hỏi của khách hàng là rất khắt khe và trong nước hiện nay có rất nhiều đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất máy công cụ và sản phẩm kết cấu thép.
Công ty có mặt bằng rộng lớn, xa trung tâm đây là điều kiện thuận nlợi để giúp công ty tăng khả năng cạnh tranh của mình.
Hoàn thiện bộ máy quản lý chất lượng bao gồm việc hoàn thiện chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, cơ cấu lại bộ máy quản lý chất lượng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng theo những quan điểm hiện đại. Mặc dù,công ty đã xây dựng được bộ máy quản lý chất lượng. Song bộ máy này còn kiêm nhiệm quá nhiều công viêc khác. Vì thế công tác quản lý chưa được coi trọng.
Mặc dù, công ty đã áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng ISO 9002:1994 nhưng công ty cần cơ cấu lại để xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo phiên bản mới ISO 9000: 2000 mà đặc trưng là hệ thống đảm bảo chất lượng ISO9001:2000.
Hiện nay, công tác xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng sản phẩm tại công ty đã và đang thực hiện chưa được quan tâm đúng mức và chưa được rõ ràng. Đăc biệt đối với sản phẩm kết cấu thép là rất khó khăn. Hệ thống tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm phải phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
· Để nâng cao chất lượng sản phẩm, công ty phải cải tiến hệ thống chỉ tiêu hiện thời của công ty vì đó là điều kiện quyết định các hoạt động sản xuất sản phẩm, là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng cạnh trạh trên thị trường.
· Công tác tiêu chuẩn hoá các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm,cũng như các thiết bị cho giúp cho công ty nâng cao được chất lượng sản phẩm. Ví dụ như các sản phẩm kết cấu thép ; mặc dù đã có dung sai cho phép về kích thước của các chi tiết sản xuất nhưng với các thiết bị cho lường kém chuẩn xác thì sẽ không cho sản phẩm có đội chính xác cao chưa nói đến chính xác tuyệt đối.
· Còng như sản phẩm kết cấu thép với các sản phẩm Đúc nếu thiết bị cho lường không chuẩn xác sẽ dẫn đến pha chế thành phần hoá học sai. Từ đó gây ra sai háng hàng loạt sản phẩm. Như đợt háng 20 tấn bi đạn trong tháng 2 vừa qua.
· Việc quan trọng trong công tác quản lý chất lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm là phải hoàn thiện hệ thống thiết bị đo lường,tăng cường công tác tiêu chuẩn hoá.
Từ những lý do trên, để hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm , để nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. công ty nên thực hiện các biện pháp sau:
· Trước tiên ban lãnh đạo đứng đầu là giám đốc công ty phải gương mẫu hơn nữa trong công tác quản lý chất lượng, trực tiếp tham gia vào các hoạt động, phong trào quản lý chất lượng của công ty. Phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng phòng ban, từng cấp tiến hành công việc.
· Lãnh đạo công ty phải đưa ra chính sách chất lượng sát thực, phù hợp với điều kiện hiện tại của công ty, đáp ứng được xu hướng của thị trường.
· Sau khi xây dựng xong người đứng đầu hệ thống quản trị chất lượng phải chỉ đạo cho các phòng ban và cá nhân thực hiện nhiệm vụ của mình đã được quy định trong chính sách chất lượng của Công ty.
· Việc kiểm tra theo dõi phải được tiến hành chặt chẽ, nếu có khó khăn sai sót tiến hành điều chỉnh ngay. Công tác kiểm tra cần phải tiến hành đẩy mạnh hơn nữa trên cơ sở bộ máy quản lý cò ; phòng kỹ thuật kết hợp với tổ KCS và các bộ phận KCS ở các Xí nghiệp bám sát từng ca sản xuất, kiểm tra từng công đoạn sản xuất.Có chính sách thưởng phạt xứng đáng với việc đảm bảo chất lượng. Tăng cường vai trò của tổ trưởng tổ sản xuất. Báo cáo thường kỳ với người đứng đầu để tiện theo dõi.
· Xây dựng và hoàn thiện tiêu chuẩn thống nhất giúp cho công ty nói chung và công nhân nói riêng, đánh giá đúng chất lượng sản phẩm mọt cách dễ dàng. Đó chính là tiền đề để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tiêu chuẩn đưa ra phải phù hợp với nhu cầu của thị trường, với điều kiện của công ty.
Để thực hiện các giải pháp trên, công ty cần thực hiện:
· Có một cán bộ kỹ thuật ở vị trí cao để chọn làm người chỉ đạohệ thống quản lý chất lượng. Cán bộ này phải có kinh nghiệm, am hiểu hệ thông quản lý chất lượng. Đặc biệt phải có uy tín để chỉ đạo các phòng ban và bộ phận có liên quan.
· Đội ngò cán bộ kỹ thuật và cán bộ KCS phải là người có trình độ chuyên môn cao, giàu kinh nghiệm, nhiệt tình trong công việc.
· Tiềm lực tài chính để đầu tư thiết bị đo lường, phục vụ công tác tiêu chuẩn hoá và duy trì hệ thống quản lý chất lượng. Đây là vấn đề đặt ra của công ty vì công ty không có nhiều vốn, vốn chủ đạo do Nhà nước cấp. Song công ty đang khắc phục từng bước bằng cách đầu tư dần ở từng khâu.
· Cuối cùng là sự ủng hộ của các thành viên trong công ty, các bộ phận phòng ban. Các thành viên trong công ty cần phải việc hoàn thiện, duy trì , cải tiến hệ thống quản lý chất lượng là yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty. Từ đó có thái độ ủng hộ khi ban lãnh đạo tiến hành cải tiến hệ thống quản lý chất lượng.
KẾT LUẬN.
Khi nền kinh tế càng ngày càng phát triển ở trình độ cao thì cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm hay dịch vụ càng trở nên có hiệu quả. Sản phẩm chỉ có thể tiêu thụ nhanh khi nó có chất lượng thoả mãn nhu cầu của thị trường, giá cả phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng hay khách hàng…Mọi doanh nghiệp đều nhận thức được điều đó và luôn luôn chú ý đến việc bảo đảm và nâng cao chất lượng sản phẩm một cách đặc biệt, coi chất lượng là sự sống còn của doanh nghiệp.
công ty Cơ khí và Xây lắp với hơn 35 hình thành và phát triển cũng không nằm ngoài quy luật Êy. Ban lãnh đạo và công nhân của công ty luôn luôn đặt mục tiêu chất lượng lên hàng đầu và ra sức thực hiện được kế hoạch đã đặt ra. Sản phẩm của công ty đã được các bạn hàng tín nhiệm với một sự tin tưởng lớn về mặt chất lượng. Tuy nhiên chẳng có sản phẩm nào lại có chất lượng hoàn hảo cả, sản phẩm của công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 cũng còn một số hạn chế. Qua thời gian thực tập và tìm hiểu thực trạng còng nh khả năng của công ty tôi đã mạnh dạn đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty để sản phẩm càng ngày càng trở nên hoàn thiện. Tôi hy vỏngằng những ý kiến của em sẽ đóng góp một phần nhỏvào mục tiêu đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của COMA 7.
Mặc dù đã có cố gắng rất nhiều nhưng chuyên đề về:" Một số giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty Cơ khí và Xây lắp số 7 " của tôi chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong được các thầy cô còng nh các cô chú trong công ty giúp đỡ và tận tình chỉ bảo để tôi hoàn thiện hơn về kiến thức còng nh kinh nghiệm thực tế.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7cok.doc