Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây

LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI 3 VỚI HỘ SẢN XUẤT 3 I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 3 1. Khái niệm 3 2. Phân loại tín dụng 5 3. Chức năng và vai trò của tín dụng ngân hàng 8 II. KHÁI NIỆM HỘ SẢN XUẤT 10 III. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KIN TẾ HỘ SẢN XUẤT 12 1. Đáp ứng yêu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển nền kinh tế 12 2. Thúc đẩy quá trình tập trung vốn, tập trung sản xuất trên cơ sở đó góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn 13 3. Tín dụng ngân hàng là công tụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và các ngành kinh tế mũi nhọn 14 4. Tín dụng ngân hàng góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn. 15 5. Tín dụng ngân hàng kiểm soát bằng đồng tiền và thúc đẩy sản xuất, thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. 15 6. Tín dụng ngân hàng thúc đẩy hộ sản xuất tiếp cận và mở rộng sản xuất hàng hoá 17 7. Vai trò của tín dụng ngân hàng về mặt chính trị, xã hội 18 IV. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT 19 1. Khái niệm chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất 19 2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất. 20 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngân hàng 22 CHƯƠNGII 27 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HSX TẠI NHNO&PTNT HÀ TÂY 27 I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY 27 II. TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TÂY 29 1. Những thuận lợi 29 2. Những khó khăn 29 III. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY 30 1. Tình hình cho vay, thu nợ Hộ sản xuất 30 2. Tình hình nợ quá hạn 35 3. Đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Hà Tây 36 4. Đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT Hà Tây 39 CHƯƠNG III 44 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNO&PTNT HÀ TÂY 44 I. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT CUẨ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY TRONG NHỮNG NĂM TỚI 44 1. Phương hướng 44 2. Các biện pháp chính 45 II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY 45 1. Giải pháp trước mắt 45 2. Các giải pháp lâu dài 51 III. KIẾN NGHỊ CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN 54 1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam 54 2. Kiến nghị với nhà nước ( chính phủ) 55 3. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 56 4. Kiến nghị với chính quyền địa phương 56 KẾT LUẬN 58 TÀI LIỆU THAM KHẢO 59

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 63% trên tổng dư nợ. Như vậy tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của hộ nông dân thông qua vốn đầu tư trung - dài hạn tốc độ tăng trưởng khá (vì doanh số cho vay trung - dài hạn năm 2002 tăng so năm 2001 là 379.221 triệu đồng). Trong cơ cấu cho vay ngành nghề sản xuất kinh doanh, cho vay hộ sản xuất nông - lâm nghiệp vẫn là chủ đạo, cho vay thương nghiệp dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề khác có xu hướng tăng khá. Điều này được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2 Đơn vị: Triệu đồng Ngành nghề Dư nợ Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Nông nghiệp 438.557 749.653 1.185.694 2.Công nghiệp -Tiểu thủ CN 164.282 201.845 248.367 3.Thương mại -Dịch vụ 143.596 162.356 195.493 Tổng số 746.435 1.123.854 1.629.554 Nhìn vào bảng số liệu trên, tỷ trọng ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao với xu hướng tăng giảm qua các năm. Nhất là năm 2002 so với năm 2000 tăng 573.451 triệu đồng. Năm 2001 tỷ trọng ngành này là 66% thì đến năm 2002 tỉ trọng ngành sấp sỉ 75% tổng dư nợ. Những kết quả trên đây phần nào cho thấy hiệu quả vốn tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất trong những năm qua. Để phân tích chính xác hơn ta xem xét số tiền vay mỗi lượt của từng hộ qua bảng dưới đây . Bảng 3 Đơn vị tính triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2000 2001 2002 - Doanh số cho vay 713.542 1.090.530 1.597.445 - Số lượt hộ vay 183.922 211.007 254.165 - Doanh số BQ trên hộ vay 3,88 5,17 6,29 Doanh số cho vay tăng lên tương ứng với dư nợ bình quân trên hộ vay. Năm 2000 doanh số cho vay 713.542 triệu bình quân hộ 3,88 triệu đồng đến năm 2002 doanh số cho vay là 1.597.445 triệu đồng, bình quân 6,29 triệu đồng trên hộ vay. Với số tiền vay khá cao như vậy (so với năm 2000 là 3,88 triệu đồng) sẽ giúp cho hộ sản xuất mở rộng được quy mô sản xuất, thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, có điều kiện mua sắm các phương tiện vận chuyển, máy móc thiết bị làm tăng năng suất lao động và tăng thu nhập cho hộ sản xuất. * Doanh số thu nợ: Đối với một ngân hàng kết quả thu nợ có ý nghĩa rất quan trọng, nó phải ánh chất lượng hoạt động tín dụng ngân hàng, bảo đảm kinh doanh ngân hàng an toàn và có lãi. Qua số liệu bảng 1 cho thấy doanh số thu nợ có tăng lên so với các năm song mức độ tăng trưởng dư nợ năm 2002 quá cao so với năm 2001 nên tỉ lệ nợ quá hạn có giảm trên tổng dư nợ. Nhưng thực tế doanh số dư nợ trên tổng số nợ đến hạn vẫn còn chiếm tỉ lệ thấp, điều này được phân tích ở tình hình nợ quá hạn (phần sau). * Dư nợ hộ sản xuất. Dư nợ cho vay luôn là thước đo hoạt động của một ngân hàng nên bất kỳ ngân hàng thương mại nào cũng chú trọng tăng trưởng dư nợ, cũng như các chi nhánh ngân hàng nông nghiệp khác, NHNo&PTNT Hà tây với địa bàn có hơn 80% số hộ sống bằng nghề nông lâm nghiệp và các dịch vụ nhỏ ở nông thôn. Nên việc tăng trưởng dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất có ý nghĩa sống còn và là nhiệm vụ trọng tâm của NHNo&PTNT Hà tây. Như trên ta đã phân tích dư nợ đối với hộ sản xuất ngày càng tăng với tốc độ tăng trưởng khá cao. Năm 2001 là 1.123.854 triệu đồng đến năm 2002 là 1.629.554 triệu đồng, dư nợ luôn tăng trưởng là điều đáng mừng. Cùng với việc doanh số cho vay năm 2002 tăng nhanh so với năm 2001 thì doanh số thu nợ cũng tăng lên đáng kể. Thu nợ tăng lên đó là một dấu hiệu rất khả quan đối với ngân hàng, điều này đã thể hiện được rằng các giải pháp tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất của ngân hàng đã phát huy hiệu quả. Cơ cấu dư nợ hộ sản xuất có sự thay đổi theo nhiều khía cạnh đánh giá. Để thấy rõ điều này ta sẽ phân tích thực trạng dư nợ cho vay hộ sản xuất theo kỳ hạn và ngành nghề cho vay. - Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ: Dựa vào số liệu của bảng 1 ta thấy dư nợ ngắn hạn có xu hướng tăng dần qua từng năm. Tính trung bình cả giai đoạn 2000- 2002 đạt hơn 350 tỉ đồng với số hộ còn dư nợ đến 31/12/02 là 242.856 hộ góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương giai đoạn này đạt trung bình 20% năm. Số tiền trả nợ vay ngắn hạn ngân hàng thường là tiền bán sản phẩm hàng hoá (doanh thu bán hàng) sau kỳ thu hoạch nhưng giá cả hàng hoá nhất là sản phẩm nông nghiệp vẫn mức ở thấp và luôn bị biến động, do đó làm tăng khả năng không hoàn trả được vốn và lãi vay ngắn hạn. Ngược lại với tình hình cho vay ngắn hạn đang tăng lên một cách nhẹ nhàng đều đặn, thì dư nợ cho vay trung -dài hạn tăng trưởng một cách nhanh chóng và vững chắc, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất. Được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây: Bảng 4 Đơn vị: triệu đồng Khoản mục 2000 2001 2002 - Tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất 746.435 1.123.854 1.541.854 - Dư nợ cho vay trung - dài hạn 432.477 695.141 1.019.785 - Tỉ lệ dư nợ trung - dài hạn 58% 62% 63% Với kết quả trên đây là đáng mừng vì các khoản cho vay trung - dài hạn được dùng để đầu tư vào các đối tượng, tài sản có tính lâu dài như chăn nuôi đại gia súc, mua sắm máy móc thiết bị và cải tạo trồng nước các loại cây ăn quả, cây nguyên liệu, cải tạo ao hồ nuôi thả cá... với số tiền vay bình quân khá cao sẽ kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất. - Dư nợ cho vay hộ sản xuất phân theo ngành kinh tế: Tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nghề kinh doanh phục vụ sự nghiệp phát triển. Kinh tế theo định hướng của địa phương và của quốc gia. Vì vậy việc phân tích hướng phân bổ đầu tư vốn tín dụng ngân hàng phần nào có ý nghĩa trong xác định hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư trên địa bàn. Qua số liệu bảng 2 ta thấy dư nợ theo ngành kinh tế đều có xu hướng tăng trưởng, nhất là năm 2002 so năm 2001. Dư nợ ngành nông nghiệp tăng 158%; tiểu thủ công nghiệp tăng 123% ngành thương mại dịch vụ tăng 120%. Điều đó chứng tỏ một số ngành nghề truyền thống đã được chú trọng và khôi phục, qui mô sản xuất ngày được mở rộng. Đây là một trong ba ngành chủ lực của kinh tế địa phương đã được cấp uỷ, chính quyền và ban lãnh đạo ngân hàng Hà tây đặc biệt quan tâm và cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong tương lai. 2. Tình hình nợ quá hạn Nợ quá hạn luôn là vấn đề đáng lo ngại đối với mỗi ngân hàng. Nó làm tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng chậm lại, làm giảm hiệu quả kinh doanh và làm phát sinh chi phí không cần thiết trong vấn đề đòi nợ, xử lý phát mại tài sản thế chấp. Nợ quá hạn mà không đòi hỏi được về lâu dài sẽ làm giảm nguồn vốn tự có của mỗi ngân hàng và ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập do việc trích quỹ dự phòng rủi ro theo qui định. Tỉ lệ nợ quá hạn cao diễn ra trong thời gian dài sẽ dẫn tới sự phá sản của ngân hàng. Qua số liệu của bảng 1 ta thấy nợ quá hạn phát sinh tới 86% là hộ sản xuất nông - lâm nghiệp. Đây là một trong những đối tượng khách hàng phải chịu nhiều rủi ro trong sản xuất kinh doanh nhất do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là những nguyên nhân khách quan như mưa lũ, hạn hán, dịch bệnh, ngân hàng cũng gặp không ít khó khăn như do địa điểm không thuận lợi, yếu tố môi trường, tình cảm... Đây là đối tượng khách hàng mà hoạt động tín dụng ngân hàng phải chi phí ở mức cao nhất trong tất cả các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Điều này cho thấy việc cho vay đối với hộ sản xuất cần phải quan tâm hơn nữa và phải có những biện pháp phù hợp áp dụng cho từng vùng, khu vực kinh tế thì mới mang lại hiệu quả thực sự cho hộ sản xuất và ngân hàng. 3. Đánh giá chất lượng tín dụng hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Hà Tây Ngoài hai chỉ tiêu: * Chỉ tiêu 1: = *Chỉ tiêu 2: Tỉ lệ dư nợ trung - dài hạn hộ SX = Đã được tính toán ở phần trên, ta phân tích thêm một số chỉ tiêu: * Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất: Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất = Bảng 5: Bảng tính vòng quay vốn của NHNo & PTNTHà tây Đơn vị tính: triệu đồng Khoản mục 2000 2001 2002 - Doanh số thu nợ hộ SX 567.182 823.947 1.258.769 + Ngắn hạn 326.912 523.821 742.526 - Dư nợ hộ sản xuất 746.435 1.123.854 1.629.554 + Ngắn hạn 313.958 428.713 609.769 - Vòng quay vốn (cầu) 0,75 0,73 0,77 + Ngắn hạn 1,04 1,22 1,2 Vòng quay vốn là một chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vòng quay vốn càng nhanh giúp ngân hàng tái sử dụng vốn càng nhanh, lúc này họ sẽ có thêm cơ hội đầu tư vào các dự án khác tốt hơn. Trong cho vay hộ sản xuất, cho vay ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ lớn( Dư nợ cho vay ngành nông nghiệp năm 2002 chiếm 75% tổng dư nợ ), điều này đã được chứng minh ở bảng 2 phía trên. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là chu kỳ sản xuất kinh doanh kéo dài, thường các món vay ngắn hạn từ 6 tháng đến 1 năm do đó vốn tín dụng có tốc độ quay vòng thấp. Từ bảng trên ta thấy vòng quay vốn của NHNo Hà Tây trong 3 năm qua đều nhỏ hơn 1, duy chỉ có vốn ngắn hạn qua các năm là lớn hơn một lần. Chứng tỏ vốn ngân hàng mức chỉ đạt yêu cầu đối với cho vay ngắn hạn hộ sản xuất. Nhưng vòng quay vốn của NHNo Hà Tây không hoàn toàn tăng lên theo từng năm, vì trong giai đoạn 2000-2001 vòng quay vốn bị giảm điều đó chứng tỏ hoạt động ngân hàng trong thời gian này còn kém hiệu quả. Sự kém hiệu quả này cũng do nguyên nhân khách quan dẫn tới sự thua lỗ của hộ sản xuất, mặt khác do việc xử lý thu hồi quá hạn, phát mại tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn. Song bù lại ngân hàng đã có những giải pháp kịp thời, hiệu quả góp phần khắc phục những tồn tại yếu kém trên, điều này thể hiện ở việc tăng lên của vòng quay vốn trong năm 2002. * Phân tích nợ quá hạn: Hệ số nợ quá hạn là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng. Là sự biểu hiện triệu chứng khách hàng không trả nợ ngân hàng đúng hạn chỉ tiêu này được xác định như sau: Hệ số nợ quá hạn = x 100 Hệ số nợ quá hạn càng cao, khả năng không thu hồi được vốn của ngân hàng càng lớn. ở phần trên ta đã xem xét nợ quá hạn theo các ngành nghề, tuy nhiên để có cái nhìn chung về tình hình nợ quá hạn ta xem xét tình hình nợ quá hạn chung: Bảng 6 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 - Nợ quá hạn hộ sản xuất 9.486 13.246 12.890 - Tổng dư nợ hộ sản xuất 746.435 1.123.854 1.629.554 - Hệ số nợ quá hạn (%) 1,271% 1,178% 0,8% Nhìn vào bảng ta có thể nhận thấy rằng nợ quá hạn của hộ sản xuất tương đối thấp, chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng dư nợ hộ sản xuất, nhất là năm 2002 tỉ lệ nợ quá hạn nợ quá hạn hộ sản xuất từ 1,178% (2001) đã giảm xuống còn 0,8% trên tổng dư nợ.Kết quả này cho thấy công tác quản lý của Ngân hàng đối với những món nợ quá hạn hết sức chặt chẽ và mang lại hiệu quả cao, đạt được chỉ tiêu đặt ra cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Nguyên nhân nợ quá hạn chủ yếu do thiên tai dịch bệnh, biến động giá cả thị trường….khách quan là chủ yếu, một số món do chây ỳ đã phối hợp với chính quyền địa phương đoàn thể, tổ chức xã hội động viên giáo dục cam kết thu hồi;trường hợp đặc biệt đã khởi kịên ra toà án để thu hồi nợ..Có thể phân loại các nguyên nhân đó thành một số nguyên nhân chính như sau: + Thứ nhất: nguyên nhân bất khả kháng có những dự án khi mới thành lập mang tính chất khả thi cao, song đến khi đưa vào áp dụng lại gặp phải một số tác động không lường trước được như thời tiết thay đổi, mưa lũ, hạn hán làm ảnh hưởng đến mùa vụ, dịch bênh phát sinh nhiều thiệt hại đến sự phát triển của đàn gia súc gia cầm, thậm chí chết hàng loạt, giá cả nguyên liệu, vật tư đầu vào, sản phẩm hàng hoá đầu ra trên thị trường biến động bất lợi làm cho hộ sản xuất "thu không đủ chi" thậm chí không thu hồi được đồng vốn bỏ ra đầu tư vào dự án, do đó không có nguồn để trả nợ vốn vay ngân hàng dẫn đến nợ quá hạn gia tăng. + Thứ hai: là do nguyên nhân chủ quan từ phía hộ sản xuất. Có nhiều trường hợp nợ quá hạn phát sinh do hộ sản xuất sử dụng vốn sai mục đích xin vay hoặc khi hoàn thành dự án chưa đến hạn trả nợ ngân hàng đem cho vay nóng kiếm lời nhưng không đòi được nợ dẫn đến không trả được nợ ngân hàng. + Thứ ba: Nguyên nhân từ phía ngân hàng: Công tác quản lý chỉ đạo tín dụng chưa nghiêm dẫn đến việc một số ít cán bộ tín dụng làm trái qui trình nghiệp vụ, vi phạm thể lệ chế độ của ngành qui định công tác kiểm tra, kiểm soát chưa được coi trọng, kiểm tra không sâu sát, kém hiệu quả. Việc xử lý những sai phạm chưa kiên quyết kip thời. chưa có sự phối kết hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa ngân hàng với chính quyền địa phương và các tổ chức, ban ngành hữu quan. * Ngoài những nguyên nhân trên, để đánh giá chất lượng tín dụng ta xem xét hiệu quả của nó còn liên quan đến vấn đề kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh, có thể nói tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Hà Tây có những đóng góp đáng kể để cho kinh tế của tỉnh. Đó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện tỉ trọng dư nợ của các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịchvụ ngày càng tăng lên. Nhất là dư nợ cho vay hộ sản xuất nông - lâm nghiệp năm 2002 tăng so năm 2001 là 505.700 triệu đồng. Đồng thời cũng thể hiện ở sự đóng góp không ngừng tăng cao của các ngành này cho GDP của toàn tỉnh, góp phần xoá đói giảm nghèo trên toàn tỉnh tỉ lệ hộ đói nghèo năm 2001 là 10,5%. Đến năm 2002 còn 9,6% tổng số hộ trên địa bàn. 4. Đánh giá thực trạng cho vay hộ sản xuất của NHNo & PTNT Hà Tây Hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất ở NHNo & PTNT Hà tây tuy có đạt được một số thành tựu khả quan song còn không ít những khó khăn hạn chế do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Cụ thể như sau: a- Kết quả đạt được: Kết quả nổi bật là dư nợ cho vay hộ sản xuất ngày càng tăng và duy trì ở mức khá cao. Dư nợ hộ sản xuất bình quân hàng năm hơn 1.1700 tỉ đồng, giúp trên 242.856 hộ sản xuất có vốn để phát triển kinh tế, chiếm 46% tổng số hộ trên địa bàn có đủ vốn để phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống, góp phần thực hiện chính sách "xoá đói giảm nghèo" xây dựng nông thôn mới. Khối lượng vốn tín dụng lớn, thực hiện đầu tư có trọng điểm đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của tỉnh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn, doanh số cho vay bình quân hàng năm 1.134 tỷ đồng, trong đó chú trọng đầu tư tập trung vào các chương trình kinh tế, đặc biệt là ngành chăn nuôi hướng đến tăng năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hoá. Tỷ trọng dư nợ trung - dài hạn trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất có xu hướng tăng lên. Vốn đầu tư trung, dài bạn đã đáp ứng nhu cầu về vốn của nông dân mua sắm máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp, mở rộng các ngành nghề truyền thống, chăn nuôi đại gia súc sinh sản, cải tạo đầm hồ nuôi thả cá, dự trữ nguồn nước phục vụ ngành trồng trọt. Đầu tư chiều sâu cải tạo vườn tạp vườn cây ăn quả trồng mới các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của hộ nông dân. Nhờ có đồng vốn ngân hàng, các hộ vay đã chủ động tổ chức sản xuất, tạo việc làm cho hàng ngàn lao động, kinh tế ngày một phát triển, nhiều hộ đã vươn lên làm giàu, có được kết quả trên là do: Nhờ có sự đoàn kết nhất trí của ban lãnh đạo và cán bộ nhân viên ngân hàng nên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Sự nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên trong cơ quan và sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban giám đốc, các phòng tổ, do đó chất lượng công việc tương đối tốt. Thường xuyên duy trì, thực hiện chế độ kiểm tra kiểm soát nội bộ trong tất cả các công việc, do đó nâng cao được ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ công nhân viên trong cơ quan để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao. Ngân hàng chủ động bám sát mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Xác định rõ hướng phân bổ tín dụng từ đó lập kế hoạch kinh doanh tại mỗi chi nhánh và các đơn vị nhận khoán trực tiếp để xác định hướng đầu tư, mức đầu tư từng loại đối tượng cụ thể. Tranh thủ sự giúp đỡ các cấp lãnh đạo từ tỉnh cho đến huyện, xã cùng phối kết hợp với các ngành, đoàn thể, cơ quan tuyên truyền các chủ trương, chính sách cho vay của NHNo. b- Những mặt còn tồn tại trong công tác tín dụng hộ sản xuất: Chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tuy rằng khá tốt, nhưng hầu như những khoản nợ quá hạn chủ yếu đều xuất phát từ hộ sản xuất ( Chiếm 86% tổng nợ quá hạn của ngân hàng ). Mức cho vay bình quân đối với một hộ sản xuất nông nghiệp còn thấp, tỉ lệ đầu tư vốn ngắn hạn của ngân hàng so với tổng chi phí trong nông nghiệp còn thấp kể cả ngành trồng trọt lẫn chăn nuôi. Bản thân ngân hàng do những món nợ quá hạn của hộ sản xuất còn cao, xử lý tài sản thế chấp gặp nhiều trở ngại nên có những thận trọng trong việc cho vay. Công tác kiểm tra kiểm soát đã được quan tâm nhưng chất lượng chưa cao, việc xử lý những sai sót, vi phạm xảy ra còn chưa nghiêm minh, kiên quyết, chưa kịp thời. Lực lượng đội ngũ cán bộ tín dụng còn mỏng, trình độ không đồng đều, đôi khi công tác bố trí tổ chức cán bộ chưa thực sự hợp lý. Một số bộ phận hiệu quả công tác còn thấp. c- Những nguyên nhân làm cho chất lượng tín dụng hộ sản xuất ở NHNo và PTNT Hà tây chưa tốt. Chất lượng tín dụng còn có những hạn chế một phần được đánh giá bằng tỉ lệ nợ quá hạn trong tổng số dư nợ-tuy ở mức tương đối thấp nhưng vẫn luôn tồn đọng những khoản nợ quá hạn khó giải quyết, không thể thu hồi. Điều đó do một số nguyên nhân chủ yếu sau: - Nguyên nhân khách quan: Do sự thiếu ổn định của nền kinh tế trong những năm vừa qua dẫn đến giá cả hàng hoá có nhiều biến động theo xu hướng tiêu cực làm cho nhiều hộ sản xuất kinh doanh thua lỗ dẫn tới không trả được nợ vay ngân hàng. Do ảnh hưởng của thời tiết như hạn hán kéo dài, bão lụt dịch bệnh phát sinh nhiều làm mất mùa, gia súc gia cầm chết hàng loạt hoặc khó bán ảnh hưởng khả năng trả nợ của hộ sản xuất. - Nguyên nhân chủ quan của ngân hàng: Việc chấp hành quy trình nghiệp vụ ở một số ngân hàng cơ sở thiếu nghiêm túc, chưa thực hiện tốt việc phân tích, phân loại và xử lý nợ đặc biệt là các kỳ hạn của vốn vay trung, dài hạn. Qua kiểm tra một số nơi vẫn còn hiện tượng nợ đến hạn chưa xử lý kịp thời dẫn đến tỷ lệ nợ quá hạn chưa đúng thực trạng chất lượng tín dụng. Một số ít cán bộ tín dụng chưa quan tâm đến hướng dẫn qui trình nghiệp vụ, thậm chí không tuân theo qui trình nghiệp vụ đã qui định. Việc chỉ đạo cán bộ, tổ công tác thực hiện qui trình nghiệp vụ chưa nghiêm, kém hiệu lực và còn nhiều sơ hở. Một số ngân hàng cơ sở chưa làm tốt công tác giám sát, kiểm tra vốn vay thông qua tổ nhóm còn để xảy ra hiện tượng tổ trưởng xâm tiêu, thu nợ, thu lãi không nộp vào ngân hàng. Việc chỉ đạo sửa sai sau kiểm tra ở một số nơi còn chậm, chưa kiên quyết, sự kết hợp với chính quyền địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả thu nợ còn thấp chưa đạt yêu cầu. Cán bộ tín dụng đôi khi do tiết kiệm thời gian nên cùng khách hàng lập dự án sản xuất kinh doanh mang tính hình thức, đối phó, chưa nêu cao ý thức trách nhiệm dẫn đến hiệu quả vốn tín dụng chưa được tốt. Tình trạng phổ biến là cán bộ tín dụng chỉ dùng cơ sở thủ tục hành chính để cho vay. Phần lớn các khoản vay chủ yếu được bảo đảm bằng tư cách và tài sản của người vay. Điều này rất dễ làm mất khả năng trả nợ của khách hàng vì tính khả thi và hiệu quả của dự án xin vay không được xác định. NHNo & PTNT Hà tây tuy đã có quan tâm chú trọng về vấn đề công nghệ thông tin, nhưng vẫn còn có một số trường hợp thiếu thông tin về tài chính, về mức độ rủi ro của khách hàng vay vốn, về năng lực quản lý vốn vay và sử dụng vốn của họ như thế nào, dẫn đến không kiểm soát chặt chẽ được vốn vay. Từ đó dẫn đến việc hộ sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, không trả nợ đúng hạn. - Nguyên nhân từ phía khách hàng. Do trình độ dân trí còn hạn chế và không đồng đều, nhất là kiến thức về khoa học kỹ thuật, kiến thức về quản lý sản xuất, kinh doanh cũng như công tác tiếp thị trong việc tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp nông thôn. Nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, sản phẩm của hộ nông dân sản xuất ra không theo kịp. Sự thay đổi của cơ chế thị trường nhất là về mặt chất lượng, chủng loại, giá cả... Đa số hộ gia đình bị hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh trình độ và kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu, vốn tích luỹ nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh trên thị trường việc sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Một số hộ sản xuất thì sử dụng vốn sai mục đích xin vay. Khi xin vay vốn thì đưa ra một dự án, phương án khả thi cao và đầy hấp dẫn. Nhưng khi vay được vốn rồi thì lại sử dụng số tiền đó vào mục đích khác có rủi ro và lợi nhuận cao và điều đó gây nên khoản rủi ro cho ngân hàng và lẽ dĩ nhiên ngân hàng buộc phải chịu. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT TẠI NHNO&PTNT HÀ TÂY Cho vay đối với hộ sản xuất quả thực là vấn đề không đơn giản. Nhiều ngân hàng ở các nước Châu âu có lịch sử hoạt động lâu dài trong cho vay nông nghiệp vẫn gặp phải những rủi ro lớn khi cho vay và nhiều ngân hàng đã phá sản. Vì vậy cần phải khẳng định phương châm hoạt động của ngân hàng là "Mở rộng cho vay đến đâu phải chắc chắn có hiệu quả đến đó". Qua thời gian ngắn nghiên cứu thực tập tại Ngân hàng nông nghiệp Hà Tây trong khuôn khổ chuyên đề này em xin phép được đưa ra một vài giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với loại hình cho vay này. I. ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ SẢN XUẤT CUẨ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY TRONG NHỮNG NĂM TỚI - Căn cứ vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của UBND Tỉnh Hà Tây - Căn cứ vào định hướng và mục tiêu đề ra của Hội đồng quản trị và tổng giám đốc NHNo & PTNT Việt Nam. Chi nhánh NHNo & PTNT Hà Tây xây dựng phương hướng, biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng năm 2003 như sau: 1. Phương hướng Phát huy kết quả đạt được năm 2002, đồng thời bám sát các mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế xã hội theo định hướng đại hội Đảng bộ tỉnh Hà tây giai đoạn 2003-2005, chi nhánh NHNo & PTNT Tỉnh Hà Tây tập trung mọi biện pháp huy động nguồn vốn trong nhân dân và các tổ chức kinh tế. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được phát triển mở rộng đầu tư đáp ứng yêu cầu vốn cho phát triển kinh tế ở mọi thành phần mà đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, phục vị tốt nhất yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Mở rộng đầu tư tín dụng đồng thời phát triển các dịch vụ ngân hàng từng bước vững chắc an toàn và hiệu quả. 2. Các biện pháp chính - Phối hợp kết hợp chặt chẽ với các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các ban ngành đoàn thể... nhất là UBND các huyện để tiến hành tuyên truyên về chủ trương, chính sách cho vay của NHNo và các hoạt động tín dụng, tiền tệ của ngân hàng ở địa phương động viên thi đua giữa các xã có sự hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng trong địa bàn. Trên cơ sở đó, có phương án bảo vệ tài sản, tiền vốn nhằm đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài sản cho các chính nhánh. - Nâng cao trình độ phẩm chất của cán bộ ngân hàng, kết hợp với việc đào tạo thường xuyên đối với cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. -Đối với các hộ sản xuất kinh doanh lớn ở các địa bàn thị xã, thị trấn làng nghề: Các ngân hàng cơ sở có các kế hoạch rà soát, thống kê lại, phân rõ từng nghành hàng, xác định nhu câù vốn từng hộ để tiếp cận, tuyên truyền mở rộng đầu tư, thực hiện nâng mức đầu tư phù hợp với qui mô sản xuất kinh doanh. Đồng thời tiếp tục duy trì thị trường truyền thống là nông nghiệp, nông thôn, và nông dân. Mở rộng các đối tượng vay vốn món nhỏ qua các tổ nhóm tín chấp qua hội nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh, đoàn thanh niên. Phấn đấu hết năm 2005 số hộ vay vốn đạt 50% tổng số hộ toàn tỉnh. III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY HỘ SẢN XUẤT CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY 1. Giải pháp trước mắt a. Lập kế hoạch thu hút khách hàng: Có thể nói số lượng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng tương đối cao, nhưng chưa thực sự đúng nhu cầu vay vốn. Tỉnh Hà Tây có khoảng 86% số hộ có nhu cầu vay vốn tức là có khoảng 455.800 hộ. Như vậy, nhu cầu vốn của hộ sản xuất là khá lớn. Nếu tính khoảng 65% số hộ là đủ điều kiện vay vốn có khoảng344.500 hộ ( tỷ lệ này là khá thực tế). Như vậy, số hộ hiện còn dư nợ ngân hàng đến 31/12/02 là 242.856 hộ còn lại khoảng 101.644 hộ có nhu cầu vay vốn chưa được ngân hàng đáp ứng. Trong khi đó năm 2002 NHNoHà tây lại thừa vốn chuyển lên ngân hàng cấp trên khoảng 98 tỉ đồng. Thực tế cho thấy nhiều hộ có nhu cầu đầu tư sản xuất hoặc kinh doanh trong thời gian ngắn hoặc số lượng vốn ít nên họ ngại đến ngân hàng vay (vì ngại phải làm thủ tục hồ sơ theo quy định) mà họ lại vay ngoài để sản xuất kinh doanh mặc dù lãi suất có cao hơn lãi suất cho vay của ngân hàng. Mặc khác do tâm lý sợ phiền phức về mặt giấy tờ thủ tục hoặc không có khả năng lập dự án... ( đối với những hộ chưa vay ngân hàng lần nào). Vì vậy, để thu hút khách hàng, ngân hàng nên có những thông báo, hướng dẫn cụ thể về thủ tục xin vay, cách thức lập dự án đối với từng ngành nghề đến tận huyện, xã, các trưởng khu hành chính, tổ trưởng cũng như các chính sách ưu đãi của ngân hàng và cách đón tiếp khách hàng gửi cũng như khách hàng vay vốn tạo tâm lý hiểu biết lẫn nhau và thoải mái trong giao tiếp, giao dịch khi đến ngân hàng. Tuyệt đối tránh tình trạng khi đến ngân hàng người vay vốn tỏ ra lo lắng khi họ chưa biết mình phải làm gì để được ngân hàng cho vay. Đồng thời nên trích một khoản chi phí kết hợp với đài, báo ở thôn, xã tuyên truyền, quảng cáo về hoạt động ngân hàng cũng như những chính sách ưu đãi của Chính phủ để khuyến khích nhu cầu tiềm ẩn của hộ sản xuất. Việc cho vay theo phương thức gián tiếp thông qua tổ nhóm tín chấp qua hội nông dân, phụ nữ, cựu chiến binh…cũng đã và đang thu hút được khá đông đảo hộ sản xuất xin vay và nếu làm tốt phương thức này thì chất lượng tín dụng sẽ được nâng lên. Tuy nhiên chi phí cho vay kiểu này còn cao trong khi hiện nay, chênh lệch giữa lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra còn thấp. b. Thực hiện quy trình cho vay một cách hợp lý: Thực tế mà nói quy trình cho vay của NHNo & PTNT Việt nam khá chặt chẽ và nếu cán bộ tín dụng ở các chi nhánh ngân hàng NHNo đều thực hiện đúng quy trình cho vay thì có thể khẳng định định tỷ lệ nợ quá hạn sẽ rất thấp nếu không có sự ảnh hưởng của thời tiết. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng nếu làm đúng theo quy trình cho vay thì số hộ đủ điều kiện để cho vay rất ít, không đủ mức cho vay và dư nợ của ngân hàng NHNo Việt Nam yêu cầu. Vì vậy hiện nay tình hình chung là một phần lớn các cán bộ tín dụng không chỉ ở ngân hàng NHNo Hà tây mà ở các chi nhánh ngân hàng khác đều không làm đúng như quy trình cho vay mà ngân hàng NHNo Việt Nam quy định. Điều này cũng chấp nhận được. Tuy nhiên cách thức cho vay mà một phần không nhỏ cán bộ tín dụng ở NHNo Hà tây áp dụng theo em chưa được hợp lý. Quy trình cho vay mà các cán bộ tín dụng ở đây áp dụng chỉ chú ý đến tư cách người vay và khả năng tài chính, tài sản thế chấp của người vay là chủ yếu. Dự án xin vay được lập chỉ mang tính hình thức. Đây là điều chưa hợp lý bởi vì khả năng trả nợ của người vay phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của dự án mà họ đầu tư. Trong dự án, phần lớn hộ sản xuất đều sử dụng một phần vốn tự có của mình. Vì vậy, nên dự án khi đưa vào sản xuất kinh doanh không có hiệu quả như mong đợi, thậm chí hộ sản xuất bị thua lỗ cả vốn tự có và vốn vay ngân hàng thì khả năng tài chính của họ không còn và họ không tự bán tài sản thế chấp để trả nợ khi hết hạn mà họ cố tìm các biện pháp khác kiếm ra tiền để trả nợ dẫn đến hiện tượng chây ỳ, khó đòi nợ khi đến hạn hoặc để nợ quá hạn phát sinh kéo dài. Việc thế chấp tài sản ở nông thôn thực ra cũng gặp rất nhiều phiền toái. Bởi vì đa số các tài sản mà họ đưa ra làm vật thế chấp là nhà cửa, ruộng vườn. Khi họ không trả được nợ, nếu như ngân hàng thực hiện việc phát mại tài sản sẽ gặp khó khăn về mặt tâm lý vì nhà cửa, ruộng vườn của các hộ ( chủ yếu là nông dân) gắn liền với đời sống của họ, anh em gia tộc họ hàng nên khó có thể mua bán trao đổi dễ dàng được. Mặt khác đa số các khoản vay của họ là nhỏ so với số tài sản mà họ đưa ra thế chấp. Vì vậy khó có thể phát mại nhà cửa, đất đai mà họ thế chấp được. Việc không quan tâm đến dự án xin vay cũng là nguyên nhân lớn góp phần làm tăng tỷ lệ nợ quá hạn đối với cho vay hộ sản xuất. Trong những năm qua ở NHNo Hà tây, đây là một điều mà ngân hàng hoàn toàn không mong muốn. Vì vậy để hạn chế nợ quá hạn, ngân hàng nên quan tâm hàng đầu đến hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư trong việc lập và thẩm định dự án. Đây quả là vấn đề khó khăn không chỉ riêng đối với chi nhánh NHNo Hà tây mà còn là vấn đề chung đối với tất cả các chi nhánh của NHNo & PTNT Việt Nam. Tuy nhiên chỉ giải quyết được vấn đề này mới đẩy lùi và hạn chế tỷ lệ nợ quá hạn. Có nhiều ý kiến cho rằng nếu dự án được xem xét cẩn thận thì số hộ được vay sẽ giảm, ngân hàng sẽ không đáp ứng đủ yêu cầu khối lượng vốn cho vay và dư nợ. Tuy nhiên nếu ngân hàng có chiến lược thu hút khách hàng tốt (như đã trình bày phần trên) thì số hộ đến vay vốn ngân hàng sẽ tăng lên và ngân hàng có thể loại bỏ những dự án không mang lại hiệu quả cao hoặc yêu cầu hộ sản xuất lập dự án khả thi hơn. Như vậy doanh số cho vay và dư nợ vẫn sẽ được ổn định và có xu hướng tăng cao trong khi đó nợ quá hạn chắc chắn sẽ được giảm thấp. Việc lập các dự án nên để các hộ tự lập là chủ yếu. Với những hướng dẫn và thông báo cụ thể cách thức lập các loại dự án tới từng thôn, xã. Các cán bộ tín dụng chỉ làm nhiệm vụ thẩm định dự án, bàn bạc với các hộ về tính khả thi của dự án với mục đích làm cho các hộ hiểu mình làm là vì họ trước tiên sau đó mới đến lợi ích của ngân hàng. Song song vơí việc thẩm định dự án, việc chú trọng đến tư cách của người vay, khả năng tài chính cũng như tài sản thế chấp mà ngân hàng đang làm là điều cần thiết. Tuy nó không là chỉ tiêu quan trọng nhất để xác định cho vay nhưng nó là tiêu chuẩn đạo đức, ràng buộc pháp lý buộc người vay phải có trách nhiệm hơn trong dự án sản xuất kinh doanh của mình cũng như trong việc trả nợ ngân hàng đúng hạn. c. Quan tâm chú trọng đến thông tin: Thông tin là vấn đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, đặc biệt là đối với hoạt động tín dụng. Do hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng hộ sản xuất nói riêng gặp phải nhiều rủi ro cho nên những vấn đề thông tin liên quan đến khách hàng từ trước đến nay như tư cách năng lực, khả năng tài chính... phải luôn được cập nhật nhanh chóng, chính xác nhằm đảm bảo cho chất lượng tín dụng được nâng cao. Công tác thông tin luôn được các ngân hàng chú ý, tuy nhiên mức độ quan tâm ở mỗi ngân hàng khác nhau. ở NHNo Hà tây thông tin về khách hàng đặc biệt khách hàng là hộ sản xuất thì chưa được quan tâm đúng mức như thông tin về thị trường giá cả những biến động của nó, thông tin về khách hàng như trình độ học vấn, khả năng của họ, tư cách của họ... nhất là đối với những khách hàng mới. Điều này làm hạn chế khả năng của cán bộ tín dụng do họ phải làm việc suốt ngày nên không có thời gian tìm hiểu chính xác thông tin về thị trường giá cả, về khách hàng. Do đó khi có những đối tượng mới đến vay, cán bộ tín dụng phải mất nhiều thời gian để tìm hiểu họ mà kết quả vẫn chưa được chính xác. Vì vậy ngân hàng nên trang bị đầy đủ hệ thống máy tính và lưu trũ thông tin về thị trường và khách hàng. d. Xử lý và thu hồi nợ: Trong hoạt động kinh doanh tín dụng, hiện tượng phát sinh nợ quá hạn xảy ra là tất yếu do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan của các đơn vị, cá nhân vay vốn. Cho vay hộ sản xuất nông nghiệp là một vấn đề không đơn giản, sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào diễn biến của thời tiết, tình trạng dịch bệnh, giá cả thị trường nông phẩm không ổn định nên còn nhiều rủi ro, khả năng thu hồi vốn thấp nên ngân hàng cần có các biện pháp thu nhập, xử lý thông tin kịp thời để vừa đảm bảo thu hồi được nợ, vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ vay vốn, đồng thời giữ được mối quan hệ tốt giữa ngân hàng với hộ sản xuất. Đối với các hộ sản xuất kinh doanh thua lỗ có thể do nguyên nhân bất khả kháng chưa có khả năng trả nợ ngân hàng. Trong trường hợp này hộ sản xuất thực sự cần thêm vốn và nếu có thì sẽ mang lại hiệu quả hơn. Lúc này ngân hàng phải nghiên cứu xem xét kỹ lưỡng xem có nên tiếp tục cho hộ sản xuất đó vay thêm không và nếu có cho vay thì sau khi phát tiền vay cán bộ tín dụng phải xuống kiểm tra trực tiếp tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ hàng hoá. Đối với các hộ sản xuất có hàng hoá ứ đọng chưa bán được thì ngân hàng có thể giới thiệu đơn vị mua bán hàng hoá giúp hộ sản xuất giải quyết tồn đọng này với điều kiện hàng hoá phải có phẩm chất tốt. Đối với những hộ có khả năng trả nợ mà vẫn cố tình không trả nợ ngân hàng thì ngân hàng phải phối kết hợp đề nghị các cơ quan pháp luật, chính quyền địa phương xử lý thật nghiêm khắc để làm gương cho người khác. Đồng thời đối với nợ quá thời hạn ngân hàng viên thực hiện phân tích thực trạng dư nợ một cách thường xuyên và có hệ thống phân loại, theo dõi và xử lý nợ quá hạn tiềm ẩn và nợ quá hạn phát sinh mới. Nên phân tích tình hình nợ quá hạn đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích sẽ xác định được CBTD nào có vấn đề, và mức độ nợ quá hạn, nhằm xác định nợ quá hạn tiềm ẩn, thuộc địa bàn xã trọng điểm, khách hàng trọng điểm, đơn vị trọng điểm. Định kỳ hàng tháng hoặc quý nên chia hoạt động tín dụng ra bốn phần để phân tích và chỉ đạo từng phần cụ thể như sau: + Thứ nhất: Nợ quá hạn, tổ chức phân tích từng đối tượng và phân ra bốn loại: Loại thu được ngay, loại thu dần một phần, loại khó thu, và loại không có khả năng thu, từ đó xác rõ nguyên nhân, nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu phù hợp. + Thứ hai: Nợ sắp đến hạn, từ ngày 01 đến 10 tháng trước, tổ chức in ra từ máy vi tính các món nợ đến hạn của tháng sau, thông báo cho CBTD. Từ ngày 10 đến 25 CBTD công tác địa bàn kết hợp thâm nhập khách hàng có nợ đến hạn để xác định khả năng thu nợ của từng khách hàng đến hạn tháng sau, từ đó có biện pháp cụ thể, nếu khách hàng nào có khó khăn báo cáo cán bộ lãnh đạo trực tiếp để có biện pháp giúp đỡ, tháo gỡ, xử lý kịp thời. Làm tốt phần này sẽ hạn chế tình trạng nợ quá hạn phát sinh. + Thứ ba: Nợ chưa đến hạn, thường xuyên tổ chức kiểm tra sau khi vay. Theo đề cương của ngân hàng cấp trên, theo chương trình của Ban Giám Đốc, theo quy trình nghiệp vụ và kế hoạch kiểm tra đột xuất của Ban Giám Đốc... Nội dung kiểm tra là tiền vay có được sử dụng đúng mục đích xin vay hay không, số lượng, giá trị vật tư tương đương làm đảm bảo, diễn biến của tài sản thế chấp... Nếu có vấn đề gì thì xử lý theo các biện pháp, chế tài tín dụng, trên cơ sở giúp đỡ khách hàng sớm khắc phục khó khăn và có điều kiện trả nợ ngân hàng. + Thứ tư: Cho vay mới, yêu cầu cho vay đúng chế độ, đúng đối tượng xin vay, thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ đảm bảo vốn cho vay phát huy tối đa hiệu quả nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới với chất lượng lành mạnh hơn. e. NHNo & PTNT Hà tây cần phối kết hợp chặt chẽ hơn nữa với các cấp chính quyền địa phương. Các cấp uỷ, chính quyền địa phương có vai trò hết sức quan trọng trong đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất. Từ việc xác định dự án phát triển kinh tế – xã hội đến xét duyệt cho vay, đôn đốc và xử lý các trường hợp vi phạm chế tài tín dụng có liên quan đến chính quyền địa phương. Thực tế cho thấy chi nhánh ngân hàng nào duy trì tốt mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương thì qui mô tín dụng ngày càng được mở rộng, hiệu quả tín dụng được nâng cao. Nhận thức rõ điều trên, trong năm qua, NHNo Hà tây luôn tranh thủ sự giúp đỡ của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh, Ban lãnh đạo các huyện, xã, các cơ quan ban ngành đoàn thể các cấp. Điều này đã góp phần không nhỏ đối với sự thành công trong công tác tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên muốn duy trì tốt mối quan hệ với các cấp chính quyền địa phương thì ngoài việc kêu gọi tinh thần trách nhiệm của các cấp chính quyền, NHNo Hà tây cũng nên trích một phần tỷ lệ hoa hồng nhất định hỗ trợ một phần bù đắp các chi phí đối với những huyện, xã có ký hợp đồng dịch vụ với ngân hàng trên cơ sở các nguyên tắc và nội dung đã được thoả thuận thống nhất giữa các cấp lãnh đạo. 2. Các giải pháp lâu dài a. Đào tạo, bố trí tuyển dụng cán bộ: - Suy cho cùng thì con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Nghiệp vụ ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Chính vì vậy, để làm tốt hơn công việc của mình mỗi cán bộ cần được đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cũng như kiến thức kinh tế, kinh tế ngoại ngành pháp luật để họ có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức đảm đương tốt công việc được giao. Hàng tháng hoặc quý, ngân hàng cần tiến hành tập huấn chuyên môn nghiệp vụ, phổ biến quy chế, tín dụng cho cán bộ, tích cực đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ ngân hàng nâng cao nghiệp vụ và chuyên môn, đặc biệt quan tâm đến nội dung kinh tế thị trường. - Bố trí sử dụng nguồn nhân lực: Việc bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ là rất quan trọng trong quản lý ngân hàng. Một khi nguồn lực được sử dụng đúng đắn và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho từng cán bộ phát huy hết năng lực của mình, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng. Muốn làm tốt việc này, trước hết lãnh đạo ngân hàng phải đánh giá chính xác trình độ, năng lực mỗi người: Làm cơ sở bố trí đúng người, đúng việc. Mặt khác cần lưu ý đến tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ đối với công việc được giao và tiếp thu những nguyện vọng ý kiến phản hồi từ mỗi người để ra quyết định một cách chính xác. - Tuyển dụng cán bộ: Sinh viên là những người nhiệt tình với công việc. Hiện nay nhiều sinh viên ngân hàng ra trường chưa có việc làm. Nên chăng cùng với việc thi cử bằng lý thuyết, ngân hàng nên áp dụng hình thức thử việc, giúp họ đi xuống địa bàn nghiên cứu tìm hiểu thị trường, đề xuất các giải pháp góp phần tháo gỡ những khó khăn của ngân hàng, mở rộng thị trường hoạt động của ngân hàng. Theo em nghĩ, những sinh viên không được lựa chọn cũng cảm thấy hài lòng vì họ có thêm được những kinh nghiệm thực tế để bước vào những công việc khác trong tương lai. b- Thành lập trung tâm tư vấn tại ngân hàng: Hầu hết các cán bộ sản xuất khi vay vốn tại ngân hàng không ai nghĩ đến việc không trả nợ hay làm ăn thua lỗ. Ai cũng nghĩ mình làm sẽ có lãi và trả nợ được ngân hàng. Nhưng do chưa được trang bị đủ kiến thức, chưa tiếp xúc nhiều với kinh tế thị trường, họ không lường trước được những khó khăn gặp phải trong sản xuất kinh doanh. Nhiều người cho rằng sản phẩm mình làm ra là bán được nên mạnh dạn vay vốn ngân hàng để đầu tư, kết quả sản phẩm của họlại không tiêu thụ được có thể do không có manh mối tiêu thụ, hoặc chất lượng không đạt yêu cầu, giá cả còn cao... Vì vậy ngân hàng cần thành lập trung tâm tư vấn có nhiệm vụ. - Cập nhật một cách chính xác, đầy đủ những thông tin về thị trường như giá cả, sức tiêu thụ, khối lượng hàng hoá.... - Trên cơ sở đó dự báo tương đối về tình hình biến động của thị trường trong tương lai (có thể trong phạm vi Tỉnh, huyện). - Từ những thông tin về thị trường có thể tư vấn cho người vay biết họ nên sản xuất cái gì phù hợp với điều kiện của họ và tình hình kinh tế chung của huyện, tỉnh hay cả nước. Đây là việc làm khó khăn và có hơi viển vông. Nó đòi hỏi phải có những chuyên gia giỏi, có kinh nghiệm lâu năm, am hiểu về thị trường và hiểu biết trong lĩnh vực sản xuất. Tuy nhiên nếu các giải pháp trước mắt được thực hiện thì đây chỉ là hình thức kế thừa và phát triển của nó. c- Mở thêm chi nhánh ngân hàng cấp 4: Hiện nay NHNo Hà tây có hệ thống màng lưới rộng khắp trên địa bàn toàn tỉnh gồm: 01 hội sở, 13 chi nhánh NHNo huyện, thị xã, 45 chi nhánh ngân hàng cấp 4 và 08 Ngân hàng lưu động trên địa bàn thị xã Hà Đông, bình quân từ 4 đến 5 xã, phương có một điểm giao dịch của NHNo Hà tây. Đây là thế mạnh của NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây về lĩnh vực huy động vốn cũng như đầu tư tín dụng phát triển kinh tế địa phương. Mặc dù vậy các chi nhánh cấp 4 cũng đủ đáp ứng được một phần nào đó nhu cầu gửi cũng như đi vay của người dân trong vùng. Các xã xa chi nhánh, người dân thường ngại trong việc gửi cũng như đi vay những món tiền nhỏ. Vì vậy tình trạng vay mượn lẫn nhau hoặc vay chung vay ké vẫn còn xảy ra. Để thu hút thêm nguồn tiền gửi cũng như việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất, các đối tượng khác, ngân hàng Hà Tây nên mở thêm từ 1 đến 2 chi nhánh cấp 4 ở các xã khác. Tuy nhiên việc mở rộng mạng lưới phải phù hợp với khả năng tài chính và biên chế của ngân hàng, mặt khác phải đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân quỹ tại các chi nhánh đó. Đây cũng là một trong những giải pháp để “thực hiện giải ngân tại chỗ” theo quyết định 67 của thủ tướng chính phủ. d- Ngân hàng nên mở rộng phương thức cho các hộ sản xuất vay vốn có nhận một phần vật tư nông nghiệp vì một bộ phận khác lớn vốn vay ngân hàng, hộ sản xuất dùng để mua giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Phương thức cho vay này có một số ưu điểm như sau: - Khắc phục được tình trạng thiếu tiền tạm thời ơ các ngân hàng. - Tăng nhanh vòng quay vốn. - Hạn chế việc sử dụng vốn sai mục đích xin vay của khách hàng. - Ổn định được giá vật tư nông nghiệp khi vào thời kỳ cao điểm của ngành trồng trọt cũng như chăn nuôi. - Hạn chế một số mặt tiêu cực quanh việc khan hiếm vật tư nông nghiệp. Để thực hiện tốt phương thức cho vay này, NHNo Hà tây cần phối hợp chặt chẽ với các công ti vật tư để cung cấp kịp thời vật tư cần thiết phục vụ tốt nhu cầu sản xuất. Đồng thời ngân hàng cũng giải thích rõ cho hộ sản xuất thấy được lợi ích trong việc vay vốn qua phương thức này. IV. KIẾN NGHỊ CỦA NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HÀ TÂY ĐỐI VỚI CÁC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN 1. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam --Cho thành lập mới các chi nhánh ngân hàng ở các khu công nghiệp gồm : An Khánh-Hoài Đức, Phú cát-Quốc Oai. Nâng cấp NHL4 Thanh xuân nam thành Ngân hàng khu vực và thành lập một số phòng giao dịch trực thuộc . -Đề nghị NHNo Việt Nam hỗ trợ địa phương tăng cường thêm cơ xở vật chất như xây dựng và nâng cấp các NH huyện, thị, NHL4. Đặc biệt kinh phí xây dựng trụ sở giao dịchgắn với kho hàng ở các khu công nghiệp mới của tỉnh. Thuê mua lâu dài trụ sở NH Thanh xuân nam và các bàn tiết kiệm ở khu vực lân cận. Phấn đấu đến hết năm 2005 cá đơn vị trực thuộc đều có trụ sở ổn định, kiên cố, khang trang với đủ phương tiện hiện đại, phù hợp với các chương trình giao dịch mới, đủ sức cạnh tranh -Có kế hoạch hỗ trợ đào tạo các kiến thức mới trong quản lý kinh tế, kiến thức ngoại ngành, tiếp thị… -Đề nghị NHNo Việt Nam làm việc với các tổng công ty, tạo điều kiện để các chi nhánh tiếp cận với các đơn vị trực thuộc, nhằm khai thác tốt thế mạnh của hệ thống màng lưới NHNo. --Đề nghị NHNo Việt Nam cho phép NHNo Hà tây áp dụng lãi suất mềm dẻo bằng các ngân hàng khác trên địa bàn, trên cơ sở khả năng tài chính cho phép. Đồng thời cải tiến chương trình chuyển tiền nhanh gọn hơn để đáp ứng yêu cầu của khách hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh và uy tín củaNHNo. -Đề nghị nâng mức phán quyết cho vay đối vứi các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh lên 50 tỷ đồng, vì một số doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi mô hình thành công ty cổ phần đang có quan hệ vay vốn lớn với chi nhánh, nếu mức phán quyết cho vay như cũ(20 tỷ) sẽ bị động cho chi nhánh trong việc thực hiện giải quyết các nhu cầu tín dụng của đơn vị. Hiện nay đa số các NHNo & PTNT các chi nhánh Tỉnh, Huyện, ngân hàng cấp 4 đều chưa có đầy đủ trang thiết bị hiện đại mà chủ yếu vẫn làm thủ công và nếu có trang thiết bị thì cũ kỹ lạc hậu. Do đó vấn đề xử lý thông tin gặp khó khăn, thời gian thẩm định kéo dài, việc quản lý hồ sơ khách hàng cũng như truy cập thông tin còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu. Vì vậy, thiết nghĩ NHNo & PTNT Việt Nam nên đầu tư trang thiết bị, hệ thống máy tính cho các ngân hàng nhất là các ngân hàng cơ sở cấp Huyện và chi nhánh cấp 4 để đáp ứng yêu cầu công tác chung của ngành. - Hiện nay quyền tự chủ trong các chi nhánh ngân hàng cơ sở chưa cao. Vì vậy, giải pháp của ngân hàng không thể thực hiện được ( do không đủ kinh phí hoặc không được ngân hàng cấp trên chấp nhận....) Thiết nghĩ NHNo Việt nam nên tăng quyền tự chủ và trách nhiệm cho Ban lãnh đạo các chi nhánh ngân hàng cơ sở để họ chủ động thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. 2. Kiến nghị với nhà nước ( chính phủ) Như ta đã biết nguên nhân dẫn đến khả năng không trả được nợ ngân hàng của hộ sản xuất thì có nhiều. Nhưng một trong những nguyên nhân đó là sản phẩm của hộ sản xuất không tiêu thụ được, nhất là các loại sản phẩm ngành Nông – Lâm nghiệp khu vực nông thôn. Có nhiều nguyên nhân không tiêu thụ được như do tính chất mùa vụ sản xuất tập trung, thu hoạch tập trung, do chất lượng sản phẩm hàng hoá không đạt yêu cầu, giá cả còn cao do yếu tố vật tư đầu vào, giá bán trên thị trường thấp, không ổn định... - Nhà nước nên có chính sách trợ giá vật tư đầu vào đối với ngành nông nghiệp hoặc bao tiêu sản phẩm bằng cách xây dựng các nhà máy chế biến các loại sản phẩm nông – lâm nghiệp ở các vùng, khu vực sản xuất chuyên canh. - Nhà nước nên xem xét giảm thuế cho các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Cấp đủ, kịp thời các khoản khoanh nợ hàng năm đã xác định. Có như vậy hệ thống NHNo mới có đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng trưởng qui mô hoạt động. - Nhà nước nên yêu cầu các cấp chính quyền địa phương không nên thu lệ phíchứng thư đối với các hộ sản xuất trong việc xin xác nhận về tài sản thế chấp cũng như các giấy tờ khác có liên quan đến vấn đề vay vốn. Mặc dù lệ phí nhỏ nhưng với nhiều hộ lại cảm thấy không thoải mái vì họ nghĩ rằng mình suất tiền mà không biết mà không biết có vay được vốn hay không. Từ đó làm nảy sinh tâm lý ngại đi vay ngân hàng gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng. - Nhà nước nên chỉ đạo triệt để đối với các cấp chính quyền địa phương trong việc hoàn tất các thủ tục giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất của các hộ sản xuất. 3. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Ngân hàng nhà nước cần có chính sách cho vay chiết khấu ưu đãi lãi xuất đối với NHNo & PTNT Việt Nam theo thời vụ. NHNo & PTNT Việt Nam có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là nông nghiệp và nông thôn mà đặc trưng quan trọng của sản xuất nông nghiệp là mang tính thời vụ cao. Do đó khi đến mùa vụ nhu cầu vay vốn của hộ nông dân tăng nhanh, trong khi đó với khả năng có hạn NHNo & PTNT Việt Nam không kịp huy động vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất. Để nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng đối với hộ sản xuất, đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục, ngân hàng nhà nước cần có chính sách cho vay chiết khấu ưu đãi lãi xuất đối với NHNo & PTNT Việt Nam khi đến mùa vụ thể hiện ở khía cạnh sau: - Lãi xuất cho vay chiết khấu thích hợp đảm bảo cho ngân hàng có thể cho vay với mức lãi xuất mà nông dân có thể chấp nhận mà không bị lỗ. - Thời hạn cho vay chiết khấu đủ dài để ngân hàng có thể khắc phục những bất lợi do yếu tố thời vụ gây ra. - Các khoản cho vay chiết khấu phải được thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời tạo điều kiện thuận lợi để ngân hàng cho người nông dân vay vốn kịp thời để duy trì quá trình sản xuất. 4. Kiến nghị với chính quyền địa phương - Các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp tích cực với ngân hàng trong công tác cho vay, kiểm tra, đôn đốc thu nợ. Để hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất ngày càng được mở rộng và đảm bảo đem lại hiệu quả kinh tế cần phải có sự phối hợp chặt chẽ của cấp uỷ, chính quyền địa phương từ tỉnh, huyện, xã. Các hộ sản xuất phần lớn là hộ gia đình, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống của họ có mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương. Chính quyền địa phương là cấp vừa ra quyết định, lại vừa thực hiện quyết định, vừa phải theo đúng các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vừa phải phù hợp với tình hình kinh tế tại địa phương. Do đó chính quyền địa phương hiểu rất rõ tình hình của hộ sản xuất. Như vậy để nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất thì các cấp chính quyền địa phương nhận thức rõ vai trò vị trí quan trọng của mình để có các biện pháp phối hợp tích cực với nhau và với ngân hàng. - Các ngành có liên quan và các cấp chính quyền địa phương cần phối hợp và tạo điều kiện cho ngân hàng trong việc xử lý và phát mại tài sản thế chấp đối với các món vay không có khả năng hoàn trả. KẾT LUẬN Nâng cao chất lượng tín dụng luôn là vấn đề đặc biệt quan tâm của các ngân hàng Thương mại. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng. Nhưng làm cách nào để giải quyết vấn đề chất lượng tín dụng thực sự đạt hiệu quả cao mà vẫn gắn liền với việc mở rộng tín dụng. Đó là việc làm khó khăn đối với mọi ngân hàng Thương mại nói chung và đối với ngân hàng NHNo Việt nam nói riêng khi cho vay hộ sản xuất với những món vay nhỏ, số lượng khách hàng lớn. Qua quá trình thành lập và phát triển, hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của NHNo và phát triển nông thôn Hà tây mặc dù chưa đạt được những thành công lớn như mục tiêu đã đặt ra song cũng đạt được những kết quả rất khả quan đặc biệt là trong những năm gần đây, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất mở rộng quy mô, tăng thu nhập, tiếp cận thị trường rộng lớn góp phần giải quyết những khó khăn về việc làm cũng như nâng cao mức sống của người dân trên địa bàn Hà tây. Tuy nhiên do cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan như đã phân tích ở trên, chất lượng tín dụng đối với loại hình này vẫn chưa tốt, cần phải có các biện pháp giải quyết hiệu quả hơn. Vì vậy qua quá trình học tập tại trường đại học và qua thời gian thực tập tại NHNo và phát triển nông thôn Hà tây em đã nghiên cứu đề tài trên với mong muốn hiểu rõ thêm và góp một phần nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và đối với hộ sản xuất nói riêng. Do trình độ có hạn, khả năng suy luận vấn đề chưa sâu nên những giải pháp và kiến nghị trên đây sẽ có ít nhiều khiếm khuyết chưa phù hợp với tình hình thực tế. Vì vậy em rất mong muốn nhận được sự giúp đỡ, góp ý của cô giáo đối với bài viết này. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngân hàng – Tài chính đã cho em kiến thức cùng với cán bộ nhân viên ngân hàng NHNo và phát triển nông thôn Hà tây đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. David Cox, NXB Chính trị Quốc gia năm 1997. 2. Ngân hàng thương mại. Eward Reed, NXB TP. Hồ Chí Minh 1993. 3. Quy chế cho vay đối với khách hàng, NHNo & PTNT Việt Nam 12/1998. 4. Quyết định 67/CP của chính phủ ngày 30/3/1999. 5. Tạp chí ngân hàng. 6. Thời báo ngân hàng các số năm 1998, 1999, 2000. 7. Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT Đoan Hùng năm 1998, 1999, 2000. 8. Báo cáo tổng kết công tác tín dụng NHNo & PTNT huyện Đoan Hùng các năm 1998, 1999, 2000. 9. Luận văn các khoá trước. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNganHang 68.doc
Tài liệu liên quan