Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam

Chất lượng tín dụng trung và dài hạn có vai trò quyết định đến chất lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương. Với mục tiêu mở rộng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã thực thi những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng mình. Nhưng việc xây dựng và hoàn thiện những giải pháp này cũng gặp phải những hạn chế nhất định và đòi hỏi có thời gian. Đề tài nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một đề tài phức tạp và tương đối rộng. Với khả năng có hạn, trong khuôn khổ chuyên đề của mình, em chỉ xin được tập trung làm rõ vào một số vấn đề chính sau: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại, qua đó tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với ngân hàng thương mại, nội dung, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại.

doc105 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vẫn là hoạt động chiếm ưu thế trong hoạt động tín dụng của Ngân hang, với tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ từ 70% - 80%, trong khi đó tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn lại chiếm quá thấp. Điều này là chưa hợp lý, và tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn cần tăng hơn nữa. ♦ Số lượng khách hàng vay vốn chưa nhiều Nguồn vốn trung và dài hạn thường được tài trợ cho việc các khoản vay trung và dài hạn. Theo lý thuyết, nguồn vốn có thể dùng để cho vay trung và dài hạn là nguồn tự có của ngân hàng, vốn vay trung và dài hạn, vốn huy động trung và dài hạn, và một bộ phận nhất định vốn ngắn hạn. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ sử dụng từ 30% - 40% trên tổng nguồn vốn trung và dài hạn (chưa kể nguồn ngắn hạn) để cho vay trung và dài hạn. Điều này cho thấy, số lượng khách hàng xin sử dụng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng chưa nhiều. Một lượng lớn vốn trung và dài hạn được ngân hàng sử dụng vào các mục đích đầu tư khác. ♦ Thu hồi nợ trung và dài hạn còn yếu Nợ quá hạn và nợ quá hạn trung và dài hạn tuy rằng ở mức dưới 3% trên tổng dư nợ và trên tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn khá cao (trên 2%) và số tuyệt đối của khoản này là rất lớn. Tỷ lệ nợ quá hạn trung và dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng trung và dài hạn cần giảm xuống dưới 2% trong những năm tới. Mặt khác, nếu so với công tác thu hồi nợ ngắn hạn thì công tác thu hồi nợ trung và dài hạn kém hơn. Dư nợ tín dụng trung và dài hạn trên nợ quá hạn của Ngân hàng là cao, trung bình là 60%, trong khi, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chỉ chiếm 20% – 30%, còn dư nợ tín dụng ngắn hạn chiếm tới 70% - 80% trên tổng dư nợ. ♦ Cơ cấu khách hàng chưa phù hợp Đối tượng khách hàng của Ngân hàng chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp quốc doanh. Mặc dù hiện nay, quá trình cổ phần hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các doanh nghiệp này vẫn còn nhiều, và mặc dù các doanh nghiệp quốc doanh được cổ phần hóa thì lối làm việc trây ì vẫn khó chấm dứt, chưa chủ động sáng tạo. Trong khi đó, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang làm ăn hiệu quả, và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các thành phần kinh tế, thì lại khó tiếp cận với tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. ♦ Thu lãi từ tín dụng trung và dài hạn chưa nhiều Mặc dù lợi nhuận từ tín dụng trung và dài hạn tăng trong ba năm qua, song con số này chưa lớn. Trong năm 2007, dư nợ tín dụng lên tới 90.774.288 triệu VNĐ, mà lợi nhuận chỉ là 3.120.112 triệu VNĐ. Và trong khi, dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2007 là 26.860.112 triệu VNĐ, song thu lãi từ tín dụng trung và dài hạn chỉ là 946.642 triệu VNĐ. Thu lãi từ tín dụng trung và dài hạn chưa cao, chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng chưa tốt, vì một khoản tín dụng có chất lượng tốt thì nó phải đem lại lợi nhuận lớn cho Ngân hàng và không phát sinh nợ quá hạn. 2.3.2.2. Nguyên nhân ♦ Nguyên nhân khách quan ● Trình độ quản lý yếu kém của các doanh nghiệp: Trình độ quản lý của doanh nghiệp yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Nhiều doanh nghiệp di quản lý, sử dụng vốn vay không hợp lý làm cho hiệu quả dự án giảm xút, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ cho ngân hàng. ● Môi trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp gay gắt Trong điều kiện hội nhập, doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt. Sự cạnh tranh găy gắt giữa hàng hóa nội địa với hàng nội địa, hàng nội địa với hàng ngoại. Ngoài ra, doanh nghiệp cũng phải đối mặt với tình trạng: hàng hóa nhập lậu, trốn thuế, làm cho khả năng tiêu thụ sản phẩm của nhiều doanh nghiệp bị giảm sút, thu nhập không đảm bảo trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng. Ngoài ra, các doanh nghiệp không theo kịp với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô nên không điều chỉnh hoạt động sản xuất – kinh doanh cho phù hợp, nguy cơ thua lỗ cao. ● Công tác hạch toán kế toán của doanh nghiệp chưa tốt Công tác hạch toán kế toán đối với với các doanh nghiệp còn chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Nhiều doanh nghiệp sổ sách kế toán ghi chép rất lộn xộn, trình độ của người làm công tác kế toán còn thấp nên các số liệu không đủ tính tin cậy. Khả năng lập dự án của các doanh nghiệp đa số vẫn chưa đạt yêu cầu. Các số liệu thu thập của doanh nghiệp về khả năng thị trường nhiều khi là những số liệu lạc hậu và không có thực. ● Cạnh tranh của các ngân hàng khác Ngân hàng phải đối mặt với sự đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều ngân hàng trên cùng địa bàn về lãi suất cho vay, hình thức dịch vụ đi kèm...Đặc biệt là các ngân hàng cổ phần, ngoài việc đưa ra các hình thức ưu đãi hấp dẫn, các chương trình khuyến mại lớn cho khách hàng, thì tác phong làm việc của các ngân hàng cổ phần chuyên nghiệp, theo cơ chế giao việc nhân viên, tức là mỗi nhân viên phải hoàn thành một khối lượng công việc nhất định được giao, điều này tạo ra tinh thần trách nhiệm cao với công việc. Dẫn đến khách hàng đến với các ngân hàng này ngày càng đông, một phần giải thích cho việc vốn trung và dài hạn của ngân hàng lớn, song chỉ một lượng ít vốn được sử dụng cho vay trung và dài hạn. ●Sự can thiệp của Chính phủ Sự can thiệp của Chính phủ vào hoạt động tín dụng của ngân hàng làm cho ngân hàng nhiều khi không chủ động trong kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng tìm kiếm lợi nhuận của Ngân hàng...Các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ nhiều khi yếu tố hiệu quả không đặt lên hàng đầu. Các dự án được cấp tín dụng theo kiểu này thường là các dự án có nhu cầu vốn đầu tư lớn. Do đó, khi rủi ro sảy ra, tổn thất cho Ngân hàng là rất lớn. ♦ Nguyên nhân chủ quan ● Chính sách tín dụng chưa phù hợp Ngân hàng tập trung nhiều hơn cho hoạt động truyền thống, có lợi thế, đặc biệt là lượng vốn dùng để đầu tư chứng khoán (trái phiếu) rất lớn hơn là mở rộng cho vay trung và dài hạn. Trong bản cân đối kế toán của bản công bố thông tin của Ngân hàng Ngoại thương năm 2007, lượng chứng khoán Ngân hàng đầu tư trong năm 2006 và 2007 là hơn 30 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, dư nợ tín dụng trung và dài hạn năm 2007 là hơn 26 nghìn tỷ. Trong thời gian tới, ngân hàng cần chú ý hơn vì nguồn vốn trung và dài hạn là nguồn vốn đắt, lãi suất cao, chi phí lớn, cần sử dụng cho vay trung và dài hạn nhiều hơn để đem lại lợi nhuận cao hơn là đầu tư chứng khoán. ● Hiệu quả Marketing còn yếu Sự không hợp lý trong sử dụng vốn trung dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương là do hiệu quả marketing của Ngân hàng đối với tín dụng trung và dài hạn chưa tốt. Ngân hàng Ngoại thương là một ngân hàng có thương hiệu mạnh, tuy nhiên, nhìn vào cơ cấu tín dụng cho thấy, hoạt động tín dụng trung và dài hạn còn chưa tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Do đó, cần đẩy mạnh hoạt động Marketing cho tín dụng trung và hạn của Ngân hàng nhằm thu hút thêm khách hàng, từ đó nâng cao lợi nhuận cho khách hàng. ● Công tác thẩm định chưa hoàn thiện Nội dung thẩm định các dự án sử dụng vốn vay trung và dài hạn của Ngân hàng tuy đầy đủ nhưng còn nhiều điểm chưa hợp lý, cần phải được nghiên cứu hoàn thiện. Thứ nhất, Các dự án mà Ngân hàng Ngoại thương tài trợ chủ yếu là của Doanh nghiệp Nhà nước, được cấp có thẩm quyền phê duyệt tổng mức dự toán nên Ngân hàng thường chấp nhận ngay mức vốn chủ dự án trình lên. Cán bộ tín dụng còn xem nhẹ việc xác định tổng vốn đầu tư, kết quả thẩm đinh chưa thực sự độc lập mà thường trùng khớp với ý kiến của chủ dự án. Ngân hàng cũng chưa đề cập cụ thể tỷ lệ vốn tự có của doanh nghiệp khi tham gia dự án mới là bao nhiêu thì phù hợp, 30% , 40%...Thứ hai, Ít quan tâm tới tính chính xác của giá bán dự kiến cũng như các yếu tố tác động tới giá bán như lạm phát, biến động đầu vào, tình hình sản xuất tiêu thụ, cạnh tranh...trong từng năm. Thứ ba, xác định khả năng tiêu thụ chủ yếu từ thông tin dự báo thị trường chung, và tình hình hiện tại của những đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách cảm tính, thiếu đi sự tham khảo cần thiết của cơ quan chuyên môn, điều này khiến nhận xét mang tính chủ quan, không hợp lý, làm giảm phần nào tính chính xác của kết quả thẩm định; Thứ tư, các chỉ tiêu đánh giá tính khả thi về mặt tài chính, khả năng trả nợ...của một dự án trung và dài hạn chưa đủ chặt chẽ. Cán bộ thẩm định quá coi trong về mặt đảm bảo tiền vay hơn là hiệu quả tài chính, nhiều dự án cuối cùng cho vay dựa trên tài sản đảm bảo. ● Trình độ cán bộ ngân hàng chưa cao Cán bộ ngân hàng là nhân tố quyết định tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Cán bộ tín dụng chưa được trang bị đầy đủ kiến thức và chưa có nhiều kinh nghiệm, ảnh hưởng đến năng lực thẩm định các dự án, đặc biệt đối với những dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn ảnh hưởng rất lớn đến năng lực thẩm định dự án của cán bộ tín dụng. Ngoài ra, lực lượng cán bộ tín dụng mỏng cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Cán bộ tín dụng giỏi, kinh nghiệm chỉ tập trung ở Trung ương và một vài chi nhánh lớn. Ở các chi nhánh khác, các cán bộ tín dụng làm những công việc như thẩm định,...chỉ mang tính hình thức, không tính đến tính khả thi của dự an mà cán bộ chỉ quan tâm tới khả năng trả nợ và biện pháp bảo đảm tiền vay của khách hàng. ● Hoạt động kiểm soát nội bộ của Ngân hàng còn hạn chế Bộ phận kiểm soát của Ngân hàng còn lơi là chưa phát hiện kịp thời những thiếu sót trong hoạt động thẩm định và hoạt động tín dụng để hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng. Dẫn đến tình trạng thu hồi nợ chưa cao. ● Công nghệ thông tin và trang thiết bị công nghệ còn yếu Công nghệ thông tin cả về quy trình nghiệp vụ lẫn trang thiết bị công nghệ quyết định (yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh) còn yếu, chưa thực hiện đi trước một bước và chưa tương xứng với một Ngân hàng có quy mô hoạt động lớn như Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Các thông tin phục vụ công tác quản lý điều hành chưa đầy đủ, tức thời và vẫn mang tính thủ công. Điều này làm hạn chế hoạt động tín dụng cũng như tín dụng trung và dài hạn. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn từ đó cũng bị ảnh hưởng. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1. Định hướng nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 3.1.1. Định hướng phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam luôn coi việc xác định chiến lược phát triển của ngân hàng có ý nghĩa quyết định với việc đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh. Ngân hàng cũng nhận thức được rằng rủi ro là điều rất khó lường trước nó không chỉ ảnh hưởng tới uy tín và sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường tài chính mà còn ảnh hưởng tới thu nhập và khả năng thanh toán của ngân hàng. Rủi ro xảy ra với ngân hàng có thể là do nhiều nguyên nhân: Có thể là những nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, hỏa hoạn… làm cho người đi vay mất khả năng trả nợ ngân hàng. Nhưng đó cũng có thể do người vay cố tình quỵt nợ không trả ngân hàng hoặc do trình độ cán bộ ngân hàng còn hạn chế dẫn đến việc phân tích khách hàng chưa đầy đủ, thẩm định dự án thiếu chính xác… Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nhưng dù là nguyên nhân gì thì nó đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hồi vốn và tình hình tài chính của ngân hàng. Chính vì vậy mục tiêu hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam trong thời gian tới là đặt hoạt động tín dụng an toàn – hiệu quả kên hàng đầu. Và để có thể nâng cao chất lượng tín dụng bên cạnh việc tiếp tục khai thác, lựa chọn những khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh Ngân hàng cũng đưa ra những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng thẩm định cho vay dự án. Phương hướng hoạt động của ngân hàng ngoại thương trong thời gian tới là sẽ triển khai thêm những sản phẩm mới về huy động vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng lãi suất và các chính sách Marketing đối với khách hàng. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, Lạm phát 3 tháng đầu năm đã lên tới 9% vì vậy việc thực hiện các chính sách huy động vốn với ngân hàng sẽ là một trong những vấn đề hết sức khó khăn và cần thiết. Một số định hướng hoạt động tín dụng của Ngân hàng ngoại thương thời gian tới Tăng cường tiếp cận với các đơn vị hoạt động sản xuất trực tiếp, các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu, các đơn vị xây dựng… Rà soát, đánh giá lại những đơn vị kinh doanh có hiệu quả, ổn định để tăng tối đa dư nợ với những đơn vị này mà vẫn đảm bảo hạn chế rủi ro đồng thời hạn chế mức tín dụng dư nợ với các đơn vị có nợ vay quá hạn, kinh doanh không hiệu quả hoặc có hiệu quả thấp. Tích cực tìm kiếm các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tình hình tài chính tốt kinh doanh hiệu quả để đầu tư vốn lưu động và đầu tư dự án. Tăng cường cho vay với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu và tăng cường nguồn thu ngoại tệ cho Ngân hàng bằng nguồn vay ứng trước. Đặc biệt ngân hàng chú trọng, cung cấp những dịch vụ, tiện ích tốt nhất cho những khách hàng có mức dư nợ cao và có khả năng tài chính như Công ty xăng dầu quân đội, Công ty cổ phần FPT… Tăng cường mối quan hệ với các Ngân hàng khác để cho vay đồng tài trợ với các dự án tốt, khả thi. Đồng thời Ngân hàng cũng tăng cường triển khai các biện pháp Marketing giới thiệu hình ảnh của ngân hàng (những dịch vụ, sản phẩm Ngân hàng có lợi thế) với khách hàng. phát huy phong cách chuyên nghiệp trong việc phục vụ khách hàng để có thể tăng dư nợ mà vẫn đảm bảo an toàn - hiệu quả. Để thực hiện được điều này trong thời gian tới Ngân hàng phải tăng cường thực hiện các biện pháp đảm bảo tiền vay đối với khách hàng đặc biệt quan tâm tới những doanh nghiệp nhà nước, các công ty mới được cổ phần hóa và cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn hiệu quả. Xây dựng các chuẩn mực đánh giá, cho điểm, phân loại khách hàng tốt hơn trong tình hình thực tế hiện nay. Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng và tích cực tiếp cận khách hàng để nắm bắt các thông tin tình hình hoạt động của khách hàng. Đẩy mạnh mối liên kết giữa doanh nghiệp và Ngân hàng đồng thời đưa ra các kiến nghị đề xuất để tăng dư nợ và hạn chế rủi ro. Phối hợp tốt giữa các phòng đặc biệt là phòng QHKH và phòng ĐTDA. Phối hợp linh hoạt, phân định rõ trách nhiệm, chức năng và nhiệm vụ từng phòng nhằm hạn chế rủi ro đồng thời đẩy nhanh thời gian quyết định cho vay khắc phục tính chậm trễ do phải trải qua nhiều khâu nhiều bộ phận làm mất cơ hội đầu tư của khách hàng. Trong thời gian tới ngân hàng vẫn sẽ tiếp tục dành sự quan tâm sâu sắc đến những dự án dệt may. Đây là những dự án có vốn đầu tư lớn và thời gian vay vốn dài nên sẽ mang lại cho ngân hàng khoản dư nợ ổn định. Với tốc độ tăng trưởng khoảng 21%/năm, dự kiến NHTMCP NTVN sẽ có qui mô tổng tài sản đạt khoảng 357.000 tỷ VND(tương đương 22 tỷ USD) vào năm 2010 trong đó vốn chủ sở hữu dự kiến đạt 27.424 tỷ VND chiếm khoảng 7,7%. Lợi nhuận sau thuế đạt khoảng 4290 tỷ VND trong đó sẽ dành ra khoảng 1716 tỷ VND để chi trả cổ tức. Giữ vững mức hệ số an toàn vốn là 12%. Số lao động dự kiến năm 2010 sẽ tăng lên và đạt khoảng 9500 người với thu nhập bình quân mỗi người vào khoảng 12,5 triệu VNĐ. NHTMCP NTVN cũng Phấn đấu đạt, duy trì một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2015 như sau: » Vốn chủ sở hữu đạt mức từ 2,5 - 3 tỷ USD; » Tổng tài sản tăng trung bình 18%-20%/năm; » Phấn đấu năm 2015, tổng tài sản đạt 30 - 40 tỷ USD; » Tỷ lệ trung bình hàng năm ROE là trên 15%; » Tỷ lệ trung bình hàng năm ROA là 1,2%; 3.1.2. Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ♦ Định hướng hoạt động tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng của Ngân hàng Ngoại thương những năm tới Những năm tới là những năm có ý nghĩa hết sức quan trọng đến sự phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương. Trong những năm đó, Ngân hàng Ngoại thướng tiến hành tiến hành thực hiện chương trình tái cơ cấu, chuyển đổi sang mô hình cổ phần hóa, nhằm khắc phục các yếu kém trước đây và chuẩn bị đủ điều kiện cho việc phát triển một ngân hàng hiện đại mang tầm quốc tế trong môi trường hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Với 02 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành, Ngân hàng Ngoại thương từ vai trò độc quyền về kinh doanh ngoại hối chuyển vào môi trường tự do cạnh tranh với các ngân hàng thương mại khác bao gồm cả các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh. Hiện nay, ở Việt Nam, kinh doanh tín dụng là loại hình nghiệp vụ đem lại nguồn thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng có an toàn, hiệu quả mới được bảo toàn được vốn, đảm bảo cho ngân hàng ổn định và phát triển. Vì vậy, mục tiêu của chiến lược sử dụng vốn của Ngân hàng Ngoại thương là Tăng trưởng – An toàn – Hiệu quả. Xu hướng chuyển sang đầu tư dự án, mở rộng sản xuất thay vì đơn thuần kinh doanh thương mại tiếp tục phổ biến, tạo điều kiện thuận lợi để Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cho vay trung và dài hạn, tạo ra những thách thức trong quản trị thanh khoản. Cần đa dạng hóa các loại hình cho vay, bên cạnh nhóm khách hàng truyền thống là các Tổng Công ty Nhà nước lớn, tiếp tục phát triển nhóm khách hàng Doanh nghiệp vừa và nhỏ SME, Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI, thể nhân...góp phần thay đổi cơ cấu khách hàng theo hướng an toàn hơn. Cân đối khả năng huy động vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn để tăng trưởng tín dụng một cách phù hợp, đạt hiệu quả cao. Các thông tin cho thấy, nhu cầu của thị trường về vốn vay, đặc biệt là vốn vay trung và dài hạn là rất lớn. Tốc độ tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với tăng trưởng vốn huy động thực tế, mục tiêu tín dụng đề ra từ đầu năm và khẳ năng kiểm soát chất lượng tín dụng; đảm bảo vốn khả dụng cho nhu cầu thanh toán, an toàn hoạt động kinh doanh. Tăng cường hiệu lực kiểm tra, kiểm soát. Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ được tăng cường hơn nữa nhằm kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro để phòng tránh. Để làm tốt việc này, hiệu quả hoạt động của Tổ kiểm tra nội bộ tại các chi nhánh cần được tăng cường. Các phòng ban liên quan tại Hội sở chính (Kiểm tra nội bộ, Quản lý tín dụng, Công nợ...) cân phối kết hợp, thống nhất xây dựng chương trình kiểm tra hoạt động tín dụng tại các chi nhánh thường xuyên. Thành viên đoàn kiểm soát là những người am hiểu và có kinh nghiệm làm tín dụng. Duy trì và phát huy các biện pháp huy động vốn hữu hiệu, có khả năng cạnh tranh cao, thu hút vốn nhàn rỗi của dân cư và doanh nghiệp, củng cố uy tín trong nước và quốc tế, tranh thủ tiếp cận các nguồn vốn ủy thác. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động vốn từ thị trường trong nước. Tích cực sử ly nợ tồn đọng để tăng khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, trên cơ sở đảm bảo an toàn và hiệu quả tín dụng. Hoạt động tín dụng đảm bảo tăng trưởng – tốc độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với tăng trưởng và nhu cầu vốn của nền kinh tế, an toàn – tập trung vào các dự án hiệu quả, bảo vệ nguồn vốn và hiệu quả - không chỉ hiệu quả kinh tế của ngân hàng mà hiệu quả kinh tế xã hội. Do có thế mạnh về nguồn vốn Ngân hàng Ngoại thương có điều kiện thuận lợi mở rộng đối tượng cho vay. Ngân hàng chủ trương dành lượng vốn lớn để cấp tín dụng cho vác doanh nghiệp Nhà nước, các Tổng công ty, các dự án lớn và trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Mở rộng tín dụng đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. Có các giải pháp về khai tác tài sản xiết nợ, xử lý nợ khó đòi...nhằm thu hồi vốn về cho ngân hàng. Để thực hiện những định hướng mở rộng với phương châm tăng trưởng, an toàn, hiệu quả, và chú trọng tới các dự án lớn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn, cần có những giải pháp đúng đắn, kịp thời và phù hợp. ♦ Các mục tiêu của chiến lược tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng TMCP Ngoại thương đến năm 2010 bao gồm: Đa dạng hóa hoạt động trên nguyên tắc phát huy lợi thế kinh doanh trên lĩnh vực bán buôn, trong đó chú trọng mở rộng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hệ thống bán lẻ. Đa dạng hóa mặt hàng và lĩnh vực đầu tư theo hướng không tập trung quá lớn vào lĩnh vực thương mại và một số ngành như điện, than, dầu khí. Gắn liền tăng trưởng tín dụng với kiểm soát, nâng cao chất lượng tín dụng. Phát triển thêm nhiều sản phẩm cho vay trung và dài hạn mới. Tốc độ tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn trung bình đạt 30%/năm. Kiểm soát tốt nợ quá hạn dưới mức 2%/năm. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư Hiện nay ở Việt Nam, kinh doanh tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng là loại hình nghiệp vụ đem lại nguồn thu nhập cao nhất cho ngân hàng. Để hoạt động tín dụng có chất lượng và hiệu quả nhất thì công tác thẩm định dự án đầu tư là nhân tố quyết định nhất. Do đó, thẩm định đầu tư dự án có vai trò rất quan trọng, đòi hỏi các NHTM Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng là phải nhanh chóng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Có như vậy mới đảm bảo được mục tiêu của chiến lược sử dụng vốn của Ngân hàng Ngoại thương là Tăng trưởng_An toàn_ Hiệu quả. Theo nội dung văn bản “Hướng dẫn thẩm định dự án đầu tư trung dài hạn” của phòng Đầu tư dự án NHNTTW ban hành, các nội dung thẩm định đã được trình bày khá rõ ràng, trình tự và đầy đủ. Tuân thủ theo đúng quy trình đó, sẽ có được kết quả thẩm định chính xác và chặt chẽ phục vụ cho việc ra quyết định của ngân hàng. Tuy nhiên một số nội dung cần được sửa đổi theo hướng hoàn thiện, nhất là một số nội dung thẩm định trên phương diện tài chính. ● Tổng chi phí đầu tư và nguồn vốn Ngân hàng cần quan tâm tới tính chính xác, và quy định cụ thể những nội dung trong tổng tổng vốn đầu tư của một dự án. Hiện nay theo như tài liệu, NHNT đã phân chia tổng vốn đầu tư theo các tiêu thức: Vốn xây lắp, vốn thiết bị, vốn lưu động nhưng nên chăng có thêm một số tiêu thức khác như: Vốn đầu tư dự phòng, vốn đầu tư bù đắp chi phí khác…Vì theo đánh giá của cán bộ thẩm định hiện nay, tổng vốn đầu tư cho dự án khi trình lên thường có xu hướng thấp hơn tổng vốn thực tế khi dự án đi vào hoạt động. Lý do khi dự án đi vào hoạt động phát sinh nhiều hạng mục chi phí mới, hoặc chủ đầu tư tự ý giảm tổng vốn đầu tư để dễ nhận được sự chấp thuận của ngân hàng hơn. Do vậy để dự đoán chính xác tổng vốn đầu tư cũng như thuận lợi cho công tác hạch toán, ngân hàng không nên dựa vào hồ sơ chủ dự án trình lên mà cần tham khảo thông tin từ những dự án trong lĩnh vực tương tự đã và đang đi vào hoạt động. Ngoài ra, các dự án thường hoạt động trong nhiều năm, ngân hàng cần phân tích sự biến động của các nhân tố tác động tới tổng vốn đầu tư như lạm phát, giá bán,…để có những quyết định, phương án dự phòng xử lý kịp thời. Công tác thẩm định của ngân hàng phải được tiến hành độc lập, không nên chỉ dựa vào những tính toán do chủ đầu tư trình lên, tránh tình trạng tính thiếu hay tính thừa vốn đầu tư. Ngoài ra cần bổ sung thêm những khoản chi phí mà chủ đầu tư thường không tính đến hoặc bổ sung thêm những chi phí dự trù phát sinh làm tăng chi phí như: lãi vay trong thời gian thi công (chưa có sản phẩm, chưa thu được lợi nhuận), chi phí cho việc chuẩn bị hồ sơ dự án, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng. Nhất là chi phí đền bù giải phóng mặt bằng, nếu không tính chính xác sẽ dẫn đến dự án không thể đi vào hoạt động theo đúng tiến độ, khấu hao máy móc tăng cao. ●Xác định cơ cấu doanh thu, chi phí, luồng tiền của dự án. Sự phù hợp của kết quả dự toán doanh thu, chi phí với kết quả thực tế khi dự án đi vào hoạt động phụ thuộc nhiều vào việc phân tích thị trường đầu vào, đầu ra và các nhân tố ảnh hưởng. Khi thẩm định, ngân hàng cần đưa ra những mô hình phân tích khoa học, khách quan về cung cầu hiện tại cũng như trong tương lai, nguồn cung cấp nguyên liệu và khả năng tiêu thụ của sản phẩm, so sánh sản phẩm với các sản phẩm tương tự cạnh tranh trên thị trường, tất cả đều phải được lượng hoá cụ thể chứ không chỉ dựa vào cảm tính và công suất thiết kế của máy móc. Tất nhiên ngân hàng sẽ không đi làm công việc của một hãng Marketing, mà ngân hàng sẽ xem xét vấn đề trên góc độ của người cho vay. Về chi phí sản xuất, các loại chi phí như chi phí quản lý doanh nghiệp, lãi suất vay vốn lưu động ngân hàng không nên chấp nhận cách tính toán của chủ đầu tư một cách thụ động. Vì đây là những chi phí không được quy định rõ ràng việc tính toán không đủ thông tin nên ngân hàng cần so sánh với các chỉ tiêu của các dự án tương tự (dự án mới) và tham khảo chỉ tiêu cũ những năm trước ● Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính Hiện nay, lý thuyết cũng như thực tiễn để đánh giá tính khả thi về mặt tài chính một dự án đầu tư người ta thường sử dụng 4 phương pháp: phương pháp giá trị hiện tại ròng (NPV), phương pháp tỷ suất nội hoàn (IRR), thời gian hoàn vốn (PP), chỉ số doanh lợi (PI). Đây là các chỉ tiêu khá quan trọng, giúp cán bộ thẩm định có thể đưa ra những đánh giá khái quát về chất lượng công tác thẩm định. Tuy nhiên, việc áp dụng các phương pháp đánh giá này không nên cứng nhắc, nguyên tắc mà đòi hỏi ngân hàng phải vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với khả năng, điều kiện của mình và trong từng dự án cụ thể, có thể thêm một số chỉ tiêu như MIRR, BCR để việc phân tích được chặt chẽ và toàn diện hơn ● Về thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Đối với những chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước (chiếm đa số trong lượng khách hàng vay trung và dài hạn của ngân hàng), họ phải nộp một khoản là thu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, khoản này được trích sau khi tính lợi nhuận sau thuế. Vì vậy, khi tính CF (dòng tiền qua từng năm), ngân hàng cần quan tâm tới điều này. ● Về thời gian hoạt động Tính toán các chỉ tiêu liên quan tới giá trị thời gian của tiền thì phải căn cứ vào các dòng tiền phát sinh trong suốt cuộc đời dự án, không nên chỉ xem xét trong thời gian vay nợ như hiện nay. Với dự án không xác định được rõ thời gian hoạt động thì ngân hàng có thể lấy thời gian khấu hao thiết bị để tính toán. ● Việc phân tích tài chính dự án qua các năm hoạt động Ngân hàng cần yêu cầu chủ dự án lập các báo cáo tài chính tạm thời của các năm trong thời hạn vay của dự án đặc biệt là báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng cân đồi kế toán làm cơ sở xem xét tính hợp lý của kế hoạch chuẩn bị ngân quỹ, khả năng trả nợ , phân tích các chỉ số về khả năng thanh toán vốn..đánh giá mức độ rủi ro của khoản cho vay. Trong phân tích tài chính dự án năm, ngân hàng có thể sử dụng phương pháp tỷ lệ với một số chỉ tiêu chính như sau: khả năng thanh toán hiện hành, khả năng thanh toán nhanh, vốn lưu động ròng, hệ số nợ, ROA, ROE. Ngoài phân tích tỷ lệ, ngân hàng có thể sử dụng phương pháp phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, phương pháp phân tích tiền mặt..để đánh giá tài chính dự án năm ● Phân tích rủi ro Các phương pháp thẩm định hiện đại không chỉ phân tích dự án trong trạng thái tĩnh mà còn phân tích chúng trong trạng thái động. Như vậy, ngân hàng có thể đánh giá được mối tương quan giữa rủi ro và lợi ích của dự án. Mối tương quan hợp lý thì dự án sẽ được chấp nhận đồng thời ngân hàng có thể đề xuất các biện pháp quản lý, hạn chế rủi ro để đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng mà vẫn không bỏ qua các cơ hội cho vay tốt. Hai phương pháp mà ngân hàng có thể sử dụng phổ biến trước mắt là: phân tích độ nhạy và phân tích trường hợp. Phân tích mô phỏng tuy có độ chính xác cao nhưng phải có cơ sở dữ liệu phong phú, phải xác định được xác suất xảy ra và có phương tiện kỹ thuật hiện đại, áp dụng phương pháp này là chưa thực tế ở Việt Nam ●Phân tích độ nhạy Có thể mở rộng bằng cách kết hợp một số yếu tố đầu vào cùng một lúc cũng như chi tiết hơn các yếu tố biến động vì thực tế ít khi chỉ có một nhân tố biến động. Từ đó ngân hàng cót hể xác định chỉ số nhạy cảm hoặc vẽ đồ thị cho thấy độ co dãn của chỉ tiêu tài chính theo các biến đầu vào ● Phân tích tình huống Ngân hàng có thể yêu cầu chủ đầu tư đưa ra những phương án tốt nhất cho dự án (công suất, giá bán đạt cao nhất, vốn đầu tư thấp..) và phương án xấu nhất của dự án (công suất thấp, giá bán thấp, vốn đầu tư lớn…),xác suất xảy ra từng phương án và sau đó so sánh với trường hợp đã được dự tính trong dự án để đánh giá mức độ rủi ro lớn nhất hoặc thấp nhất của dự án. 3.2.2. Xây dựng chiến lược Marketting Ngân hàng Trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh là găy gắt giữa các ngân hàng thương mại đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần. Để thu hút khách hàng về phía ngân hàng, ngân hàng cần có chiến lược Marketting hiệu quả. Những chiến lược ngân hàng nhằm thu hút sử dụng vốn vay trung dài hạn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng đó là: ♦ Chiến lược khách hàng Quan hệ với khách hàng giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động ngân hàng vì khách hàng là một yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình kinh doanh và phân phối dịch vụ ngân hàng. Trong chiến lược này, ngân hàng cần đưa ra những chính sách khách hàng để giữ được khách hàng truyền thống, những khách hàng có quan hệ khép kín trọn gói. Ngân hàng cần coi trọng công tác chăm sóc khách hàng chu đáo hơn, nắm bắt kịp thời của khách hàng cũ, tích cực tìm kiếm thông tin về khách hàng mới, dự án mới có hiệu quả, sẵn sàng cạnh tranh bằng chất lượng, tinh thần thái độ phục vụ, đặc biệt là các dịch vụ hoàn hảo, chất lượng cao để phục vụ khách hàng. Ngân hàng cần tổ chức các lớp học tập về nghệ thuật giao tiếp và nắm bắt tâm lý khách hàng cho cán bộ ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng – họ là những người trực tiếp và thường xuyên giao dịch với khách hàng và quyết định phần lớn những những khoản vay có hiệu quả hay không. Thông qua công tác này, ngân hàng nắm bắt được chính xác được nhu cầu của khách hàng hiện tại và tiềm năng, nắm bắt được mặt hàng của đối thủ cạnh tranh cũng như chính mình. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra những quyết định phù hợp nhằm đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn của khách hàng. ♦ Chiến lược nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng Đây là chiến lược tiêu điểm quyết định sự thành công của ngân hàng trên thị trường. Chiến lược dịch vụ là cái khách hàng có thể nhận biết, cảm nhận được vì nó xuất phát từ nhu cầu cảu khách hàng và bằng sự đánh giá của khách hàng. Chất lượng dịch vụ cung ứng cần thường xuyên được cung cấp và cải tiến hơn. Trong cải tiến chất lượng dịch vụ đòi hỏi phải có bước đột phá, dù chất lượng không ngừng được cải tiền nhưng cũng cân phải sáng tạo, đưa lại sự nâng cấp vượt bậc về chất lượng. Cải tiến chất lượng cũng có thể là không đòi hỏi thêm chi phí cho khách hàng. Làm tốt công tác này, ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình, phục vụ tốt những khách hàng trung thành của Ngân hàng. Trong những năm qua, mặc dù ngân hàng đã khai thác, thẩm định được một số dự án đầu tư, bước đầu mở rộng được tín dụng trung và dài hạn và được đánh giá là có hiệu quả. Tuy nhiên, phạm vi và lĩnh vực đầu tư phần nào vẫn bị hạn chế. Khách hàng chủ yếu là các doanh nghiệp quốc doanh. Vì vậy, song song với việc tập trung hơn trong tận dụng các khả năng sẵn có, thường xuyên nắm chắc chiến lược phát triển của các Tổng công ty có truyền thống nhằm hỗ trợ họ về vốn, khai thác thêm được nhiều dự án đầu tư, xâm nhập vào thị trường mới, thu hút thêm khách hàng mới. Ngân hàng cần tiếp tục chủ động tìm kiếm, nắm bắt các nhu cầu vốn trung và dài hạn của khách hàng để đáp ứng. 3.2.3. Ngăn ngừa, hạn chế và xử lý các khoản nợ quá hạn Vì đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn là vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm do đó khoản cho vay trung và dài hạn chứa rủi ro cao. Khi phát hiện khoản vay có dấu hiệu không thu hồi được, ngân hàng cần có các biện pháp ngăn ngừa sau: Quản lý, giám sát khoản vay: ngân hàng thực hiện giám sát và thu thập các báo cáo tài chính mới nhất của khách hàng. Ngân hàng phải yêu cầu cung cấp các báo cáo tài chính cầu thường kỳ hơn nếu thấy ngân hàng đang gặp có dấu hiệu gặp khó khăn trong việc trả nợ cho ngân hàng. Rà soát và xem lại tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng: Ngân hàng cần xem xét liệu tài sản đảm bảo này có bán được trong điều kiện kinh doanh bình thường không và như thế nào, bán trong điều kiện kinh doanh không bình thường như thế nào. Rà soát ngay hồ sơ pháp lý của khoản vay, yêu cầu bổ sung khi cần thiết. Thực hiện liên kết với các tổ chức tín dụng khác, giữa ngân hàng với các tổ chức phi ngân hàng, ngân hàng và các định chế tài chính khác. Việc làm này có tác dụng: ngân hàng có được các thông tin quý báu để nhìn nhận đánh giá khách hàng đúng đắn hơn, ngăn ngừa được sự ham muốn mưu lợi bất chính của khách hàng, nâng cao nghiệp vụ thông tin giữa các bộ phận chuyên môn của các tổ chức tín dụng với nhau, tăng năng lực cạnh tranh với các tổ chức tài chính nước ngoài, thống nhất trong chính sách giảm bớt sự biến động trên thị trường tiền tệ. Khi các vay của khách hàng bị xuống hạng, ngân hàng cần có những biện pháp khắc phục sau: Yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo nợ vay. Nếu thấy việc xuống hạng của khoản vay là do việc xác định kỳ hạn trả nợ hay thời hạn cho vay la chưa phù hợp với chu kỳ kinh doanh và thu nhập của khách hàng, ngân hàng có thể cơ cấu lại kỳ hạn trả nợ khi xét thấy khách hàng có khả năng trả nợ đầy đủ trong tương lai. Nếu khoản nợ quá hạn xảy ra, cần có những biện pháp xử lý cụ thể như sau: Phân tích nguyên nhân gây ra nợ quá hạn, từ đó có biện pháp xử lý thích hợp. Đối với những khách hàng mà nợ quá hạn có tính chất tạm thời, ngân hàng xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định cho vay. Việc cho vay đảm bảo thu hồi vốn, giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ có thể áp dụng biện pháp xác định cơ cấu nợ. Căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng,khách hàng chứng minh đựoc khả năng hoàn trả khi đến hạn thì ngân hàng sẽ cơ cấu lại nợ. Ngân hàng phải giám sát trật chẽ các khoản nợ và hoạt động của khách hàng để thực hiện việc cơ cấu lại nợ. Đối với khách hàng gặp khó khăn tài chính, kinh doanh thua lỗ, khó khắc phục, ngân hàng cần quản lí chặt chẽ khoản vay của khách hàng như sau: Tìm các khách hàng có khả năng về mặtt tài chính nhận nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản, đảm bảo khả năng trả nợ. Ngân hàng rà soát tài sản đảm bảo, tình trạng của tài sản, hồ sơ pháp lí để có thể phát mại tài sản đảm bảo cho khoản nợ. Yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay. Thực hiện biện pháp khuyến khích khách hàng trả nợ như: miễn giảm một phần lãi suất, tính lại lãi, không tính lãi phạt,... áp dụng đối với khách hàng có thiện chí trả nợ. Sử dụng quỹ dự phòng rủi ro đối với khoản nợ xấu: các khoản nợ mà ngân hàng đã áp dụng hết các biện pháp khắc phục và xử lý nhưng vẫn không thu hồi được nợ, hoặc những khoản nợ đã phát mại hết tài sản nhưng vẫn còn chênh lệch âm ( - ) cả gốc và hoặc những khoản vay bị rủi ro do nguyên nhân khách quan mà ngân hàng không thể khắc phục được. 3.2.4. Đa dạng hóa lĩnh vực cho vay trung và dài hạn Hiện nay, các doanh nghiệp quốc doanh là những doanh nghiệp chủ yếu trong việc sử dụng các khoản cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Các doanh nghiệp này hoạt động vẫn còn phụ thuộc vào nhà nước, không linh hoạt với tình hình mới nên hoạt động chưa hiệu quả. Công suất không hiệu quả, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Dẫn đến giảm lợi nhuận nhân ngân hàng, nợ quá hạn cao, ngân hàng phải gánh chịu rủi ro tín dụng và có khả năng mất vốn. Ngân hàng cần cơ cấu lại tín dụng trung và dài hạn. Mở rộng quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi tỷ trọng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang chiếm tỷ trọng lớn và hoạt động hiệu quả, nhạy cảm với sự biến động của thị trường. Ngân hàng cần tạo điều kiện hơn nữa cho doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn trung và dài hạn. Ngành nghề kinh doanh cũng cần được đa dạng hóa, nhằm phân tán rủi ro. Cần giảm chỉ định cho vay theo chỉ định Nhà nước, chủ động tìm đối tác cho vay, đẩy mạnh hoạt động cho vay thương mại. Ngân hàng cần nghiên cứu kỹ thị trường, nắm vững các nhu cầu của thị trường, kịp thời đưa ra các dịch vụ mới phù hợp hơn nữa, đồng thời tạo ra sự độc đáo trong kinh doanh. Ngân hàng cũng cần phải nghiên cứu kỹ sự biến đổi về nhu cầu sản xuất và tiêu thụ của khách hàng để cải tiến, hoàn thiện và đổi mới các hình thức cấp tín dụng trung và dài hạn. Bên cạnh đó, cần tư vấn cho khách hàng trong việc lựa chọn các dịch vụ phù hợp với nhu cầu và mục đích của khách hàng. Như vậy, việc đa dạng hóa trong việc cho vay trung và dài hạn giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro, đồng thời thu hút thêm khách hàng mới, giảm chi phí và tăng thu nhập cho ngân hàng. 3.2.5. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, điều hành Cơ cấu lại mô hình tổ chức và thực hiện các hoạt động hướng tới khách hàng. Mô hình phòng ban theo nghiệp vụ hiện nay có nhiều điểm bất hợp lý như chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, mối quan hệ giữa các bộ phận lỏng lẻo, thiếu sự phối hợp. Vì thế cần phải cơ cấu lại theo hướng đối tượng khách hàng kết hợp với sản phẩm. Đối với cán bộ, tiến hành phân công công việc theo năng lực, trình độ và kinh nghiệm của từng cán bộ, nhóm cán bộ, tránh tình trạng giao dự án theo kiểu lần lượt dẫn đến năng lực chuyên môn không đáp ứng được nhiệm vụ được giao. Kết hợp giữa các cán bộ thâm niên, có kinh nghiệm với các cán bộ trẻ có năng lực, lòng nhiệt tình, khả năng sáng tạo. Có thể chuyên môn hóa theo nhóm, nghành nghề, giúp cán bộ thẩm định, tạo mối quan hệ với khách hàng, nhưng cũng cần chú ý sự thiếu khách quan khi thẩm định do các mối quan hệ xã hội chi phối. Có chế độ khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, tránh tình trạng bình quân chủ nghĩa, lấy kết quả của công việc làm thước đo đánh giá hiệu quả làm việc. Có như vậy, buộc người cán bộ phải thực hiện nghiêm chỉnh, chấp hành đúng các quy định, nguyên tắc được đề ra, cũng như có chế độ đãi ngộ xứng đáng để khuyến khích tin thần làm việc. 3.2.6. Nâng cao chất lượng cán bộ Ngân hàng Trong bất kỳ trường hợp nào, yếu tố con người cũng đóng một vai trò quan trọng. Để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn thì chất lượng cán bộ là là một trong những nhân tố quyết định. Nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng an toàn, đủ nhân lực để đón nhận bất cứ cơ hội kinh doanh mới, việc tăng cường lực lượng cán bộ tín dụng cả về số lượng và chất lượng cần được coi là nhiệm vụ của ngân hàng Ngoại thương trong thời gian sắp tới. Lựa chọn được cán bộ đủ kiến thức và đạo đức nghề nghiệp làm công tác tín dụng. Vấn để tuyển dụng, đào tạo cán bộ cần được tiến hành thường xuyên nhằm đáp ứng đủ số lượng cán bộ tín dụng cho Ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần phải được đào tạo những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ tín dụng. Có chính sách hợp lý để thu hút những người có trình độ năng lực, những chuyên gia giỏi về làm việc hoặc cộng tác với ngân hàng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến cán bộ tín dụng (chú trọng kỹ năng đánh giá, phân loại khách hàng và kỹ năng thẩm định dự án) nhằm: thứ nhất, giúp cán bộ tín dụng tăng cường khả năng đánh giá, thẩm định sâu sát với món vay hơn; thứ hai, nâng cao trình độ hiểu biết kỹ thuật của cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định về ngành sản xuất mà ngân hàng đầu tư chủ yếu để có nhận xét, đánh giá đúng những dự án sản xuất kinh doanh; thứ ba, nâng cao hiểu biết của cán bộ nghiệp vụ vể kiền thức pháp luật, nhất là bộ luật dân sự, luật đất đai, luật phá sản và đặc biệt là luật ngân hàng để thực hiện, xử lý công việc chặt chẽ, không để khách hàng lợi dụng. Ngoài ra, định kỳ ngân hàng có thể tổ chức hội thảo đánh giá tình hình hoạt động tín dụng, phân tích các nguyên nhân sai sót, kết quả, ...để đúc rút kinh nghiệm cho cán bộ, tránh vấp phải trong tương lai. 3.2.7. Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng Công nghệ ngân hàng là một trong những chìa khóa để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Với cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện có, có thể nói rằng Ngân hàng Ngoại thương xứng đáng là ngân hàng đi đầu trong việc hiện đại hóa cơ sở vật chất. Nhưng để có thể phát huy vai trò của mình cũng như tiến tới hội nhập thị trường ngân hàng tài chính khu vực, Ngân hàng Ngoại thương cần tiếp tục đổi mới công nghệ. Cần hoàn thiện hệ thống trang thiết bị thông tin trong toàn hệ thống. Trang bị hệ thống máy tính hiện đại với các phần mền chuyên dụng xuống cơ sở, tránh tình trạng chênh lệch giữa các chi nhánh lớn và chi nhánh nhỏ, các máy giao dịch tự động tại các nơi công cộng. Các chương trình phần mềm cần được cập nhật thường xuyên hơn và mua nếu cần thiết. Mở các khóa đào tạo ngắn ngày, nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên, thích ứng nhanh với các máy móc và trang thiết bị mới. Ngân hàng Ngoại thương đã có một trung tâm tin học lớn với rất nhiều các cán bộ, kỹ sư có nhiều kinh nghiệm, đây là điều kiện tốt để ngân hàng phát triển dự án hiện đại hóa theo hướng đã định. 3.2.8. Nâng cao hiệu lực kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Công tác kiểm tra kiểm soát có nhiệm vụ giám sát và kịp thời phát hiện những sai sót trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn. Làm tốt công tác này, chất lượng tín dụng trung và dài hạn được nâng cao. Công tác kiểm tra, kiểm soát trong hoạt động tín dụng phải được thực hiện thường xuyên, kịp thời và trở thành những hoạt động cơ bản của công tác quản trị điều hành. Đào tạo lại, đào tạo mới đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra kiểm soát hoạt động tín dụng, không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn có khả năng phân tích, tổng hợp và đánh giá nội dung các khâu mà chỉ ra được những sai sót và đề ra biện pháp khắc phục kịp thời. Đặc biệt quan tâm đến khâu kiểm soát trước khi cho vay. Thực hiện phân cấp thẩm quyền phê duyệt đối với các khoản vay, đối với những khách hàng vay lâu dài thì thẩm định tín dụng phải có mặt cán bộ phòng kiểm soát. Tiến hành kiểm tra kiểm soát thường xuyên đối với tất cả các khoản vay của khách hàng, theo dõi tốc độ trả nợ, tốc độ gia tăng khoản nợ, báo với các phòng chức năng có biện pháp đối ứng thích hợp. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với Nhà nước Có thể thấy rằng môi trường kinh tế - xã hội ổn định phát triển là cơ sở cho các hoạt động đầu tư. Hệ thống luật, chính sách, quy định của nhà nước rất quan trọng tác động tới mọi mặt của nền kinh tế xã hội…Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động của ngành ngân hàng nói chung khá nhạy cảm, phản ứng nhanh nhạy với những thay đổi dù nhỏ của nền kinh tế vĩ mô. Một hạn chế phổ biến hiện nay là môi trưòng vĩ mô còn thiếu tính ổn định và nghiêm minh về luật pháp và chính sách. Hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng còn gặp nhiều khó khăn về mặt pháp lý do hệ thống pháp luật Việt Nam khi chuyển sang cơ chế thị trường đang trong quá trình hình thành chưa đồng bộ, có lĩnh vực chưa có hoặc quy định chưa thống nhất, chưa chặt chẽ và thường xuyên thay đổi. Do vậy, nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo tính đầy đủ thống nhất cũng như nâng cao hiệu quả hiệu lực trong sự điều chỉnh của pháp luật với hoạt động sản xuất kinh doanh. Các quy hoạch ngành, định hướng phát triển ngành, vùng cần được xây dựng cụ thể, đảm bảo tính khoa học, hiệu quả và ổn định. Như vậy nó sẽ là cơ sở tham khảo khi cấp tín dụng trung và dài hạn cũng như hạn chế những rủi ro khi có sự thay đổi đột ngột trong định hướng chính sách của chính phủ, khiến cho dự án khi hoạt động có thể khó khăn. Các chính sách về khuyến khích, hạn chế cho hoạt động xuất nhập khẩu cần được công khai hoá. Một vấn đề Nhà nước không thể không quan tâm là trong hoàn cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay, thông tin trở thành một tài sản quý giá thì việc ra đời những tổ chức chuyên cung cấp thông tin là cần thiết miễn là những thông tin mua bán trao đổi ấy không bị pháp luật cấm. Nhà nước cần quan tâm tới một hình thức mới này. Các trung tâm trên sẽ là nguồn thông tin đáng kể mà ngân hàng sẽ sử dụng 3.3.2. Kiến nghị với chính phủ và các bộ ngành liên quan Chính phủ cần có những biện pháp hành chính và kinh tế buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế toán chính sác, đầy đủ, kịp thời nhằm tạo thuận lợi cho Ngân hàng trong việc đánh giá doanh nghiệp, các dự án đầu tư cũng như giám sát các khoản vay sau khi giải ngân. Dư nợ trung và dài hạn hiện nay chủ yếu tập trung vào các doanh nghiệp Nhà nước, dự án đầu tư của Nhà nước. Chính phủ cần chấn chỉnh lại hoạt động của các doanh nghiệp, dự án này, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả của dự án, đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, chính phủ cần sớm ban hành chính sách hỗ trợ để nâng cao năng lực của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để được tiếp cận vốn trung và dài hạn của Ngân hàng. Hàng năm, các bộ, ngành cần hệ thống hóa thông tin liên quan tới các lĩnh vực mình quản lý, công khai tình hình hoạt động, phát triển, xây dựng định mức, thông số kỹ thuật của ngành, lĩnh vực mình quản lý. Mỗi giai đoạn cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, đây là cơ sở quan trọng công tác tín dụng trung và dài hạn được hiệu quả hơn tại các ngân hàng, đặc biệt là công tác thẩm định. Việc cấp tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thường là đối với những dự án lớn. Những dự án này, trước khi chủ đầu tư xin vay vốn ngân hàng thường được các cơ quan chức năng có thẩm quyền phê duyệt, thẩm định. Để nâng cao tín hiệu quả trong việc cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng, đề nghị các cơ quan hữu quan cần khách quan, chính xác trong thẩm định dự án. Ngoài ra, đối với các dự án vay vốn tín dụng nhà nước, Ngân hàng cần được tham gia thẩm định ngay từ đầu, không để lặp lại tình trạng hầu hết các dự án vay vốn tín dụng nhà nước là do chỉ thị cấp trên, ngân hàng không có quyền quyết định, nhằm đảm bảo an toàn vốn cho ngân hàng cũng như hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước. 3.3.3. Kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước Ngân hàng Nhà nước là cơ quan trực tiếp điều hành chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Vì vậy, các chính sách của Ngân hàng Nhà nước có ảnh hưởng lớn đến các Ngân hàng thương mại. Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, hội thảo ngắn ngày cho các cán bộ tín dụng trong ngành, cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho công tác thẩm định, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng trong các ngân hàng thương mại hiện nay. Vai trò điều phối của trung tâm thông tin tín dụng CIC cần được phát huy và nâng cao, là đầu mối của việc thu thập trao đổi thông tin, rút kinh nghiệm giữa các ngân hàng thương mại, giữa hệ thống ngân hàng với các cơ quan quản lý kinh tế như: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính, Tổng Cục Thuế… Việc trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại không dễ dàng gì. Vì vậy, ngân hàng thương mại hàng năm có thể tổ chức những hội nghị kinh nghiệm toàn ngành để tăng cường sự hiểu biết và nâng cao sự hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác tín dụng. KẾT LUẬN Chất lượng tín dụng trung và dài hạn có vai trò quyết định đến chất lượng tín dụng từ đó ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương. Với mục tiêu mở rộng và không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã thực thi những biện pháp cần thiết để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng mình. Nhưng việc xây dựng và hoàn thiện những giải pháp này cũng gặp phải những hạn chế nhất định và đòi hỏi có thời gian. Đề tài nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một đề tài phức tạp và tương đối rộng. Với khả năng có hạn, trong khuôn khổ chuyên đề của mình, em chỉ xin được tập trung làm rõ vào một số vấn đề chính sau: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại, qua đó tầm quan trọng của tín dụng trung và dài hạn đối với ngân hàng thương mại, nội dung, các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn và các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại. Giới thiệu tổng quan về Ngân hàng ngoại thương Việt Nam và kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, đi sâu vào thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua. Những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở những mặt còn yếu kém của tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng, đưa ra những giải pháp đối với ngân hàng và một số kiến nghị đối với Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan ban nghành khác...Em hy vọng các giải pháp và kiến nghị đã đề xuất sẽ đóng góp phần nào để nâng cao chất lượng thẩm định dự án tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Một lần nữa, cho em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn PGS.TS. Đặng Trần Khâm và các cán bộ phòng Đầu tư dự án Sở Giao Dịch - Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS.TS.Phan Thị Thu Hà – 2007- Giáo trình “Nghiệp vụ ngân hàng thương mại” – NXB Đại học kinh tế Quốc Dân. PGS.TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên) – 2002 – Giáo trình “Lý thuyết tài chính” – NXB Thống kê. Tài liệu tập huấn quy trình tín dụng mới – 2006 – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bản công bố thông tin – 2007 – Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Tạp chí khoa học ngân hàng. Thời báo kinh tế Việt Nam. MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Tổ chức và hoạt động của Công ty mẹ - NHTMCP NTVN 34 Bảng 1: Tình hình hoạt động của NHTMCP NTVN 40 giai đoạn 2005-2007 40 Bảng 2: Tình hình huy động và sử dụng vốn giai đoạn 2005-2007 41 Bảng 3: Chất lượng hoạt động tín dụng của NHNT giai đoạn 2005-2007 46 Bảng 4: Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro 46 tại thời điểm 31/12/2007 theo Quyết định 493 của NHNN 46 Bảng 5: Hoạt động thanh toán quốc tế của NHNT 2004-2006 47 Bảng 6: Một số chỉ tiêu chủ yếu hoạt động kinh doanh chứng khoán giai đoạn 2005 -2007 50 Bảng 7: Một số chỉ tiêu chủ yếu hoạt động cho thuê tài chính 50 Bảng 8: Nguồn vốn dùng để cho vay trung và dài hạn 60 Bảng 9: Quy mô dư nợ tín dụng trung và dài hạn 63 của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 63 Bảng 10: Bảng hệ số sử dụng vốn trung và dài hạn của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam 64 Bảng 11: Nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam 65 Bảng 12: Thu nhập từ cho vay trung và dài hạn 67 của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 67 Biểu đồ 1: Tình hình dư nợ của NHNT 2001 – 2007 44 Biểu đồ 2: Quy mô dư nợ tín dụng trung và dài hạn 63

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34900.doc
Tài liệu liên quan