Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty Bảo Minh Hà Nội

Đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và hiện đại hoá nền kinh tế. Sự bùng nổ của các phương tiện giao thông và đồng hành với nó là tai nạn giao thông đang là những vấn đề nhức nhối của xã hội. Bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là tất yếu khách quan nhằm góp phần với xã hội hạn chế tối đa tác hại của tai nạn giao thông đối với cuộc sống của con người. Nghiệp vụ này hứa hẹn sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 7% năm và với một dân số trẻ, thị trường bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng với mỗi công ty bảo hiểm. Sự canh tranh của các công ty trong nghiệp vụ này sẽ đem đến cho người dân một dịch vụ bảo hiểm tốt. Ngoài ra công tác đề phòng hạn chế tổn thất của các công ty bảo hiểm sẽ đem lại cho xã hội nhiều lợi ích.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại công ty Bảo Minh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u nhập của người dân ngày một tăng và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng ổn định và phát triển hơn. Nhu cầu về bảo hiểm tăng. Đây chính là điều kiện để Bảo Minh không những chỉ tồn tại mà còn phát triển và phát triển hơn nữa. Một nền chính trị ổn định cùng một môi trường đầu tư ngày càng thuận lợi đã đưa nước ta trở thành một trong những thị trường đầy tiềm năng đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nhờ đó Bảo Minh một mặt thu hút vốn, học hỏi kinh nghiệm quản lý; mặt khác, Bảo Minh sẽ có những khách hàng lớn đến và mua những sản phẩm bảo hiểm của mình. Bảo Minh là một Tổng công ty cổ phần bảo hiểm, chính vì vậy mà công ty có lợi thế là các cổ đông sáng lập đều là những tập đoàn kinh tế lớn, hỗ trợ rất nhiều cho Bảo Minh về vốn và đồng thời họ là những khách hàng lớn, quan trọng của Bảo Minh. Với hơn 1000 nhân viên và 5000 đại lý, Bảo Minh có một đội ngũ cán bộ trẻ, có trình độ, năng động, sáng tạo và rất nhiệt tình đối với công việc. Họ chính là những nhân tố cơ bản giúp cho Bảo Minh có thể đứng vững trên thị trường bảo hiểm đầy sôi động và trở thành một trong những công ty bảo hiểm có uy tín ở Việt Nam. b. Thành tựu Với những thuận lợi trên, trong năm 2004, doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Minh đạt gần 1.100 tỷ đồng, tăng trên 3% so với năm 2003. Bảo Minh đã giải quyết bồi thường và trả tiền bảo hiểm cho hàng nghìn vụ tổn thất, với số tiền trên 317 tỷ đồng. Các vụ tổn thất điển hình được Bảo Minh bồi thường kịp thời là Công ty Bút bi Thiên Long 7 tỷ đồng, Xí nghiệp Giày Thượng Thăng 3,5 triệu USD, Công ty Pou Yeun 1,5 triệu USD, Công ty Phú Thịnh 7 tỷ đồng. Năm 2004 cũng là năm hoạt động đầu tư kinh doanh tiền tệ đạt kết quả khả quan: Bảo Minh đã tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào sự phát triển chung của đất nước. Với tổng số vốn đầu tư tại thời điểm cuối năm là 918 tỷ đồng (tăng trưởng 58% so với năm 2003), hoạt động đầu tư đã thu lãi được gần 50 tỷ đồng. Thị phần bảo hiểm phi nhân thọ của Bảo Minh cũng tăng lên đáng kể, chỉ đứng thứ 2 sau Bảo Việt phi nhân thọ. Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2004 Về công nghệ thông tin, Bảo Minh đã triển khai thành công dự án Hệ thống thông tin tài chính kế toán (FAST) trên nền giải pháp phần mềm SAP trong phạm vi toàn Tổng công ty nhằm đáp ứng các thay đổi về chuẩn mực kế toán theo yêu cầu của Nhà nước và theo các chuẩn mực quốc tế, chuẩn bị điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Trong công tác đào tạo, Bảo Minh đã đạt được một số kết quả nhất định: tổ chức 16 lớp học cho cán bộ nhân viên; 75 lớp đại lý với 1479 đại lý theo học và đã cấp chứng chỉ cho 1412 đại lý; hỗ trợ đào tạo trực tiếp 10 lớp với 494 lượt người tham gia. Bảo Minh cũng rất quan tâm đến công tác đầu tư cơ sở vật chất: tập trung nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất cho trụ sở chính và các công ty thành viên. Ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ kinh doanh, Bảo Minh tích cực tham gia vào công tác nhân đạo và hoạt động từ thiện xã hội. Bảo Minh đã chi hàng tỷ đồng để ủng hộ các Quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng nhà tình nghĩa, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam Anh hùng, Quỹ bảo trợ trẻ em Việt Nam, Quỹ ủng hộ nạn nhân chất độc màu da cam, ủng họ người tàn tật, Hội chữ thập đỏ. c. Khó khăn Ra đời trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm Việt Nam hoạt động rất sôi nổi, mạnh mẽ và cạnh tranh rất gay gắt, quyết liệt. Khó khăn chính đối với Bảo Minh hiện nay là làm thế nào có chiến lược kinh doanh hợp lý, thu hút thêm nhiều khách hàng trong khi đa số người dân, cơ quan doanh nghiệp đều tham gia bảo hiểm ở những công ty có kinh nghiệm lâu năm như Bảo Việt phi nhân thọ, PJICO. Vấn đề tâm lý khách hàng mà công ty cần vượt qua là các khách hàng còn e ngại khi tham gia bảo hiểm tại các công ty thành viên vì họ chưa tin vào năng lực, trình độ hoạt động kinh doanh của loại hình doanh nghiệp cổ phần, cho rằng công tác giải quyết khiếu nại, bồi thường hay chậm trễ vì phải thông qua nhiều khâu, nhiều cấp. Thêm vào đó là đội ngũ cán bộ nhân viên của Bảo Minh hầu hết là những người trẻ tuổi, còn ít kinh nghiệm thực tế. 2. Công ty Bảo Minh Hà Nội. Ngay từ khi mới thành lập năm 1994 Công ty Bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh đã thiết lập một chi nhánh tại Hà Nội . Cho đến năm 2004, khi Bảo Minh được cổ phần hoá thành Tổng công ty cổ phần Bảo Minh, chi nhánh Bảo Minh tại Hà Nội cũng được nâng cấp thành công ty thành viên với tên gọi là Công ty Bảo Minh Hà Nội . Sau hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong cơ chế thị trường cạnh tranh, uy tín của Bảo Minh nói chung và của Bảo Minh Hà Nội nói riêng đã dần dần được khẳng định trên thị trường bảo hiểm. Với đội ngũ cán bộ nhân viên đông đảo ngày càng tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, sáng tạo, đoàn kết linh hoạt thích ứng với công việc. Đời sống của cán bộ nhân viên được nâng cao, tinh thần phấn khởi, hoạt động công ty ổn định tăng trưởng, doanh thu luôn vượt kế hoạch được giao. Tuân theo cơ cấu tổ chức chung của Tổng công ty, đồng thời với những điều kiện hoàn cảnh riêng có, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của Bảo Minh Hà Nội được tổ chức như sau: SƠ ĐỒ CƠ CẤU TỔ CHỨC CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI PHÓ GIÁM ĐỐC Phòng TKhai thác 10 Phòng Khai thác 9 Phòng Khai thác 8 Phòng Khai thác 7 Phòng Khai thác 6 Phòng Khai thác 5 Phòng Khai thác 4 Phòng Khai thác 3 Phòng Khai thác 2 PHÒNG PHH PHÒNG QLĐL PHÒNG TCHC PHÒNG KTTV PHÒNG ĐTƯ KTHÁC PHÒNG HÀNG HẢI Phòng Khai thác 1 PHÓ GIÁM ĐỐC GIÁM ĐỐC Trong đó các phòng khai thác phụ trách các khu vực khác nhau trong địa bàn thành phố Hà Nội đó là: PKT 1: Q. Sóc sơn (chuẩn bị thành lập) PKT 2: Q. Hoàn kiếm PKT3 :Q. Hoàng Mai + Thanh Trì PKT 4: Q. Thanh Xuân PKT 5: Q. Ba Đình PKT 6: Q. Đống Đa PKT 7: Q. Hai Bà Trưng PKT 8: Q. Long Biên + Gia Lâm PKT 9: Q.Câu Giấy + Từ Liêm PKT 10: Q. Tây Hồ (chuẩn bị thành lập) Theo tổng kết sơ bộ về tình hình hoạt động kinh doanh trong năm 2005 vừa , Bảo Minh Hà Nội có doanh thu phí đạt 88 tỷ đồng ( tăng trưởng khoảng 10% so với năm 2004 là 80 tỷ đồng ) , trong đó nghiệp vụ đạt hiệu quả cao nhất là bảo hiểm tài sản . Trong khi đó, chi phí của Bảo Minh Hà Nội bao gồm: chi bồi thường chiếm khoảng 35.2 tỷ ( tỷ lệ bồi thường khoảng 40% doanh thu ), chi quản lý chiếm 5%, chi hoa hồng là 12%. Với những thành tích trên, năm vừa qua Bảo Minh Hà Nội nhân được nhiều sự khen thưởng của Tổng công ty, được công nhận là đợn vị kinh doanh tiên tiến trong năm . II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI. Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là một nghiệp vụ rất quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự là một thị trường đang có sự cạnh tranh rất quyết liệt của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ bởi đây là một thị trường lớn với doanh thu hàng năm lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng. Việt Nam đang trên đà phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hàng năm hứa hẹn sẽ là một thị trường màu mỡ của các công ty bảo hiểm trong thời gian tới trong đó không thể không kể tới mảnh đất của bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảo Minh chắc chẵn cũng không ngồi ngoài cuộc. Nắm lấy cơ hội này công ty Bảo Minh đang có một chiến lược lớn trong việc đẩy cao thị phần của mình trong nghiệp vụ bảo hiểm cơ bản này. Trong những tháng đầu năm 2006 chương trình khuyến mãI “ HáI lộc đầu xuân ” của Bảo Minh thực sự là một cuộc cách mạng mới của công ty và đã đưa thương hiệu Bảo Minh đến gần hơn với người dân. Thành công của “ HáI lộc đầu xuân ” đã đem lại cho Bảo Minh nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng một bước nhảy vọt trong thị trường bảo hiểm trách nhiệm dân sự và hứa hẹn sẽ gặt háI nhiều thành công trong những năm tới. Tuy nhiên nói vậy nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Bảo Minh đã hoàn thiện và không có những vấn đề cần khắc phục. Để đưa ra được những đánh giá chính xác nhất trước hết ta đI vào xem xét và nghiên cứu về mọi hoạt động trong công ty Bảo Minh Hà Nội thông qua từng khâu trong nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thông thường sẽ trảI qua những khâu cụ thể sau: khâu khai thác, khâu đề phòng và hạn chế tổn thất, khâu giám định bồi thường. 1. Khâu khai thác. Luật pháp đã quy định tất cả các loại xe cơ giới tham gia giao thông trên đất nước Việt Nam đều phải tham gia bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba để đảm bảo quyền lợi cho mọi người tham gia giao thông. Tuy nhiên có một điều dễ nhận ra là trên thực tế không phải chiếc xe nào cũng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và cũng không phải bất kì ai tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng tìm đến công ty mình. Vấn đề là làm thế nào để thu hút được càng nhiều khách hàng đến với mình nhất. Người mua bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thông thường là chủ xe hoặc là người đại diện cho một tổ chức nào đó có xe tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự. Trong thời gian gần đây, sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện giao thông đặc biệt là ôtô và xe máy ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình khai thác bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của các công ty bảo hiểm tại Việt Nam. Chỉ cần nhìn vào số lượng xe máy và ôtô tăng lên trong những năm vừa qua có thể thấy được cơ hội lớn của các công ty bảo hiểm như thế nào. Bảng 3: Số lượng xe tham gia giao thông. Năm Tổng số Ôtô Xe máy 2001 8.916.134 557.092 8.359.042 2002 10.870.401 607.401 10.273.000 2003 12.054.000 675.000 11.379.000 2004 13.249211 756.378 12.492.833 2005 14.469.891 857.712 13.612.179 (nguồn: tạp chí giao thông vận tải) Nhìn vào bảng thống kê trên có thể thấy số lượng xe cơ giới có xu hướng tăng nhanh và chưa có dấu hiệu giảm trong một vài năm tới. Nguyên nhân chính của hiện tượng này có thể thấy là những nguyên nhân sau: - Thứ nhất có thể thấy nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang phát triển với tốc độ cao. Vì vậy cần thiết có thêm nhiều xe cơ giới tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này là rất rõ ràng bởi giao thông là mạch máu của nền kinh tế, là yếu tố không thể thiếu đối với mỗi sự phát triển. - Thứ hai, đó là đời sống của người dân đã được nâng cao trong thời gian vừa qua, nhu cầu đI lại cũng rất lớn đối với một quốc gia có dân số đông thứ 13 thế giới. Việc mua một chiếc xe không còn là vấn đề quá lớn đối với người Việt Nam nữa. - Thứ ba, đó là do hệ thống đường xá giao thông còn kém phát triển. Hệ thống giao thông công cộng cũng phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu đI lại của người dân. Do đó đa số người dân ở thành thị chọn cho mình phương tiện giao thông cá nhân là phương tiện giao thông chính. Có một thực tế là một gia đình ở Việt Nam có thể có tới 5,6 chiếc xe thậm chí là hơn, và mỗi thành viên trong gia đình đều có một chiếc xe cho riêng mình. - Thứ tư, đó là do các nhà sản xuất đã chú ý hơn đến thị trường xe máy ôtô Việt Nam, những chiếc xe cả ôtô và xe máy có chất lượng tốt với nhiều mức giá đã có mặt tại Việt Nam. Người dân không cần có thu nhập quá cao cũng có thể có những chiếc xe chất lượng khá tốt để dùng. Trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh các biện pháp giữ gìn an toàn giao thông trong đó có việc kiểm tra bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã đánh mạnh vào ý thức tham gia bảo hiểm của người dân. Đối với Bảo Minh Hà Nội bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã thu được những thành tích rất đáng khích lệ. Sau đây là tình hình khai thác trong những năm qua: Bảng 4. Tình hình khai thác trong năm 2001 – 2005 Ðơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 Số xe tham gia bảo hiểm - Xe máy - ôtô Xe 22.006 8.350 28.132 8.520 32.450 8.725 48.120 9.334 61.356 10.355 Doanh thu phí nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe đối với người thứ 3 - Xe máy - ôtô 1000đ 970.456 3.894.143 1.392.534 3.999.883 1.625.745 5.402.395 2.507.052 4.955.794 3.073.935 5.710.078 Tốc độ tăng số xe tham gia bảo hiểm - Xe máy - ôtô % 27,84 2,07 15,35 35,00 48,39 6,98 27,5 10,93 Tốc độ tăng doanh thu - Xe máy - ôtô % 43.49 2.71 16,75 35,06 54,21 -8,30 22,61 15,22 Doanh thu bình quân mỗi xe - Xe máy - ôtô đ 44.100 466.376 49.000 469.470 50.100 619.186 52.100 530.940 50.099 551.431 ( Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội.) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy trong những năm qua số xe tham gia bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Bảo Minh Hà Nội tăng khá nhanh mỗi năm. Số lượng xe máy tham gia bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vẫn rất lớn tuy nhiên bảo hiểm cho xe ôtô mới là nghiệp vụ đóng góp lớn vào doanh thu của công ty mặc dù số lượng xe tham gia nhỏ hơn rất nhiều so với xe máy. Năm 2001 số xe máy tham gia bảo hiểm là 22.006 xe và năm 2004 là 48.120 xe nhưng đến năm 2005 số xe máy tham gia là 61.356 xe tăng gần 3 lần chỉ sau bốn năm. Số xe ôtô tham gia bảo hiểm tăng chậm hơn rất nhiều nhưng cũng rất đáng kể. Năm 2001 số xe tham gia là 8.350 xe, năm 2004 là 9.334 xe thì đến năm 2005 con số này là 10.355 xe tăng 10,93% so với năm 2004. Số xe cơ giới tham gia vào nghiệp vụ này của công ty dự báo sẽ còn tăng rất mạnh vào những năm tới bởi những chính sách ưu đãI phát triển và đặc biệt chương trình khuyến mãI “ HáI lộc đầu xuân ” đang thu được nhiều kết quả. Có được những thành tích rất đáng khích lệ trên ta có thể kể ra được những nguyên nhân chính sau: - Công ty Bảo Minh và Bảo Minh Hà Nội nói riêng đã tích cực mở rộng mạng lưới và văn phòng khai thác một cách có chiều sâu. Đội ngũ cán bộ nhân viên được đào tạo chuyên sâu với cung cách làm việc chuyên nghiệp. Chính điều này đã đảm bảo được sự phục vụ và đáp ứng nhu cầu được tốt nhất. - Trong một vài năm gần đây các biện pháp lập lại trật tự an toàn giao thông nhất là việc kiểm tra chứng nhận bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba đã làm ý thức tham gia bảo hiểm cua người dân đã dần đI vào nề nếp. Người dân đã dần hiểu được tầm quan trọng của việc tham gia bảo hiểm cho phương tiện của mình. - Thương hiệu của Bảo Minh đã và đang lấy được niềm tin trong lòng khách hàng. Số lượng xe tăng nhanh và có thể nói là không đều qua các năm. Nhìn vào tốc độ tăng số xe máy và ôtô tham gia bảo hiểm của các năm là rất chênh lệch. Có thể thấy, năm có tốc độ tăng cao có thể lên tới 48,39% và năm thấp là 2.07% đối với xe máy. Con số này đối với ôtô là 35% và 2,07%. Điều này cho ta thấy hoạt động khai thác bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của Bảo Minh Hà Nội có sự không ổn định và biến đổi rất thất thường. Nguyên nhân của tình trạng này đó là do : - Sự cạnh tranh rất khốc liệt của thị trường bảo hiểm với những đối thủ mạnh và có truyền thống trong nước. - ý thức chấp hành về quy định mua bảo hiểm bắt buộc của người dân còn chưa ổn định(nhất là đối với xe máy) Đối với doanh thu phí, doanh thu của nghiệp vụ qua các năm vẫn luôn có sự tăng trưởng. Đáng kể nhất là tốc độ tăng của doanh thu phí xe máy tốc độ luôn ở mức rất cao. Năm 2001 doanh thu mới chỉ đạt 970.456 nghìn đồng thì đến năm 2005 đã là 3.073.953 nghìn đồng. Sau 4 năm doanh thu đã tăng hơn gấp 3 lần và đã gần bằng với doanh thu từ ôtô. Con số này của ôtô là 3.984.143 nghìn đồng năm 2001 và năm 2005 là 5.710.078 nghìn đồng tăng 15.22% so với năm 2004. Chính những thành tựu đạt được về doanh thu phí trên đã góp phần rất lớn vào việc tăng tổng doanh thu phí bảo hiểm của công ty. Vì đây là nghiệp vụ có doanh thu rất ổn định trong công ty. Trong khi hầu như tất cả các nghiệp vụ khác như: bảo hiểm hàng không, bảo hiểm tài sản và thiệt hại, bảo hiểm cháy đều phải tái đi khá nhiều, có khi tái đi 80-90%/năm, thì loại hình bảo hiểm này hầu như không tái đi, do đó việc tăng tổng doanh thu phí bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm này tác động lớn đến lợi nhuận của công ty. Doanh thu phí bảo hiểm tăng lên một phần do sự tăng lên của phí bảo hiểm bình quân 1 đầu xe tăng lên (năm 2001 phí bình quân một xe máy là khoảng 44500 đồng thì đến năm 2005 phí cho một chiếc xe máy là vào khoảng 54450). Sở dĩ phí bình quân trên 1 đầu xe tăng lên là do tác động lớn của việc áp dụng biểu phí mới của bảo hiểm. Mặt khác, do các chủ xe ngày càng thấy rõ tác dụng của bảo hiểm nên đã mua phí bảo hiểm ở mức trách nhiệm cao. Doanh thu phí tăng do tăng số lượng khách tham gia bảo hiểm, do công tác bảo hiểm được phát triển rộng rãi ở các quận huyện, tạo điều kiện cho chủ xe tham gia dễ dàng. Hơn nữa, nguyên nhân chủ yếu phải kể đến là do Chính phủ, Nhà nước những năm gần đây đã có những biện pháp phối hợp với cơ quan công an kiểm tra, giám sát rất gắt gao các chủ xe tham gia giao thông, đã làm cho số lượng xe tham gia bảo hiểm tăng dẫn đến doanh thu phí bảo hiểm tăng cao. Nói chung, nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba của công ty Bảo Minh Hà Nội đã được triển khai khá tốt. Chắc chắn trong năm nay và các năm tiếp theo sẽ là năm mà nghiệp vụ này được thực hiện còn tốt hơn với những chiến lược kinh doanh của công ty. 2. Khâu đề phòng và hạn chế tổn thất. Tất cả các công ty bảo hiểm cũng như tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm đều không thể thiếu được công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Đây là một trong những khâu quan trọng nhất trong bất kì một chiến lược kinh doanh nào. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất nhằm mục đích chính là hạn chế những tai nạn, những tai nạn có thể xảy ra với khách hàng trong phạm vi của doanh nghiệp có thể làm được nhất là đối với điều kiện của nước ta hiện nay. Nếu làm tốt được công tác này doanh nghiệp sẽ hạn chế được đến mức thấp nhất tổn thất, nghĩa là sẽ giảm đến mức tối đa chi phí bồi thường tổn thất đem lại sự an toàn và thịnh vượng chung cho toàn xã hội. Thấy rõ tầm quan trọng của công tác này, hằng năm công ty có kế hoạch trích 2% doanh thu phí bảo hiểm để chi đề phòng và hạn chế tổn thất.Trong các năm qua, công ty đã áp dụng các biện pháp như: - Bảo Minh Hà Nội trực tiếp hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng biển báo, làm đường tránh nạn ở một số đoạn đường nguy hiểm hay xảy ra tai nạn. - Tiến hành các khoản chi kinh phí hỗ trợ, cụ thể: cấp kinh phí cho các hội nghị an toàn, thi tay lái giỏi, tuần lễ an toàn giao thông hằng năm. - Phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân về luật giao thông dưới nhiều hình thức khác nhau như: đài, vô tuyến, sách báo, pano, áp phic... nhằm nâng cao ý thức cho người dân về chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông đường bộ. - Thực hiện các khoản chi hội nghị khách hàng để thông qua hội nghị khách hàng, công ty tìm hiểu, phân tích, đánh giá các mối hiểm hoạ để từ đó áp dụng các biện pháp thích hợp nhất mang lại hiệu quả cao nhất trong công tác đề phòng và hạn chế tổn thất. 3. Công tác giám định bồi thường. Bảo hiểm luôn đI đôI với rủi ro, thiệt hại và bồi thường. Đó là điều mà không một ai muốn nó xảy ra, nhưng trong cuộc sống đôI khi người ta vẫn phải chấp nhận nó. Khi có tai nạn rủi ro xảy ra, người gặp tai nạn là người thiệt hại về mọi mặt cả về tinh thần sức khoẻ và vật chất nên rất hoang mang. Nhà bảo hiểm lúc đó phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị nạn một cách nhanh chóng kịp thời và chính xác nhất. Chỉ có như vậy người bị nạn mới có được sự động viên kịp thời nhất trong lúc khó khăn. Nếu làm tốt công tác này thì uy tín của công ty sẽ được khẳng định đối với khách hàng bởi công tác này luôn gắn trực tiếp tới quyền lợi của khách hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này công ty đã có những quan tâm đặc biệt tới công tác này. Có thể nói Bảo Minh là một trong những công ty đã làm rất tốt công tác này. Từ việc tổ chức giám định tai nạn, xác minh hoàn chỉnh hồ sơ thiệt hại vận dụng tính toán các định mức bồi thường, thông báo với khách hàng đến nhận tiền theo phân định lịch chi trả bồi thường. Công tác giám định nhằm giúp việc bồi thường được chính xác cả về mặt pháp lý lẫn mặt kinh tế, do vậy mà đòi hỏi người giám định phải giỏi về nghiệp vụ cũng như tinh thần trách nhiệm cao. Trong công tác giám định, khâu giám định giải quyết tai nạn giao thông ở ngay hiện trường là khâu quan trọng nhất. Khi tai nạn xảy ra, các giám định viên của công ty phải kịp thời tới ngay hiện trường để thu thập các chứng cứ có liên quan đến vụ tai nạn và phối hợp với cảnh sát giao thông xác định nguyên nhân tai nạn, xác định lỗi của các bên có liên quan và thiệt hại thực tế phát sinh do tai nạn. Trường hợp cần thiết cơ quan bảo hiểm cùng chủ xe có thể ứng trước một số tiền để cấp cứu người bị thương, chôn cất người chết (nếu có), hạn chế tổn thất gia tăng. Với những vụ tổn thất được giải quyết bằng phương pháp thương lượng, hoà giải dân sự giữa các bên thì cảnh sát giao thông hoặc cảnh sát điều tra nơi thụ lí tai nạn thông báo cho cơ quan bảo hiểm thống nhất về cách thức, phương pháp thực hiện để buổi hoà giải đạt kết quả tốt đồng thời cảnh sát giao thông cung cấp bản sao hồ sơ tai nạn cho cơ quan bồi thường bao gồm: -Biên bản khám nghiệm hiện trường tai nạn. -Biên bản khám nghiệm xe có liên quan trong vụ tai nạn. -Biên bản kết luận điều tra (nếu có). -Biên bản giải quyết tai nạn giao thông. -Các chứng từ khác liên quan đến tai nạn. Về tổ chức cồng tác giám định, công tác giám định được công ty sắp xếp theo một quy trình khoa học. Sau khi tiếp nhận thông tin báo cáo về tai nạn xảy ra và được xác định xe có tham gia bảo hiểm tại công ty mình, giám định viên phải: - Xin ý kiến lãnh đạo đơn vị hoặc phòng để chỉ thị cho xe hay phối hợp với cơ quan liên quan để ngăn ngừa, đề phòng hạn chế tổn thất. -Yêu cầu chủ xe, lái xe và các cơ quan chức năng đưa nạn nhân đi cấp cứu. - Tiến hành ghi nhận tình huống tai nạn, giám định sơ bộ tổn thất, mức độ thiệt hại về người và tài sản, chụp ảnh hiện trường và các tổn thất, ghi lại những thông tin cần thiết. - Phối hợp với các bên liên quan trong công tác bảo vệ hiện trường, xác định tai nạn (tìm nhân chứng, tung tích nạn nhân, người có lỗi,… ). - Cần kiểm tra xe bị tai nạn có đảm bảo là xe tham gia bảo hiểm không. - Có trách nhiệm liên hệ ngay với cảnh sát giao thông hoặc cơ quan công an giải quyết vụ việc để tìm hiểu về tình hình tai nạn, mức độ lỗi dự kiến cũng như thông báo hướng dẫn cho khách hàng trong việc giải quyết tai nạn, thu thập hồ sơ chứng từ để đủ cơ sở pháp lý đòi bồi thường. - Trong trường hợp cơ quan công an thụ lý tai nạn có yêu cầu thương lượng ngay, giám định viên phải báo cáo trung thực với lãnh đạo các cấp (theo phân cấp) để chỉ đạo trong việc thương lượng về mức độ lỗi hoặc mức độ bồi thường. Chính điều này đã giúp công ty nâng cao uy tín và đứng vững trên thị trường bảo hiểm. Trong các năm qua, công ty đã tiếp tục củng cố và chấn chỉnh quy trình giải quyết bồi thường, không ngừng nâng cao chất lượng công tác bồi thường, đặc biệt là năm 2005 đã sắp xếp lại theo mô hình cơ cấu tổ chức mới: mỗi phòng khai thác đều có cán bộ giám định và giải quyết bồi thường riêng cho khách hàng của phòng mình. Ðiều này sẽ khiến cho phòng có điều kiện chăm sóc khách hàng của phòng mình tốt hơn, giải quyết bồi thường nhanh, kịp thời, chính xác. Tuy nhiên, trong các năm qua, công tác này còn một số tồn tại. Ðó là chất lượng giám định chưa cao, đặc biệt là tính pháp lý của hồ sơ còn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời thu thập thông tin và các yếu tố liên quan đến vụ tai nạn; xuất hiện nhiều hồ sơ tai nạn bị ứ đọng chưa giải quyết; đòi hỏi công ty phải tích cực đấu tranh phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực đó. Tình hình bồi thường trong các năm gần đây về nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo Minh Hà Nội như sau: Bảng 5. Tình hình bồi thường nghiệp vụ trong năm 2002 _ 2005. * Ô Tô Năm Số vụ tổn thất (vụ) Số tiền bồi thường bình quân 1000đ/vụ Tỷ lệ giải quyết bồi thường (%) Tỷ lệ tồn đọng (%) Số tiền bồi thường (1000đ) Doanh thu (1000đ) Tỷ lệ bồi thường (%) Tồn năm trước Phát sinh Giải quyết 2002 221 201 7785 90,95 9,05 1.722.749,6 3.999.883 43,07 2003 20 352 329 4696 93,46 6.54 1.654.745,20 5.402.395 30,63 2004 23 348 326 5936 93,67 6.33 2.067.110,19 4.985.794 41,46 2005 22 376 345 5498 91,75 8.25 2.069.903,27 5.710.078 36,25 * Xe máy Năm Số vụ tổn thất (vụ) Số tiền bồi thường bình quân 1000đ/vụ Tỷ lệ giải quyết bồi thường (%) Tỷ lệ tồn đọng (%) Số tiền bồi thường (1000đ) Doanh thu (1000đ) Tỷ lệ bồi thường (%) Tồn năm trước Phát sinh Giải quyết 2002 493 412 433,12 83,56 16,44 213.475,46 1.392.534 15,33 2003 81 575 456 528,55 79,3 20,7 304.137,41 1.625.534 18,71 2004 119 578 412 526,29 71,28 28,72 304.356,11 2.507.052 12,14 2005 166 925 786 565,8 84,97 15,03 523.723,16 2.507.052 20,89 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy số vụ tai nạn là rất lớn. Tổng số vụ năm 2002 là: 714 vụ trong đó tai nạn ôtô là: 221 vụ. Năm 2005 số vụ tai nạn là: 1301 vụ trong đó số vụ tai nạn ôtô là: 376 vụ Cùng với số vụ tai nạn gia tăng thì số tiền bồi thường cũng tăng nhanh. Số tiền mà công ty phải bồi thường cho các vụ tai nạn xe máy năm 2002 là: 213.475,46 nghìn đồng thì đến năm 2004 là: 304.356,11 nghìn đồng và con số này đến năm 2005 đã là: 523.723,16 nghìn đồng. Đối với ôtô cũng gặp phải trường hợp tương tự. Năm 2002 số tiền bồi thường là:1.722.749,6 nghìn đồng, đến năm 2004 số tiền bồi thường là: 2.067.110,19 nghìn đồng, và năm 2005 số tiền bồi thường là: 2.069.903,27 nghìn đồng. Tỷ lệ bồi thường cũng vì đó mà biến động rất khác nhau. Tỷ lệ bồi thường hàng năm tương ứng là : 43,07% ; 30,63% ; 41,46% ; 36,25% đối với ôtô và xe máy là: 15,33% ; 18,71% ; 12,14% ; 20,89% . Tỷ lệ bồi thường này như vậy là vẫn đang ở mức cao và nó đang ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh doanh của công ty ở nghiệp vụ này. Tuy nhiên nhìn vào bảng báo cáo trên ta cũng thấy một dấu hiệu đáng khích lệ của công ty đó là tỉ lệ các vụ tai nạn được giảI quyết đã tăng dần hàng năm mặc dù số vụ tai nạn hàng năm vẫn đang có sự tăng nhanh cả về số vụ và mức độ thiệt hại. Tỷ lệ các vụ tại nạn được giảI quyết bồi thường lần lượt là : 83,56% ; 79,3% ; 71,28% ; 84,97% đối với xe máy. Còn đối với ôtô thì tỉ lệ này còn cao hơn rất nhiều : 90,95% ; 93,46% ; 93,67% ; 91,75%. Có được điều này đó là do sự tích cực trong chỉ đạo của lãnh đạo công ty và tính chuyên nghiệp đang ngày càng được nâng cao của cán bộ công nhân viên công ty. 4. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 4.1. Kết quả kinh doanh. Kết quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba chủ yếu được thể hiện ở hai chỉ tiêu là doanh thu và lợi nhuận. Trong đó, lợi nhuận là thước đo hữu hiệu nhất của kết quả kinh doanh, nó cho biết tình hình kinh doanh đạt được ở mức độ nào, cho phép đánh giá được tốc độ tăng trưởng kinh doanh. ở các phần trên, ta dùng doanh thu phí bảo hiểm gốc để đánh giá các công tác của nghiệp vụ, còn đánh giá kết quả và hiệu quả của nghiệp vụ thì ta dùng tổng doanh thu nghiệp vụ. Tổng doanh thu của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ 3 gồm: - Thu phí bảo hiểm gốc. - Thu phí nhận tái bảo hiểm . - Thu nhượng tái bảo hiểm. - Thu hoạt động tài chính. - Thu hoạt động khác như: Thu giám định, đại lý… Trong các khoản thu này thì thu phí nhận tái bảo hiểm và thu nhượng tái bảo hiểm chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng doanh thu, vì ở nghiệp vụ này Bảo Minh nhận tái và nhượng tái rất ít. Tổng chi bao gồm: - Chi bồi thường - Chi quản lý - Chi hoa hồng - Chi đề phòng và hạn chế tổn thất - Chi thuế - Chi khác Trong 5 năm qua, tình hình thu chi và lợi nhuận của công ty Bảo Minh Hà Nội từ nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thể hiện qua bảng: Bảng 6. Kết quả kinh doanh trong năm 2001 - 2005 chi tiêu Năm doanh thu (1000đ) tốc độ tăng liên hoàn doanh thu (%) chi phí (1000đ) lợi nhuận (1000đ) tốcđộ tăng liên hoàn lợi nhuận (%) 2001 4.864.708 - 3.783.942 1.080.795 - 2002 5.592.217 14,95 4.178.253 1.414.164 30,84 2003 7.228.140 29,25 5.972.368 1.255.772 - 11,2 2004 7.662.846 6,01 5.118.418 2.544.428 102,61 2005 8.784.013 14,63 5.885.288 2.898.725 13,92 (Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội) Nhìn vào bảng báo cáo trên ta thấy lợi nhuận đạt được qua các năm đều có xu hướng tăng và đạt được ở mức cao. Tăng cao nhất là vào năm 2004 với tốc độ tăng liên hoàn lên tới 102,61và đạt ở mức 2.544.428 nghìn đồng hơn gấp hai lần năm trước. Tuy nhiên tỷ lệ tăng này là không đều. Năm 2003 tỷ lệ lợi nhuận giảm 11,2 % so với năm trước tuy nhiên ngay năm sau tỷ lệ này đã tăng tới 102,61%. Điều này là không tốt, tuy lợi nhuận vẫn đang ở mức cao. Có thể thấy mặc dù doanh thu và lợi nhuận vẫn tăng trưởng đều nhưng do sự biến động của chi phí mà chủ yếu ở đây là chi phí chi bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn nên chi phí cũng tăng cao. Điều này cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận hàng năm của công ty. Năm 2001 chi phí ở mức 3.783.942 nghìn đồng thì đến năm 2003 và 2005 đã lên tới 4.178.253 và 5.885.288 nghìn đồng chiếm tới gần 70% doanh thu, điều này là lý do giảI thích sự sụt giảm lợi nhuận trong năm 2003. Tuy vậy cũng có những dấu hiệu đáng mừng bởi đến năm 2005 cả doanh thu và lợi nhuận đều tăng ở mức ổn định ở mức 14,63 và 13,62%, trong khi đó chi phí cũng đang được kiềm chế ở mức ổn định và không có dấu hiệu gia tăng. 4.2. Hiệu quả kinh doanh. Ngoài những chỉ tiêu về kết quả kinh doanh thì những chỉ tiêu về hiệu quả kinh doanh sẽ một lần nữa đánh giá rõ hơn về thực trạng hoạt động kinh doanh của công ty. Bởi vì các chỉ tiêu về kết quả kinh doanh như doanh thu hay lợi nhuận chỉ nói lên một phần nào đó của hoạt động kinh doanh, nó không hề đề cập đến một yếu tố không thể thiếu được trong kinh doanh, đó là : chi phí. Một khi tốc độ chi phí tăng nhanh thì xét trong dài hạn lợi nhuận trong kết quả kinh doanh sẽ không còn ý nghĩa và hoạt động kinh doanh đó sẽ không có hiệu quả. Bởi vậy, hiệu quả kinh doanh là căn cứ để đánh giá sự vững mạnh và sự phát triển của mỗi công ty, và nó cũng là thước đo để đáng giá hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảng 7. Hiệu quả kinh doanh trong năm 2001 - 2005 Năm Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 2005 1. Doanh thu (1000đ) 4.864.708 5.592.417 7.228.140 7.662.846 8784013 2. Tổng chi (1000đ) 3.783.914 4.178.253 5.972.368 5.118.411 5.885.288 3. Lợi nhuận (1000đ) 1.080.794 1.414.164 1.255.772 2.544.428 2.898.725 4. Hd = D/C (lần) 1,29 1,34 1,21 1,5 1,49 5. Hl = L/C (lần) 0,29 0,34 0,21 0,5 0,49 6. H = L/D (Lần) 0,22 0,25 0,7 0,33 0,33 ( Nguồn: báo cáo hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội.) Cứ 1đồng chi phí chi ra trong năm 2001 tạo ra 1,29 đồng doanh thu và 0,29 đồng lợi nhuận Cứ 1đồng chi phí chi ra trong năm 2002 tạo ra 1,34 đồng doanh thu và 0,34 đồng lợi nhuận Cứ 1đồng chi phí chi ra trong năm 2003 tạo ra 1,21 đồng doanh thu và 0,21 đồng lợi nhuận Cứ một đồng chi phí chi ra trong năm 2004 tạo ra 1,5 đồng doanh thu và 0,5 đồng lợi nhuận Cứ một đồng chi phí chi ra trong năm 2005 tạo ra 1,49 đồng doanh thu và 0,49 đồng lợi nhuận. Nhìn chung trong những năm qua doanh thu và lợi nhuận từ một đồng chi phí bỏ ra đều có xu hướng tăng lên. Điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của Bảo Minh Hà Nội là có hiệu quả. Đó là tín hiệu khả quan trong hoạt động kinh doanh của công ty đối với nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI. I. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC TRONG THỜI GIAN TỚI. 1. Cơ hội Là một công ty thành viên của công ty cổ phần Bảo Minh, Bảo Minh Hà Nội cũng giống như công ty mẹ của mình đang trong giai đoạn phát triển mới của mình. Kể từ khi có quyết định chuyển đổi công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh là một công ty Nhà Nước sang công ty cổ phần, với những sự thay đổi chiến lược trong bộ máy quản lý cũng như trong cung cách hoạt động, Bảo Minh đã và đang thu được những kết quả rất đáng mừng. Công ty đã có những chiến lược mới cho những nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau nhằm chiếm lĩnh thị phần cạnh tranh với những đối thủ trong điều kiện cạnh tranh hết sức khốc liệt ngày nay. Bằng chứng là thành công của chương trình khuyến mãI “ HáI lộc đầu xuân ” đầu năm nay đã làm cho thương hiệu Bảo Minh trong lĩnh vực bảo hiểm trách nhiệm dân sự đến gần hơn với khách hàng trong nước. Với những kết quả đó, cán bộ công nhân viên có thêm nhiều động lực để phát triển hơn nữa thị trường đầy tiềm năng này. Ngoài những cơ hội, những thuận lợi từ nội bộ công ty thì những yếu tố khách quan khác cũng là cơ hội để Bảo Minh Hà Nội phát triển trong thời gian tới. Đó là: - Hiện nay Luật kinh doanh bảo hiểm đã ra đời và ngày càng hoàn thiện hơn, từ đó tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho các công ty bảo hiểm hoạt động. Việc ban hành Quyết định số 23/2003/QÐ-BTC ngày 25-02-2003 của Bộ trưởng Bộ tài chính là một yếu tố hết sức thuận lợi cho việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới cho các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Minh Hà Nội nói riêng. - Thứ hai là, đối tượng tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là chủ phương tiện tham gia giao thông. Sự phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng bình quân 7%, giao thông đường bộ Việt Nam cũng tăng với tốc độ chóng mặt, số lượng xe lưu hành tăng nhanh góp phần mở rộng thêm thị trường cho nghiệp vụ này. - Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng của Nhà nước đẩy mạnh các biện pháp nhằm giảm số lượng các vụ tai nạn, cụ thể là phối hợp với công an giao thông tăng cường kiểm tra tham gia bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới bắt buộc. Ðiều này đã làm cho thị trường bảo hiểm sôi động hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo hiểm phát triển các loại hình bảo hiểm này. - Mặt khác, Bảo Minh còn từng là một công ty lớn được thành lập dựa trên cơ sở chi nhánh lớn nhất của Bảo Việt. Bảo Minh Hà Nội với 7 văn phòng khai thác ( sắp tới là 10 phòng) trên địa bàn Hà Nội với đội ngũ cán bộ công nhân viên nhiệt tình trong công việc và đã có sự đào tạo chuyên sâu về chuyên môn đang trở thành một thương hiệu vững mạnh và có uy tín trên thị trường. 2. Thách thức. Cơ hội thì có rất nhiều cho Bảo Minh nhưng thách thức cũng không hề ít đang chờ đợi ở phía trước. Những khó khăn mà ta có thể kể ra đây đã đang và sẽ là những vấn đề mà lãnh đạo công ty cùng cán bộ nhân viên của Bảo Minh cần phải có những biện pháp để giảI quyết đem đến hiệu quả cao nhất cho hoạt động kinh doanh của công ty: - Thứ nhất, thị trường bảo hiểm phát triển với sự xuất hiện của nhiều loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Có rất nhiều công ty bảo hiểm khai thác bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba cho nên tình trạng cạnh tranh trên thị trường diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Tiềm năng thị trường còn rất lớn song quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế khiến cho công ty bảo hiểm nước ngoài có vốn lớn và nhiều kinh nghiệm. - Thứ hai, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới là nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc nhưng do nhận thức của người dân về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới đối với người thứ ba nói riêng còn rất hạn chế, nhiều mơ hồ. Nhiều chủ xe, họ cho là không cần thiết, do đó đã có rất nhiều người trốn tránh không tham gia bảo hiểm . - Ngoài ra còn có khó khăn về phía bản thân công ty. Bảo Minh là một công ty Nhà nước vừa được cổ phần hoá do đó vẫn tồn tại sự bảo hộ lớn của Nhà nước , bộ máy tổ chức còn nhiều hạn chế, thiếu hoàn hiện. Tuy là một công ty lớn ở trong nước nhưng trước sự gia nhập của các công ty nước ngoàivào hoạt động tại Việt Nam đặt ra cho công ty nhiều khó khăn: khả năng tài chính hạn chế; công nghệ , tình hình quản lý và kinh doanh bảo hiểm còn lạc hậu so với các nước. Hơn nữa, điều mà không chỉ Bảo Long mà hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước gặp phải là hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp không cao, dẫn đến doanh thu từ hoạt động kinh doanh chủ yếu là từ doanh thu hoạt động các nghiệp vụ. Vì vậy phí bảo hiểm của công ty còn khá cao, là một hạn chế rất lớn trong việc khách hàng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm cho mình. Trước những khó khăn đó, đòi hỏi công ty phải nâng cao năng lực cạnh tranh, không ngừng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng để giữ vững và mở rộng hơn thị phần của mình. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH DOANH NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA TẠI CÔNG TY BẢO MINH HÀ NỘI. Thời gian thực tập và học tập tại công ty Bảo Minh Hà Nội, được tìm hiểu và nghiên cứu về hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, em đã có những suy nghĩ của riêng mình. Em xin mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ của mình nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ bảo hiểm này. 1. Đối với khâu khai thác. Khâu khai thác là một khâu quan trọng và đang được chú trọng quan tâm tại công ty trong thời gian vừa qua. Ngoài những kết quả đã đạt được thì vẫn còn có những hạn chế làm giảm hiệu quả trong việc khai thác của nghiệp vụ này. Để làm tốt hơn công tác này cần phải chủ ý cảI thiện những vấn đề sau: - Nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có đối tượng tham gia là các chủ phương tiện tham gia giao thông, do đó các cán bộ nghiệp vụ phải nắm rõ được số lượng các đối tượng đó đang hoạt động trên địa bàn phụ trách nhằm không ngừng gia tăng số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm. - Bản chất của nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới đối với người thứ ba bảo vệ người bị tai nạn do xe cơ giới lưu hành gây ra, bồi thường phần trách nhiệm dân sự phát sinh khi chủ xe tham gia giao thông gây ra. Vì vậy công ty cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhà nước đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá giúp các chủ xe biết và hiểu rõ về quyền lợi và trách nhiệm của mình. - Công ty cần phải chú ý đến chiến lược phủ kín địa bàn hoạt động thông qua việc sử dụng mạng lưới đại lý và cộng tác viên. Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội, Bảo Minh mới chỉ có sáu văn phòng khai thác nghiệp vụ này, trong việc khai thác vẫn do cán bộ các phòng là chính, mạng lưới đại lý làm việc chưa hiệu quả. Vấn đề đặt ra là trước yêu cầu phát triển, mở rộng, công ty cần phải có một đội ngũ cán bộ chuyên sâu, mở rộng các văn phòng khai thác ở các quận huyện Hà Nội; tiến hành đào tạo nâng cao và đào tạo lại cho cán bộ, đại lý khai thác lâu năm, tuyển chọn và đào tạo các đại lý chuyên nghiệp và cộng tác viên, trang bị cho họ kỹ năng bán hàng, kỹ năng giao tiếp. Ðồng thời phải có chế độ tiền lương thoả đáng khuyến khích họ làm nhiệt tình, khai thác thêm nhiều hợp đồng mới. - Trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp bảo hiểm, công ty cần phải thường xuyên có các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, nâng cao uy tín, thương hiệu của công ty, tạo niềm tin cho khách hàng. - Hơn nữa, công ty phải có sự điều chỉnh về mức phí, hình thức thanh toán phí cho khách hàng hấp dẫn hơn để thu hút khách hàng đến với mình, nâng cao khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác như: Công ty có thể giảm phí ở mức thấp nhất cho quyền lợi của khách hàng đối với một số khách hàng tham gia với số lượng lớn hay đối với khách hàng lâu năm mà ít tổn thất xảy ra. Hình thức tham gia phí bảo hiểm cũng nên cải thiện: đối với các khách hàng lớn ta có thể linh động thu phí làm nhiều đợt. Ðiều này sẽ tạo ra tâm lý thoải mái cho người tham gia bảo hiểm, họ sẽ cảm thấy tham gia bảo hiểm không còn là gánh nặng nữa, khuyến khích họ tham gia bảo hiểm. - Hiện nay có kênh phân phối bán bảo hiểm qua ngân hàng  có rất nhiều ưu điểm: công ty được tiếp cận nguồn dữ liệu khách hàng mới với chi phí ít tốn kém, làm tăng doanh thu cho công ty bảo hiểm. Việc hợp tác với ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng sẽ làm cho khách hàng tin tưởng vào hoạt động của công ty; tạo cơ hội để công ty bảo hiểm có thể khuếch chương thanh thế, hình ảnh của mình thông qua đặc quyền giao dịch bề thế tại ngân hàng, quảng bá trên các phượng tiện thông tin đại chúng & . áp dụng phương thức phân phối này trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới ngân hàng có vai trò như một đại lý cho công ty bảo hiểm giới thiệu khách hàng. Vì vậy công ty cần mở rộng khai thác tốt hơn qua kênh phân phối này bằng cách có những hợp đồng ký kết và hoa hồng hấp dẫn đối với các ngân hàng. 2. Đối với công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Là công tác được đánh giá cao không chỉ bởi tầm quan trọng của nó đối với hiệu quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mà còn bởi ý nghĩa xã hội to lớn của nó, đề phòng hạn chế tổn thất luôn được lãnh đạo các công ty rất chú ý quan tâm. Theo em để nâng cao hiệu quả của công tác này công ty cần có những giảI pháp sau: - Thứ nhất, công ty cần phải có một phận nghiên cứa chi phí cho công tác đề phòng và hạn chế tổn thất ảnh hưởng tới số tiền bồi thường cho nghiệp vụ bảo hiểm , để từ đó xác định một tỷ lệ tốt nhất trong doanh thu cho công tác chi đề phòng và hạn chế tổn thất. - Thứ hai, tăng cường hơn nữa hoạt đọng đề phòng và hạn chế tổn thất thông qua tuyên truyền, quảng bá dưới nhiều hình thức: qua đài vô tuyến, sách báo& về mức độ nguy hiểm của xe cơ giới, về các biện pháp an toàn khi tham gia giao thông. Có thể kết hợp với các cơ quan của Nhà nước mở các lớp bồi dưỡng, giáo dục về an toàn giao thông. - Thứ ba, tiến hành phát hiện các nguyên nhân thường gây tai nạn để có kế hoạch đề phòngvà hạn chế tai nạn xảy ra như phối hợp với Nhà nước xây dựng các biển báo, gương cầu& đối với các đoạn đường thường xảy ra tai nạn. Những biện pháp đó một mặt có tác dụng làm giảm bớt tai nạn; hạn chế mức độ của vụ tai nạn xảy ra; một mặt còn thể hiện vai trò công tác xã hội của công ty góp phần nâng cao uy tín của công ty đối với khách hàng. 3. Công tác giám định và bồi thường. 3.1. Công tác giám định Bảo Minh có thể nói là công ty đã thực hiện khá tốt khâu này. Thời gian vừa qua Bảo Minh đã có những đổi mới đáng kể trong công tác giám định. Việc giám định cũng có sự phân cấp. Theo sự phân cấp của Công ty, mỗi phòng bảo hiểm khu vực có một giám định viên thực hiện việc giám định tổn thất khi có rủi ro xảy ra với người được bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra chứa đựng yếu tố phức tạp thì cán bộ giám định chuyên môn của Công ty sẽ được cử xuống phối hợp cùng cán bộ phòng nhằm tiến hành tốt hơn công tác này. Giám định là khâu có liên quan trực tiếp đến số tiền chi trả bồi thường, do vậy cần phải hết sức chú ý đến khâu này. Thực tế cho thấy công tác này đôi khi vẫn còn gặp phải những sai lầm nhất định gây thiệt hại cho Công ty. Khi có sự cố bảo hiểm xảy ra, vấn đề đầu tiên mà người cán bộ nghiệp vụ phải đối mặt đó là làm sao giám định chính xác và kịp thời để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm và cho công ty. Cho nên, công ty cần phải có cán bộ giám định chuyên môn, đủ năng lực phẩm chất đạo đức có trách nhiệm để tránh tình trạng sai sót ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng, đồng thời tránh tình trạng có trục lợi bảo hiểm nhằm đảm bảo sự công bằng, giải quyết bồi thường nhanh chóng, chính xác. Muốn vậy, công ty thường xuyên có những buổi giáo dục ý thức, trách nhiệm cho người giám định, tăng cường khuyến khích các cán bộ giám định bồi thường giỏi, cử cán bộ đi học qua các lớp dành riêng cho giám định viên. 3.2. Đối với công tác bồi thường. Giám định và bồi thường là hai khâu luôn đI đôI với nhau. Nó thể hiện uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng. Đây chính là lúc mà nhà bảo hiểm thể hiện sự cam kết bồi thường của mình đối với khách hàng. Vì vậy doanh nghiệp cần phải làm tốt hai công tác này nhất là trong hoàn cảnh khách hàng đang bị hoang mang về tinh thần trước những tai nạn mà họ và gia đình đang phải gánh chịu. Vì vậy cần có một đội ngũ những người cán bộ có lương tâm và có tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện bồi thường một cách chuẩn xác và kịp thời nhất để không ảnh hưởng tới lợi ích của công ty và cũng không làm mất quyền lợi của khách hàng. Để có được điều đó công ty phải chú trọng đầu tư đến khâu đào tạo nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên. Sử lý một cách nghiêm minh đúng pháp luật những trường hợp vi phạm để có một môI trường trong sạch và nghiêm túc trong cán bộ công nhân viên cũng như sự hợp tác của khách hàng. 4. Đối với công tác chăm sóc dịch vụ khách hàng. Đây là một trong những công tác giúp doanh nghiệp cạnh tranh tốt nhất với các đối thủ của mình trong điều kiện kinh tế thị trường rất khắc nghiệt hiện nay. Về cơ bản chỉ có ba cách để một công ty bảo hiểm tạo được sự khác biệt so với các công ty bảo hiểm khác, đó là: sản phẩm giá cả và dịch vụ. Sản phẩm và giá cả có xu hướng bị thị trường điều tiết và bản thân công ty cũng ít có khả năng ảnh hưởng tới cả hai yếu tố đó, nhất là đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới. Ðiều này khiến công ty nên tập trung vào yếu tố dịch vụ và đó là yếu tố tạo nên sự khác biệt với công ty khác và tăng cường vị thế chiến lược của công ty. Ðối với nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, công ty cần có các chính sách sau: - Ðối với các khách hàng đã tham gia bảo hiểm tại công ty, các cán bộ nghiệp vụ phải thường xuyên theo dõi, tăng cường bám sát khách hàng nhằm duy trì và tái tục hợp đồng. - Phục vụ tận tình: Công ty cần nâng cao chất lượng dịch vụ giải đáp thắc mắc, khiếu nại của khách hàng bằng cách phải bồi thường nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ, đại lý khai thác. Việc giải quyết các khiếu nại chủ động và công bằng là yếu tố quan trọng để giữ chân khách hàng. - Khi tiếp xúc khách hàng người khai thác, đại lý phải cung cấp những thông tin của mình đã hứa, những thông tin đảm bảo lợi ích cho khách hàng để tạo niềm tin trọn vẹn của họ đối với công ty. - Nên tiếp tục mối quan tâm và liên hệ với khách hàng hàng ngay cả khi khách hàng chấm dứt hợp đồng bảo hiểm vì rất có thể họ sẽ tiếp tục và giới thiệu khách hàng mới cho công ty. 5. Đối với công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm. Trong thời đại hiện nay, trục lợi xã hội đang có xu hướng gia tăng và đang trở thành nỗi nhức nhối không chỉ của các nhà bảo hiểm mà còn là vấn đề đau đầu của các nhà quản lý. Việc phát hiện và phòng chống những mưu đồ gian lận có vị trí quan trọng vơI công ty bảo hiểm. Nó tránh thất thoát cho nhà bảo hiểm hàng năm rất nhiều tiền và đem lại công bằng cho xã hội. Trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thường xảy ra các hình thức trục lợi bảo hiểm như sau: - Hợp lý hoá ngày và hiệu lực bảo hiểm . -Thay đổi tình tiết vụ tai nạn. -Cố ý gây tai nạn.. Ðể xác định được các vụ gian lận, công ty cần phải : - Xây dựng chưong trình đào tạo các chuyên viên giải quyết khiếu nại và bồi thường tốt hơn. - Ðầu tư vào công nghệ phân tích và phát hiện các khiếu nại còn nghi ngờ cần điều tra kỹ. - Giáo dục ý thức để giúp đỡ nhân viên của họ đấu tranh chống gian lận. - Tăng dần ngân sách dành cho chống khiếu nại gian lận. - Xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu về khiếu nại đầy đủ sẽ giúp công ty bảo hiểm để quản lý nhanh chóng, chi trả bồi thường cho những khiếu nại gian lận. Làm tốt công tác này doanh nghiệp bảo hiểm sẽ khách hàng ông phải trả tiền bồi thường cho những khiếu nại, gian lận. Ðiều đó cải hiện khả năng sinh lợi cho công ty và tạo nên sự tín nhiệm của khách hàng hiện tại cũng như khách hàng tiềm năng về khả năng chi trả bồi thường, đồng thời công ty có vị thế tốt hơn trên thị trường để thu hút được nhiều hơn khách hàng chất lượng cao, chi trả bồi thưòng nhanh chóng, hiệu quả. Những ý kiến trên mà em vừa đưa ra là những suy nghĩ chủ quan của em thông qua những kiến thức đã được học trong trường và những ngày cọ sát với thực tế. Mong rằng những ý kiến của em có thể giúp ích đối với công ty và góp phần tạo ra sự lớn mạnh đối với nghiệp vụ có ý nghĩa rất lớn đối với xã hội. KẾT LUẬN Đất nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển và hiện đại hoá nền kinh tế. Sự bùng nổ của các phương tiện giao thông và đồng hành với nó là tai nạn giao thông đang là những vấn đề nhức nhối của xã hội. Bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời là tất yếu khách quan nhằm góp phần với xã hội hạn chế tối đa tác hại của tai nạn giao thông đối với cuộc sống của con người. Nghiệp vụ này hứa hẹn sẽ còn phát triển mạnh trong tương lai. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế hơn 7% năm và với một dân số trẻ, thị trường bảo hiểm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Việt Nam là một thị trường đầy tiềm năng với mỗi công ty bảo hiểm. Sự canh tranh của các công ty trong nghiệp vụ này sẽ đem đến cho người dân một dịch vụ bảo hiểm tốt. Ngoài ra công tác đề phòng hạn chế tổn thất của các công ty bảo hiểm sẽ đem lại cho xã hội nhiều lợi ích. Bảo Minh đang nổi lên trong thị trường bảo hiểm Việt Nam là một công ty bảo hiểm của tương lai. Bảo Minh Hà Nội với sự năng động của mình đang dần chiếm được lòng tin của khách hàng. Với những gì đã làm được cùng sự cố gắng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, em tin rằng Bảo Minh sẽ trở thành một tập đoàn bảo hiểm lớn của nước nhà, là bến đậu cho những nhân tài trong lĩnh vực bảo hiểm trong tương lai. Cuối cùng em xin cảm ơn sự giúp đỡ của các anh chị cô chú trong công ty Bảo Minh Hà Nội, đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình của TS. Mạc Văn Tiến để em hoàn thành bài viết của mình. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Bảo Hiểm- Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn văn Định-Khoa kinh tế bảo hiểm – trường đại học KTQD, năm 2004 2. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm- Chủ biên: PGS. TS. Nguyễn văn Định-Khoa kinh tế bảo hiểm – trường đại học KTQD, năm 2004 3. Giáo trình luật kinh doanh thương mại- NXB chính trị quốc gia, năm 1998 4. Giáo trình luật kinh doanh bảo hiểm- NXB chính trị quốc gia, năm 2004 5. Báo cáo tài chính – Công ty Bảo Minh Hà Nội năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005 6. thông tin trên các trang : www.baominh.com.vn www.baohiem.pro.vn 7. Kỷ yếu Bảo Minh 10 năm một chặng đường phát triển( tàI liệu lưu hành nội bộ) MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32323.doc