Trong thời gian tới, NHĐT&PTVN có rất nhiều cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội này xuất phát từ những tháo gỡ, cởi mở khó khăn của chính phủ Việt Nam, quyết tâm của NHĐT&PTVN trong việc tiếp tục cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường .
Giai đoạn tiếp theo của NHTM có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển, đặc biệt là hội nhập kinh tế trên thị trường quốc tế.
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trong hoạt động kinh doanh đối ngoại và là một nghiệp vụ kinh doanh quan trọng của NHTM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, khách hàng. Ngoài ra hoạt động này còn góp phần thúc đẩy các hoạt động khác cùng phát triển, đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.
Mặc dù đã có những thành công, đóng góp lớn nhưng bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Để phát triển trong thời gian tới, việc đưa ra các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu dần dần, có thời gian để rút kinh nghiệm.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch NHĐT&PTVN cùng với những kiến thức đã học , tình hình thực tế đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo Nguyễn Thị Hiền và các anh chị tại Phòng kế hoạch nguồn vốn - Sở giao dịch I em đã thu hoạch được bài viết này. Trong giới hạn bài viết của mình chỉ là một đống góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm kiếm giải pháp khả thi trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức và thời gian hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn.
57 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1643 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở rộng các nghiệp vụ thanh toán quốc tế như: L/C hàng nhập, L/C hàng xuất, séc, chuyển tiền... và thúc đẩy hoạt động này tăng trưởng với tốc độ đáng kể.
Tóm lại, kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I đã làm đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân, góp phần thúc đẩy hiệu quả cho vay ngoại tệ, tăng cường mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế, tăng thu dịch vụ cho ngân hàng, góp phần ổn định tỷ giá trên thị trường Việt Nam và thực thi hiệu quả chính sách tiền tệ của NHNN.
4.2. Hạn chế và nguyên nhân trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được như trên thì cũng còn rất nhiều hạn chế trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ, những hạn chế này không chỉ là những yếu tố chủ quan của bản thân ngân hàng mà nó còn bao gồm những yếu tố khách quan tác động tới.
4.2.1. Những hạn chế trong quá trình kinh doanh ngoại tệ tại SGDI.
4.2.1.1. Các nghiệp vụ kinh doanh còn đơn điệu.
Hiện nay, các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I thực hiện còn rất đơn giản, chủ yếu là các nghiệp vụ trao ngay, nghiệp vụ kỳ hạn còn các nghiệp vụ khác thì rất ít được sử dụng và hầu như không có. Vì vậy, hoạt động kinh doanh còn mang tính sơ khai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ, chưa có hoạt động tích trữ, đầu cơ. Do đó, Sở giao dịch không thể sử dụng các nghiệp vụ kinh doanh của mình như là công cụ để phòng ngừa rủi ro về tỷ giá cũng như thu lợi nhuận qua chênh lệch tỷ giá.
Nguyên nhân của tình trạng này là một phần do nhu cầu của khách hàng và tâm lý sử dụng của khách hàng. Họ đã quen với những sản phẩm truyền thống nên khi thay đổi và sử dụng nghiệp vụ mới là rất khó khăn. Các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ trong tương lai thì không muốn bán kỳ hạn cho ngân hàng vì họ kỳ vọng tỷ giá sẽ tăng. Các doanh nghiệp nhập khẩu thì chấp nhận mua ngoại tệ với tỷ giá tại thời điểm thanh toán.
Thứ nữa, nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng: Thông tin trên thị trường ngoại tệ không đủ điều kiện để phân tích, theo dõi tình hình diễn biến của thị trường, cũng như trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh còn yếu.
Việc tính toán tỷ giá mua bán kỳ hạn theo quyết định 15/1999/QĐ- NHNN của thống đốc NHNN về xác định biên độ tỷ giá kỳ hạn còn nhiều vướng mắc. Trên thực tế, mỗi ngân hàng đưa ra tỷ giá khác nhau, ngân hàng nào vì chiến lược khách hàng thì sẽ đưa ra tỷ giá thấp, còn ngân hàng nào có lợi thế thì sẽ đưa ra tỷ giá cao hơn. Do vậy, gây ra tình trạng không phản ánh đúng cung cầu ngoại tệ, gây khó khăn cho Sở giao dịch trong việc giao dịch với khách hàng.
4.2.1.2. Nguồn mua ngoại tệ của Sở giao dịch còn hạn chế.
Như trên đã nói, mối quan hệ giữa Sở giao dịch với khách hàng ngày càng mở rộng, nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu thanh toán của khách hàng cũng càng lớn. Song Sở giao dịch còn luôn hạn chế về nguồn ngoại tệ để bán cho khách hàng.
Nguyên nhân của việc thiếu nguồn mua ngoại tệ này là do:
Khả năng tái tạo ngoại tệ của các doanh nghiệp có quan hệ tại NHĐT nói chung và Sở giao dịch nói riêng yếu, nguồn ngoại tệ kinh doanh chủ yếu là trên thị trường liên ngân hàng.
Tỷ giá giao dịch do NHNN công bố chưa phản ánh đúng bản chất cung cầu ngoại tệ trên thị trường, do đó gây khó khăn cho các NHTM trong việc mua ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân trên thị trường.
Khách hàng có quan hệ với Sở giao dịch chủ yếu là các Công ty và tổng Công ty có doanh số hoạt động lớn nên nhu cầu mua ngoại tệ tương đối nhiều, mặt khác, để giữ vững nền khách hàng hiện có và tiếp thị thêm một số khách hàng mới, Sở giao dịch phải cân đối tổng nguồn thu từ khách hàng ( từ tiền gửi, tiền vay, phí bảo lãnh, thanh toán quốc tế...) để chấp nhận bán lỗ về tỷ giá.
Thị trường xuất khẩu trong nước bị thu hẹp do tình hình kinh tế, chính trị trên Thế giới biến đổi sâu sắc, nguồn kiều hối từ nước ngoài chuyển về nước bị hạn chế do đó làm hạn chế nguồn cung ngoại tệ cho ngân hàng.
Tính chủ động của các chi nhánh trong kinh doanh ( mua bán ngoại tệ ) chưa cao, chưa coi đây là hoạt động quan trọng, nhiều chi nhánh mới chú ý đến tài trợ hàng nhập khẩu mà chưa chú ý đến tài trợ hàng xuất khẩu và các hoạt động dịch vụ để tạo nguồn thu ngoại tệ, còn ỷ lại vào cân đối ngoại tệ của toàn hệ thống.
Từ những thực tế trên đã làm cho nguồn ngoại tệ của Sở giao dịch bị hạn chế, dẫn đến kinh doanh ngoại tệ gặp nhiều khó khăn. Sở hoặc phải đóng vai trò là người mua hộ ngoại tệ cho khách hàng và không thu lãi hoặc phải bán với tỷ giá cao hơn một chút thì gây ấn tượng không tốt cho khách hàng và có khả năng mất khách hàng. Điều này gây tác động tiêu cực tới hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I
4.2.1.3. Một số tồn tại khác.
Ngoài những hạn chế nói trên thì còn rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I như:
Quy mô hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở còn nhỏ so với quy mô hoạt động của toàn hệ thống. Sở chưa thực sự chú trọng vào phát triển nghiệp vụ kinh doanh này, nghiệp vụ này phát triển không cân xứng với các mặt hoạt động khác của Sở.
Cơ cấu ngoại tệ chưa hợp lý, đồng USD hiện nay vẫn là đồng tiền được sử dụng chủ yếu trong các giao dịch hàng ngày của Sở, tỷ trọng giao dịch USD tại Sở luôn chiếm tới 90% trong tổng doanh số mua bán.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng còn thấp. Hiện nay, Sở chưa có dịch vụ hỗ trợ nào cho hoạt động mua bán ngoại tệ của khách hàng.
4.2.2 . Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I còn kém hiệu quả là do những nguyên nhân sau.
4.2.2.1. Nguyên nhân khách quan.
Thứ nhất là, thiếu một thị trường hối đoái hoàn chỉnh.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ muốn mở rộng và phát triển hơn nữa thì phải có một nền tảng vững chắc là thị trường hối đoái. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một thị trường hối đoái hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó mà chỉ ở giai sơ khai là thị trường giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Hơn nữa, đối tượng tham gia trên thị trường còn rất hạn chế, chủ yếu là các NHTM. Chúng ta biết rằng hiện nay tầng lớp dân cư còn tồn đọng một lượng ngoại tệ khá lớn. Nếu đối tượng tham gia trên thị trường được mở rộng thì sẽ thu hút một bộ phân lớn dân cư tham gia vào thị trường này, từ đó hạn chế được các hoạt động mua bán ngoại tệ “ chợ đen”.
Thứ hai là, thiếu một thị trường tiền tệ hoàn hảo.
Thị trường ngoại hối và thị trường tiền tệ có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư các khoản đầu tư ngắn hạn bằng cách mua cổ phiếu, trái phiếu... Nhưng điều quan tâm hàng đầu của họ là tính lỏng mà họ đang nắm giữ. Chính vì vậy, chỉ khi nào các chứng khoán đó được chuyển đổi tự do trên thị trường tiền tệ thì mới hấp dẫn các nhà đầu tư chuyển ngoại tệ sang VND để mua chứng khoán. Nhờ đó, hoạt động mua bán, vay mượn ngoại tệ trên thị trường ngoại hối mới có thể phát triển sâu rộng và hoàn chỉnh hơn.
Thứ ba là, việc can thiệp của NHNN quá sâu vào thị trường ngoại hối làm cho các NHTM mất quyền chủ động trong việc đảm bảo nguồn ngoại tệ của mình. Việc can thiệp của NHNN đôi khi còn mang tính hành chính.
Thứ tư là, trình độ nhận thức của người dân về thị trường ngoại hối còn hạn chế. Ngay cả các doanh nghiệp Việt Nam cũng chỉ quen với nghiệp vụ mua bán ngoại tệ trao ngay mà chưa có thói quen mua bán kỳ hạn, họ để mặc rủi ro về tỷ giá. Do vậy, các ngân hàng khó có thể mở rộng các nghiệp vụ mua bán vốn có của thị trường ngoại hối như mua bán kỳ hạn, mua bán quyền chọn...
4.2.2.2. Nguyên nhân chủ quan của chính bản thân ngân hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Thứ nhất là, trình độ cán bộ làm công tác kinh doanh ngoại tệ còn nhiều hạn chế. Kinh doanh ngoại tệ còn thụ động, phụ thuộc vào khách hàng , mua bán chưa giám tận dụng thời cơ, mạnh dạn tham gia vào các hoạt động đầu cơ, kinh doanh ngoại tệ với quy mô lớn. Do vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ khó có khả năng mở rộng, phát triển và nâng cao hiệu quả. Mặt khác, hiện nay số nhân viên trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ còn ít, Sở mới chỉ có 3 nhân viên phụ trách hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Thứ hai là, mặc dù Sở đã trang bị một số máy móc phục vụ cho kinh doanh ngoại tệ như: màn hình Reuters, máy fax, vi tính... song so với yêu cầu của một thị trường hối đoái hoàn chỉnh và hoạt động kinh doanh ngoại tệ thì Sở cần phải đầu tư hơn nữa , tiến tới hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Thứ ba là, ý thức chấp hành của các chi nhánh còn yếu, đã có biểu hiện chấp hành không nghiêm các quy định về mua bán ngoại tệ của NHNN và hướng dẫn của NHĐT. Trong chỉ đạo điều hành, một số chi nhánh đã thiếu cụ thể, thiếu các biện pháp kiểm tra, kiểm soát do hạn chế về nghiệp vụ, kỹ năng nhận đoán rủi ro và thiếu thông tin trên thị trường.
Chương 3
Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN
1. Phương hướng phát triển kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I -NHĐT&PTVN.
Xu hướng mở cửa hội nhập toàn cầu hoá kinh tế thế giới đã thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại quốc tế, cùng với nó hoạt động giao dịch ngoại hối của thị trường ngoại hối quốc tế ngày càng trở nên sôi động và phát triển, trở thành bộ phận không thể thiếu được của kinh doanh quốc tế. Hoạt động của NHTM trên thị trường ngoại hối đã trở thành mảng hoạt động quan trọng trong hoạt động kinh doanh đa năng và là công cụ quan trọng trong cạnh tranh và thu hút khách hàng.
Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt và nguy cơ mất thị phần trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt liên quan đến lĩnh vực thị trường quốc tế, yêu cầu bức xúc đối với các NHTMVN là phải nghiên cứu một cách hệ thống, nhìn nhận và đánh giá nghiêm túc thực trạng hoạt động kinh doanh liên quan đến ngoại tệ để có những biện pháp hữu hiệu phát huy thế mạnh của mình nhằm nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh trên thị trường ngoại hối.
Với những yêu cầu đặt ra đấy, Sở giao dịch I đã và đang nghiên cứu để đưa ra biện pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của mình sao cho có lợi nhất.
Với 48 năm xây dựng và trưởng thành NHĐT&PTVN đã không ngừng lớn mạnh, phấn đấu nỗ lực, sáng tạo, mãi là người lính xung kích phục vụ đầu tư phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Và với 14 năm phát triển Sở giao dịch I đã không ngừng phấn đấu để trở thành đơn vị hàng đầu trong toàn ngành ngân hàng. Để thực hiện mục tiêu phát triển mà nội dung xuyên suốt là cơ cấu lại toàn bộ để phát triển và chủ động hội nhập, Sở giao dịch I cần tập trung đổi mới công nghệ, tăng cường đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực tài chính và phát triển mạnh các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng hiện đại để tăng khả năng cạnh tranh, phải gắn chất lượng với phát triển và tăng trưởng, hoạt động hiệu quả và an toàn ở mức cao nhất. Trong đó, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở là một trong nhữg lĩnh vực phải được quan tâm hàng đầu để tạo tiền đề cho mở cửa và hội nhập. Một trong những cơ sở để đưa ra giải pháp là định hướng hoạt động kinh doanh đối ngoại năm 2004.
Toàn chi nhánh cần đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ, đáp ứng cao nhất nhu cầu hợp pháp hợp lệ về ngoại tệ của khách hàng. Nhận thức rõ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng là trách nhiệm của toàn chi nhánh.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHĐT&PTVN trong giai đoạn hiện nay trước hết là để phục vụ tốt nhu cầu của khách hàng theo đúng quy định của Nhà nước, đảm bảo hiệu quả, an toàn, tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận đơn thuần mà vi phạm các quy định của Nhà nước.
Định hướng hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải được đặt trên đề án tái cơ cấu và chiến lược phát triển của Ngân hàng. Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ phải được đồng bộ với hoạt động tín dụng, xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và các dịch vụ khác.
Trong kinh doanh ngoại tệ phải tuân thủ pháp luật, không ngừng nâng cao trình độ chỉ đạo của cán bộ, lãnh đạo điều hành và nghiệp vụ của từng cán bộ, từng bước áp dụng công nghệ mới để phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kịp thời nắm bắt diễn biến thị trường để đảm bảo an toàn, nâng cao hiệu quả và hạn chế rủi ro.
Từ năm 2002, 12 nước thành viên của EU đã bắt đầu thanh toán bằng đồng EUR. Hiện nay, đồng EUR có một vị thế quan trọng trên thị trường ngoại hối Quốc tế, vì vậy SGDI cần chú trọng giao dịch bằng đồng EUR và theo dõi sự biến động của nó trên thị trường.
Mở rộng mạng lưới giao dịch, phát triển thêm nhiều khách hàng là ngân hàng và doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu, tiếp thị thêm nhiều khách hàng mới có hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một bộ phận của hoạt động kinh doanh đối ngoại, do đó, mục tiêu của nó phải gắn liền với định hướng chung, hỗ trợ đắc lực để hoàn thành định hướng đó. Mục tiêu lợi nhuận là quan trọng nhưng ngân hàng phải đẳm bảo an toàn về tài sản, vốn ngoại tệ của quốc gia, góp phần thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại với chất lưọng hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN.
Kinh doanh ngoại tệ là một trong những nghiệp vụ không thể thiếu được trong các nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng thời hiện đại. Hơn nữa, đây là một hoạt động mang tính phức tạp, rủi ro cao và chịu nhiều ảnh hưởng của nhiều biến cố kinh tế, xã hội, chính trị...
Để có thể cạnh tranh gay gắt chiếm lĩnh thị trường thì các NHTM phải đưa ra các giải pháp riêng cho mình. Việc có những giải pháp đúng đắn sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh cho chính ngân hàng đó. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nguyên nhân nào thì cần có giải pháp đó kèm theo để tổ chức thực hiện. Xuất phát từ thực trạng kinh doanh ngoại tệ của Sở gaio dịch I trong thời gian vừa qua và phương hướng phát triển trong thời gian tới, căn cứ vào một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ cùng với những kiến thức đã học và thời gian thực tập tại Sở, em xin nêu ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh ngoại tệ tại Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN.
2.1. Nâng cao chất luợng nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ đang sử dụng.
Trước mắt, khi các nghiệp vụ như option và future chưa được áp dụng thì Sở giao dịch I cần tiếp tục nâng cao hiệu quả các nghiệp vụ đang sử dụng:
Đối với nghiệp vụ mua bán trao ngay:
Tiếp tục mở rộng quy mô thực hiện nghiệp vụ bằng các chính sách thu hút khách hàng đến giao dịch ngoại tệ với mình đồng thời mở rộng quan hệ với các NHTM khác.
Giữ vững uy tín với khách hàng: thanh toán đúng hạn, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
Đối với nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn và nghiệp vụ Swap:
Khi giao dịch cần đảm bảo theo nguyên tắc công bằng giữa mua và bán để đảm bảo tránh rủi ro về tỷ giá. Hiện nay nghiệp vụ kỳ hạn có doanh số giao dịch chiếm tỷ trọng thấp, nghiệp vụ hoán đổi thì dường như không sử dụng, nếu tăng tỷ trọng giao dịch các nghiệp vụ này sẽ mang lại lợi nhuận nhiều hơn cho ngân hàng. Vì vậy cần giới thiệu với khách hàng hiểu về nghiệp vụ và tiện ích của chúng.
2.2.Có những chuẩn bị để đưa nghiệp vụ option vào giao dịch.
Tại Sở giao dịch I, trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ mới chỉ thực hiện nghiệp vụ mua bán trao ngay, mua bán kỳ hạn và nghiệp vụ Swap ( nhưng rất ít). Ngoài ra các nghiệp vụ khác như hợp đồng quyền chọn , hợp đồng tương lai chưa được thực hiện. Vì vậy hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn đơn giản mang tính sơ khai, chưa có sự kết hợp chặt chẽ với thị trường tiền tệ, chưa có hoạt động tích trữ đầu cơ. Do đó, để hoạt động kinh doanh ngoại tệ phát triển thì NHNN đã cho phép NHĐT&PTVN thực hiện nghiệp vụ quyền chọn vào tháng 8 này. Đây là nghiệp vụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong việc tự bảo hiểm các khoản thu chi của mình và tránh rủi ro hối đoái, như vậy thì Sở có thể thu hút thêm khách hàng, mở rộng mạng lưới kinh doanh. Nghiệp vụ này không chỉ đòi hỏi sự am hiểu về nghiệp vụ, nỗ lực học hỏi kinh nghiệm và nắm bắt thông tin từ phía ngân hàng mà còn được sự ủng hộ , hiểu biết về nghiệp vụ từ phía khách hàng. Vì vậy, để thực hiện các nghiệp vụ mới này thì đòi hỏi Sở I bên cạnh việc trang bị kiến thức nghiệp vụ, đào tạo kỹ năng cho cán bộ kinh doanh ngoại tệ cần giới thiệu , quảng bá cho khách hàng hiểu rõ về lợi ích các nghiệp vụ để họ sử dụng chúng như các công cụ phòng ngừa rủi ro và tính toán hiệu quả trong kinh doanh.
2.3. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh.
ở nước ta hiện nay, đồng USD vẫn là đồng tiền được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng chủ yếu trong thanh toán quốc tế, trong các NHTM thì việc huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ thì cũng chủ yếu bằng đồng USD và đồng USD chiếm tới 90% các giao dịch bằng ngoại tệ tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN.
Tuy nhiên, trong điều kiện thương mại toàn cầu, việc sử dụng chủ yếu đồng USD là không còn phù hợp nữa. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ một mặt đáp ứng nhu cầu cụ thể về ngoại tệ đó cho khách hàng khiến khách hàng tìm đến ngân hàng thường xuyên hơn, mặt khác sẽ chia sẻ, phân tán rủi ro trong khi tỷ giá của các loại ngoại tệ khác nhau có những biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố không kiểm soát được.
Hiện nay, không nên chú trọng quá vào đồng USD mà nên mở rộng kinh doanh ra những loại ngoại tệ khác như EUR, JPY, GBP... Với tỷ giá của USD luôn biến đổi và chênh lệch tỷ giá chỉ khoảng 0,05% thì các loại ngoại tệ khác chênh lệch tỷ giá mua và tỷ giá bán là rất cao lên tới 1-1,8%. Đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong kinh doanh góp phần đem lại lợi nhuận cho ngân hàng và nâng cao hiệu quả trong kinh doanh. Để có kế hoạch duy trì trạng thái ngoại hối và các loại ngoại tệ thì cần phải xem xét tìm hiểu nhu cầu của khách hàng để đưa ra một chính sách tối ưu tránh tình trạng khách hàng cần ngoại tệ này mà ngân hàng chỉ có ngoại tệ khác.
2.4. Mở rộng và phát triển các hoạt động có liên quan đến kinh doanh ngoại tệ.
Các hoạt động kinh doanh của ngân hàng đều có liên quan trực tiếp, tác động lẫn nhau. Hoạt động này phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động khác cùng phát triển. Trong lĩnh vực kinh doanh có liên quan đến ngoại tệ tại Sở giao dịch I thì việc kinh doanh ngoại tệ không chỉ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thanh toán quốc tế và tín dụng ngoại tệ phát triển.
2.4.1. Hoạt động thanh toán quốc tế.
Thanh toán quốc tế là hoạt động có liên quan trực tiếp tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Muốn đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ thì phải làm tốt công tác thanh toán quốc tế. Có phục vụ khách hàng thuận lợi thì khách hàng mới tìm đến ngân hàng nhiều hơn, ngân hàng sẽ có nguồn thu ngoại tệ từ các khách hàng là doanh nghiệp xuất khẩu và nguồn bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu. Để thực hiện tốt nghiệp vụ thanh toán quốc tế thì đòi hỏi Sở I phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Chính sách thu hút khách hàng: Có các mức ký quỹ phù hợp với từng doanh nghiệp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiết kiệm chi phí và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm chi phí cho khách hàng có uy tín, quan hệ lâu dài với Sở, khách hàng có khối lượng giao dịch lớn. Tư vấn cho khách hàng về phương thức giao dịch có lợi cho khách hàng. Tổ chức thực hiện nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng một cách nhanh chóng và chính xác, kịp thời và an toàn về vốn....
Mở rộng quan hệ với các ngân hàng khác đặc biệt là các ngân hàng nước ngoài để tận dụng tối đa sự trợ giúp về nghiệp vụ, chuyên môn và khai thác thông tin kinh tế.
Tổ chức thực hiện tốt quy trình thanh toán quốc tế mới, phát triển và sử dụng mạng thanh toán quốc tế SWIFT với hiệu quả cao nhất để nâng cao chất lượng thanh toán quốc tế.
2.4.2. Hoạt động cho vay ngoại tệ.
Để mở rộng cho vay ngoại tệ thì Sở cần:
Tiếp tục tăng khơi nguồn ngoại tệ trung và dài hạn,
Thực hiện tốt cho vay tài trợ xuất nhập khẩu để giúp các doanh nghiệp có vốn làm hàng xuất khẩu. Thực hiện cho vay ứng trước bộ chứng từ hàng xuất để tạo điều kiện cung cấp ngoại tệ cho doanh nghiệp và có điều kiện mở rộng thị trường ngoại tệ có kỳ hạn.
Nâng cao trình độ cán bộ thẩm dịnh tín dụng để xem xét khả năng trả nợ của khách hàng và tư vấn cho họ phương án kinh doanh có hiệu quả nhất.
2.5. Xây dựng chính sách khách hàng.
Chính sách khách hàng có một vị thí hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của một NHTM. Giải pháp về một chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là một yếu tố quyết định vị trí của ngân hàng trong cuộc cạnh tranh gay gắt giành giật thị phần trên thị trường ngoại hối của các NHTM.
Chủ động tìm kiếm khách hàng: Đây là một hoạt động không thể thiếu trong chiến lược khách hàng nhằm mở rộng hoạt động và nâng cao số lượng khách hàng đến với mình. Trong tình hình hiện nay, khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu đến giao dịch với Sở còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, mà khách hàng của Sở chủ yếu là các ngân hàng khác. Do đó, Sở giao dịch I cần chủ động tìm kiếm khách hàng có hoạt động xuất nhập khẩu, mở rộng mạng lưới giao dịch có những chính sách ưu đãi, sản phẩm dịch vụ tiện ích để thu hút nhóm khách hàng này, vì đây vừa là nguồn thu vừa là nguồn bán ngoại tệ quan trọng của ngân hàng. Việc thu hút được số lượng lớn các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu đang là mục tiêu đặt ra với toàn nhân viên giao dịch kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I. Đây cũng là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở.
Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ: Cải tiến quy trình nghiệp vụ nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng, tiết kiệm thời gian và đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Quy trình mua bán ngoại tệ còn bất hợp lý và lạc hậu. Khi mua ngoại tệ một mặt khách hàng phải xuất trình đơn xin mua ngoại tệ kèm theo các chứng từ liên quan cho phòng kinh doanh đối ngoại, khách hàng còn phải lập uỷ nhiệm chi trích tài khoản VND để trả tiền mua, mà lẽ ra họ có thể uỷ quyền cho ngân hàng tự trích tài khoản VND. Như vậy, khách hàng chỉ cần đến Phòng kế hoạch nguồn vốn để giao dịch, phần còn lại là công việc nội bộ giữa các phòng trong Sở giao dịch sẽ tự làm.
Có chính sách giá cả hợp lý cho từng khách hàng: Trong một môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chính sách giá cả phải được áp dụng một cách linh hoạt, phù hợp trên cơ sở cân đối vốn, chi phí , lợi nhuận, thị phần và các mục tiêu khác mà Sở theo đuổi. Tuyệt đối không chạy theo lợi nhuận mà làm mất đi nền khách hàng bền vững. Sở phải tiến hành phân loại khách hàng. Với nhóm khách hàng có quan hệ lâu dài với Sở, khối lượng giao dịch lớn và có uy tín sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi, mua bán ngoại tệ với giá cả ưu đãi....
Chính sách Marketing khách hàng: Trong báo cáo tổng kết năm 2004 ban lãnh đạo đã đưa ra giải pháp là thực hiện chính sách Marketing khách hàng. Có thể nói đây là nhiệm vụ quan trọng, vì trong thời gian tới Sở sẽ áp dụng nghiệp vụ kinh doanh mới, dịch vụ sản phẩm mới, do đó, phải tổ chức quảng bá, tuyên truyền cho khách hàng những thông tin về hoạt động kinh doanh của mình sao cho ngắn gọn, dễ hiểu và dễ sử dụng. Có thể tăng cường quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạp chí, truyền hình, mạng Internet. Đối với khách hàng có quan hệ mua bán ngoại tệ với Sở cần giới thiệu cho họ biết về những nghiệp vụ mới sao cho họ thấy được nó có lợi nhất đối với họ, và sử dụng chúng thuận tiện. Đây là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I.
2.6. Đầu tư hiện đại hoá cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng .
Hiện nay, hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, Việt nam sắp tham gia vào các tổ chức tài chính thương mại thế giới. Điều này, có nghĩa là các NHTMVN sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các ngân hàng nước ngoài khi mà họ có rất nhiều lợi thế, nhất là về công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Khi đó một loạt các sản phẩm ngân hàng hiện đại vốn đã được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau sẽ được tung ra ở Việt Nam cho khách hàng sử dụng. Lúc đó lợi thế tạm thời của NHTMVN sẽ dần bị mất đi. Để giành giật được thị trường thì yêu cầu cấp bách đặt ra với tất cả các NHTM và với Sở giao dịch I nói riêng là phải đổi mới trang thiết bị công nghệ ngân hàng sao cho phù hợp. Đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh ngoại tệ - đây là một hoạt động mang tính rủi ro cao, gắn liền với sự thay đổi của thị trường, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, kinh tế, chính trị, chính sách điều hành của Nhà nước...do đó, việc đầu tư công nghệ vào lĩnh vực này là hết sức cần thiết.
Thực trạng cho thấy, hiện nay hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I vẫn là một mảng nghiệp vụ của phòng kế hoạch nguồn vốn, chưa có một phòng kinh doanh tiền tệ riêng biệt nên chưa có điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Nên trong thời gian tới Sở giao dịch cần thành lập phòng kinh doanh tiền tệ riêng. Mặt khác, các hoạt động giao dịch mua bán ngoại tệ mới chỉ thông qua điện thoại, fax...Sở đã có màn hình Reuteur để theo dõi tình hình biến động tỷ giá của Nhà nước, do đó, Sở cần đầu tư mạng Internet nối với các doanh nghiệp lớn, các NHTM khác để theo dõi diễn biến của thị trường. Cần xây dựng mạng truyền tin nội bộ và hệ thống ứng dụng hỗ trợ các cấp quản lý và điều hành.
2.7. Chính sách phát triển nguồn nhân lực.
Trình độ và chất lượng của đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối đóng vai trò quan trọng đến năng lực hoạt động của NHTM trên thị trường ngoaị hối. Do thị trường ngoại hối có độ nhạy cảm cao ( phương pháp tính tỷ giá, kỹ thuật giao dịch và mối quan hệ với thị trường có nhiều phức tạp). Đặc biệt, kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc tế rất phức tạp, đòi hỏi phải theo dõi sát biến động của tỷ giá trên thị trường, kết hợp phân tích, đánh giá các yếu tố khác như kinh tế, chính trị của mỗi nước. Ngoài ra, cán bộ kinh doanh ngoại hối phải biết dự báo thị trường, xem xét xu hướng biến động của tỷ giá trong thời gian trước mắt, trung và dài hạn.
Nhận thức được điều đó, Sở giao dịch I đã có những chính sách phát triển nguồn nhân lực một cách tốt nhất để đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong hoạt động kinh doanh của mình.
2.7.1 Nâng cao trình độ quản lý.
Để theo dõi, chỉ đạo việc kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả thì trước hết, ban lãnh đạo của Sở giao dịch cần nắm bắt được sự thay đổi của các văn bản, quan điểm chỉ đạo điều hành của Chính phủ, thường xuyên theo dõi tình hình biến động của thị trường, có cái nhìn toàn diện, bao quát kết hợp với đầu óc phân tích tổng hợp, linh hoạt sáng tạo đưa ra các quyết định kịp thời, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất, hình thành các quyết định dựa trên cơ sở thực tế và ý nghĩ của mình.
Để có được phẩm chất này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên trau dồi kiến thức, học hỏi kinh nghiệm và tích luỹ nghề nghiệp vững vàng, ham hiểu biết....Ban lãnh đạo phải thường xuyên lập ra kế hoạch kinh doanh. Có chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ góp phần thực hiện công việc một cách có kế hoạch góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.7.2 Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về chuyên môn.
Kinh doanh ngoại tệ là một nghiệp vụ mới, hoạt động của nó gắn liền với những diễn biến của thị trường. Vì vậy, đòi hỏi nhân viên phụ trách phải có trình độ, am hiểu và biết phân tích, đánh giá để có phương án kinh doanh tối ưu. Biết tận dụng thời cơ, cơ hội trong kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh liên quan đến thị trường ngoại tệ. Mặt khác, hoạt động trên thị trường ngoại hối là hoạt động đặc thù, các giao dịch cam kết mua bán của NHTM mang tính bắt buộc. Do vậy, uy tín của ngân hàng ảnh hưởng lớn tới hoạt động của ngân hàng đó trên thị trường ngoại hối, tác động trực tiếp vào khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Trình độ xử lý nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp nhất tới uy tín của ngân hàng. Hiểu được tầm quan trọng này các NHTMVN cần phải đưa ra các chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhân viên ngân hàng. Sở giao dịch I phải thường xuyên mở các lớp tập huấn nghiệp vụ, đưa cán bộ đi học tập ở cả trong nước và nước ngoài.
Thực hiện đào tạo và phát triển nghiệp vụ chuyên môn cho nhân viên phụ trách lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ, mà hiện nay, Sở giao dịch I có 3 nhân viên trẻ thực hiện nghiệp vụ này. Đây là một lợi thế cho Sở giao dịch trong việc thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ đáp ứng trong tương lai. Cán bộ làm nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ không chỉ tinh thông nghề nghiệp mà còn phải giỏi ngoại ngữ, am hiểu pháp luật và các thông lệ quốc tế, sử dụng thành thạo các thiết bị hiện đai phục vụ công việc, sức khoẻ là một điều kiện rất quan trọng cho một “dealer” giỏi và khả năng thu thập thông tin, phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội...sự nhạy cảm nghề nghiệp để xử lý tình huống giao dịch một cách linh hoạt.
2.8. Thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro, trong đó rủi ro về tỷ giá và rủi ro về lãi suất là những rủi ro đặc trưng. Về cơ bản ngân hàng không thể kiểm soát được rủi ro mà chỉ có thể dùng các biện pháp nhằm hạn chế thiệt hại do chúng gây ra. Để có biện pháp hữu hiệu thì ngân hàng cần thực hiện tốt một số nguyên tắc trong kinh doanh ngoại tệ.
Rủi ro về tỷ giá xuất hiện khi ngân hàng có trạng thái một loại ngoại tệ nào đó dư thừa hoặc thiếu hụt. Khi ngoại tệ lên giá thì trạng thái dư thừa sẽ có lợi còn nếu trạng thái đoản thì sẽ bị lỗ. Trong quá trình mua bán hàng ngày, trạng thái ngoại tệ này luôn thay đổi nên ngân hàng luôn có khả năng gặp phải rủi ro do sự biến động của tỷ giá. Vì vậy, để hạn chế rủi ro do tỷ giá gây ra, ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc mua đủ bán hết. Mặt khác, Sở giao dịch cần điều chỉnh mức trạng thái ngoại tệ tối ưu, ít rủi ro nhất nhưng phải có hiệu quả bởi nếu duy trì trạng thái ngoại tệ ở mức cân bằng thì sẽ bỏ lỡ cơ hội kinh doanh khi không đủ ngoại tệ cho nhu cầu bất ngờ của khách hàng. Sở giao dịch I cũng cần sử dụng nhiều hơn công cụ phòng ngừa rủi ro hối đoái (nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ hoán đổi, nghiệp vụ quyền chọn...) hoặc thoả thuận với khách hàng nếu tỷ giá biến động vượt quá một phạm vi giới hạn cho phép thì ngân hàng và khách hàng sẽ cùng chia sẻ thiệt hại hoặc cùng hưởng lợi. Đây là nguyên tắc thứ hai cho ngân hàng: nguyên tắc tìm đường thoát trước khi tạo trạng thái ngoại tệ.
Rủi ro lãi suất chủ yếu xảy ra với các nghiệp vụ kỳ hạn, nghiệp vụ quyền chọn. So với rủi ro tỷ giá hối đoái thì rủi ro hối đoái ít có ý nghĩa hơn nhưng với khối lượng giao dịch lớn thì nó cũng gây ra thiệt hại đáng kể. Để hạn chế rủi ro Sở giao dịch cần phải phân tích rủi ro phát sinh từ những nghiệp vụ này. Việc này cần thực hiện theo nguyên tắc kết hợp phân tích cơ bản với phân tích kỹ thuật. Phân tích cơ bản để xác định thị trường, phân tích kỹ thuật xác định thời diểm.
Bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh thì rủi ro bao giờ cũng đi liền với lợi nhuận. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận thu được cũng càng lớn. Để thu được lợi nhuận cao thì đòi hỏi mỗi đơn vị kinh doanh phải biết nắm cơ hội, tận dụng thời cơ và biết tổng hợp tất cả các nghiệp vụ kinh doanh. Riêng đối với Sở giao dịch I đặc biệt trong linh vực kinh doanh ngoại tệ thì việc tổng hợp tất cả các nghiệp vụ, am hiểu thị trường và đặc biệt cần có sự nhạy cảm, linh hoạt, khả năng nắm bắt thị trường nhanh để từ đó đưa ra các biện pháp , công cụ phòng ngừa rủi ro mà vẫn thu được lợi nhuận cao.
3. Một số kiến nghị
3.1.Đối với Chính phủ.
3.1.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý cho kinh doanh ngoại tệ.
Kinh doanh ngoại tệ là một hoạt động đặc thù: Vì hàng hoá trong thị trường này có tính hấp dẫn cao và rủi ro trong thị trường này cũng rất lớn. Là một lĩnh vực hoạt động kinh doanh trên thị trường mà đặc biệt là thị trường quốc tế, tạo tiền đề cho mở cửa và hội nhập nhưng đến nay, vẫn chưa có một bộ luật cụ thể về quản lý ngoại hối. Để chuẩn bị cho bộ luật mới ra đời thì trước mắt yêu cầu các ngân hàng thực hiện tốt các quy định, nghị định, thông tư... đang có.
Quản lý ngoại hối là một công việc liên quan trực tiếp tới chính sách tiền tệ quốc gia. Vì vậy, việc ban hành các văn bản quản lý, các thông tư hướng dẫn phù hợp, sát với thực tế là hết sức quan trọng.
Gần đây việc triển khai nghị định 46/2003/QĐ - TTg ngày 02/04/2003 của Thủ tướng Chính phủ về điều chỉnh tỷ lệ kết hối của các khoản thu ngoại tệ vãng lai của các tổ chức kinh tế và tổ chức xã hội xuống 0% đã làm cho nguồn ngoại tệ của ngân hàng giảm sút, ảnh hưởng đến mức cung cầu ngoại tệ trong nền kinh té quốc dân trong thời gian qua và tạo điều kiện tăng mức giữ lại ngoại tệ từ các nguồn thu ngoại tệ vãng lai. Việc quản lý ngoại hối còn bộc lộ nhiều yếu kém và sơ hở làm cho nguồn ngoại tệ vãng lai trôi nổi trên thị trường ngày một gia tăng và chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, nên chưa thể hội đủ điều kiện để chấm dứt tình trạng “ dola hóa nền kinh tế”.
Đối với các giao dịch vãng lai: quy định về hồ sơ chuyển tiền còn bộc lộ khá nhiều khiếm khuyết. Việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu hàng hoá phải xuất trình giấy phép nhập khẩu, hợp đồng xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, tờ khai hải quan... quy định này chưa đủ vì thực tế thanh toán xuất nhập khẩu có nhiều phương thức thanh toán và nhiều trường hợp phải đặt cọc trả trước do vậy chưa có tờ khai hải quan. Mặt khác, ở phần thứ năm của chương IX điểm 2 khoản a của Luật các tổ chức tín dụng quy định về thủ tục nộp ngoại tệ tiền mặt vào tài khoản cá nhân có ghi: sử dụng tờ khi hải quan khi nộp ngoại tệ tiền mặt vào tài khoản cá nhân, khách hàng có thể lợi dụng một tờ khai hải quan để nộp vào nhiều tài khoản khác nhau tại các NHTM.
Việc ban hành các văn bản sát với thực tế đã khó nhưng việc thực hiện của các NHTM còn khó khăn hơn nhiều, nhất là trong lĩnh vực ngoại hối, một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ. Do đó, phải tăng cường công tác đào tạo, tuyên truyền, tập huấn nâng cao trình độ nhận thức về văn bản của cán bộ các NHTM. Với những câu hỏi, kiến nghị về việc khó khăn trong quá trình thực hiện, NHNN cần sớm nghiên cứu trả lời hoặc có thể tập hợp để nghiên cứu ban hành cẩm nang cho hoạt động này như phòng Thương mại quốc tế vẫn làm hàng năm.
3.1.2. Cơ chế tỷ giá linh hoạt có sự điều chỉnh của Nhà nước.
Từ năm 1999 đến 2004 đã có hàng loạt các văn bản về tỷ giá hối đoái ra đời. Điều này, chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đến thị trường ngoại hối. Cơ chế tỷ giá và điều hành tỷ giá của nước ta đã thay đổi cơ bản, vai trò kiểm soát của Nhà nước về tỷ giá chặt chẽ hơn. Tỷ giá do Nhà nước công bố đã phần nào đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của các NHTM và sát với tỷ giá trên thị trường. Tuy nhiên còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết.
Để cơ chế điều hành tỷ giá phát huy hơn nữa, NHNN cần tập trung vào hoàn thiện các vấn đề:
Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng một cách căn bản để phát triển thị trường ngoại hối ở nước ta. Tạo điều kiện thuận lợi cho các thành viên tham gia vào thị trường, nới lỏng các quy định khi tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, đưa các nghiệp vụ mới vào hoạt động.
Nâng cao dự trữ ngoại tệ của Nhà nước tương xứng với nhịp độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường nước ta. Có như vậy, NHNN mới đảm bảo là người mua cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, giúp các NHTM yên tâm hơn trong kinh doanh ngoại tệ.
Trong thời gian tới, việc đa dạng hoá các loại ngoại tệ trong giao dịch sẽ được mở rộng, đặc biệt áp dụng đồng EUR vào trong thanh toán. Do đó, NHNN nên đưa ra một cơ chế tỷ giá linh hoạt, thích hợp, để tạo điều kiện cạnh tranh giữa các loại ngoại tệ , tạo khả năng thu hút nhiều ngoại tệ khác nhau cho hoạt động của các NHTM.
Trong việc ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ có kỳ hạn trong các giao dịch kỳ hạn chưa phù hợp với điều hành tỷ giá. Hiện nay, mức gia tăng tỷ giá đã giảm từ 0,58 xuống 0,2% ngay từ kỳ hạn giao dịch đầu tiên trong khi tỷ giá công bố của Nhà nước có tháng điều chỉnh tăng liên tục và tăng khoảng 1%/tháng. Do vậy, gây khó khăn cho doanh nghiệp và NHTM trong việc mua bán kỳ hạn. Mặt khác, việc quy định cách tính tỷ giá kỳ hạn bằng cách khống chế mức tối đa được phép dựa trên tỷ giá trao ngay cộng với tỷ lệ % nào đó tuỳ theo từng kỳ hạn là hết sức cứng nhắc, không linh hoạt và không phản ánh đúng bản chất của tỷ giá kỳ hạn. Tuy nhiên, tỷ giá kỳ hạn thực chất được tính dựa trên chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền và tỷ giá giữa chúng tại thời điểm ký hợp đồng. Vì vậy, để hoàn thiện cơ chế tính tỷ giá kỳ hạn thì NHNN nên dựa vào chênh lệch lãi suất thay vì cách tính có tính hành chính hiện nay.
Mặc dù, tỷ giá do NHNN công bố đã phần nào sát với thực tế, nhưng vẫn chưa phản ánh đúng bản chất của cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Tỷ giá do NHNN công bố đôi khi chưa đánh giá đúng bản chất của USD trên thị trường, nó gần như một hình thức ép giá đối với các NHTM. Do đó, gây khó kăhn cho các NHTM khi thu hút nguồn ngoại tệ trôi nổi trên thị trường.
Để trong thời gian tới, hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các NHTM trên thị trường ngoại hối phát triển và có hiệu quả hơn thì dòi hỏi NHNN phải xem xét và đưa ra những văn bản pháp luật mới, hoàn chỉnh hơn về tỷ giá dựa trên sự đánh giá thực tế diễn biến của thị trường ngoại tệ và những thay đổi của đồng tiền diễn ra liên tục. Việc đưa ra những văn bản mới, hoàn thiện là rất qaun trọng trong việc hoàn thiện thị trường ngoại hối của nước ta và tạo điều kiện để thị trường ngoại hối của nước ta hoà nhập với thị trường ngoại hối quốc tế.
3.1.3. Hình thành và vận hành tốt thị trường ngoại hối
Tuy đã đi vào hoạt động, nhưng thị trường ngoại hối của nước ta vẫn còn dang ở thời kỳ sơ khai, các nghiệp vụ giao dịch còn đơn giản, loại ngoại tệ không nhiều và số thành viên tham gia là không lớn. Do quy định chặt chẽ của Nhà nước về thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối nên hiện nay, chỉ có các NHTM mới được tham gia vào thị trường ngoại hối, còn các doanh nghiệp muốn giao dịch thì phải thông qua các NHTM, các NHTM cổ phần cũng không được tham gia trên thị trường này. Điều này hạn chế khả năng thu hút ngoại tệ của các ngân hàng. Để thị trường ngoại hối vận hành theo đúng nghĩa của nó thì Nhà nước cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Xây dựng một cơ chế tỷ giá linh hoạt, nhạy bén, phản ánh được thường xuyên sự biến động của tỷ giá quốc tế.
Trang bị hệ thống thông tin hiện đại để tiềp nhận tỷ giá, các nguồn thông tin đa chiều, chính xác, nhanh chóng, thường xuyên đổi mới thông tin và cung cấp cho các NHTM.
Mở rộng thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối là các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
Hiện nay, thị trường ngoại hối của nước ta vẫn là một lĩnh vực còn mới đối với người dân. Bởi vậy, muốn mở rộng hoạt động của thị trường này trong thời gian tới thì cần trang bị những kiến thức cơ bản cho dân chúng về thị trường ngoại hối, đặc biệt là các Công ty kinh doanh xuất nhập khẩu lớn, các đơn vị kinh tế có tiềm năng lớn trong tương lai thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách báo...
3.1.4. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ chỉ có thể phát triển được khi bản thân nền kinh tế có những quan hệ kinh tế đối ngoại liên quan đến nhu cầu chuyển đổi tiền tệ. Do vậy, sẽ là thiếu sót nếu không đề cập đến giải pháp về cán cân thanh toán quốc tế đối với hoạt động này. Sự thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ở nước ta luôn được nhắc tới và luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Quan hệ thương mại quốc tế phát triển thì nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường lớn và ngược lại.
Năm 2002, kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động bất lợi tới nền kinh tế và hệ thống ngân hàng Việt Nam. Sự phục hồi chậm của nền kinh tế Mỹ và một số nền kinh tế lớn, sự bất ổn định của kinh tế chính trị thế giới do tác động của cuộc khủng bố, nguy cơ chiến tranh ở Irắc , sự cạnh tranh quốc tế trong lĩnh vực xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài tiếp tục gây bất lợi cho xuất khẩu và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Trên thị trường tài chính thế giới, lãi suất đồng USD giảm mạnh cũng tác động đến huy động tiền gửi ngoại tệ của hệ thống ngân hàng. Trong khi đó, nhu cầu nhập khẩu cho phát triển nền kinh tế quốc dân, cho CNH - HĐH đất nước vẫn là những đòi hỏi cấp thiết, kết quả là cán cân thanh toán quốc tế của nước ta vẫn chưa được cải thiện. Đây là yếu tố gây mất cân đối cung cầu ngoại tệ và làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM.
Do vậy, để cải thiện cán cân thanh toán, Chính phủ cần tập trung vào thực hiện:
Tiếp tục hạn chế nhập siêu các mặt hàng tiêu dùng bằng cách yêu cầu các NHTM không bán ngoại tệ cho các nhu cầu thanh toán này, ngân hàng không cho vay ngoại tệ để nhập hàng tiêu dùng, cắt hẳn hoặc giảm hạn ngạch nhập khẩu các mặt hàng mà trong tương lai có thể sản xuất được.
Đẩy mạnh các hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh công tác vận động đầu tư nước ngoài, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nhằm thu hút lượng ngoại tệ lớn vào trong hệ thống NHTM và cải thiện các cân thanh toán quốc tế.
Vai trò của Chính phủ đối với quản lý ngân hàng là rất quan trọng. Nó tác động mạnh mẽ tới hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các NHTM và ISO tới sự vận động của thị trường ngoại hối. Do đó, để đưa ra những quyết định đúng đắn thì đòi hỏi Chính phủ phải xem xét trên tất cả các mặt của nền kinh tế, chính trị, xã hội...
3.2. Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (NHĐT&PTVN)
3.2.1 Về quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh.
Quy trình mua bán ngoại tệ giữa Hội sở chính và các chi nhánh còn nhiều phức tạp, các thủ tục rườm rà gây mất thời gian và lãng phí đối với các chi nhánh. Khi các chi nhánh mua bán ngoại tệ với Hội sở chính thì phải nộp đơn xin mua, trong đó nêu số ngoại tệ cần mua, cho ai, mục đích, ngày hiệu lực, tỷ giá... nên chăng vấn đề này nên để cho Giám đốc của các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ chủ động quyết định sao cho phù hợp với cơ chế quản lý ngoại hối.
Số 1090/NHĐT-KDTT có quy định về việc mua bán ngoại tệ trong hệ thống có ghi: thực hiện mua bán ngoại tệ thông qua NHĐT&PTVN mà không thực hiện mua bán ngoại tệ giữa các chi nhánh. Điều này gây khó khăn cho các chi nhánh trong việc đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho khách hàng và hạn chế khả năng chủ động nguồn ngoại tệ của các chi nhánh.
Để tạo điều kiện cho các chi nhánh chủ động trong việc tìm kiếm nguồn ngoại tệ khi có nhu cầu của khách hàng thì NHĐT&PTVN nên để cho các chi nhánh tự mua bán ngoại tệ với nhau sao cho chấp hành đúng quy định của quản lý ngoại hối.
Quy trình mua bán ngoại tệ của các chi nhánh thì quá cũ, không còn phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay khi nghị định quản lý ngoại hối của Chính phủ ban hành và các quy định của cành chức năng có liên quan về xuất nhập khẩu đẫ thay đổi qúa nhiều. Ngoài ra, quy trình còn phiền hà cho khách hàng khi mua bán ngoại tệ.Để tạo điều kiện cho các nghiệp vụ kinh doanh mới ra đời và đi vào hoạt động thì NHĐT&PTVN cần cải tiến và hoàn thiện quy trình mua bán ngoại tệ sao cho phù hợp với thực tế đòi hỏi hiện nay, phù hợp với thông lệ quốc tế và tạo điều kiện để thị trường ngoại hối phát triển.
Mặt khác, NHĐT&PTVN nên thường xuyên hỗ trợ các chi nhánh mua bán các loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế với giá cạnh tranh và thời gian thực hiện nhanh. Chủ động trong hoạt động kinh doanh tiền tệ là nhiệm vụ tập trung của hệ thống nhằm tạo sức mạnh tổng hợp cho phát triển và cạnh tranh.
3.2.2 Triển khai kịp thời, hướng dẫn cụ thể các văn bản của Chính phủ, của ngành về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ.
Hoạt động như một chi nhánh của NHĐT&PTVN, Sở giao dịch I chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Hội sở chính. NHĐT&PTVN là nơi trực tiếp tiếp nhận các văn bản của Chính phủ, của NHNNVN, của các ngành, các bộ... sau khi nghiên cứu sẽ đưa ra văn bản hướng dẫn các chi nhánh thực hiện. Tuy nhiên, việc ra các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ , đặc biệt về quản lý ngoại hối và kinh doanh ngoại tệ rất chậm hoặc không hướng dẫn cụ thể, thiếu đồng bộ và không kịp thời với sự đổi mới văn bản của các ngành các bộ... làm ảnh hưởng tới việc thực hiện của các chi nhánh. Vấn đề đặt ra là NHĐT&PTVN cần triển khai thực hiện kịp thời các văn bản hướng dẫn một cách cụ thể để hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh được thuận lợi tránh nhầm lẫn và quan trọng hơn là hiệu quả kinh doanh ngoại tệ của các chi nhánh từng bước được nâng cao.
Mặt khác, đề nghị NHĐT&PTVN cho các chi nhánh được phép kinh doanh ngoại tệ không chỉ phục vụ khách hàng mà còn kinh doanh kiếm lợi cho chính bản thân mình do chênh lệch tỷ giá, được quyền mua bán ngoại tệ với các ngân hàng ngoài hệ thống để từ đó mở rộng mối quan hệ trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
NHĐT&PTVN cần thiết lập hệ thống thông tin về tình hình diễn biến của thị trường, những thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ của chính phủ gửi xuống các chi nhánh một cách nhanh nhất để các chi nhánh nắm bắt được và áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của mình sao cho có hiệu quả nhất , tránh rủi ro.
3.2.3 Thực hiện kiểm tra, kiểm sát và nâng cao trình độ nghiệp vụ.
NHĐT&PTVN cần tăng cường công tác kiểm tra với các chi nhánh hơn nữa để từ đó giúp các chi nhánh giải quyết những khó khăn, vướng mắc một cách kịp thời và chấp hành quy định của Chính phủ, NHNN.
Đề nghị NHĐT&PTVN thường xuyên mở các lớp đào tạo , bồi dưỡng cả về lý thuyết lẫn thực tế hoạt động kinh doanh ngoại tệ cho cán bộ chi nhánh trực tiếp làm nghiệp vụ này. Thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận, tạo điều kiện cho các chi nhánh trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, cung cấp các thông tin cần thiết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và trên thế giới cho các chi nhánh.
Cần giải quyết những thắc mắc của các chi nhánh hoạt động kinh doanh ngoại tệ một cách kịp thời và đầy đủ.
Kết luận
Trong thời gian tới, NHĐT&PTVN có rất nhiều cơ hội và thách thức mới. Những cơ hội này xuất phát từ những tháo gỡ, cởi mở khó khăn của chính phủ Việt Nam, quyết tâm của NHĐT&PTVN trong việc tiếp tục cơ cấu lại toàn bộ hệ thống ngân hàng đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường .
Giai đoạn tiếp theo của NHTM có một ý nghĩa vô cùng quan trọng để thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển, đặc biệt là hội nhập kinh tế trên thị trường quốc tế.
Kinh doanh ngoại tệ là một mắt xích quan trong hoạt động kinh doanh đối ngoại và là một nghiệp vụ kinh doanh quan trọng của NHTM. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược kinh doanh của ngân hàng, đạt được mục tiêu về lợi nhuận, khách hàng... Ngoài ra hoạt động này còn góp phần thúc đẩy các hoạt động khác cùng phát triển, đưa ngân hàng tiến nhanh hơn trên con đường hội nhập.
Mặc dù đã có những thành công, đóng góp lớn nhưng bên cạnh đó Sở giao dịch I cũng còn rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Để phát triển trong thời gian tới, việc đưa ra các giải pháp hoàn chỉnh không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu dần dần, có thời gian để rút kinh nghiệm.
Qua thời gian thực tập tại Sở giao dịch NHĐT&PTVN cùng với những kiến thức đã học , tình hình thực tế đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của Cô giáo Nguyễn Thị Hiền và các anh chị tại Phòng kế hoạch nguồn vốn - Sở giao dịch I em đã thu hoạch được bài viết này. Trong giới hạn bài viết của mình chỉ là một đống góp rất nhỏ trong việc nghiên cứu tìm kiếm giải pháp khả thi trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng. Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng với kiến thức và thời gian hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Trần Thị Thu Hiền, các thầy cô trong khoa Ngân hàng và bảo hiểm, các anh chị Phòng kế hoạch nguồn vốn tại Sở giao dịch I NHĐT&PTVN đã giúp đõ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập.
Tài liệu tham khảo.
Văn bản pháp luật.
1. Quyết định số 177/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
2. Quyết định số 76/QĐ- TCCB ngày 28/03/1991 của Tổng Giám đốc NHĐT & PT Việt Nam.
3. Quyết định số 893/2002/QĐ-NHNN ngày 17/10/2002.
4. Quyết định số 648/2004/QĐ - NHNN ngày 28/05/2004 của Thống đốc NHNN.
5. Công văn số 2758/cv-NVKD3 V/V hướng dẫn thi hành quyết định số 648.
6. Thông tư 01/1999/Ttg- NHNN của thống đốc NHNN.
7. Quyết định số 17/1998/QĐ-NHNN ngày 10/01/1998.
8. Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN ngày 25/2/1999 của Ngân hàng nhà nước.
9. Quyết định số 173/1998/QĐ-ttg ngày 12/9/1998 của Thủ tướng Chính phủ.
10. Công văn số 134/NHNN-QLNH V/V.
11. Quyết định 15/1999/QĐ- NHNN của thống đốc NHNN.
12. Nghị định 46/2003/QĐ - TTg ngày 02/04/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
II. Sách, giáo trình và tạp chí.
1. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương - Nhà xuất bản giáo dục - Trường đại học ngoại thương.
2. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế (Nhà xuất bản thống kê)
3. Tỷ giá tiền tệ và vấn đề kinh doanh xuất nhập khẩu (Nhà xuất bản thống kê)
4. Tiền tệ, ngân hàng thị trường tài chính – MISHKIN (Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật).
5. Tạp chí Ngân hàng số 3/2003; số 4/2003;số 4/2004; số 6/2005
6. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số 2/03; số 6/01; số 12/01; số 14/00
7. Tạp chí phát triển kinh tế số 122/03; số 125/04;
II. Tài liệu của Sở giao dịch i.
1. Quy trình mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch I .
2. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I năm 2001, 2002,2003.
3. Báo cáo tổng kết về quản lý ngoại tệ của địa bàn thành phố Hà Nội
Lời cảm ơn
Trước hết em xin được gửi tới cô giáo Trần Thị Thu Hiền lời cảm ơn sâu sắc, đã quan tâm và giúp đỡ em tận tình trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề.
Em xin chân thành cảm ơn ban giám hiệu Trường Học Viện Tài Chính cùng toàn thể các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng-Bảo hiểm và cán bộ nhân viên thư viện đã tạo điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng kế hoạch nguồn vốn - Sở giao dịch I – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam đã giúp đỡ em trong suốt quá trình thực tập.
Sinh viên: Lê Thị Minh Huyền
Danh mục các chữ viết tắt
NHNN - Ngân hàng Nhà nước
NHTM - Ngân hàng Thương mại
NHTW - Ngân hàng Trung ương
NHĐT&PTVN - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
NHĐTTW - Ngân hàng Đầu tư Trung ương
SGDI - Sở Giao dịch I
USD - Đô la Mỹ
EUR - Đồng tiền chung Châu Âu
JPY - Đồng Yên Nhật
VND - Đồng Việt Nam
GBP - Đồng Bảng Anh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26990.doc