Cổ phần hoá là một chủ trương, chính sách lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề cải cách các DNNN, đồng thời cũng có không ít những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trên bước đường thực hiện. Để khắc phục tình trạng chậm trễ về việc CPH các DNNN, cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sở hữu trong khu vực DNNN, tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho khu vực kinh tế Nhà nước thực sự nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài viết đã đưa ra được một số vấn đề và phương hướng để giải quyết xung quanh việc thực hiện chủ trương CPH các DNNN như : thực trạng của các doanh nghiệp khi tiến hành CPH và những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại nhằm thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta hiện nay. Đây mới chỉ là những đáng giá và nhận định ban đầu , còn rất sơ bộ và non kém về mặt trình độ cũng như phương pháp lý luận , chưa thể đi sâu phân tích cụ thể các vấn đề như những nhà nghiên cứu kinh tế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu được thế nào là CPH,những lợi ích có được từ việc thực hiện CPH và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta. Chúng ta cũng nhận thấy rằng để thúc đẩy tiến trình CPH thì cần phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa của Đảng và Nhà nước cũng như sự tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1184 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an Nhà nước tham gia xét duyệt để cho một DN tiến hành CPH nhưng khi CTCP đi vào hoạt động thì không có cơ quan nào theo dõi, tạo điều kiện cho công ty phát triển. Các công cụ quản lý Nhà nước đối với DN thì mang nặng tính hình thức còn các biện pháp quản lý thì không có tác dụng hỗ trợ DN phát triển sản xuất kinh doanh, củng cố tình hình tài chính, bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu mà mang nặng tính chất giám sát hoạt động của DN. Thực tế cho thấy, một số DN chưa có đủ giấy tờ pháp lý về quyền sở hữu tài sản cố định của DN. Trong quá trình triển khai thực hiện CPH thì các DN còn phải thường xuyên làm việc với các bộ ngành để giải toả những vấn đề còn vướng mắc nên làm chậm tiến độ CPH.
Một nguyên nhân nữa cần phải nói đến là môi trương kinh tế chưa thực sự bình đẳng, chưa tạo được mặt bằng thống nhất về cơ chế chính sách cho các thành phần kinh tế cùng cạnh tranh phát triển. Trong những năm gần đây, Chính phủ có nhiều chính sách và biện pháp cải cách DNNN theo hướng nâng cao quyền chủ động kinh doanh , tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính . Tuy nhiên vẫn còn một số ưu đãi, mức vay và lãi suất cho vay khoản nợ và xoá nợ tại các ngân hàng thương mại quốc doanh, chưa phải nộp tiền thuê đất, được miễn thế chấp khi vay ngân hàng… bị áp dụng như đối với loại hình doanh nghiệp phi xã hội làm cho một số DNNN e ngại khi chuyển thành CTCP sẽ bị thiệt thòi, giảm khả năng cạnh tranh so với trước khi CPH.
Cuối cùng là vấn đề TTCK. Cần phải thấy rằng, ở các nước phát triển, hoạt động của các CTCP luôn đi kèm với hoạt động của TTCK bởi vì việc mua bán, chuyển nhượng và kinh doanh cổ phiếu trên TTCK là hoạt động huyết mạch của một nền kinh tế thị trường. Nhưng thực tế ở nước ta, TTCK mới đang ở giai đoạn phôi thai, bắt đầu xây dựng và đưa vào hoạt động nên chưa tạo ra một môi trường thích hợp để giao dịch cổ phiếu, nhất là ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Những nguyên nhân chủ quan trên cộng thêm tác động tiêu cực của các yếu tố khách quan như trình độ xã hội hoá nền sản xuất chưa cao, nền kinh tế thị trường phát triển chưa đầy đủ và chưa đồng bộ, trình độ dân trí không theo kịp với tốc độ phát triển của nền kinh tế, môi trường kinh doanh chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và thế giới, tác hại to lớn của thiên tai và hệ quả của cơ chế tập trung quan liêu chưa được khắc phục một cách triệt để đã làm cho quá trình CPH DNNN ở nước ta thời gian qua và trong những năm tới sẽ không thể diễn ra như mong muốn. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta cần có quyết tâm lớn , tìm ra cách làm phù hợp để hoàn thành bằng được chương trình CPH, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Chương III :
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh tiến trình
cổ phần hoá ở nước ta
I. Những căn cứ để đưa ra giải pháp.
1. Xu hướng phát triển các công ty cổ phần hiện nay trên thế giới.
Xu hướng hiện nay là hội nhập và toàn cầu hoá do đó phát triển nền kinh tế trong nước phải luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới. Do đó phát triển các CTCP nói riêng, nền kinh tế cổ phần nói chung cũng không thể nằm ngoài xu hướng phát triển CTCP của các nước trong khu vực, nhất là các nước có đặc điểm nền kinh tế tương đồng và các nước có trình độ phát triển cao trên thế giới. Biểu hiện:
Thứ nhất, chế độ cổ phần trở thành phổ biến, đã phát triển mở rộng từ 3 lĩnh vực ( giao thông vận tải, tín dụng tiền tệ và bảo hiểm ) đến các lĩnh vực, các ngành kinh tế quốc dân và trở thành lực lượng chủ đạo của nền kinh tế.
Thứ hai là quy phạm hoá chế độ cổ phần. Để bảo đảm cho nền kinh tế xã hội được vận hành thường xuyên thuận lợi, các nước phương Tây đã định ra hàng loạt những luật tương đối hoàn chỉnh về chế độ cổ phần. Nội dung của các luật định ngày càng chặt chẽ chi tiết , nghiêm ngặt…Những luật định đó bao gồm: Luật Công ty, Luật chứng khoán, Luật giao dịch chứng khoán, Luật phá sản…Tất cả các luật định đó quy định hết sức rõ ràng đối với việc thành lập Công ty , tổ chức quản lý công ty , sát nhập, giải thể công ty , thanh toán, giao dịch cổ phiếu…Việc định chế luật pháp trên có ý nghĩa rất tích cực đối với việc hoàn thiện chế độ cổ phần, phát huy vai trò chức năng của chế độ cổ phần.
Thứ ba là phân tán và đa dạng hoá sở hữu cổ phần. Trong các công ty lớn của các nước tư bản, hiện nay một số cổ đông có thể nắm 4% hoắc trên 5% cổ phiếu của một công ty là chuyện bình thường. Xu hướng chung là quy mô càng lớn thì quyền sở hữu sẽ càng phân tán và đa dạng hoá. Một biểu hiện khác của việc phân tán và đa dạng hoá sở hữu cổ phần là số người giữ cổ phiếu tăng lên rất nhanh và thể hiện ngày càng rõ tính chất xã hội hoá của tư bản doanh nghiệp .
Thư tư là pháp nhân hoá việc nắm cổ phần.Trong các CTCP hiện nay, tỷ lệ pháp nhân nắm cổ phần tăng lên, tỷ lệ cá nhân nắm cổ phần giảm đi là hiện tượng phổ biến. Vốn của các CTCP chủ yếu là cổ phần pháp nhân, phần lớn các CTCP đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức pháp nhân tham gia và nắm giữ cổ phần của các CTCP khác. Xu hướng các pháp nhân cùng tham gia vào cổ phần và tỷ lệ cổ phần của pháp nhân tăng lên thể hiện sự phát triển của xã hội hoá tư bản gắn liền với thu nhập và rủi ro, quyền lợi và trách nhiệm của các CTCP. Đồng thời xu hướng này còn thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu nội bộ của CTCP, hoàn thiện cơ chế kinh doanh và tăng cường động lực nội tại cho việc phát triển CTCP.
Thứ năm là quyền lực của cổ đông giảm sút, người kinh doanh chi phối DN. Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, tác dụng của các nhân tố chuyển giao công nghệ, vấn đề quản lý trong cạnh tranh được tăng cường đã xảy ra một hiện tượng mà người ta gọi là “ cá lớn nuốt cá bé ”. Do đó một vấn đề mà thực tế khách quan đặt ra là đòi hỏi trình độ trí thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao của các nhà kinh doanh , các nhà quản lý của các CTCP phải được nâng lên một cách nhanh chóng. Vì vậy trong cơ cấu tổ chức của CTCP, địa vị của Đại hội cổ đông dần dần bị hạ thập, vai trò của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc ngày càng được đề cao. Vì vậy nhiều nhà kinh tế học cho rằng phải tách biệt giữa cổ đông và kinh doanh để các chuyên gia kinh doanh chi phôí doanh nghiệp là xu thế quan trọng để phát triển kinh tế cổ phần hiện đại. Quyền lãnh đạo DN hiện đại đã rơi vào tay tầng lớp kết cấu kỹ thuật của công ty.
Thứ sáu là chế độ phân phối của CTCP đã chuyển từ hoa hồng tiền mặt của cổ tức sang GTGT toàn diện của cổ phần. Cho nên trong thời đại ngày nay, ở nhiều nước TBCN, động cơ đầu tư vào cổ phiếu là giá trị tăng thêm toàn diện của các cổ phần chứ không phải là cổ tức và hoa hồng tiền mặt. Trong phân phối của CTCP có xu hướng để tỷ lệ hoa hồng tiền mặt ở mức thấp, thậm chí có doanh nghiệp không thực hiện hoa hồng tiền mặt mà chỉ xây dựng kiện toàn chế độ quỹ công làm cho cổ phần tăng thêm giá trị toàn diện. Trong điều kiện mở rộng chế độ gia tăng toàn diện của cổ phần, sự thay đổi chế độ phân phối trong các CTCP sẽ có ý nghĩa tích cực đối với việc tích luỹ vốn và mở rộng sản xuất của CTCP.
Thứ bảy là có sự thay đổi về chế độ vốn và kết cấu vốn của CTCP:
- Về chế độ vốn pháp định: Tổng số vốn khi thành lập công ty theo quy định của pháp luật phải được cổ đông thừa nhận toàn bộ.
- Về chế độ vốn pháp định: Tổng số vốn điều lệ khi thành lập công ty không nhất thiết phải do các cổ đông nhận mua đủ mà chỉ nhận mua một tỷ lệ theo quy định của pháp luật là được. ở một số nước đã bỏ chế độ vốn pháp định, thực hiện chế độ vốn sở hữu.
- Về kết cấu của CTCP thay đổi chủ yếu ở hai mặt sau:
+ Tỷ lệ vốn của người ngoài chiếm trong tổng số vốn của công ty cổ phần ở nhiều nước cao hơn vốn của công ty tức là kinh doanh nợ với tỷ lệ cao.
+ Tỷ trọng tích luỹ của CTCP chiếm trong vốn của bản thân DN cao hơn rất nhiều vốn cổ phần của doanh nghiệp là tư 2-3 lần, có khi lên tới 10 lần.
Thứ tám là tư bản ngân hàng xâm nhập vào kinh tế cổ phần. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, trên cơ sở của chế độ cổ phần, tư bản ngân hàng đã thông qua hình thức đầu tư vào cổ phần để khống chế quyền sở hữu công ty , nhà tư bản thôn qua tổ chức tín dụng của mình, áp dụng phương thức mua bán , trao đổi cổ phiếu của công ty để đạt được mức khống chế cổ phiếu. Đó là một thủ đoạn quan trọng của tổ chực tín dụng khống chế công ty , biểu hiện ở hai cách:
- Tổ chức tín dụng trực tiếp thu nhận cổ phiếu đạt đến một tỷ lệ nhất định sẽ khỗng chế được công ty .
- Tư bản lũng đoạn thông qua hoạt động bao tiêu chứng khoán của công ty hoặc thông qua người môi giới buôn bán cổ phiếu để đạt mục đích khống chế công ty . Như vậy sự đầu tư vào cổ phần, khống chế cổ phần của tư bản ngân hàng đối với các công ty công nghiệp đã thúc đẩy nền kinh tế cổ phần phát triển.
Thứ chín là chế độ cổ phần và CTCP đã trở thành hình thức tổ chức chủ yếu và thủ đoạn lũng đoạn của công ty. Chế độ cổ phần đã có tác dụng tăng nhanh tốc độ tập trung vốn, tăng cường thực lực kinh tế cho công ty. Thông qua các hình thức xâm nhập, khống chế, đầu tư cổ phần để thôn tính hoặc chi phối các DN khác từ đó hình thành các DN lớn có quy mô kinh tế mạnh, lực lượng kinh tế hùng hậu. Sự lũng đoạn của các CTCP không những phản ánh trên quy mô mà còn phản ánh sự biến động cơ cấu nền kinh tế, hình thành nhiều tập đoàn kinh tế lớn , đa dạng hoá kinh doanh . Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cạnh tranh thị trường gay gắt, xu thế thị trường diễn biến phức tạp thì các CTCP chỉ có thể chọn chiến lược kinh doanh đa dạng hoá. Bởi vì mặc dù chiến lược này làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp mới như việc lựa chọn sản phẩm ,kỹ thuật, thị trường…nhưng nó lại có lợi cho việc hạn chế những rủi ro trong kinh doanh , giúp cho công ty đứng vững không bị thất bại. Lý do này đã khiến cho phần lớn các công ty đều phát triển thành các công ty kinh doanh tổng hợp đa chức năng.
Cuối cùng là xu hướng quốc tế hoá vốn cổ phần. Sau đại chiến thế giới lần thư hai, tư bản ngân hàng cực kỳ bành trướng đã thúc đẩy quá trình quốc tế hoá sản xuất và quốc tế hoá vốn cổ phần. Cùng với sự phát triển của các CTCP, chế độ cổ phần càng trở thành phương tiện để tập đoàn các nước xây dựng địa vị lũng đoạn của mình. Từ đó thúc đẩy hình thức công ty phát triển mạnh mẽ ở các nước trên thế giới.
Trên đây là những xu hướng phát triển chung của kinh tế cổ phần diễn ra trên toàn thế giới. Vậy ở Việt Nam , trong những năm tới, xu hướng phát triển của các CTCP sẽ diễn ra như thế nào , chúng ta cần phải dự báo để có những biện pháp thích hợp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình CPH ở nước ta.
2. Dự báo nhu cầu phát triển các công ty cổ phần ở nước ta.
Hiện nay, xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới là đa phương hoá và đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế. Thời gian qua, nước ta cũng đã mở rộng và thiết lập nhiều mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó, sự phát triển của nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế cổ phần cũng không nằm ngoài xu hướng phát triển chung trên toàn thế giới. Đồng thời dựa vào tình hình thực tế của nước ta, chúng ta có thể đưa ra những căn cứ và dự báo cho sự phát triển của các CTCP nói riêng và của kinh tế cổ phần nói chung.
Lúc đầu, khi chủ trương CPH các DNNN mới được đưa ra thì Nhà nước chỉ chú trọng tới các doanh nghiệp thuộc các bộ, các ngành quan trọng ở một số tỉnh và thành phố lớn. Nhưng hiện nay, việc CPH các DNNN đã có xu hướng mở rộng ra ở nhiều lĩnh vực hơn và ở khắp các địa phương trong cả nước.
Chế độ cổ phần ngày càng được hoàn chỉnh, chặt chẽ, chi tiết và nghiêm ngặt hơn. Điều đó thể hiện rất rõ ở việc ban hành Nghị định 44-1998 NĐ/CP của Chính phủ ngày 29/6/1998. Nghị định này đã tạo cơ sở pháp lý và môi trường thuận lợi cho việc thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa nó còn tạo ra sức hấp dẫn mới để thu hút người lao động trong và ngoài doanh nghiệp tích cực hơn trong việc mua cổ phiếu của công ty và như vậy công ty sẽ có thêm vốn để góp phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó thúc đẩy kinh tế cổ phần phát triển, số lượng và chất lượng các CTCP ngày càng tăng.
Động lực nội tại cho sự phát triển CTCP là nhiều pháp nhân cùng tham gia vào cổ phần trong một DNNN. Thực tế ở nước ta cũng diễn ra như vậy. Các pháp nhân trong một DNNN ngày một tăng lên và điều tất yếu xảy ra là các CTCP sẽ ngày càng phát triển.
Do trình độ hiểu biết tăng lên và việc tuyên truyền về chính sách CPH các DNNN đã có tác dụng do việc ra đời của các cơ quan chuyên trách về CPH cho nên đã xoá dần yếu tố tâm lý trước đây của giám đốc và người lao động trong doanh nghiệp . Đồng thời những khó khăn vướng mắc cũng đang từng bước được giải toả đã thúc đẩy tiến trình CPH nhanh hơn.
Sự phát triển của các CTCP sẽ dẫn đến yêu cầu phải phát triển TTCK. Ngược lại việc xây dựng và đưa vào hoạt động các trung tâm giao dịch chứng khoán có hiệu quả sẽ có tác động trở lại, là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các CTCP. Bởi vì hiện nay trong nền kinh tế đã xuất hiện nhu cầu mua bán chứng khoán và nhu cầu đầu tư đổi mới các loại chứng khoán. Đảng và Nhà nước chủ trương thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế “mở”, xu hướng quốc tế nền kinh tế đang trở thành tất yếu để phát triển kinh tế của từng quốc gia, Đảng và Nhà nước thấy rõ việc thành lập TTCK là vấn đề cấp bách và đang chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK. Thực tế ở nước ta, Chính phủ cũng đã có chủ trương xây dựng và đưa vào hoạt động 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Như vậy, các CTCP ở nước ta được hình thành ngày càng nhiều. Đó là xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế . Xu hướng đó phù hợp với sự phát triển kinh tế quốc gia và quốc tế.
3. Chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề cổ phần hoá các Doanh Nghiệp Nhà nước .
- Về quan điểm, không nên đồng nhất việc hình thành CTCP với việc thay đổi về mặt quan hệ sản xuất, không nên đồng nhất việc chuyển DNNN sang CTCP với vấn đề tư nhân hoá.
- Về mặt chính sách, việc ra đời Nghị định 44 của Chính phủ với nội dung cụ thể: Chuyển một số DNNN thành CTCP đã có nhiều sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh phù hợp với hoạt động của các CTCP.
- Về phương diện pháp luật, Luật công ty đã đầy đủ và rõ ràng hơn do được bổ sung và cụ thể hoá.
- Về mặt nhận thức :
+ CPH DNNN là quá trình chuyển DN từ hình thức một chủ sở hữu là Nhà nước sang nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
+ Không phải chỉ có DNNN mới thuộc sở hữu Nhà nước. CPH DNNN vừa là quá trình chuyển đổi DN từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu, vừa là quá trình để Nhà nước thực hiện cơ cấu lại hệ thống DNNN.
+ CPH DNNN không phải là quá trình làm giảm sở hữu của Nhà nước mà trái lại làm tăng sở hữu Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
4. Định hướng các giải pháp cổ phần hoá ở nước ta hiện nay .
Để có những giải pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh tiến trình CPH, chúng ta không thể đưa ra một cách tuỳ tiện mà phải có sự xem xét, lựa chọn rõ ràng các giải pháp dựa trên một số quan điểm mang tính định hướng sau:
4.1. Giải pháp phải mang tính kế thừa và phát triển.
Các giải pháp kinh tế luôn bộc lộ cả hai mặt tích cực và hạn chế. Các giải pháp này sẽ phát huy tác dụng khi nó kế thừa được các mặt tích cực và khắc phục được những hạn chế đang tồn tại. Đồng thời, để phát huy tác dụng, các giải pháp phải phù hợp với mỗi giai đoạn kinh tế , chính trị, xã hội. Vì thế, các giải pháp kinh tế phải dựa trên quan điểm phát triển mới đáp ứng được yêu cầu của các giai đoạn tiếp theo.
4.2. Giải pháp phải mang tính đồng bộ và hệ thống.
Các giải pháp được đặt trong một bối cảnh luật pháp, cơ chế chính sách và các vấn đề liên quan khác. Hơn nữa, hoạt động của doanh nghiệp mang tính hệ thống mà sự tác động vĩ mô đối với doanh nghiệp sẽ gây phản ứng dây chuyền của các hệ thống. Một giải pháp phù hợp sẽ có tác động tích cực không phải chỉ đối với doanh nghiệp mà còn với cả hệ thống.
4.3. Giải pháp phải mang tính hiệu quả và khả thi.
Mục tiêu của quá trình CPH DNNN là hiệu quả kinh tế . Các giải pháp về CPH phải nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế của doanh nghiệp , của người lao động và cả nền kinh tế . Vì vậy, các giải pháp thực hiện phải đem lại hiệu quả kinh tế và có khả năng thực hiện.
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá ở nước ta.
Giải pháp về quản lý vĩ mô.
1.1. Xây dựng kế hoạch và tạo tiền đề, điều kiện đẩy mạnh tiến trình CPH.
Muốn thực hiện thành công tiến trình CPH, Đảng và Nhà nước ta cần phải đề ra kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn để làm căn cứ cho các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện.
a) Giai đoạn 2001-2005: Đẩy mạnh CPH, đa dạng hoá sở hữu DNNN nhằm tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển.
Trong 2 năm 2001-2002 đẩy nhanh tiến độ CPH, đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp sao cho cuối năm 2003 đạt 855 doanh nghiệp trên tổng số 2280 DNNN thuộc diện sắp xếp của thời kỳ này.
Trong 3 năm tiếp theo 2003-2005, tiền hành CPH, giao khoán, bán và cho thuê hơn 900 DNNN sao cho các DNNN được sắp xếp đạt con số 3280 doanh nghiệp , tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
Đến cuối năm 2005, Nhà nước sẽ duy trì 2000 DN 100% vốn cho Nhà nước, tập trung vào các DN công ích, các DN thuộc lĩnh vực Nhà nước độc quyền, các Tổng công ty lớn và các DN độc lập có ý nghĩa quan trọng đối với nền KTQD.
b) Giai đoạn 2006-2010: Hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh đủ điều kiện để hội nhập AFTA, tiếp tục CPH một số DNNN là thành viên trong các Tổng công ty và một số doanh nghiệp công ích.
Đối với các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty thì giữ nguyên phần vốn tại doanh nghiệp đồng thời phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn hoặc là chỉ bán một phần vốn Nhà nước tại DN chứ không bán 100% vốn Nhà nước tại DN.
Đối với các DN hoạt động công ích như cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, ánh sáng đường phố, sản xuất thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật… cần xem xét để thực hiện CPH một số doanh nghiệp trên mục tiêu nâng cao lợi ích xã hội.
CPH DNNN trong giai đoạn này nhằm mục tiêu tạo sự liên kết với nhau giữa các doanh nghiệp mà quan trọng là điều kiện liên kết về vốn tạo tiền đề để hội nhập AFTA vào năm 2006. Việc thâm nhập vào nhau giữa các doanh nghiệp sẽ dẫn đến việc hình thành các tập đoàn kinh tế nhiều chủ và đó là xu thế tất yếu của quá trình cải cách DNNN.
1.2.Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách có liên quan.
Việc Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra đời đã khắc phục được tình trạng chậm trễ trong việc triển khai thực hiện CPH các DNNN đồng thời làm tăng thêm tính hấp dẫn của chính sách CPH. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ CPH, cần sớm ban hành một số quy chế sau:
- Quy chế về thành lập quỹ hỗ trợ CPH các DNNN, trước hết phục vụ cho việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước tới mọi người dân trong cộng đồng, nhất là đối với người lao động trong doanh nghiệp CPH, hỗ trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong diện CPH nhưng hiện còn thua lỗ để tiến lên làm ăn có lãi, tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề hoặc đào tạo nghề mới cho người lao động trong doanh nghiệp CPH, trợ cấp một phần hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi để người lao động có điều kiện tìm nơi lao động mới.
- Quy chế về khoán kinh doanh, cho thuê và bán DNNN. Việc ban hành quy chế này nhằm tiệp tục đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới một bộ phận DNNN cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu và quản lý.
- Quy chế về việc thí điểm thuê giám đốc nhằm từng bước thay đổi phương thức quản lý doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giám đốc phát huy hết khả năng trong việc điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp.Đồng thời tạo tiền đề về pháp lý cho việc hình thành nghề giám đốc, từng bước áp dụng chế độ thuê giám đốc thay thế cho chế độ bổ nhiệm.
Về vấn đề sở hữu cần sớm ban hành quy định của Chính phủ về việc thực hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối với các DNNN, có sự phân cấp quyền của chủ sở hữu Nhà nước cho các bộ, ngành trung ương, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và HĐQT các Tổng công ty, công ty có HĐQT, khắc phục tình trạng quy định không thống nhất và sự quản lý chồng chéo đối với DNNN.
Cần xem xét soạn thảo sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về CPH (pháp lệnh hay pháp luật) để thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng cụ thể về các vấn đề: cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ DN được CPH, chế độ chính sách đối với người lao động để DN yên tâm triển khai CPH.
Giải quyết thoả đáng đối với số lao động dư thừa trong quá trình CPH và sắp xếp DNNN, có thể lập quỹ đền bù ( quỹ trợ cấp thất nghiệp ) từ các nguồn tài chính như tiền bán cổ phần, ngân sách Nhà nước , viện trợ nước ngoài.
Sớm tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường này như một công cụ thúc đẩy, khuyến khích quá trình CPH.
Cần hiểu rõ điều mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu khi đưa ra phương án sản xuất kinh doanh là làm sao mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá các phương thức tiếp cận thị trường và cung ứng hàng hoá, đa dạng hoá các dịch vụ trước và sau bán hàng, nâng cao mức lợi nhuận và mức lãi cổ đông. Nếu điều đó không được quan tâm đến mà chỉ chú trọng các khoản thuế và đóng góp, đề ra các thủ tục và cơ chế có thể rắc rối hơn, giải quyết yêu cầu có thể chậm hơn và vòng vèo hơn... thì CPH sẽ không thể có nhiều sức hấp dẫn và cũng chẳng có cơ sở để tăng nguồn thu.
Cần nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với người nước ngoài và tổ chức nước ngoài đã đăng ký thường trú tại Việt Nam, bỏ khống chế mua cổ phần ưu đãi đối với cán bộ quản lý DNNN để họ tích cực tham gia vận động, thực hiện CPH. Cũng cần phải có những quy định cụ thể và hợp lý hơn về việc bán cổ phiếu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi vì những quy định riêng cho nhà đầu tư nước ngoài sau khi họ đã hùn vốn vào trong công ty cổ phần của Việt Nam nếu không thực hiện cho khéo léo sẽ làm cho họ cảm thấy đấy là một sự phân biệt đối xử và làm ảnh hưởng đến niềm tin của họ đối với chính sách của Nhà nước ta. Những đề nghị về việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài (đối với doanh nghiệp đã được xét duyệt chủ trương này ), đề nghị áp dụng cơ chế tự chủ cao hơn cho DN để ứng phó kịp thời với mọi sự xoay chuyển của tình hình thị trường, đề nghị hạch toán phần lãi cổ đông..., thiết tưởng có thể giải quyết rất nhanh chóng nếu chúng ta bám sát mục tiêu CPH và hiểu rõ điều các DN đang cần.
Đối với các chính sách liên quan đến chủ trương CPH cũng cần có những giải pháp cụ thể :
a) Chính sách tài chính.
Kinh tế thị trường đòi hỏi phải xây dựng ngân sách theo tinh thần: bội chi để chống suy thoái kinh tế ; bội thu để chống lạm phát, khi cần sẽ huy động nguồn vốn trong nước bằng nhiều hình thức ( kỳ phiếu , công trái…) hoặc vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển, không phát hành tiền bù bội chi ngân sách.Về chi ngân sách Nhà nước cần ưu tiên cho các khoản đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, vật chất xã hội. Cấp phát cho hoạt động kinh tế , chi cho hoạt động thông tin, dự báo, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các DN, nhất là hoạt động CTCP vì đây là loại hình sản xuất tập trung vốn của nhiều người và mục đích của họ là lợi nhuận. Ngoài ra chính sách thuế của Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động của CTCP. Thông qua thuế Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế , kích thích hoặc hạn chế hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng lĩnh vực.Theo đánh giá của các chuyên gia, chính sách thuế của ta hiện nay còn nhiều bất hợp lý, vừa thất thu vừa lạm phát, chưa thực sự công bằng giữa các DN, giữa các thành phần kinh tế, giữa hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu…Còn một số bất hợp lý trong thu thuế bất động sản, thuế thu nhập, thuế lợi tức…Do đó việc sửa đổi bổ sung và hoàn chỉnh chính sách thuế, tạo lập công bằng hợp lý trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế hiện nay là vấn đề cấp bách Nhà nước cần quan tâm. Để đẩy mạnh việc hình thành CTCP, Nhà nước nên có những chính sách thuế để khuyến khích các nhà đầu tư hình thành và phát triển.
b) Tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán.
Phải làm cho mọi người, mọi doanh nghiệp , mọi doanh nghiệp thấy được kiểm toán là công cụ hết sức quan trọng trong cơ chế kinh tế thị trường, nhất là khi các CTCP đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế để nhằm đáp ứng lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp , của các nhà đầu tư :
- Đối với Nhà nước là để quản lý và kiểm soát việc sử dụng tài nguyên.
- Đối với DN, các công ty là để kiểm soát vốn liếng, doanh thu, chi phí, kết quả kinh doanh và hiệu quả hoạt động của CTCP. Đồng thời nó thể hiện trị giá cổ phiếu trên TTCK, do đó việc kiểm soát vốn liếng, doanh thu, hiệu quả sẽ tác động cho những nhà đầu tư , tạo điều kiện huy động nguồn vốn trong sản xuất .
- Đối với các nhà đầu tư , cho vay liên doanh, liên kết, khách hàng để kiểm soát việc bảo toàn và hiệu quả sinh lợi của các khoản đầu tư , cho vay của các hoạt động liên doanh, liên kết, các quan hệ mua bán. Qua kiểm soát các nhà đầu tư sẽ biết từng DN làm ăn như thế nào để đầu tư và mua bán cổ phiếu.
Phải tăng cường và hoàn thiện công tác kiểm toán đồng thời hình thành các hình thức kiểm toán: kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập, kiểm toán theo chức năng quản lý và kiểm toán nội bộ để phối hợp và hỗ trợ.
c) Đổi mới và hoàn thiện phương pháp hạch toán và hệ thống kế toán.
Do tính chất xã hội hoá ngày càng cao của CTCP, hạch toán và kế toàn là phương pháp và công cụ quan trọng để quản lý vốn, tài sản và hoạt động sản xuất của bản thân các CTCP, đồng thời là nguồn thông tin số liệu tin cậy để Nhà nước điều hành vĩ mô nền kinh tế , kiểm tra , kiểm soát hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Chính vì vậy việc hoàn thiện và đổi mới không ngừng công tác kế toán thích ứng với yêu cầu quản lý trong cơ chế kinh tế mới trong các CTCP.
Đổi mới và hoàn thiện một cách căn bản hệ thống các chế độ kiểm toán hiện hành, trước hết là: chế độ chứng từ ban đầu, hệ thống tài khoản kế toán, chế độ sổ sách kế toán, chế độ báo cáo kế toán.
1.3. Cụ thể hoá và phân định rõ ràng hơn về phương thức, lộ trình và trách nhiệm thực hiện.
Đây là một yêu cầu lớn đối với các thể chế của ta hiện nay. Cũng như việc các cấp trên quản lý DN có phải chịu trách nhiệm về hành chính và trước pháp luật đối với các quyết định của mình nếu quyết định đó sai hoặc chậm trễ, làm thiệt hại lợi ích của DN và cũng là lợi ích chung của xã hội hay không ? Thực tế là vì không có quy định ở điều luật nào cả nên khi gặp tình huống khó khăn thì DN phải một mình hứng chịu, mặc dù DN không tự quyết định được các tình huống đó.
Cũng do thiếu các quy định cụ thể về phương thức thực hiện mà việc quản lý phần vốn của Nhà nước trong gần 2000 DN ngoài quốc doanh, trong đó phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỏ ra rất lúng túng. Kết quả là trên 60.000 tỷ đồng vốn đó ( kể cả vốn tính bằng quyền sử dụng đất ) đã gần như hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của các DN mà chủ yếu là các đối tác nước ngoài, người đại diện quản lý phần vốn Nhà nước không kiểm soát được.
1.4. Đưa ra chính sách ưu đãi đối với DN và người lao động khi tiến hành CPH.
Trước hết, người lao động trong DN được bán cổ phần với giá ưu đãi ( giảm 30% ) tuỳ theo năm làm việc cho Nhà nước ( 1 năm được mua tối đa 10 cổ phần, giá 1 cổ phần là 100.000đ ).Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp ( nếu là vốn tự tích luỹ chiếm từ 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì không quá 30% ). Người lao động sở hữu cổ phần có quyền chuyển nhượng, kế thừa và có các quyền khác của cổ đông.
Người lao động nghèo còn được hoàn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức và trả dần tối đa không quá 10 năm, không phải chịu lãi suất, số cổ phần mua trả dần không vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá trị ưu đãi. Nguời sở hữu cổ phần không được chuyển nhượng khi chưa trả hết tiền Nhà nước.
Người lao động bị mất việc làm sau 12 tháng từ khi DN chuyển thành CTCP thì được giải quyết theo chế độ hiện hành của Chính phủ. Và theo quy định về sự ưu đãi đối với DN thì DN trước khi tiến hành CPH sẽ chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi (bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc để mua cổ phần.
Để DN có thể tiến hành được sự ưu đãi cho người lao động trong DN của mình Nhà nước cũng cần phải ban hành các chính sách ưu đãi đối với DNNN CPH như chính sách tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để DN không sợ bị thiệt thòi, sợ mất khả năng cạnh tranh so với các DN khác; các chính sách thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với phần vốn tự tích luỹ của DN. Bên cạnh việc đưa ra các chính sách cần nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương ưu đãi, ưu tiên cho các doanh nghiệp CPH. Một loạt vấn đề như việc đăng ký và công nhần tài sản của CTCP, ưu đãi theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, ưu đãi trong việc cấp phát vốn tín dụng và cho vay, thực hiện quyền sử dụng quỹ hỗ rợ đào tạo và giải quyết việc làm được hình thành từ việc bán cổ phần... nên quy định thực hiện ngay trên cơ sở phương án CPH đã được duyệt. Một trong những cách tránh phiền hà cho DN là tập trung đầu mối giải quyết nhanh chóng kháng nghị của DN nếu gặp trường hợp một cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện không đúng tinh thần của các văn bản thể chế và quy chế của Nhà nước. Luật doanh nghiệp nêu bổ sung điều này và quy định người gây ra thiệt hại cho DN phải bồi thường cho DN.
1.5. Thiết lập môi trường kinh tế xã hội ổn định: ổn định tiền tệ, giảm tốc độ lạm phát.
Tiền tệ ổn định là một điều kiện quan trọng cho sự ra đời của CTCP, tiền tệ là yếu tố tác động đến nền kinh tế . Khi những DN mới ra đời có nghĩa là một khối lượng tiền tệ trong xã hội được di chuyển vào sản xuất kinh doanh từ đó hạn chế được những cơn sốt giá cả. Với ý nghĩa đó, cần có những chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện ổn định tiền tệ , kích thích tiết kiệm và chuyển tiền tiết kiệm vào hoạt động đầu tư .Về thực chất, người mua cổ phiếu là đầu tư tài chính với mục đích lợi nhuận cao hơn và đều có yêu cầu chung là phải an toàn trong khoản đầu tư đó. Nếu lạm phát họ sẽ không muốn giữ các khoản tiết kiệm dưới dạng tiền tệ và do đó không sẵn sàng mua cổ phiếu của CTCP. Như vậy mức lạm phát là cơ sở tối quan trọng, là chỉ tiêu quyết định mức lãi suất cho vay. Lạm phát cao còn hạn chế khả năng phát hành cổ phiếu, trái phiếu của DN vì trong trường hợp này lợi tức cổ phiếu, trái phiếu cao, DN không chịu nổi, do đó lạm phát thấp sẽ thúc đẩy nhanh sự ra đời và phát triển thị trường vốn trong nước. Mặt khác, lạm phát tăng làm giá cả tăng vụt, đồng tiền mất giá làm cho chi phí đầu vào luôn biến đổi, chính vì vậy lạm phát sẽ gây khó khăn cho việc tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh thiếu chính xác, không tránh được những rủi ro có thể xảy ra. Nếu lạm phát giảm, giá ổn định nó sẽ tạo điều kiện tính toán và hoạch định các phương án kinh doanh tương đối chính xác đồng thời nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu và cho cả những nhà đầu tư lĩnh vực này.
1.6. Sớm ổn định và phát triển hoạt động của thị trường chứng khoán.
TTCK là thị trường vốn dài hạn cho các CTCP. Có các CTCP mà không có TTCK thì cũng như có sản phẩm mà không có nơi trao đổi và định giá, sản xuất mà không biết nhu cầu sẽ biến động như thế nào, không biết có nên sản xuất nữa hay không, rút cuộc sản phẩm cũng không thành hàng hoá được, và lại có nguy cơ quay về nền kinh tế tự cung tự cấp. ở nước ta, Trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh mới hoạt động chưa được bao lâu, còn đòi hỏi phải có nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay.
1.7. Xây dựng hệ thống các chỉ tiêu phân tích DNNN để CPH.
Để tiến hành CPH đảm bảo đúng mục tiêu và chủ trương của Đảng cần phải có một hệ thống chỉ tiêu phân tích các DNNN có độ chính xác và mức độ tin cậy cao.
Quá trình phân loại DNNN để đưa ra được các DNNN có lãi, sắp có lãi, không có lãi…phải căn cứ vào các chỉ tiêu doanh thu, tỷ suất lợi nhuận nộp ngân sách của các doanh nghiệp . Tuy nhiên những chỉ tiêu đó chưa hẳn đã phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Bởi vì đa số các DNNN hoạt động trong môi trường sản xuất kinh doanh có nhiều lợi thế mà Nhà nước dành cho như: bảo hộ mậu dịch, được vay vốn Nhà nước bằng tín chấp, được khoanh nợ, treo nợ, giãn nợ, được miễn giảm thuế dễ dàng hơn…
Chính vì vậy cần sử dụng các hệ thống chỉ tiêu phân tích DNNN để chuyển đổi sở hữu như sau:
Giữ nguyên giá trị cổ phiếu
Bán theo các cấp độ khác nhau
Chuyển sang Công ty TNHH một thành viên
CPH bằng liên doanh liên kết
Giao, khoán, bán, cho thuê
Doanh nghiệp
Hộp đen
Thị trường
Chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ 5 năm, 10 năm
ảnh hưởng của DN đến nền kinh tế
Nguồn vốn
Thiết bị
Lao động
Lãi suất tiền gửi
Chỉ số lạm phát
Khả năng hoà nhập
Bộ,
ngành, địa phương
Hệ thống phân tích DNNN để chuyển đổi sở hữu
Căn cứ vào đó lựa chọn giải pháp cải cách DNNN để thay đổi cơ cấu sở hữu toàn phần hay một phần hoặc áp dụng các hình thức khác.
1.8.Tập trung chỉ đạo cải tiến cách tổ chức thực hiện CPH .
Ban đổi mới DNNN cần phải được giao các thẩm quyền, chức năng lớn hơn để có thể tổ chức, điều hành phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành liên quan, với địa phương. Cần sớm phân loại các doanh nghiệp, xác định các doanh nghiệp đưa vào diện CPH trong chương trình công tác của cá bộ, tổng cục, tổng công ty với nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể làm căn cứ để các cơ quan quản lý kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện.
Chính vì vậy, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định hợp nhất Ban chỉ đạo Trung ương Đổi mới DN và Ban chỉ đạo Trung ương CPH thành Ban Đổi mới quản lý DN trung ương do Phó Thủ tướng làm trưởng ban và tăng cường thêm cán bộ cho bộ phận thường trực Ban.Đồng thời quy định rõ chức năng nhiệm vụ để Ban đủ khả năng giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác đổi mới DN các thành phần kinh tế và CPH DNNN. Về tổ chức đổi mới DN của các Bộ và địa phương cũng theo định hướng này.
Để triển khai CPH được thuận hoá, Chính phủ đã giao cho các Bộ và Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương ban hành các quy định về đánh giá tài sản của DNNN chuẩn bị CPH, mẫu điều lệ, mẫu phương án CPH và các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ liên quan để các DN có điều kiện rút ngắn thời gian CPH.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để các ngành, các cấp và nhân dân hiểu được lợi ích của công tác CPH; tổ chức tập huấn kỹ thuật cho bộ máy các cấp, bộ máy doanh nghiệp nắm được quy trình và nhiệm vụ triển khai CPH.
Tổ chức hội nghị tổng kết CPH trong cả nước để các ngành, các địa phương quán triệt chủ trương của Đảng về CPH một bộ phận DNNN thời gian tới có hiệu quả; phổ biến các cơ chế chính sách mới và bàn biện pháp thực hiện mục tiêu CPH đã đề ra trong kế hoạch và chương trình CPH các năm tiếp theo trên cơ sở phương án tổng thể sắp xếp DNNN của từng ngành, từng địa phương và chương trình kế hoạch chung của Nhà nước.
Các cơ quan chức năng cần có sự tập trung chỉ đạo, giao chỉ tiêu cụ thể cho một số bộ, ngành lớn như Bộ công nghiệp, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ thương mại, Tổng cục du lịch và một số địa phương lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đồng Nai.
Cần tăng cường vai trò của các Tổng công ty đối với CPH, trao quyền quyết định CPH đối với các DNNN có giá trị từ 10 tỷ đồng trở xuống.
Đổi mới việc phân cấp quyết định chuyển DNNN thành CTCP hoặc thực hiện các hình thức khác là để hạn chế chồng chéo , phụ thuộc lẫn nhau làm chậm tiến độ. Hơn nữa cần phải tăng cường vai trò của các địa phương và các bộ, ngành.
Thành lập một số trung tâm dịch vụ tư vấn về CPH DNNN để trợ giúp cho việc triển khai CPH. Trên thực tế, chúng ta chưa có một đội quân thiện nghệ trong việc thực hiện CPH do đó cần tổ chức tốt công tác tư vấn CPH với việc đào tạo và tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi, đồng bộ, am hiểu và sẵn sàng thực hiện các thủ tục, biện pháp nhằm CPH từ những bước đầu tiên cho đến khi hoàn thành, kết thúc công việc để giúp các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục CPH, xây dựng phương án kinh doanh sau CPH.
Thành lập các công ty đầu tư tài chính, đầu tư chứng khoán. Việc xây dựng và đưa vào hoạt động có hiệu quả của Sở giao dịch chứng khoán sẽ thúc đẩy việc mua, bán cổ phiếu doanh nghiệp tại các thành phố lớn trong cả nước.
Thành lập một số tổ xây dựng đề án CPH, xác định giá trị DN và tư vấn đầu tư để khuyến khích, giúp đỡ các DN có được các phương án đầu tư có hiệu quả, sử dụng tốt hơn nguồn vốn có được từ CPH và có khả năng huy động thêm các nguồn vốn khác từ nội bộ nền kinh tế cũng như từ thị trường vốn quốc tế.
Yêu cầu các tỉnh, thành ban hành quy định về giá nhà xưởng, kho tàng bến bãi,phương tiện vận tải, máy móc thiết bị để rút ngắn quá trình định giá doanh nghiệp. Trong những trưòng hợp cần thiết có thể mời chuyên gia kiểm toán quốc tế tư vấn, giúp giải quyết vấn đề này.
1.9.Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động cho CPH.
Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền là làm cho các cấp, các ngành, từng DN và từng người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như một xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân, từ đó tích cực, yên tâm thực hiện CPH, đẩy mạnh nhanh tiến độ thực hiện chủ truơng quan trọng này của Đảng và Nhà nước. Do đó, các cấp, các ngành và đoàn thể cần triển khai mạnh mẽ việc tuyên truyền, phổ biến mọi chủ trương, chính sách cụ thể về CPH đến tận từng người dân trên các phương tiện thông tin đại chúng để tạo thành phong trào quần chúng hưởng ứng phong trtào CPH các DNNN trên phạm vi cả nước.
2. Giải pháp đối với DN.
2.1. Giải pháp nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện để nâng cao sức hấp dẫn của DN trước khi CPH.
CTCP hoạt động là nhờ vào phần vốn góp thu hút từ các cổ đông trong và ngoài nước. Do đó để thu hút được sự đầu tư của các tổ chức và cá nhân thì bản thân doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả , làm ăn có lãi, cơ sở vật chất phải tốt và đặc biệt là Giám đốc và HĐQT phải là những người có năng lực, có đầu óc kinh doanh sáng tạo để điều hành công ty đi đúng hướng và ngày càng phát triển thì mới thu hút được các cổ đông. Do đó bên cạnh các biện pháp mà Nhà nước thực hiện đối với DN thì bản thân mỗi DNNN cũng cần phải có giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh của DN sau khi CPH và để nâng cao sức hấp dẫn, thu hút được nhiều cổ đông tham gia góp vốn.
a) Cơ cấu lại năng lực sản xuất kinh doanh .
Trước hết, các doanh nghiệp cần thực hiện chế độ hợp tác kinh doanh , chủ động tìm nguồn vốn, vật tư, lao động, kể cả lao động kỹ thuật và chuyên gia theo yêu cầu của thị trường, không trông chờ , ỷ lại vào cấp trên, vào Nhà nước.
Cần có biện pháp tích cực tổ chức lại sản xuất kinh doanh , đổi mới thiết bị, công nghệ, nhập những dây chuyền công nghệ tiên tiến của nước ngoài để nâng cao chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên các doanh nghiệp cũng cần tỉnh táo , lựa chọn kỹ lưỡng đẻ tránh nhập những công nghệ đã cũ và lạc hậu.
Doanh nghiệp cần bố trí lại bộ máy quản lý theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả, thích nghi tốt với cơ chế thị trường và chấp nhận cạnh tranh. Tránh trường hợp trong công ty có quá nhiều phòng ban mà trên thực tế lại không cần mà doanh nghiệp vẫn có thể hoạt động tốt .Đặc biệt doanh nghiệp cần tìm kiếm và đề bạt những giám đốc có tài thực sự để điều hành doanh nghiệp .
b) Lành mạnh hóa tình hình tài chính của doanh nghiệp và xử lý các khoản nợ còn tồn đọng.
Trước đây, do thiếu vốn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nên các doanh nghiệp phải vay vốn nên dẫn đến tình trạng nhiều DNNN đều có nợ tồn đọng. Ngày nay, CPH các DNNN là một yếu tố quan trọng để huy động nguồn vốn cho nên cần phải tiến hành xử lý vấn đề tồn tại về tài sản và nợ tồn đọng của các doanh nghiệp, chủ yếu ở những điểm sau:
Đối với tài sản, vật tư còn tồn tại, nếu không cần dùng hoặc chưa dùng đến cần tiến hành thanh lý, nhượng bán theo hình thức bán đấu giá công khai, có hội đoong giám sát theo quy định hiện hành. Hội đồng cũng cần phải có cơ quan vật giá, cơ quan quản lý vốn và tài sản Nhà nước ở địa phương, cơ quan quản lý chuyên ngành và các cơ quan có liên quan.
Làm rõ những khoản vốn hay giá trị tài sản của các doanh nghiệp nhận liên doanh, liên kết hoặc thuê mướn để có biện pháp xử lý thích hợp.
Nộp ngay các khoản phải nộp vào ngân sách và các khoản nợ khác của các tổ chức xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế...
Các khoản chênh lệch giá vật tư, chênh lệch tỷ giá, tuỳ từng trường hợp cụ thể để xử lý tăng vốn hoặc lãi theo chế độ hiện hành.
Đối với các loại tài sản, vật tư, tiền vốn bị mất mát thiếu hụt cần tìm rõ nguyên nhân để tìm cách thu hồi, bù đắp. Nếu không đủ, số tiền đó có thể được chuyển vào thiệt hại của Nhà nước cùng với thiệt hại khi đánh giá lại giá trị tài sản để CPH.
Đối với các khoản nợ còn tồn đọng, doanh nghiệp cần phân loại:
- Loại công nợ có khả năng đòi được thì tiến hành đòi nợ.
- Loại công nợ khó đòi cần nêu rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, báo cáo với cơ quan quản lý vốn và tài sản của Nhà nước để tiến hành xử lý. Các khoản nợ khó đòi của DN có thể chuyển thành trái phiếu với lãi suất ưu đãi, mức lãi suất có thể bằng tỷ lệ nộp thuế vốn hàng năm của doanh nghiệp hiện đang áp dụng. Điều đó giúp cho DN sau khi CPH nâng cao về vốn và góp phần tạo ra hàng hoá nhằm tăng cung cho TTCK.
2.2. Giải quyết vấn đề lao động sau khi CPH.
Sau khi DNNN đã chuyển thành CTCP thì HĐQT và Giám đốc phải có trách nhiệm giải quyết cho người lao động để họ thực sự yên tâm và tạo niềm tin cho họ:
- Tiếp tục thực hiện những cam kết trong hợp đồng lao động đã được ký kết trước đó cho đến khi hết hạn hoặc thương lượng để thay đổi, bổ sung nội dung của hợp đồng hoặc ký kết hợp đồng lao động mới.
- Tiếp tục thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội.
- Đối với lao động mà CTCP tuyển dụng mới thì thực hiện theo các quy định của pháp luật lao động hiện hành.
Đối với trường hợp mất việc làm sau 12 tháng kể từ khi DNNN chuyển thành CTCP thì trợ cấp mất việc làm và trợ cấp thôi việc được giải quyết như sau:
- Người lao động được trả trợ cấp mất việc làm do thay đổi cơ cấu công nghệ theo quy định tại khoản 1 điều 17 của Bộ luật lao động và các điều 23, 24, 25, 26 Nghị định 72/CP do thời gian làm việc tại CTCP và do CTCP chi trả.
- Đối với thời gian mà người lao động đã làm việc trước đó thuộc khu vực Nhà nước nhưng chưa được nhận trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc thì thời gian đó được tính để nhận trợ cấp thôi việc theo quy định hiện hành. Nguồn chi trả, thủ tục thanh toán, quyết toán khoản trợ cấp thôi việc này theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Về đào tạo nghề:
- Căn cứ vào danh sách dự kiến đào tạo nghề quy định và điều kiện sản xuất kinh doanh , CTCP quyết định cử người lao động đi đào tạo, đào tạo lại ở các trường lớp dạy nghề.
- Trong thời gian đào tạo nghề, CTCP tiếp tục trả lương cho người lao động theo mức do hai bên thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 70% mức lương ghi trong hợp đồng lao động đã ký kết. Trường hợp 70% mức lương ghi trong hợp đồng mà thấp hơn mức lương tối thiểu chung do Chính phủ công bố thì trả bằng mức lương tối thiểu chung .
- CTCP tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động trong thời gian đào tạo nghề theo quy định hiện hành.
- Sau thời gian đào tạo nghề CTCP có trách nhiệm bố trí việc làm cho người lao động.
- Kinh phí đào tạo nghề, thủ tục cấp , thanh toán, quyết toán theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
2.3. Lựa chọn phương pháp xác định giá trị DN.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp cũng cần phải tuân theo nguyên tắc đã nêu ra trong Nghị định 44:
- Giá trị thực tế của DN là toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm CPH mà người mua và bán cổ phần đều chấp nhận được.Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại DN là giá trị thực tế của DN sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả.
- Các yếu tố xác định giá trị thực tế của DN gồm số liệu trong sổ sách kế toán của DN CPH; hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm CPH, lợi thế kinh doanh của DN về địa lý, uy tín mặt hàng (thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi CPH) được tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của DN.
- Xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập.
- Về việc tổ chức thực hiện, tiền hành CPH các DNNN thì các cơ quan có thẩm quyền cũng phải tuân thủ theo đúng những quy định đã nêu ra trong Nghị định 44 về thẩm quyền lựa chọn và quyết định doanh nghiệp CPH, thẩm quyền hướng dẫn và quyết định giá trị doanh nghiệp, thẩm quyền phê duyệt và quyết định CPH, thẩm quyền về quản lý phần vốn Nhà nước tài công ty cổ phần.
Tuy nhiên, nhằm thúc đẩy CPH nhanh hơn và hợp lý hơn, cần thí điểm một vài cách làm khác nhau. Chẳng han, thay vì xác định giá trị doanh nghiệp một cách khó khăn, chậm trễ và dễ chủ quan, nên chăng sẽ tiến hành các hình thức đấu giá DN tại thời điểm CPH.Việc đấu giá DN có thể dựa trên hai yếu tố sau:
- Một là, lợi nhuận thực tế bình quân của doanh nghiệp trong vài ba năm liên tục , ví dụ là bằng A đồng ( ví dụ 1 tỷ đồng ).
- Hai là, tỷ suất lợi nhuận bình quân N (%) của mặt hàng đó trên thị trường mà doanh nghiệp có thị phần quan trọng, có thể là thị trường trong nước hay ngoài nước có quota ổn định, ví dụ tỷ suất lợi nhuận đó là 5%.
Từ đó suy ra rằng, giá trị công ty ở thời điểm CPH sẽ xoay quanh giá trị A/N (đồng) , trong ví dụ vừa nêu ra thì đó là 1tỷ / 0,05 = 20 tỷ đồng, mặc dù giá trị thực tế theo sổ sách của công ty có thể khác: 10 tỷ, 15 tỷ, hay 25 tỷ...
Người tham gia đấu giá sẽ căn cứ vào các thông tin thu thập được và dự kiến phương thức kinh doanh của mình mà quyết định có thể mua công ty với giá nào , hoặc có thể mua cổ phiếu trong điều kiện giá trị công ty được công bố công khai là bao nhiêu. Bằng cách này, cổ đông dễ thấy hơn và yên tâm hơn, có trách nhiệm với cổ phiếu của mình ngay từ đầu, tránh được vòng vèo tốn thời gian, làm chậm quá trình CPH.
Đối với các doanh nghiệp bắt buộc phải xác định giá trị của doanh nghiệp theo công thức của Bộ Tài chính tại thời điểm CPH thì cần lưu ý rằng: việc xác định giá trị thực tế cũng như việc xác định giá trị lợi thế thông qua tỷ suất lợi nhuận siêu ngạch và nhân với hệ số 30%, chẳng qua chỉ là dựa và số liệu và kinh nghiệm của những năm đã qua, trong khi CPH phải chú ý trước hết đến các chiến lược cho thời kỳ tới mà tất cả còn đang là phương hướng phấn đấu, ước tính và dự báo. Vì thế, không nên mất vào thời gian vào những việc mà muốn làm cho chính xác cũng không thể được và ý nghĩa lớn nhất của nó chỉ là để ghi lại một con số tham khảo mà thôi. Nếu sau một thời gian hoạt động, con số đó cần được điều chỉnh thì nên điều chỉnh ( điều này là đương nhiên khi TTCK hoạt động ).
2.4. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp .
Thứ nhất, doanh nghiệp cần lập được “Phương án đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh sau CPH hoặc sau khi chuyển sang hoạt động theo hình thức sở hữu mới”. HĐQểA TRìNH của CTCP sau khi công ty đi vào hoạt động chính thức nên ra Nghị quyết và Quyết định phê duyệt phương án sản xuất kinh doanh , đầu tư phát triển sau CPH và sau khi chuyển đổi sở hữu. Các nội dung chính của phương án sản xuất kinh doanh được phê duyệt cố gắng theo quy định tại Thông tư số 02/1999/TT-BKH. Cần lưu ý một thực tế là khi lập đề án CPH, những người có trách nhiệm ít chú trọng đến vấn đề này hoặc có chú ý đến thì cũng trình bày rất sơ lược. Một thực tế khác thường xảy ra là những người có trách nhiệm tham gia lập đề án CPH cũng chưa các là những người sẽ trúng các chức vụ chủ chốt như Chủ tịch HĐQT, Giám đốc điều hành và Kế toán trưởng của CTCP. Vì thế trên cơ sở đề án CPH được phê duyệt, sau khi được cấp có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt nhân sự mới, việc soạn thảo phương án đầu tư , phát triển sản xuất kinh doanh của công ty đã chuyển đổi sở hữu là rất cần thiết như đã trình bày ở trên.
Thứ hai, đáp ứng quy định về một bộ hồ sơ hợp lệ, cụ thể là:
(1) Đơn đăng ký ưu đãi đầu tư ( Theo mẫu trong Thông tư 02/1999/TT-BKH ngày 24/9/1999 ).
(2) Đề án CPH.
(3) Quyết định phê duyệt của cấp có thẩm quyền ( hoặc bản sao hợp lệ ).
(4) Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ( hoặc bản sao hợp lệ ).
(5) “Phương án đầu tư , phát triển kinh doanh sau CPH” được HĐQT phê duyệt.
Thứ ba, trình bày đầy đủ các nội dung trong Đơn đăng ký ưu đãi đầu tư và báo cáo thực hiện dự án ( theo mẫu ).Đôi khi các doanh nghiệp thuê các Công ty tư vấn giúp chuẩn bị hồ sơ nhưng khi ký vào Đơn ưu đãi đầu tư thì người ký đại diện cơ sở sản xuất kinh doanh lại không xem lại kỹ các nội dung được chuẩn bị sẵn dẫn đến sự khập khiễng và mâu thuẫn trong bộ hồ sơ.
Cuối cùng, chủ doanh nghiệp nên chủ động nắm chắc các quy định, chính sách khuyến khích đầu tư của Nhà nước đã ban hành và khi có vướng mắc cần trao đổi thông tin sớm nhằm cùng các cơ quan chức năng tháo gỡ các vướng mắc cho doanh nghiệp . Hiện nay có khoảng gần 20 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến ưu đãi đầu tư đang có hiệu lực thi hành.
Kết luận.
Cổ phần hoá là một chủ trương, chính sách lớn và đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề cải cách các DNNN, đồng thời cũng có không ít những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trên bước đường thực hiện. Để khắc phục tình trạng chậm trễ về việc CPH các DNNN, cần sớm tìm ra lời giải cho bài toán sở hữu trong khu vực DNNN, tạo ra động lực cho người lao động phát huy nội lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, làm cho khu vực kinh tế Nhà nước thực sự nắm giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bài viết đã đưa ra được một số vấn đề và phương hướng để giải quyết xung quanh việc thực hiện chủ trương CPH các DNNN như : thực trạng của các doanh nghiệp khi tiến hành CPH và những giải pháp để tháo gỡ vướng mắc còn tồn tại nhằm thúc đẩy tiến trình CPH ở nước ta hiện nay. Đây mới chỉ là những đáng giá và nhận định ban đầu , còn rất sơ bộ và non kém về mặt trình độ cũng như phương pháp lý luận , chưa thể đi sâu phân tích cụ thể các vấn đề như những nhà nghiên cứu kinh tế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu được thế nào là CPH,những lợi ích có được từ việc thực hiện CPH và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta. Chúng ta cũng nhận thấy rằng để thúc đẩy tiến trình CPH thì cần phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa của Đảng và Nhà nước cũng như sự tham gia, hưởng ứng nhiệt tình của đông đảo các tầng lớp nhân dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0092.doc