Haprosimex Group là doanh nghiệp có bề dày truyền thống, làm ăn hiệu quả và có nhiều thành tích, đó đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế Thủ đô. Bước vào giai đoạn mới, Haprosimex Group sẽ tập trung vào 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đó là: dệt may, thủ công mỹ nghệ và nông sản, phương châm hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lấy sản xuất hàng xuất khẩu làm gốc. Trong những năm tới đây, tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến động không có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, tuy còn nhiều khú khăn và thách thức ở phía trước nhưng với phương châm “Phát huy mọi nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu”, Haprosimex Group sẽ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, dần đưa Haprosimex Group trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu của Thủ đô, khẳng định vị thế thương hiệu HAPROSIMEX trên thị trường.
70 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1599 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội (Haprosimex), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng, các sản phẩm TCMN của công ty đã thâm nhập được vào nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhât, Đài Loan vv….
- Haprosimex cũng đã tiến hành mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt việc đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu. Từ việc đa dạng hoá các sản phẩm theo yêu cầu của từng khách hàng cụ thể, từng hợp đồng, mà khả năng chỉ đạo sản xuất gia công, quản lý chất lượng sản phẩm của công ty không ngừng được nâng lên. Đa dạng hoá các sản phẩm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc tiếp xúc trực tiếp với nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, của bạn hàng. Từ đó tìm được bạn hàng lâu dài, tạo tiền đề cho việc ổn định sản xuất và kinh doanh trong tương lai.
- Khối lượng xuất khẩu sản phẩm của công ty nói chung và hàng TCMN nói riêng đang ngày một tăng, điều này đã được thể hiện qua kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Haprosimex.
- Hiện nay, Haprosimex với tiềm năng sản xuất kinh doanh, cơ cấu tổ chức cũng như phương thức tổ chức quản lý thì có thể đánh gíá Haprosimex là một đơn vị sản xuất kinh doanh mạnh, có đủ khả năng tiếp cận với phương thức sản xuất mới, từ đó tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp và đủ sức cạnh tranh trên thị trường hàng thủ công mỹ nghệ quốc tế.
2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì việc sản xuất kinh doanh hàng TCMN của Haprosimex cũng gặp rất nhiều khó khăn.Cụ thể là :
- Thứ nhất: Đó là việc tiếp cận được các nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính, hàng rào về thủ tục vay vốn và những yêu cầu về thế chấp tài sản của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng là điều mà các đơn vị sản xuất kinh doanh của công ty rất khó có thể tiếp cận được. Vì thế đây là một khó khăn lớn cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của công ty.
- Thứ hai: Một khó khăn khác đó là về mặt bằng cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở hiện còn thấp kém, hệ thống đường giao thông, bến bãi, kho cảng, đường điện vv… vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất, kinh doanh của công ty.
- Thứ ba :Thị trường tiêu thụ của Haprosimex còn gặp rất nhiều khó khăn. Những năm qua mặc dù nhu cầu mặt hàng này có gia tăng nhưng để nắm bắt được thị hiếu của từng thị trường tiêu thụ, tiếp cận thị trường mới, tìm được đối tác kinh doanh, xây dựng các mối quan hệ bạn hàng lâu dài và ổn định, thì lại là việc hết sức phức tạp và khó khăn. Cho nên, để làm tốt công tác tiêu thụ sản phẳm thì khâu xúc tiến thương mại là khâu rất quan trọng, tuy nhiên chi phí cho hoạt động này là tương đối tốn kém mà người sản xuất kinh doanh nếu không có được sự hỗ trợ của nhà nước thì thường không thể tự mình làm được. Còn với các doanh nghiệp kinh doanh, nhằm đảm bảo thành công trong việc xúc tiến các hoạt động xuất khẩu thì cần có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ lẫn nhau giữa các đối tác và các cơ quan, các cơ quan của chính phủ có liên quan .Tuy nhiên đây là một việc làm hết sức khó khăn trong tình hình kinh tế như hiện nay.
- Thứ tư : Chính vì đặc điểm của sản xuất hàng TMCN là phải sử dụng các chất đốt rắn, có rất nhiều chất thải độc. Vì vậy việc xử lý chất thải không tốt sẽ làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng hơn. Đối với các làng nghề và các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ thì đây là gánh nặng mà khả năng xử lý của họ là rất thấp do điều kiện về tài chính và điều này sẽ làm ảnh hưởng rất lớn chất lượng cuộc sống của người dân xung quanh.
- Thứ năm: Đó là công việc tổ chức, khai thác và cung ứng nguồn nguyên vật liệu chưa được tốt.
Đối với các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ mà muốn có nguồn nguyên liệu thường phải mua lại từ nhiều nguồn khác nhau, mà chủ yếu là cung ứng gián tiếp, thậm chí là bất hợp pháp nên phải mua với giá cao từ đó làm tăng chi phí sản xuất. Và giá thành, sản phẩm thường không có hoá đơn giá trị gia tăng để được hoàn thuế khi xuất khẩu. Bên cạnh đó còn phải kể đến khó khăn về thủ tục hành chính trong tất cả các khâu từ sản xuất cho đến lưu thông: Giao nhận, vận chuyển và xuất khẩu hàng hoá còn nhiều phiền hà, gây tốn kém về thời gian và chi phí đối với người sản xuất kinh doanh. Đối với công ty sản xuất - xuất nhập khẩu tổng hợp Hà nội thì hầu hết các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu đều được thu gom, mua lại từ các cơ sở sản xuất, của các tư nhân trong nước. Chính vì thế mà những khó khăn và thuận lợi của công ty trong kinh doanh mặt hàng này cũng xuất phát từ những thuận lợi, khó khăn của người sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ nói chung.
Hiện nay, một trong những vấn đề hàng đầu mà công ty đang quan tâm đó là đẩy nhanh tìm kiếm thị trường mới, đẩy mạnh tiêu thụ. Bởi vì trong hoạt động xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ thì thị trường là rất quan trọng. Hiện mặt hàng TCMN của Việt nam đã có mặt ở khoảng 163 nước trên thế giới, chủ yếu là thị trường châu Âu, Mỹ và một số thị trường châu Á như Nhật bản, Đài loan, Hàn quốc, Singapore, v.v... và một số nước trung đông, Châu Phi. Mặc dù vậy ta vẫn chưa xuất khẩu được nhiều vào các thị trường có nhu cầu và dung lượng lớn, chính vì thế khả năng mở rộng thị trường mới và tranh thủ các cơ hội và khai thác sâu vào các thị trường đã có nhất là với các thị trường có nhu cầu lớn và lâu dài là khả năng hiện thực và cần phải phấn đấu khai thác thật tốt trong những năm tiếp theo.
EU được coi là thị trường lý tưởng cho việc thâm nhập các sản phẩm gỗ, gốm sứ, mây tre lá, hàng thêu. Còn với thị trường Nhật được coi là thị trường lớn cho các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, mặt hàng được ưa chuộng nhiều nhất là mặt hàng về đồ gỗ, mây tre vv…. Theo như số liệu thống kê của Nhật Bản thì hàng năm nước ta đã xuất sang nhật khoảng 80 triệu USD đồ dùng gia đình, trong đó chủ yếu là đồ gỗ,mây tre đan, Nhật Bản cũng được coi là một thị trường nhập khẩu hàng gốm sứ lớn, tuy nhiên hiện mỗi năm nước ta chỉ khai thác được khoảng 5-6 triệu USD. Muôn xâm nhập được vào thị trường này thì việc nắm bắt các thông tin và kiến thức xúc tiến thương mại là rất quan trọng.Từ đó có phương thức và các kênh bán hàng phù hợp với thị trường nước bạn. Bên cạnh đó ta cũng phải phải tính đến các thị trường truyền thống như Nga, các nước SNG, Đông ÂU, Bắc Mỹ và một số thị trường mới nổi như Đài loan, Hàn quốc, Hồng kông, Trung đông và một số nước Châu Phi.
Là một công ty lớn của miền bắc, haprosimex xuất khẩu nhiều loại hàng, có mối quan hệ làm ăn với hơn 60 nước trên thế giới. Điều này tạo khá nhiều thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Thị trường chính nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty là các nước Eu, Mỹ, Nhật bản, Đài loan, Singapore , vv…..
Nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ cho hoạt động xuất khẩu Haprosimex đã từng bước nâng cao chất lượng về quản trị mua hàng và tiêu thụ sản phẩm.
3 Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được ở trên, công tác xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Haprosimex vẫn còn bộc lộ khá nhiều hạn chế và cần khắc phục trong thời gian tới:
- Về kiểu dáng và mẫu mã
Hàng TCMN là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của công ty. Doanh thu của hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ hàng năm chiếm tỷ trọng khoảng 10% trong tổng số doanh thu xuất khẩu của công ty. Tuy nhiên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn rất nhiều hạn chế mà hạn chế đầu tiên phải kể đến đó là về kiểu dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm.
Mới đây trong một cuộc khảo sát của Phòng kế hoạch thị trường cho thấy, mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty còn rất yếu ở hai khâu đó là về thông tin thị trường và kiểu dáng mẫu mã của sản phẩm. Qua khảo sát đã cho thấy, khi mà thị trường nhất là ở thị trường các nước phát triển ngày càng trở nên bão hoà với các sản phẩm thủ công mỹ nghệ thì sản phẩm có giá rẻ, mẫu mã đơn điệu thì chưa đủ để thoả mãn nhu cầu khách hàng, chưa tạo ra được sức cạnh tranh mà cái mà khách hàng các nước này cần đó là sản phẩm phải mang tính độc đáo, kiểu dáng đẹp.
Trong xu thế hiện nay việc thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ của các nghệ nhân công ty thường đề cao tính nghệ thuật, độc đáo, ý nghĩa văn hoá của sản phẩm được làm ra. Các thiết kế sản phẩm mang tính “ độc nhất và của riêng mình", luôn được đề cao trong khi đó khả năng ứng dụng và tính thương mại của sản phẩm lại chưa được chú ý đến nhiều .
Các sản phẩm hàng TMCN thường được làm bằng tay đã tạo ra các sản phẩm bản gốc có tính độc đáo, tinh xảo cho công ty nhưng cũng vì thế mà giá quá cao không hợp túi tiền người nông dân trong nước, làm giảm sức cạnh tranh cho xuất khẩu. Mẫu mã sản phẩm, thiết kế thì còn đơn điệu, mang tinh copy nhiều hơn.
-Nguyên liệu
Cũng như đa số các ngành khác trong nền kinh tế, Hiện nay Haprosimex vẫn còn bị hạn chế về đầu vào sản phẩm , đó chính là nguyên vật liệu đầu vào để làm ra sản phẩm
Riêng đối với nguồn nguyên liệu mây hiện có, thì từ khi trồng đến khi thu hoạch phải mất khoảng sau 5 – 10 năm thì mới thu hoạch được vì vậy nguyên liệu mây vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho sản xuất.
Ngoài mây ra thì nguyên liệu tơ tằm cũng đang là thiếu rất nhiều. Hiện nay nguyên liệu tơ mà các ngành nghề sử dụng thuộc diện quản lý của công ty mới chỉ ở cấp B, C mà vẫn chưa đạt đến cấp A, với tình hình nguyên liệu như vậy thì các sản phẩm của công ty rất khó cạnh tranh. Ngoài ra hàng năm công ty còn nhập rất nhiều nguyên liệu tơ từ các nước láng giềng.
Hiện nay đang có sự khan hiếm trầm trọng với những cánh rừng đang bị lâm tặc chặt phá. Thêm nữa là từ lúc trồng đến lúc khai thác gỗ phải mất hàng chục năm nên việc đảm bảo nguyên liệu gỗ cho mặt hàng này gặp rất nhiều khó khăn.
- Về chất lượng sản phẩm
Khả năng đầu tư của doanh nghiệp để nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn chưa cao, máy móc, trang thiết bị của công ty vẫn chưa đáp ứng được so với các doanh nghiệp khác và với các công ty Trung Quốc cho nên các sản phẩm của công ty vẫn còn thấp về chất lượng sản phẩm.
- Về công tác xuất khẩu
Trong hoạt động xuất khẩu thì còn yếu kém ở nhiều khâu đặc biệt là khâu nghiên cứu thị trường, tiếp cận thị trường, chưa thực sự nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của khác hàng.Từ đó làm hạn chế khả năng xuất khẩu.
- Chưa tận dụng được hết tiềm năng
Trước kia kiểu làm trước rồi tìm khách hàng và thị trường sau đến nay không còn phù hợp nữa và tính hiệu quả thì cũng không cao. Tại vì nhu cầu của khách hàng thay đổi rất nhanh và ở mỗi thị trường khác nhau thì lại có một thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Nếu như một công ty cứ làm ra sản phẩm mà không tìm được khách hàng thì đó sẽ là một sự lãng phí tiền của, công sức và thời gian rất lớn. Có khi nếu công ty tìm hiểu thị hiếu và thị trường tiêu dùng rồi mà lại không chịu thường xuyên cập nhập thông tin thì rất có thể khi sản phẩm đầu tiên của công ty ra đời thì nó đã trở nên lạc hậu, không còn phổ biến nữa. Vì vậy muốn phát triển mạnh thực sự thì khâu điều tra thị trường mà trong đó marketing cần phải đầu tư hơn nữa chứ không thể thụ động như hiện nay công ty đang làm.Chỉ có như vậy thì công ty mới có thê tận dụng được các tiềm năng sẵn có.
Nhìn chung tỷ trọng mà công ty chiếm lĩnh hiện nay vẫn chưa phản ánh hết được năng lực của công ty. Sản phẩm, doanh thu và lợi nhuận hàng năm của công ty không ngừng tăng lên. Mặc dù vậy bất kỳ hoạt động nào cũng có tính hai mặt của nó, bên cạnh những thế mạnh cần phát huy thì công ty cũng còn những hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới.
* Sau đây là một số mặt chưa hợp lý:
- Công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường của Haprosimex thực hiện chưa tốt bởi vì công tác nghiên cứu thị trường chưa có được sự thống nhất đồng bộ, chưa phát huy được thế mạnh của nó cho hoạt động tiêu thụ cho nên thông tin về thị trường còn thiếu chính xác. Ngoài ra đội ngũ nghiên cứu chưa nhiều, tất cả còn tập trung ở phòng kinh doanh, trình độ nhân viên chưa đồng đều, khả năng chuyên môn hoá của họ cũng chưa cao. Các hoạt động điều tra còn mang tính thụ động, yếu kém, chưa được đầu tư đúng mức nên các thông tin thương mại đến với công ty còn ít và thiếu kịp thời và đôi khi là thiếu chính xác.
- Chất lượng quản trị mua hàng vẫn chưa được nâng cao cho nên vẫn còn tồn tại những đơn hàng có chất lượng chưa cao, không đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.
- Công ty vẫn chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chiến lược sản phẩm, giá cả, phân phối và kỹ thuật.
- Các văn phòng đại diện thương mại của công ty ở nước ngoài không nhiều nên việc tiếp cận các thông tin thương mại còn nhiều hạn chế, chính điều này làm giảm khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của Haprosimex.
- Những hoạt động như hỗ trợ, xúc tiến bán hàng vẫn chưa được phát huy tác dụng .
Nguyên nhân
Những tồn tại nêu ở trên chịu ảnh hưởng không ít bởi các nguyên nhân, trong đó bao gồm một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Thứ nhất đó là do sự xuất hiện ngày càng nhiều các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế như hiện nay cùng với nhiều khu vực mậu dịch tự do thì các quôc gia trên thế giới đều có xu hướng mở cửa nhằm hướng ra thị trường nước ngoài do đó khối lượng hàng hoá đang lưu thông trên thị trường ngày một tăng lên. Ngoài ra các cơ chế,chính sách sản xuất kinh doanh của công ty mới được đổi mới trong những năm gần đây nên chưa thể thích ứng kịp với tốc độ cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường quốc tế như hiện nay.
- Thứ hai là do hàng thủ công mỹ nghệ đang ngày càng có ưu thế rất lớn. Vì vậy mà ngày càng nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia xuất khẩu mặt hàng này. Những cơ sở sản xuất có quy mô không lớn băng công ty nhưng sản phẩm của họ lại đa dạng, giá rẻ hơn của công ty. Ngoài ra họ cũng có những phương thức giao dịch thanh toán, vận chuyển khá linh hoạt nên các cơ sở này cũng thu hút được khá nhiều khách hàng ngoài nước.
- Thứ ba là thị trường tiêu thụ của Haprosimex là ở nước ngoài nên công tác nghiên cứu, dự báo nhu cầu thị trường hiện gặp rất nhiều khó khăn vì chi phí cho hoạt động xúc tiến thương mại là rất lớn, cho nên nếu không có được sự trợ giúp của cơ quan có chức năng thì bản thân công ty cũng rất khó có thể làm tốt được công tác này.
- Thứ tư là chi phí cho hoạt động như thu gom, gia công chế biến và đây là bộ phận gián tiếp làm tăng giá thành sản phẩm và giá bán cao nên sức cạnh tranh trên thị trường của công ty là không cao.
- Thứ năm là vì hàng thủ công mỹ nghệ của Haprosimex phần lớn là được thu gom từ các cơ sở sản xuất, hộ nông nhàn, từ tư nhân nên việc quản lý chất lượng cũng gặp không ít khó khăn, bởi vì người sản xuất thường chạy theo lợi nhuận mà dễ bỏ qua các yếu tố về chất lượng sản phẩm, từ đó không đáp ứng được nhu cầu thị trường, làm giảm khả năng cạnh tranh.
- Thứ sáu là vì các hoạt động xúc tiến bán hàng chưa phát huy hết hiệu quả trong việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra còn do đội ngũ nhân viên làm công tác tiêu thụ sản phẩm và mặc dù đã có nhiều cố gắng song do năng lực có hạn và còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên hiệu quả của công việc vẫn chưa đạt được kết quả cao.
Những phần trên chính là một số nguyên nhân cơ bản, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ của Haprosimex trong những năm qua. Bên cạnh đó thì việc duy trì và mở rộng thị trường còn bị chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, giá trị của ngoại tệ có nhiều biến động do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế ở một số nước trong khu vực và trên thế giới vv... Những nguyên nhân trên cũng là tiền đề cần thiết cho việc đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty trong những năm tiếp theo.
Chương III:Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
I. Tình hình kinh tế quốc tế và trong nước.
1. Tình hình kinh tế quốc tế
Bối cảnh kinh tế quốc tế
Hiện nay, tình hình kinh tế thế giới đang phải chịu tác động bởi ba nhân tố chính, bao gồm:
- Môi trường kinh doanh quốc tế : Môi trường kinh doanh quốc tế hiện đang bị tác động xấu bởi cuộc khủng hoảng tài chính và các rủi ro có tính chất hệ thống khác. Xét về nhiều khía cạnh, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, sự đình trệ kinh tế của khu vực cùng với cuộc khủng hoảng của hệ thống ngân hàng các nước, đặc biệt là tới những nước mới chuyển sang hay chuẩn bị chuyển sang nền kinh tế thị trường.
- Thị trường vốn: Thị trường vốn đầu tư quốc tế không hoàn thiện, quá trình tích tụ vốn trên thị trường tài chính thế giới đã làm tăng vọt các dòng vốn đầu tư trong thời gian kinh tế tăng trưởng và ổn định trong một thời gian dài.
- Hệ thống tài chính :Hệ thống tài chính yếu kém hiện đang trở thành một cản trở nghiêm trọng làm một số nước dễ bị tác động mạnh bởi khủng hoảng tài chính của một số nước hoặc khu vực. Tuy vậy nền tài chính cũng được quốc tế hoá mạnh mẽ bởi quốc tế hoá nền tài chính sẽ thúc đẩy trở lại quốc tế hoá” thương mại và sản xuất”.
Bối cảnh ‘thương mại quốc tế’ không nằm ngoài bối cảnh của ‘kinh tế thế giới’, trong giai đoạn của chuyển giao thế kỷ đã và đang xảy ra những biến động lớn nhưng thương mại quốc tế vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên cơ sở quốc tế hoá nền ‘kinh tế thế giới’.
Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới luôn cao hơn nhiều so với tốc độ tốc độ tăng trưởng sản xuất và tăng trưởng kinh tế thế giới. Thương mại quốc tế đã phát triển đến giai đoạn mới với đỉnh cao là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới WTO, ngoài ra còn có các hiệp định song phương giữa các nước, vv… Theo dự báo của các tổ chức quốc tế, trong những thập niên tới tăng trưởng thương mại cao gấp khoảng 2 lần tăng trưởng kinh tế thế giới.
Cơ cấu hàng hoá trong thương mại quốc tế, được mở rộng phạm vi lớn hơn, không chỉ bao gồm thành phẩm và bán thành phẩm của công nghiệp truyền thống, sản phẩm nông nghiệp sơ chế mà nó còn bao gồm cả sản phẩm kỹ thuật cao, công nghệ dịch vụ, ngoại tệ, cổ phiếu chứng khoán…. với giá trị trao đổi sản phẩm vô hình ngày càng được tăng lên.
Cơ cấu thương mại : Cơ cấu thương mại của khu vực thương mại quốc tế cũng có sự thay đổi, cho dù những hoạt động thương mại quốc tế được bắt nguồn từ các nước công nghiệp phát triển nhưng trong những năm gần đây thì thương mại quốc tế giữa các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển đều gia tăng với tốc độ cao.
Bên cạnh đó, hiện nay bối cảnh kinh tế của Châu Á nói chung, của khu vực ASEAN nói riêng, cũng đang diễn biến cùng với bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới, tuy nhiên nó cũng mang những nét đặc trưng riêng mà nước ta cũng là quốc gia nên không thể tránh khỏi những ảnh hưởng chung đó.
Việc tham gia vào các tổ chức này, sẽ mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho các doanh nghiệp Việt nam. Các doanh nghiệp này sẽ có nhiều cơ hội hơn trong việc xuất khẩu các sản phẩm của mình vào trong khối kinh tế và tận dụng được ngoại lực để phát huy nội lực nhằm đẩy mạnh nhanh sự nghiệp CNH-HĐH Đất nước. Mặc dù vậy, họ cũng phải chịu sự cạnh tranh gay gắt hơn từ thị trường thị trường trong nước cũng như tại các nước trong khu vực.
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng xuất khẩu chung của kinh tế Việt Nam và của mỗi doanh nghiệp nói riêng.
2. Tình hình kinh tế trong nước
Nhìn chung, kinh tế Việt nam trong những năm đầu của thế kỷ 21 đã có những bước tiến bộ đáng kể, đó là cơ cấu của nền kinh tế đã có chuyển biến tích cực, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã tăng tỷ trọng của các mặt hàng đã qua chế biến,vv…. Về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội đã phát triển thêm một bước, đặc biệt là ở các vùng trọng điểm. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ tương đối đông và có trình độ, nên nó là tiền đề quan trọng cho việc ứng dụng và sáng tạo khoa học công nghệ, xây dựng nền tảng cho quá trình CNH-HĐH Đất nước.
Thương mại chính là ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ và nó đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tình hình hoạt động thương mại ở Việt Nam trong những năm qua diễn ra trong bối cảnh môi trường kinh doanh đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Cụ thể đó là:
- Các doanh nghiệp của nước ta hội nhập vào nền kinh tế- thương mại thế giới trong điều kiện phân công lao động quốc tế đã được xác lập, thị trường thế giới đã được phân chia tương đối ổn định, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam vẫn rất non trẻ đã phải tham gia vào cuộc cạnh với các tập đoàn đa quốc gia vv ... từ đó dẫn đến sự cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém ở thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế.
- Do có tình trạng thiếu thị trường tiêu thụ, bao gồm cả thị trường trong nước lẫn thị trường xuất khẩu, mặt khác nguồn vốn kinh doanh đã thiếu lại sử dụng chưa có hiệu quả ở số nhiều các doanh nghiệp Việt Nam.
- Các hoạt động thương mại của doanh nghiệp Việt luôn gặp phải những khó khăn trên lĩnh vực văn hoá - xã hội, những nạn tham nhũng , buôn lậu, vv...
- Nhà nước ta đã ban hành nhiều cơ chế chính sách thông thoáng hơn và khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.Việc này đã dẫn đến tình trạng có quá nhiều doanh nghiệp tranh giành mua và bán, cạnh tranh quyết liệt để dành lấy thị trường.
II. Dự báo xu thế xuất trong nước và sự ảnh hưởng của nó đến xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
* Nhu cầu : Do đời sống của con người càng cao nên nhu cầu của họ cũng được nâng lên và song song với nó là mặt hàng TCMN cũng ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại, sản xuất thì đơn giản, dễ thay đổi nên thích nghi với thị hiếu của nhiều đối tượng tiêu dùng khác nhau. Đây là nhân tố quan trọng mở ra nhiều thị trường tiêu thụ hàng TMCN. Hiện nay, trên thế giới nói chung và Công Ty Haprosimex nói riêng có một số thị trường chính sau:
Liên Minh Châu Âu ( EU) : EU là một thị trường có thu nhập bình quân rất cao, dân số của khu vực này vào khoảng 350 triệu người.
Nền kinh tế của khu vực ổn định, thị trường thống nhất. EU là thị trường có sức mua rất lớn nhưng cũng đòi hỏi chất lượng hàng hoá, uy tín và kiểu dáng mẫu mã rất cao. Trong những năm qua xuất khẩu hàng hoá dịch vụ vào các nước EU đã tăng từ gần 20% lên 25%, các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu vào khối này là hàng dệt may, giầy dép, nông sản, hàng thủ công mỹ nghệ đó là chưa kể đến một số mặt hàng xuất khẩu sang châu Á nhưng để tái xuất sang thị trường EU.
Đông Âu và các nước SNG : Trước đây thì việc xuất khẩu hàng TCMN theo nghị định thư, cho nên khi hàng xấu hay đẹp thì đều được xuất khẩu. Nhưng hiện nay khi tham gia vào cơ chế thị trường, đặc biệt từ khi khủng hoảng kinh tế thì thị trường này đã giảm mạnh và có nhiều khi mất hẳn thị trường. Trong những năm trở lại đây mặc dù có khôi phục lại thị trường này song là chưa đáng kể, mặc dù đây là thị trường quen thuộc của nước ta nhưng những năm qua do nhiều yếu tố biến động, nước ta đã để trống khu vực này. Trong đó một phần nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do phía đối tác một thời gian dài vẫn chưa có những phương thức thanh toán ổn định, mặt khác ta cũng chưa thực sự năng động tìm ra phương thức buôn bán mới như hàng đổi hàng, đổi hàng tạm nhập tái xuất. luôn coi nhẹ chất lượng, hàng mẫu mã xấu, hàng kém chất lượng,vv…. sang tiêu thụ đại trà nên đây cũng là nguyên nhân làm cho mặt hàng của ta mất đi uy tín trên thị trường nước bạn. Ngoài ra với sự bắt chước, năng động, truyền thống của Trung quốc, Philipin và một số nước khác đã kịp thời xâm nhập vào thị trường này và bán với giá re hơn, vì vây mà ta đã đánh mất dần thị trường. Hiện nay trao đổi buuon bán với các nước này chỉ đạt khoảng 5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam.
Thị trường Châu á - Thái Bình Dương : Châu Á- Thái Bình Dương là một thị trường đông dân số nhất thế giới, song thu nhập lại chưa cao, hiện chiếm khoảng 65% kim ngạch ngoại thương của Việt nam. Đây được đánh giá là thị trường rất tiềm năng khi kinh tế các nước này đang phát triển rất nhanh, bên cạnh đó, khu vực này có nền văn hoá, truyền thống mang đậm nét dân tộc chính vì thế cần phải nghiên cứu kỹ về thị hiếu, nét đặc trưng của người phương Đông trước khi ta tiến hành việc xúc tiến, xuất khẩu hàng TMCN vào các nước trong khu vực.
Cạnh tranh :
+ Đối với những mặt hàng như gốm sứ, chạm khảm, thêu , mây tre đan hiện có ở rất nhiều nước, việc cạnh tranh không chỉ diễn ra ở trong nước mà ở ngay cả giữa nước này với nước khác, khối này với khối khác về giá cả mẫu mã, chất lượng, kiểu dáng và phương thức thanh toán vv… Tuy vậy trong cuộc cạnh tranh này thì hàng thủ công mỹ nghệ của một số nước có uy tín luôn chiếm được ưu thế cao trên thị trường và sản phẩm của họ thường bán được giá hơn.
+Hiện nay, Trung quốc đứng đầu về đồ gốm sứ,các sản phẩm gốm sứ của họ luôn có uy tín cao trên thị trường thế giới với những sản phẩm nổi tiếng của Thượng Hải, Giang Tây, đặc biệt là về chất lượng, sản phẩm của họ có uy tín cao trên thị trường.
+Về hàng sơn mài chạm , gốm sứ, vv…thì tại thị trường SNG , Việt Nam vẫn giữ ưu thế là bạn hàng quen thuộc mặc dù chưa có động lực để nâng cao chất lượng và thay đổi kiểu dáng mẫu mã.
+ Các đối thủ sử dụng thường sử dụng vũ khí cạnh tranh là giá cả và mẫu mã, ngoài việc bán với giá hợp lý thì họ còn sử dụng các hình thức chiết khấu, giảm giá, hình thức thanh toán thông dụng và có lợi cho cả hai bên .
Dự báo, nhu cầu của thị trường Thế giới đối với mặt hàng thủ công mỹ nghệ sẽ tiếp tục tăng cao. Thời gian cho mục tiêu xuất khẩu 1,5 tỉ USD vào năm 2010 không còn nhiều, tuy nhiên mục tiêu này hoàn toàn có thể đạt được cùng với những giải pháp phát triển xuất khẩu của Bộ Công thương hiện nay.
Riêng với hàng TMCN thì các yêu cầu về tính đa dạng, độ thẩm mỹ, mẫu mã ngày càng cao hơn, ở một số nước cũng xuất khẩu các sản phẩm này như Trung quốc, Philipin,vv... thì họ vẫn sẽ tăng cường đầu tư nhằm thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng này. Ở những nước này, hiện nay đã xuất hiện các sản phẩm được sản xuất bằng máy, chứ không làm bằng tay nữa nên nó sẽ sản xuất được khối lượng lớn có năng suất lao động cao, hạ giá thành sản phẩm, nhưng điều này có nghĩa là tính đa dạng, phức tạp, tính thủ công đặc trưng mà khách hàng nước ngoài họ rất coi trọng không được đảm bảo nữa.Tính cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường quốc tế không cao, một phần là do giá trị xuất khẩu thấp và chỉ có một số nước mới có mặt hàng để đem đi xuất khẩu. Chính vì thế mà Việt nam cần phải khai thác được nhiều hàng TCMN, với mẫu mã phong phú và đa dạng nhằm phục vụ tốt cho công tác xuất khẩu .
III. Mục tiêu và phương hướng nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN
Trong những năm tới đây thì xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ vẫn chủ yếu nhằm vào những mặt hàng sau:
Nhóm sản phẩm gỗ:
Đồ gỗ mỹ nghệ, bao gồm tranh gỗ, tượng gỗ, đồ gỗ gia dụng, có chạm, khảm, vv....đây là nhóm hàng có khả năng xuất khẩu lớn. Tính chung trong quí I- 2008, tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đạt 683,7 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm 2007
Riêng với Haprosimex thi mục tiêu cho năm 2009 là kim ngạch xuất khẩu khoảng 3,524 triệu USD,
- Nhóm hàng gốm sứ mỹ nghệ.
Đây là mặt hàng cần được sự khuyến khích, hỗ trợ ưu đãi mạnh mẽ của Nhà nước để biến triển vọng tốt đẹp của ngành nghề này thành hiện thực trong những năm tới. Trong hai năm 2007- 2008 kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt khoảng 200 triệu USD . Riêng Haprosimex có thể đặt mục tiêu tăng trưởng trung bình 9-11%/ năm trong thời kỳ 2009- 2010 với kim ngạch khoảng 3,478 - 4,069 triệu USD
- Nhóm hàng mây tre đan.
Theo như báo cáo của thương vụ Việt Nam, thì hiện nay Philippin xuất khẩu mặt hàng này khoảng 110- 125 triệu USD/ năm, Indônêsia xuất khẩu khoảng 50 triệu USD/năm, riêng Trung Quốc thì họ xuất khẩu nhóm hàng thảm len và các sản phẩm đan đạt kim ngạch khoảng 1 tỷ USD/ năm
Nếu như ta làm tốt công tác xúc tiến thương mại và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của Nhà nước, thì có thể đạt mục tiêu phấn đấu năm 2010 mức 200 triệu USD kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này.
- Nhóm hàng thảm các loại.
Hiện nay, thị trường xuất khẩu mặt hàng này vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Nếu như làm tốt công tác xúc tiến thương mại và có chính sách hỗ trợ của Nhà nước, thì trong những năm tới có thể phát triển thêm một bước với mục tiêu xuất khẩu 60-80 triệu USD vào năm 2009.
- Nhóm hàng thêu.
Trong những năm gần đây, thì kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này đạt khoảng 30 triệu USD. Tương tự như các mặt hàng khác, nếu như ta làm tốt công tác xúc tiến thương, mại tìm kiếm thị trường và khách hàng thì có thể đưa kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng này vào năm 2009 lên khoảng 60-80 triệu USD.
Mục tiêu, phương hướng là quan trọng nhưng yếu tố có tính chất quyết định đến thành công là chính sách, biện pháp và việc tổ chức thực hiện có hiệu quả các biện pháp chính sách đã được đề ra.
Theo như nghị quyết của Bộ chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế và xác định nhiệm vụ, đó là_ "chủ động và khẩn trương chuyên dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, phát huy lợi thế của đất nước, ra sức phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng , hạ giá thành sản phẩm, vv.. .nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH-HĐH Đất nước"
Như vậy việc phát triển ngành hàng thủ công mỹ nghệ trong những năm tới là điều tất yếu. Nhà nước cần phải có các giải pháp hỗ trợ , khuyến khích ngành này phát triển, bởi vì khi tham gia hoạt đông thương mại quóc tế thì nước nào có lợi thế so sánh lớn hơn thì nước đó sẽ chiếm ưu thế lớn hơn, mà đối với nước ta thì lợi thế so sánh về hàng thủ công mỹ nghệ rất lớn do có nguồn lao động và nguồn nguyên liệu rồi rào.
Việc xuất khẩu hàng TCMN hàng năm đã đem lại lượng ngoại tế khá lớn cho nền KTQD, nên hiện nay mặt hàng này đang được sự chú ý quan tâm và ưu đãi của nhà nước.
Nhằm góp phần thực hiện được các mục tiêu trong đường lối, chiến lược phát triển chung của nước ta thì đòi hỏi công ty phải tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:
+ Phải thực hiện gắn sản xuất với xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ giữa công ty với các cơ sở sản xuất để đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu ổn định. Khi tham gia hoạt động kinh doanh mặt hàng nào thì cần phải nắm vững về các mặt hàng đó, phải chủ động quản lý về giá cả và chất lượng của sản phẩm.
+ Đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu, trên cơ sở tập trung vào một số mặt hàng chính như Đồ gỗ, gốm sứ, thêu, mây tre đan.
+ Hình thức xuất khẩu phải được đa dạng hoá, áp dụng linh hoạt các phương thức xuất khẩu trong kinh doanh
+ Cần tiếp tục củng cố các mối quan hệ với bạn hàng quen thuộc ở thị trường Tây và Bắc Âu, Châu Á- TBD, đồng thời mở rộng thâm nhập vào một số thị trường mới nổi, Trung Đông
+ Ngoài ra phải chú trọng đến việc nâng cao kim ngạch xuất khẩu.
IV. Chính sách và biện pháp nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN
Ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN) – là nhóm hàng sử dụng nhiều yếu tố đầu vào sẵn có của nền kinh tế nặng tính nông nghiệp nông thôn như Việt Nam, cùng với việc thu hút nhiều lao động nhàn rỗi ở nông thôn, vì thế ngành sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có sự đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội rất là lớn. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế có nhiều khó khăn do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu, thì những chính sách giải pháp để phát triển nhóm hàng này càng cần được quan tâm đặc biệt.
1. Một số chính sách nhằm đẩy mạnh XK hàng TCMN
1.1 Chính sách với các làng nghề
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ của nước ta được sản xuất chủ yếu ở các làng nghề thủ công truyền thống. Chính vì thế để đảm bảo cho nguồn hàng cho xuất khẩu thì nhà nước cần có những chính sách phát triển làng nghề truyền thống một cách hợp lý.
Những năm trở lại đây, do nền kinh tế hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường nên đã làm cho các làng nghề truyền thống có sự phân hoá như một số làng nghề phát triển mạnh đó là các nghề như nghề gốm, chế biến gỗ, mây tre, riêng một số làng nghề lại phát triển cầm chừng, thậm chí là chững lại hẳn như nghề đúc đồng, đồ sành vv…, Ngoài ra còn có rất nhiều những làng nghề gặp khó khăn như nghề giấy gió, gò đồng, vv… và có một số làng nghề thì đang trong quá trình mai một và có khả năng mất đi. Đối với những làng nghề có điều kiện và cơ hội phát triển thì lại gặp phải một số khó khăn như thiếu vốn để hoạt động, cơ sở hạ tầng thì yếu kém, ô nhiễm môi trường,vv…
1.2 Chính sách với các Nghệ nhân
Chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các làng nghề truyền thống cần đặc biệt chú ý đến các nghệ nhân. Bởi họ chính là những người tạo ra các sản phẩm mang tính độc đáo, mẫu mã đẹp.
+ Cần có giải pháp và kế hoạch phát triển đối với các làng nghề TCMN ở các địa phương trong cả nước.
+ Mỗi một làng nghề lại với tư cách là một đơn vị hành chính, một tổ chức kinh doanh có tính tập thể cũng cần được nhà nước hỗ trợ để xử lý một số vấn đề cơ sở hạ tầng, môi trường, vv… nhà nước có thể xem xét phê duyệt cấp vốn đầu tư cho những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, bến bãi, đường điện vv… của các làng nghề có kim ngạch xuất khẩu trên 30% giá trị sản lượng sản phẩm.
+ Riêng với các nghệ nhân và những người thợ có tay nghề cao thì có vai trò rất lớn với nghề và làng nghề thủ công vì vậy nhà nước cần có các chính sách nhằm khuyến khích họ như: Phong tặng danh hiệu ‘nghệ nhân’, danh hiệu ‘bàn tay vàng’ cho những người thợ giỏi,có tay nghề cao, những người có nhiều đóng góp trong việc giữ gìn, phát triển làng nghề và kèm theo đó là các giải thưởng nhằm khuyến khích những người này phát huy hết tài năng của mình. Nhà nước cũng cần có chính sách bồi dưỡng miễn phí các kiến thức về hôi họa, mỹ thuật cho các nghệ nhân, thợ thủ công giỏi tại các trường mỹ thuật. Ngoài ra cần có chính sách bảo hộ quyền sở hữu đối với các sáng chế, giải pháp kữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá cho các sản phẩm của họ làm ra.
1.3 Chính sách với dạy nghề thợ thủ công
Ở trong các làng nghề truyền thống thì thợ thủ công thường không học nghề trong các trường lớp như các ngành nghề khác mà chủ yếu được các nghệ nhân, thợ giỏi truyền dạy nghề theo kiểu ‘vừa làm vừa học’. Ngoài ra thì tại các làng nghề như những liệu pháp kỹ thuật, nghệ thuật, bí quyết của nghề thường được các nghệ nhân, thợ cả chỉ truyền dạy cho con cháu từ đời này đến đời sau, rất ít khi tiết lộ ra ngoài, những người này giữ gìn các bí quyết đó với ý thức rất cẩn thận
Nhà nước cần có các chính sách nhằm hỗ trợ đào tạo thợ thủ công truyền thống phù hợp với đặc điểm trên, để thực hiện yêu cầu này có thể áp dụng các chính sách và biện pháp như sau:
+ Mở ra một số trường mỹ thuật chuyên về thực hành là chính ở một số nơi như ở các tỉnh, thành có nhu cầu hoặc có thể mở thêm khoa mỹ thuật thực hành trong các trường mỹ thuật hiện có nhằm đào tạo thợ phổ thông theo phương thức vừa học vừa lao động sản xuất tại các làng nghề, cơ sở sản xuất,vv... Nhà nước cũng nên hỗ trợ một phần chi phí , cơ sở sản xuất có lao động vừa học vừa làm. Chi phí mà Nhà nước hỗ trợ chủ yếu được sử dụng để trang trải các chi phí về giảng dạy như mời giảng viên và nghệ nhân giảng bài và hướng dẫn thực hành, chi phí thí nghiệm vv....
Nếu nhà nước không mở các rường, lớp như trên thì cũng nên hỗ trợ một phần chi phí từ Quĩ hỗ trợ việc làm, để các cơ sở sản xuất, nhất là các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu tự tổ chức việc đào tạo nghề
+Việc đào tạo nghệ nhân, thợ giỏi cần được Nhà nước hỗ trợ theo cách khác, cụ thể là :
Đối với hững người đã được phong danh hiệu nghệ nhân hoặc những thợ giỏi có trình độ xấp xỉ như những nghệ nhân do địa phương đề nghị, sẽ được Nhà nước hỗ trợ cho theo học các lớp về bồi dưỡng kiến thức hội hoạ, mỹ thuật, tại các trường mỹ thuật theo chế độ học miễn phí.
Nhà nước cũng nên cử các nghệ nhân, thợ giỏi ra nước ngoài tham quan, khảo sát học hỏi nghề nghiệp theo chế độ miễn phí . Đây có thể coi vừa là quyền lợi của nghệ nhân, vừa là một phương thức đào tạo nâng cao trình độ sáng tạo ,tay nghề cho các nghệ nhân.
1.4 Chính sách hỗ trợ và xúc tiến thương mại
Nhằm nâng cao được hiệu quả hoạt động xuất khẩu của công ty trên thị trường quốc tế thì Công ty cần tham gia vào các tổ chức xúc tiến thương mại, thông qua các tổ chức này công ty sẽ phát huy hơn nữa thế mạnh của mình và có nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận các thông tin thương mại.Cho dù hiện nay hoạt động xúc tiến thương mại của nước ta còn chưa đạt hiệu quả cao, nhưng trong những năm tới sự phối hợp hoạt động của các thành viên, được sự hỗ trợ của các cơ quan có liên quan và các cơ quan hỗ trợ thương mại thì hoạt động xúc tiến thương mại sẽ có hiệu quả hơn. Cho nên công ty cần tham gia và các tổ chức này với tư cách là một thành viên, muốn như vậy thì công ty cần đào tạo nguồn nhân lực về kỹ năng xúc tiến thương mại, bán hàng.
1.5 Chính sách đối với hàng TCMN xuất khẩu tại chỗ
Hiện nay, một phần không nhỏ hàng TCMN được bán cho khách nước ngoài, trong đó chủ yếu là khách du lịch tại các cửa hàng. Nguồn thu về du lịch quốc tế này của nước ta ngày càng cao thì mặt hàng thủ công mỹ nghệ cung ứng cho nhu cầu này cũng ngày càng nhiều dưới dạng các đồ lưu niệm, hoặc các vật phẩm tiêu dùng
Cho nên, đề nghị Nhà nước cần chính thức công nhận hàng hoá sản xuất trong nước mà tiêu thụ theo phương thức nêu trên là hàng xuất khẩu tại chỗ và có các chính sách khuyến khích thích hợp, nếu như không áp dụng cho toàn bộ hàng hoá của Việt Nam thì cũng cần áp dụng đối với hàng thủ công mỹ nghệ, bao gồm cả các mặt hàng dệt thổ cẩm, các sản phẩm từ nguyên liệu dệt thổ cẩm…. của đồng bào các dân tộc ở các vùng núi cao..
Như vậy hàng xuất khẩu tại chỗ cũng được hưởng mức thuế giá trị gia tăng là 0% , do đó được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng (VAT) đầu vào.
Dựa trên cơ sở chủ trương của Chính phủ thì Bộ công thương và Bộ tài chính sẽ quy định và hướng dẫn cụ thể việc tổ chức bán hàng, hạch toán và kê khai, đảm bảo chính sách khuyến khích được áp dụng đúng người, đúng việc, đúng sản phẩm bán ra.
1.6 Chính sách khuyến khích và ưu đãi trong việc sản xuất kinh doanh của vùng dân tộc miền núi.
Hàng thủ công mỹ nghệ của đồng bào dân tộc miền núi vùng cao, đặc biệt là việc sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ cho xuất khẩu, thì ngoài việc được hưởng những chính sách khuyến khích ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước và các quy định khác, thì vùng này ngoài được hưởng những ưu đãi trong XK tại chỗ như đề nghị vừa nêu ở trên, thì còn được hưởng thêm một số ưu đãi theo đề nghị sau đây:
+ Nếu như những dự án đầu tư thành lập mới hoặc mở rộng cơ sở SXKD, mặt hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số ,thì sẽ được hưởng ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định hiện hành của Luật khuyến khích đầu tư trong nước như tiền thuê đất , thuế thu nhập doanh nghiệp.vv...
+ Còn nếu như cơ sở SXKD, có dự án nêu trên phải nhập khẩu một phần nguyên vật liệu cho SX hàng thủ công mỹ nghệ mà các nguyên vật liệu đó trong nước chưa sản xuất được thì sẽ được miễn thuế NK trong suốt quá trình thực hiện dự án .
+ Mặt hàng thủ công mỹ nghệ XK của các cơ sở sản xuất kinh doanh vừa mới nêu trên sẽ được xét thưởng xuất khẩu nếu như đạt được 50% mức quy định của từng tiêu chuẩn xét thưởng hiện nay. Tuy nhiên, riêng tiêu chuẩn về chất lượng hàng XK thì thưởng theo quy định hiện hành .
+ Nếu các cơ sở sản xuất kinh doanh nêu trên tham gia các hội chợ triển lãm ở nưóc ngoài thì sẽ được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ chi phí như : Thuê gian hàng trưng bày thông qua các Công ty, các đơn vị tổ chức việc tham gia hội chợ.
2. Các biện pháp thúc đẩy Xuất khẩu hàng TCMN
2.1 Nhóm biện pháp thuộc về phía doanh nghiệp
2.1.1 Tổ chức tốt công tác nghiên cứu thị trường
Đặc điểm của thị trường tiêu thụ của Haprosimex là thị trường nước ngoài, cho nên nhiều năm qua công tác nghiên cứu và dự báo thị trường của công ty còn gặp khá nhiều hạn chế cần được khắc phục như: Chưa được tổ chức đồng bộ chặt chẽ, các thông tin thị trường thu thập được còn quá ít,vv... và để khắc phục tình trạng này của công ty cần:
+ Nên trích kinh phí đầu tư thêm cho hoạt động nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường.
+ Đào tạo,tuyển dụng những cán bộ thực sự có năng lực ,chuyên môn cao trong nghiên cứu và dự báo thị trường.
+ Các hoạt động nghiên cứu thị trường phải được tổ chức nhiều dưới nhiều hình thức hơn nữa, như là nghiên cứu tài liệu, niên giám thống kê, phỏng vấn khách hàng ở các nước tiêu thụ sản phẩm.
+ Các nguồn thông tin giữa các chi nhánh phải được quản lý chặt chẽ, các đại diện nước ngoài về tình hình tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, Công ty cần tạo điều kiện cho các chuyên viên viên ra nước ngoài khảo sát tình hình thực tế, thị hiếu người tiêu dùng ở các nước, đây là một hình thức đầu tư tốn kém nhưng không thể thiếu trong thời gian sắp tới.
+ Nếu muốn công việc nghiên cứu thị trường đơn giản hơn thì cần phấn đoạn thị trường cho tường loại sản phẩm, đối với công tác dự báo thị trường thì công ty phải sử dụng triệt để các kết quả hoạt động nghiên cứu thị trường, ngoài ra phải áp dụng công cụ dự báo định lượng để phân tích xu hướng vận động của nhu cầu thị trường một cách chính xác và hiệu quả nhất.
2.1.2 Kết hợ giữa sản xuất và xuất khẩu
Một trong những yếu tố quan trọng nhất mà nó không chỉ đơn giản là những sản phẩm khác biệt mà ở đây còn là những dịch vụ của các doanh nghiệp cung cấp. Ví dụ như đơn hàng có được sản xuất đúng thời hạn không? và các vấn đề hậu cần , các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội của nhà xuất khẩu có tốt hay không? Nếu như các nhà xuất khẩu đảm bảo được các yếu tố này thì những nhà nhập khẩu sẽ sẵn sàng nhập khẩu sản phẩm của công ty.
2.1.3 Giải quyết các vướng mắc do chế độ thuế gây ra cho hàng thủ công mỹ nghệ.
Nhà nước và Bộ tài chính cần nghiên cứu để sửa đổi thuế xuất nhập khẩu sao cho phù hợp để tạo điều kiện cho công ty,thực hiện tốt việc xuât nhập khẩu nguyên vật liệu. Nhà nước cũng nên thực hiện chính sách miễn thuế hoàn toàn đối với thuế xuât khẩu trong thời gian tới. Đây sẽ là một nhân tố nâng cao hiệu quả kinh doanh của Haprosimex.
2.1.4 Tiếp tục đổi mới công nghệ một số khâu nhằm tăng sản lượng, chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Trong tình hình hiện nay, Haprosimex chưa thể tiến hành đầu tư trực tiếp sản xuất hàng TCMN,mà chủ yếu nguồn hàng được thu gom từ những đơn vị SX nhỏ lẻ, các tư nhân trong nước, Chính vì vậy mà việc nâng cao chất lượng sản phẩm luôn gắn liền với việc nâng cao chất lượng của quản trị mua hàng.
Sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có đặc điểm là phân tán, manh mún vì vậy để có nguồn hàng tốt, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì đòi hỏi công ty phải làm tốt công tác mua hàng và trước mắt là công ty cần nghiên cứu nguồn hàng và cần phải xác định một số vấn đề như sau:
+ Cần phải xác định được chính xác, đầy đủ những nguồn hàng mà công ty đã có quan hệ hay chưa có quan hệ về kinh tế.Muốn nắm chắc được điêu này thì công ty phải nghiên cứu kỹ nhiều yếu tố như tình hình nguyên vật liệu, khả năng quản lý chất lượng, trình độ của các nghệ nhân, thợ thủ công vv.…
+ Các mặt hàng sản xuất,các đơn vị sản xuất cần phải được nghiên cứu chính xác đầy đủ. Bao gồm, nghiên cứu về giá cả, quy cách, phẩm chất,vv... để lựa chọn được những mặt hàng tốt nhất cho nhà cung cấp
+Lập ra các kế hoạch sao cho mua tương xứng với kế hoạch bán, nó được dựa trên các căn cứ vào thị trường bán, thị trường mua và nhu cầu của khách hàng về sản phẩm vv....
Ngoài ra, để có được những hàng hóa chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh thì với các nhà cung cấp công ty cũng cần có các biện pháp như hỗ trợ về vốn, kỹ thuật và công nghệ. Trong đó đặc biệt là tư vấn về kỹ thuật, bởi vì hiện nay hầu hết các sản phẩm TCMN của ta còn đơn điệu về kiểu dáng, mẫu mã, mầu sắc vv…mà nếu không được quan tâm tới vấn đề này thì rất khó khăn khi cạnh tranh với các sản phẩm của các nước, đặc biệt là sản phẩm đến từ Trung Quốc. Chính vì vậy mà trong quá trình thực hiện hợp đồng mua công ty nên cử các chuyên gia trực tiếp đến các cơ sở sản xuất bởi vì trong sản xuất hàng TCMN có những khâu, những công đoạn làm bằng thủ công hoặc không đảm bảo chất lượng hàng cần đổi mới công nghệ như : Công nghệ ngâm, sấy gỗ, nung, vv ... mà thông thường các cơ sở sản xuất tự mình không đáp ứng được nhu cầu này do hạn chế về mặt tài chính, kỹ thuật và công nghệ.
Tóm lại, nâng cao chất lượng quản trị mua hàng ở công ty chính là một yêu cầu cần thiết để công ty có được các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường, chỉ có như vậy thì công ty mới tạo cho mình uy tín trên thị trường, duy trì và mở rộng được thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm TCMN.
2.1.5 Doanh nghiệp có thể nghiên cứu việc thuê nước ngoài, đặc biệt là Việt Kiều thiết kế mẫu mã.
Hiện nay đa sô mẫu mã của các doanh nghiệp là copy lại của nhau nên sản phẩm không mang tính độc đáo.Vì vậy công ty có thể thuê các nhà thiết kế đặc biệt la Việt Kiều vì họ cũng phần nào hiểu được văn hóa Việt Nam.
2.2 Nhóm biện pháp về phía nhà nước
Để có thể đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng TCMN, theo phương hướng và mục tiêu đã nêu ở trên thì ngoài việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, biện pháp đã có thì đề nghị Nhà nước cho sửa đổi và bổ sung một số chính sách và biên pháp phù hợp với đặc điểm và ý nghĩa của việc pháp triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ này:
2.2.1 Tăng mức ưu đãi đầu tư sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ
Chính sách khuyến khích, ưu đãi hiện nay thì trong sản - xuất kinh doanh nội địa thì các mặt hàng TCMN thuộc ngành nghề truyền thống được ưu đãi cao hơn so với hàng TCMN khác không thuộc các ngành nghề truyền thống. Chính vì vậy đề nghị hàng TCMN thuộc các ngành nghề truyền thống theo quy định, trong trường hợp có xuất khẩu đạt trên 30% giá trị hàng của đơn vị đạt SX-KD, đây là một nội dung được ưu đãi đãi trong danh mục A, nghĩa là đạt hai nội dung được ưu đãi quy định trong danh mục A thì sẽ cho hưởng mức ưu đãi cao hơn, đó là cho hưởng mức ưu đãi cao hơn mức liền kề
2.2.2 Tạo nguồn cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
Cần tổ chức và xây dựng ngành công nghiệp khai thác và xử lý nguyên liệu, để cung ứng cho các cơ sở sản xuất hàng XK như nguyên liệu gỗ, mây tre,vv …vì những cơ sở SX này thường không đủ khả năng vốn, về kỹ thuật để đầu tư xây dựng nguồn nguyên liệu. Nguồn nguyên liệu được khai thác và xử lý đúng quy trình công nghệ sẽ đảm bảo tiết kiệm nguyên liệu, đảm bảo chất lượng nguyên liệu đầu vào cho nên sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt nam trên thị trường quốc tế.
2.2.3 Mở rộng phương thức bán hàng xuất khẩu
Mặt hàng này thường chỉ bán theo từng lô nhỏ, hợp đồng nhỏ , có nhiều khách hàng nước ngoài mà họ mua những lô nhỏ để bán và tìm hiểu thị trường và không muốn mua theo phương thức trả tiền ngay, vv…
Nhằm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng, đề nghị cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này theo phương thức bán hàng trả chậm, gửi bán hoặc đại lý bán hàng ở nước ngoài, có sự bảo lãnh tín dụng xuất khẩu của Ngân Hàng hoặc đại diên được nhà nước giao phó.
2.2.4 Giảm cước phí vận chuyển và các lệ phí tại cảng, cửa khẩu đối với hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
Hàng TCMN là những mặt hàng mang đặc điểm cồng kềnh và giá trị của nó không cao. Ví dụ như hàng mây, tre đan, gốm sứ mỹ nghệ,vv…khi xuất khẩu một Container 40 feet chỉ được khoảng 8.000 – 10.000USD theo giá FOB cho nên cần có các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của nhà nước với sản phẩm này.
2.2.5 Ngoải ra còn đề nghị chính phủ cho sửa đổi và bổ sung một số vấn đề sau:
Sửa đổi, bổ sung các quy định cho vay vốn, nhất là vốn ưu đãi
Sửa đổi quy định về tiêu chuẩn thưởng đối với xuất khẩu hàng TCMN
Xây dựng và hỗ trợ các công ty xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ nhằm thực hiện chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ
Sửa đổi một số vấn đề về quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ.
KẾT LUẬN
Haprosimex Group là doanh nghiệp có bề dày truyền thống, làm ăn hiệu quả và có nhiều thành tích, đó đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế Thủ đô. Bước vào giai đoạn mới, Haprosimex Group sẽ tập trung vào 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đó là: dệt may, thủ công mỹ nghệ và nông sản, phương châm hoạt động sản xuất kinh doanh chính là lấy sản xuất hàng xuất khẩu làm gốc. Trong những năm tới đây, tình hình kinh tế thế giới đang có nhiều biến động không có lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu, tuy còn nhiều khú khăn và thách thức ở phía trước nhưng với phương châm “Phát huy mọi nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu”, Haprosimex Group sẽ hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao, dần đưa Haprosimex Group trở thành doanh nghiệp hàng đầu trong sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu của Thủ đô, khẳng định vị thế thương hiệu HAPROSIMEX trên thị trường.
Trong thời gian thực tập ở công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội. Được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo : PGS-TS Phạm Văn Vận và các anh các chị trong công ty Haprosimex. Vì vậy mà em đã có cơ hội được kiểm nghiệm giữa lí thuyết với thực tế và nâng cao lý luận của mình.Qua đó em cố gắng phân tích tình hình xuất khẩu chung của nghành thủ công mỹ nghệ và của riêng công ty từ đó đưa ra "giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội. Song do kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên bài viết này của em còn nhiều thiếu xót. Em mong được sự chỉ bảo thêm của thầy giáo hướng dẫn và các anh các chị trong công ty để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các báo cáo tổng kết của công ty Haprosimex qua các năm 2004-2008
- Báo cáo kết quả kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo tình hình xuất nhập khẩu
2. Website chính thức của Haprosimex Group
3. Các trang báo điện tử
- Haprosimex đón nhận danh hiệu anh hùng lao động
- Haprosimex- Dáng dấp của một tập đoàn kinh tế mạnh của thủ đô
- Haprosimex xuất khẩu sang hơn 63 nước và vùng lãnh thổ
4. Ngoài ra còn có một số tạp chí kinh tế và trang điện tử khác.
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Trong thời gian thực tập tại công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu Tổng Hợp Hà Nội ( Haprosimex ).Anh Vương Xuân Dũng, Sinh viên Lớp Kinh tế Phát triển_ 47BQN đã tích cực tham gia vào các hoạt động của công ty, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, luôn hòa đồng vui vẻ với mọi người và luôn chấp hành tốt mọi nôi quy của Công ty đề ra.
Chúng tôi đã xem đề tài “ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tại công ty Sản xuất và Xuất nhập khẩu tổng hợp Hà Nội “,của anh và thấy có nhiều thực trạng biện pháp phù hợp với tình hình của công ty hiện nay nên chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ và đưa vào áp dụng tại công ty.
Hà Nội, Ngày 07 Tháng 05 Năm 2009
Đại diện Công ty
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21941.doc