Qua việc phân tích nghiên cứu thực tế tại công ty XNK vật tư đường biển chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
Thực tiễn quá trình Nhập khẩu ở công ty XNK vật tư đường biển đã chứng minh có các tranh chấp phát sinh vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy để hạn chế các tranh chấp phát sinh công ty XNK vật tư đường biển cần đặc biệt chú ý tới khâu đàm phán ký kết hợp đồng sao cho hợp đồng thể hiện đầy đủ ý chí của mình, hợp đồng còn đủ các điều khoản quy định chặt chẽ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Mặt khác cần lựa chọn thật kỹ đối tác về mặt uy tín và thiện chí, bởi vì dù hợp đồng có đầy đủ nội dung và chặt chẽ đến đâu đi nữa, nhưng bên đối tác không có uy tín, không thiện chí vẫn xảy ra vi phạm và phát sinh tranh chấp.
Hiện nay cũng như tất cả các doanh nghiệp nhà nước khác công ty XNK vật tư đường biển đang phải nỗ lực phấn đấu vượt qua những khó khăn trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt được những thành công đáng kể nhưng công ty còn nhiều tồn tại cần giải quyết, đặc biệt cần có những biện pháp phòng ngừa tranh chấp phát sinh trong quy trình nhập khẩu.
Việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình nhập khẩu ” không ngoài mục đích nào khác là mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Do phạm vi nghiên cứu rộng và còn nhiều hạn chế về thời gian cũng như về trình độ lý luận, kinh nghiệm thực tiễn nên chắc chắn đề tài của tôi sẽ có những thiếu sót nhất định. Tuy nhiên tôi mong rằng những nghiên cứu suy nghĩ tìm tòi của mình trong đề tài này sẽ có ý nghĩa thiết thực và hữu ích đối với công ty XNK vật tư đường biển trong hoạt động nhập khẩu của mình.
Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo Vũ Phương Nga và các cán bộ nhân viên trong công ty XNK vật tư đường biển đặc biệt là các bác, các cô chú, anh chị phòng thương mại và dịch vụ đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
76 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1457 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hạn chế những tranh chấp phát sinh trong quy trình nhập khẩu tại công ty XNK vật tư đường biển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o đó, công ty XNK vật tư đường biển phải trả cho công ty miền Trung 70.000USD theo đúng quy định phải trả các khoản tiền này là 146.645USD (có phiếu thu và phiếu chi của hai bên).
Ngày 19/2/2000, công ty XNK vât tư đường biển nhận được từ người bán công ty Hàn Quốc một bản phô tô giấy chứng nhận bất khả kháng do bộ phận thương mại thuộc Đại Sứ quán của một nước thư ba đóng tai Hàn Quốc cấp ngày 25/11/2000 cho công ty Hàn Quốc về hợp đồng mua No CB/CI 01/99 công ty Hàn Quốc (người mua) với nhà cung cấp phôi thép của nước thứ ba đó. Hợp đồng No CB/CI 01/99 ký ngày 4/7/1999 với số lượng 8000 MT phôi thép.
Sau đó, công ty Hàn Quốc lại gửi tiếp cho công ty XNK vật tư đường biển hai bản phô tô giấy chứng nhận bất khả kháng do Bộ phận thương mại thuốc Đại Sứ quán của nước thứ ba đóng tại Hàn Quốc cấp ngày 21/1/2000 và ngày 9/3/2000, một bản phô tô giấy chứng nhận bất khả kháng do uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước thư ba đó cấp ngày 5/5/2000. Cả ba giấy chứng nhận bất khả kháng này do nhà cung cấp của nước thứ ba gửi cho công ty Hàn Quốc, công ty Hàn Quốc phô tô gửi cho công ty XNK vật tư đường biển.
Trong các giấy chứng nhận bất khả kháng đó đều nghi: ở nước thư ba bị mưa lớn và lũ lụt, đường sá bị sụt lún nặng, không chở nguyên liệu vào nhà máy được coi là bất khả kháng. Nhà máy đang cố gắng khắc phục hậu quả để trở lại hoạt động bình thường và sẽ thông báo lịch giao hàng cụ thể.
Công ty XNK vật tư đường biển không chấp nhận lý do mà người bán (Công ty Hàn Quốc) nêu r là bất khả kháng đối với người bán tiếp tục đòi người bán bồi thường thiệt hại do không giao hàng. Qua nhiều lần đòi mà không được
bồi thường, công ty XNK vật tư kiện công ty Hàn Quốc ra Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt nam đòi các khoản như sau:
+ Tiền phạt đã phải trả cho khác hàng nội địa (người mua miền Trung) 70.000USD.
+ Lãi suất ngân hàng tiền ký quỹ mở L/C từ ngày 20/9/1999 đến 20/6/1997 là: 300.000 USD 5 2.1% / tháng 5 9 tháng = 56700USD
+ Phạt do chậm trễ giao hàng theo điều 15 hợp đồng là:
692.000 USD 5 3% = 20760 USD
+ Lãi không thu được 2USD/ 1MT là
4000 MT 5 4 USD = 800 USD
+ Tổng cộng: 155.460 USD
Trong văn bản tự bảo vệ, người bán – công ty Hàn Quốc trình bày:
Người bán công ty Hàn Quốc ký hợp đồng mua phôi thép cán nóng của nhà cung cấp thuộc nước thứ 3, nhà cung cấp gặp bất khả kháng (nhà máy không sản xuất được thép) không giao được hàng cho người bán nên người bán không giao được hàng cho người mua công ty XNK vật tư đường biển, do vậy, người bán- công ty Hàn Quốc cũng được coi là gặp trường hợp bất khả kháng, được miễn trách.Giấy chứng nhanạ bất khả kháng do Đại Sứ quán và Uỷ ban xúc tiến thương mại quốc tế của nước thứ ba cấp được coi là bằng chứng về bất khả kháng của người bán.
Tại phiên họp xét xử, công ty Hàn Quốc (người bán) không xuất trình được bằng chứng về thời gian, địa chỉ xảy ra lũ lụt của nước thứ ba, trong khi đó, công ty XNK vật tư đường biển xuất trình được bằng chứng minh địa điểm xảy ra lũ lụt, thời gian lũ lụt hoạt động là tháng 8/1999. Sau khi xảy ra lũ lụt ở nước thứ ba, công ty XNK vật tư đường biển đã hỏi công ty Hàn Quốc là có phôi thép cán nóng không vì lũ lụt ở nước người cung cấp xi măng, nếu có thì mời ký hợp đồng, nếu không thì thôi, công ty Hàn Quốc thừa nhận là đã điện hỏi nhà cung cấp là có hàng không để công ty Hàn Quốc (người bán) ký hợp đồng bán lại cho công ty XNK vật tư đường biển, người cung cấp điện trả lời là sẽ có hàng giao mặc dù hiện nay đang gặp khó khăn cao, nên công ty Hàn Quốc đã ký hợp đồng số 1809/99 ngày 20/9/1999 với công ty XNK vật tư đường biển. Tuy vậy, công ty Hàn Quốc vẫn yêu cầu được miễn trách nhiệm vì:
Thứ nhất: Người cung cấp gặp bất khả kháng thực sự cho nên công ty Hàn Quốc cũng được côi là bất khả kháng, bởi vì điều 14 hợp đồng qui định “nhà máy sản xuất bị đóng cửa” cũng là một trường hợp bất khả kháng.
Thứ hai: Không phải là công ty Hàn Quốc (người bán) không giao hàng, mà là chưa giao hàng vì nhà cung cấp còn đang khắc phục khó khăn để có hàng giao cho Công ty Hàn Quốc và Công ty Hàn Quốc sẽ giao hàng cho Công ty XNK vật tư đường biển.
Phản đối lập luận của công ty Hàn Quốc, công ty XNK vật tư đường biển xuất trình hai bản phô tô B/L phôi thep cán nóng cấp từ nước người cung cấp cho hai công ty Việt nam vào tháng 2 và tháng 3 năm 1997 là hàng đã về đến cảng Việt nam. Trong khi đó đến 15 /6/1996, công ty Hàn Quốc vẫn không giao hàng.
Căn cứ vào tài liêu, bằng chứng trong hồ sơ kiện, văn bản biện minh của bên bị (công ty Hàn Quốc) cùng các ý kiến trình bày của hai bên tại phiên họp xét xử, trọng tài phân tích như sau:
Một là, lũ lụt xảy ra ở nước thư ba vào tháng 8/1999 là bất khả kháng đối với người cung cấp hàng cho công ty Hàn Quốc trong quan hẹ hợp đồng giữa người cung cấp và công ty Hàn Quốc, bởi vì hợp đồng ký ngày 25/6/1999 mà lũ lụt xảy ra vào tháng 8/1999 lam cho người cung cấp không giao được hàng cho công ty Hàn Quốc. Công ty Hàn Quốc không trực tiếp gặp bất khả kháng, vì lũ lụt không xảy ra tại Hàn Quốc.
Hai là, bởi vì công ty Hàn Quốc đã biết lũ lụt xảy ra ở nước thư ba (nước cung cấp) vào tháng 8/1999, nhưng không tính toán kỹ, tin vào sự cam kết băng lời nói của người cung cấp, vẫn kỹ hợp đồng bán lại lô hàng cho bên nguyên công ty XNK vật tư đường biển vào ngày 20/9/1999, thì phải có nghĩa vụ giao hàng đúng hợp đồng
Ba là, trước lúc ký hợp đồng bán hàng cho bên nguyên :
Công ty Hàn Quốc, bên bị, đã biết lũ lụt xảy và hậu quả của nó rồi thì lũ lụt đối với bên bị không phải là bất khả kháng, căn cứ miên trách nhiệm cjo việc không giao hàng, bởi vì bất khr kháng phải là hiện tượng xảy ra sau khi ký hợp đồng, hiện tượng các bên không lường trước được.
Bốn là, lập luận của bên bị (công ty Hàn Quốc) về việc “nhà máy sản xuất bị đóng cửa” là một trường bất khả kháng đối với bên bị không được trọng tài thừa nhận bởi vì:
-Nhà máy sản xuất bị đóng cửa là hậu quả của lũ lụt xảy ra ở nước người cung cấp, mà lũ lụt đó không được công nhận là bất khả kháng căn cứ miễn trách nhiệm cho bên bị như đã phân tích ở trên
-Bên bị đã biết được việc nhà mày sản xuất bị đóng cửa trước khi ký hợp đồng bán hàng cho bên nguyên, cho nên việc nhà máy bị đóng cửa trong trường hợp này không được thừa nhận là bất khả kháng với bên bị
Năm là, ý kiến của bên bị về việc bên bị chưa giao hàng chứ không phải là không giao hang cũng không được trọng tài thừa nhận, bởi vì thời hạn giao hàng là tháng 12/1999 mà đén tháng 1 năm 2000 bên bị vẫn chưa giao hàng thì hoàn toàn có thể kết luận là bên bị không giao hàng. Lý do là không thể bắt bên nguyên (người mua) chờ đợi việc giao hàng quá thời hạn lâu sau khi đã kết thúc thời hạn giao hàng. Nếu làm như thế thì bên nguyên không đạt được mục đích của hợp đồng và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bình thường của bên nguyên. Mặt khác, sau khi kết thúc thời hạn giao hàng mà hàng vẫn chưa được diao thì người mua chỉ chờ đợi hàng trong một thời gian hợp lý chứ không thể chờ đợi vô thời hạn được, trừ phi hợp đồng có quy định khác.
Từ đó bên bị (Công ty Hàn Quốc) phải chịu trách nhiệm trước bên nguyên (Công ty XNK vật tư đường biển ) về việc không giao hàng. Về các khoản tiền bên nguyên đòi bên bị trong các đơn kiện:
+ Tiền phạt phải trả bên nguyên nội địa (công ty Miền Trung) Việt nam 70.000 USD và lãi suất ngân hàng ký.
Trọng tài xác định bên bị phải chịu trách nhiệm về việc không giao hàng. Trong trường hợp này, hợp đồng không quy định tiền phạt do không giao hàng, nên bên nguyên hoàn toàn có quyền đòi bồi thường thiệt hại phát sinh. Vì bên bị không giao hàng nên bên nguyên không có hàng giao cho khách hàng nội địa và phải nộp phạt cho khách hàng nội địa, do vậy tiền phạt này được coi là khoản thiệt hại phát sinh do bên nguyên.
Lãi suất ngân hàng trên số tiền ký quỹ mở L/C cũng được coi là một khoản thiệt hại của bên nguyên vì nếu không ký quỹ số tiền này để mở L/C thì bên nguyên ký quỹ tiền mở L/C nhằm nhận được hàng từ bên bị, nhứng bởi bị không giao hàng, do vậy, bên bị phải bồi thường tiền lãi suất cho bên nguyên.
- Về tiền phạt do chậm trễ giao hàng theo điều 15 hợp đồng là 20716 USD, bởi nguyên không có quyền đòi bên bị vì bên bị không giao hàng chậm mà là không giao hàng. Mặt khác, bên nguyên đã đòi bồi thường thiệt hại do không giao hàng rồi thì không được đòi phạt do chậm từ giao hàng.
- Về lãi không thu được 40.000 USD. Bên nguyên đòi bên bị bồi thường lãi mất hưởng nhưng không cấp đủ bằng chứng để chứng minh lãi đó, nên trọng tài không thừa, hơn nữa, lãi suất trên số tiền ký quỹ mở L/C mà bên nguyên đã đòi được coi là một phần lời mất hưởng do không giao hàng do đó không giao hàng.
- Trên cơ sở những điều phân tích nêu trên, trọng tài quyết định buộc bên bị (công ty Hàn Quốc) phải bồi thường cho bên nguyên (Công ty XNK vật tư đường biển ) 126700 đô la Mỹ, bao gồm tiền phạt mà bên nguyên đã phải trả cho khách hàng nội địa và tiền lãi suất trên số tiền ký quỹ mở L/C, đồng thời điểm cần lưu ý sau đây.
Thư nhất, không được tin vào sự cam kết hời hợt, tam kết bằng lời nói của khách hàng để ký kết hợp đồng cần phải nhận định tình hình, phân tích, tính toán thật kỹ các sự kiện xảy ra rồi hãy ký hợp đồng.
Thư hai, các hiện tượng như bão, lũ lụt, động đất.... là bất khả kháng căn cứ miễn trách cho người này nhưng chưa chắc đã phải là bất khả kháng căn cứ miễn trách nhiệm cho người khác. Muốn được thừa nhận là bất khả kháng để miễn trách thì phải chứng minh hiện tượng tự nhiên đó phải xảy r sau khi ký hợp đồng mà bên gặp phải không lường trước được và không tài nào khắc phục được.
Thứ ba, khi đi kiện ra toà án hoặc trọng tài thì phải nghiêm cứu kỹ hợp đồng, luật áp dụng cho hợp đồng, chỉ tốn tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại áp dụng cho từng trương hợp vi phạm cụ thể, không được đòi bên chịu trách nhiện theo những căn cứ mà người ta không vi phạm.
Thứ tư, muốn đòi bồi thường lãi không thu được (lợi mất hưởng) thì phải cung cấp đầy đủ bằng chứng xác thực để chứng minh, bởi nếu thiếu bằng chứng thì bị bác.
1.2 Các tranh chấp phát sinh do doanh nghiệp nước ngoài giao hàng kém phẩm chất, hoặc sai chủng loại.
Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp nước ngoài giao hàng đúng chủng loại, phẩm chất như quy định của hợp đồng cho công ty XNK vật tư đường biển .
Tuy nhiên cũng có mốtố trường hợp các doanh nghiệp nước ngoài giao hàng sai chủng loại, kém phẩm chất và do đó phát sinh tranh chấp giưa hai bên khi đó xảy ra tổn thất. Khi tranh chấp đã phát sinh thì các bên phải giải quyết tránh chấp đó.
Để giải quyết tranh chấp phát sinh do doanh nghiệp nước ngoài giao hàng sai chủng loại, kém phẩm chất, công ty XNK vật tư đường biển thường dùng phương pháp thươnng lượng trực tiếp giữa hai bên và đi kiện trọng tài.
Khi phát hiện hàng sai chủng loại, kém phẩm chất công ty XNK vật tư đường biển mời công ty giám định hàng hoá đến giám định lô hàng. Khi có biên bản giám định của công ty giám định kết luận hàng sai chủng loại hoặc kém phẩm chất, công ty XNK vật tư đường biển gửi biên lai giám định đó cộng với, hầu như các doanh nghiệp nước ngoài ngay từ đầu không thừa nhận biên bản giám định, không chấp nhận khiếu nại bằng cách phản bác hoặc im lặng. Để bảo vệ quyền lợi của mình, công ty XNK vật tư đường biển, tiếp tục khiếu nại bằng cách đưa ra những lập luận, bằng chứng bổ sung chứng minh doanh nghiệp nước ngoài giao hàng kém phẩm chất. Có doanh nghiệp nước ngoài cuối cùng chấp nhận giảm giá hoặc bồi thường chi phí loại trừ khuyết tật cho công ty
Tuy nhiên có những doanh nghiệp nước ngoài tiếp tục ỳ ra không giải quyết, lúc đó, công ty XNK vật tư đường biển buộc phải mời đại diện của doanh nghiệp nước ngoài đến Việt nam xem xét lại hàng, giám định đối định, hoặc hai bên cùng mời một công ty giám định thứ ba đến giám định lại lô hàng để lấy bằng chứng cuối cùng giải quyết tranh chấp. Cũng có trường hợp chính, doanh nghiệp nước ngoài yêu cầu hai bên mời giám định thư ba. Khi kết quả xem xét lại hàng giám định đối địch hoặc giám định thứ ba kết luận hàng kém phẩm chất, một số doanh nghiệp nước ngoài đã chấp nhận khiếu nại của công ty bằng cách giảm gia hoặc bồi thường thiệt hại, nhưng vẫn có doanh nghiệp nước ngoài vẫn không chịu đáp ứng yêu cầu của công ty.
Trong trường hợp như vậy công ty XNK vật tư đường biển phải kiện ra trọng tài để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình. Có trường hợp phát hiện hàng kém phẩm chất, công ty XNK vật tư đường biển điện mời đại diện doanh nghiệp nước ngoài đến xem xét giám định lại lô hàng, doanh nghiệp nước ngoài không đến, điện yêu cầu hai bên cùng thoả thuận chọn giám định thứ ba, doanh nghiệp nước ngoài cũng không thoả thuận chọn. Khi đó muốn bảo vệ quyền lợi của mình, công ty XNK vật tư đường biển đành đi kiện doanh nghiệp nước ngoài ra toà án hoặc trọng tài
Các tranh chấp phát sinh trong quá trình nhập khẩu do công ty XNK vật tư đường biển và cách giải quyết.
Các tranh chấp phát sinh do công ty XNK vật tư đường biển vi phạm hợp đồng thể hiện trong việc thực hiện không trả tiền hàng, cố ý không nhận hàng... việc giải quyết các tranh chấp trong thực tế cũng rất khó khăn và phức tạp. Một số tranh chấp thương lượng mãi không được đành đưa ra trọng tài.
2.1 Các tranh chấp phát sinh do công ty XNK vật tư đường biển vi phạm ghĩa vị trả tiền hàng.
Các tranh chấp phát sinh do công ty vi phạm nghĩa vụ trả tiền hàng chủ yếu được thể hiện trong việc không mở thư tín dụng theo quy định của hợp đồng
Công ty XNK vật tư đường biển đàm phán ký hợp đồng với một công ty Nhật Bản. Sau khi thống nhất được hàng hoá và giá cả, công ty XNK vật tư đường biển đã chuyển cho công ty Nhật Bản một hợp đồng mẫu mà doanh nghiệp đã ký với bạn hàng nước ngoài trước đây để công ty Nhật Bản tham khảo soạn thảo các điều khoản của hợp đồng.
Sau khi soạn thảo xong, ngày 6/12/1997, công ty XNK vật tư đường biển và công ty Nhật Bản đã ký hợp đồng mua bán, theo đó công ty XNK vật tư đường biển mua 500 MT + - 50% cáp thép với giá 100USD/ Mt CFR cảng Hải Phòng, L/C phải được mở chậm nhất ngày 15/12/1997, quá hạn này mà chưa mở bên mua phải nộp phạt 3% trị giá hợp đồng, tiền phạt này phải được trả tron vòng 30 ngày kể từ ngày mở L/C, người bán phải giao hang trong vòng 30 ngày kể từ ngày mở L/C.
Thực hiện hợp đồng, ngày 8/12/1997 công ty XNK vật tư đường biển đã gửi cho công ty Nhật Bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C, trong đó có nhiều điểm thay đổi so với các điều khoản của hợp đồng đã ký và đề nghị công ty Nhật Bản chấp nhận thì công ty XNK vật tư đường biển sẽ mở L/C
Ngày 10/12/1997, công ty Nhật Bản gửi trả lại công ty XNK vật tư đường biển bản dự thảo giấy yêu cầu mở L/C, trong đó chỉ đồngý 3 điểm sửa đổi, còn 4 điểm sửa đổi khác chỉ đồng ý. Công ty XNK vật tư đường biển lại tiếp tục đàm phán đề nghị công ty Nhật Bản chấp nhận 4 điểm sửa đổi còn lại.
Đến ngày 20/2/1997, công ty XNK vật tư đường biển vẫn chưa mở L/C nên công ty Nhật Bản điện khiếu nại đòi công ty XNK vật tư đường biển nộp phạt ngay 3% trị giá hợp đồng với số tiền 15000 USD theo đúng quy định của hợp đồng.
Nhận được điện khiếu nại, công ty XNK vật tư đường biển bác ngay với lý do là công ty Nhật Bản không đưa vào hợp đồng những điều khoản giống như trong hợp đồng mẫu mà công ty XNK vật tư đường biển chuyển cho công ty, mặt khác công ty Nhật Bản không có thiện chí trong việc sửa đổi bổ sung hợp đồng để cùng nhau khắc phục khó khăn nhằm thực hiện hợp đồng.
Nhiều lần yêu cầu công ty XNK vật tư đường biển trả tiền phạt nhưng vẫn chưa được trả. Lần cuốc, công ty Nhật Bản thương lượng với công ty XNK vật tư đường biển giảm tiền phạt xuống một phần nhưng công ty XNK vật tư đường biển khôn chấp nhận vì không trả tiền phạt thương lượng, đòi tiền phạt không được, công ty Nhật Bản kiện công ty XNK vật tư đường biển ra trọng tài đồi nộp phạt 15000 USD. Tại phiên họp xét xử, trọng tài đề nghị công ty XNK vật tư đường biển giải thích lý do không mở L/C. Ngoài lý do như đã nêu khi bác khiếu nại, công ty XNK vật tư đường biển còn nêu rằng khi hợp đồng được công ty Nhật Bản soạn thảo xong, do không thạo tiếng Anh nên công ty đã kỹ vào hợp đồng mà không đối chiếu với hợp đồng mẫu có sửa đổi so với quy định của hợp đồng mẫu do mình đã đưa ra. Vì vậy, nếu mở L/C mà không có sửa đổi so với quy định của hợp đồng thì công ty XNK vật tư đường biển sẽ bất lợi.
Về tranh chấp này trọng tài phân tích như sau:
Việc công ty Nhật Bản không đưa mẫu do công ty XNK vật tư đường biển chuyển cho đó là quyền của công ty Nhật Bản. Trước khi ký hợp đồng cần phải đọc kỹ nội dung hợp đồng, nếu không đồng ý thì công ty XNK vật tư đường biển có quyền không ký. Khi đã ký vào bản hợp đồng thì các bên phải có nghĩa vụ thưc hiện hợp đồng đó. Vì thế lý do “không thạo tiếng anh” không phải là một căn cứ hợp pháp cho việc không mở L/C (không thực hiện hợp đồng). Sau khi hợp đồng đã được ký, mọi nội thay đổi bổ sung hợp đồng phải được thực làm bằng văn bản, có chữ ký của hai bên kia đồng ý bằng văn bản thì đều không có giá trị. Do đó công ty XNK vật tư đường biển phải có nghĩa vụ mở L/C đúng hạn theo qui định của hợp đồng. Không mở L/C đúng hạn, công ty phải nộp phạt
theo đúng quy định của hợp đồng. Từ những điều phân tích đó, trọng tài ra phán quyết buộc công ty XNK vật tư đường biển phải nộp phạt cho công ty Nhật Bản 15000 USD
Từ việc giải quyết tranh chấp này chúng ta thấy rằng người nhập khẩu đã không xem xét, kiểm tra kỹ các điều khoản của hợp đồng, cho nên sau khi ký mới thấy quyền lợi của mình không được đảm bảo. Mặt khác lý do không thông thạo tiếng Anh không được trọng tài công nhận là căn cứ hợp pháp cho việc từ chối thực hiện hợp đồng. Vì thế khi ký kết hợp đồng băng tiếng Anh công ty cần chọn người thông thạo tiếng Anh để đọc, kiểm tra phân tích kỹ hợp đồng.
2.2 Tranh chấp phát sinh về việc công ty XNK vật tư đường biển ngừng trả tiền hàng do doanh nghiệp nước ngoài giao hàng kém phẩm chất.
Đầu năm 1998 công ty XNK vật tư đường biển ký hợp đồng nhập khẩu của hàng của một công ty Hàn Quốc. Hợp đồng quy định thanh toán bằng thư tin dụng (L/C), sau khi giao hàng, người bán gửi bằng DHL một vận đơn gốc cho người mua, còn 2/3 B/L gốc gửi trong bộ chứng từ lấy tiền theo thư tin dụng.
Thực hiện hợp đồng công ty XNK vật tư đường biển đã mở L/C công ty Hàn Quốc đã giao hàng.
Hàng đã đến cảng Hải Phòng trước khi bộ chứng từ về tới ngân hàng mở L/C. Công ty XNK vật tư đường biển nhận hàng và mời công ty giám định lô hàng, biên bản giám định kết luận hàng kém phẩm chất. Lập tức công ty XNK vật tư đường biển gửi đơn yêu cầu cùng với biên bản giám định phẩm chất tới ngân hàng mởi L/C yêu cầu ngân hàng ngừng trả tiền cho Doanh nghiệp Hàn Quốc. Mặc dù bộ chứng từ xuất trình đến ngân hàng là hợp lệ, nhưng xuất phát từ chỗ muốn phục vụ mọi yêu cầu của khách hàng ngân hang mở L/C đã ngừng trả tiền cho công ty Hàn Quốc. Công ty Hàn Quốc đã khiếu nại ngay ngân hàng mở L/C Việt nam (ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn). Ngân hàng
mở L/C đã giải thích lý do ngưng trả tiền hàng là thực hiện yêu cầu của người mua - công ty XNK vật tư đường biển. Nhận được điện trả lời đó, công ty Hàn Quốc đã điện quy kết ngân hàng mở L/C vi phạm cam kết trả tiền L/C, vi phạp UCP 500 của phòng thương mại quốc tế. Mặt khác, công ty Hàn Quốc đã khiếu nại về yêu cầu của công ty XNK vật tư đường biển đối với ngan hàng mở L/C.
Cùng thời gian đó, công ty XNK vật tư đường biển đã điện khiếu nại công ty Hàn Quốc về việc giao hàng kém phẩm chất yêu cầu công ty Hàn Quốc giải quyết khiếu nại về phẩm chất rồi mới yêu cầu ngân hàng mở L/C trả tiền.
Vì chưa lấy được tiền hàng một mặt vừa khiếu nại ngân hàng mở L/C, mặt khác công ty Hàn Quốc buộc phải thương lượng với công ty XNK vật tư đường biển về phẩm chất hang hoá. Công ty Hàn Quốc đã chỉ thị cho trưởng văn phòng đại diện tại Hà Nội tới Hải Phòng xem xét kiểm tra phẩm chất hàng.
Hai bên đã tiến hàng kiểm tra đối tịch đại diện lô hàng và thống nhất biên bản kiểm tra, trong đó ghi nhận hàng có một chỉ tiêu phẩm chất chưa hoàn toàn đúng như quy định của hợp đồng. Sau khi biên bản kiểm tra đối tịch để lấy được tiền hàng một cách nhanh chóng, công ty Hàn Quốc đành chấp nhận giảm giá với tỷ lệ 1% giá lô hàng.
Khi đã được hạ giá, công ty XNK vật tư đường biển đã đề nghị ngân hàng mở L/C thanh toán 99% trị giá lô hàng cho công ty Hàn Quốc. Tranh chấp về việc ngừng trả tiền đã được giải quyết. Về vụ tranh chấp này, có thể phân tích rút ra kết luận như sau:
Việc ngân hàng mở L/C ngừng trả tiền cho bộ chứng từ hợp lệ theo yêu cầu của người mở L/C là sai, bởi vì sau khi được mở ra trên cơ sở hợp đồng thì nó lại độc lập với hợp đồng, ngân hàng có nghĩa vụ trả tiền căn cứ vào chứng từ chứ không phải căn cứ vào thực tế của hàng hoá. Tuy nhiên, trong trường hợp này việc làm sai của ngân hàng lại giúp công ty XNK vật tư đường biển giải
quyết được khiếu nại về phẩm chất với công ty Hàn Quốc một cách nhanh chóng.
Giả sử ngân hàng sau khi kiểm tra thấy bộ chứng từ hợp lệ cứ thực hiện đúng nghĩa vụ của ngân hàng là trả tiền cho công ty Hàn Quốc thì chắc đâu công ty Hàn Quốc đã giảm giá cho công ty XNK vật tư đường biển, có chấp nhận cũng không thể nhanh chóng như vậy được. Song việc làm đó của ngân hàng đã làm giảm một phần uy tín của ngân hàng trước khách hang nước ngoài.
Nguyên nhân phát sinh các tránh chấp trong quá trình nhập khẩu
Như các phần trên trình bầy chúng ta thấy các tranh chấp phát sinh từ quá trình nhập khẩu là rất đa dạng va phức tạp. Khi các tranh chấp phát sinh tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty. Vì vậy các thương nhân thường muốn giải quyết các trạnh chấp này một cách có hiệu quả nhất. Tuy nhiên muốn giải quyết tốt nhất các tranh chấp này về cơ bản các nguyên nhân phát sinh có thể chia làm hai nhóm là các nguyên nhân khách quan và các nguyên nhân chủ quan
Các nguyên nhân khách quan.
Đây là các nguyên nhân xẩy ra nằm ngoài ý muốn chủ quan của người xuất khẩu và người nhập khẩu. Các nguyên nhân đó thường là
Do truyền thống văn hoá của các nước có sự khác nhau:
Truyền thống văn hoá của mỗi nước của mỗi nước mỗi dân tộc cũng như đời sống văn háo hiện tại của họ ảnh hưởng rất lớn đến các nhận thức, đến các hành vi và cách xử sự của con người. Trong kinh doanh quốc tế cũng vậy các nhà kinh doanh thường ở xa nhau, ít có điều kiện gặp gỡ thường xuyên và nếu có thưởng xuyên và nếu có gặp nhau thì lại bị những khó khăn về văn hoá ứng xử ngăn trở. Kinh nghiệm của nhiều thương gia cho thấy lời hứa trong kinh doanh
có mức độ tin cậy khác nhau tuỳ thuộc vào nguồn gốc văn hoá. Lời hứa của giới kinh doanh Mỹ thường được coi là lời cam kết thực sự. Người Mỹ hứa điều gì thì điều có thể tin tưởng rằng họ sẽ thực hiện bằng mọi cách. Điều này xuất phát từ lối sống thực dụng và sự tự tin của họ. Nhưng đối với các thương gia Pháp và thương gia ở các nước Châu âu khác thì lời hứa chỉ mang tính xã giao, ít khi hình thành các cam kết thực sự.
b. Do ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau:
Trong giao tiếp hàng ngày của xã hội loài người nói chung và của các thương gia nói riêng thì ngôn ngữ là phương tiện cực kỳ quan trọng, nhưng ngôn ngữ của các dân tộc thì lại không đông nhất với nhau. Sự bất đồng về ngôn ngữ trong kinh doanh làm cho sự hiểu biết của các bên không giống nhau là nguyên nhân thường xuyên dẫn đến các tranh chấp xảy ra. Trong thương mại quốc tế các thứ tiếng Anh, Pháp được sử dụng khá phổ biến để làm cầu nối giữa các nhà kinh doanh. Tuy nhiên việc sử dụng các ngôn ngữ này trong giao tiếp thông thường đôi khi cũng gây ra hiểu nhầm, hiểu sai ý tưởng của nhau huống chi là trong kinh doanh cần phải sử dụng thứ ngôn ngữ thương mại và pháp lý chặt chẽ, chính xác nhiều khi còn cầu kỳ, khó hiểu như các cụm từ chuyên môn, thuật ngữ rút gọn theo tập quán, các từ viết tắt v.v Làm cho các thương gia hiểu không chính xác nội dung giao dịch va không phải các nhà kinh doanh đều sử dụng thành thạo ngoại ngữ mà thậm chí có khi họ phải sử dụng cả “ngôn ngữ ” điệu bộ.
Do sự khác biệt về thông tin:
Thông tin mà các nhà kinh doanh quan tâm là những tin tức liên quan đến thị trường, hàng hoá, giá cả, khách hàng v.v hiện nay thông tin không còn là vấn đề nan giải trên thế giới. Tuy nhiên vẫn có sự cách biệt về mạng lưới thông tin giữa các nước phát triển và đang phát triển. Không phải ở đâu các nhà kinh doanh cũng đều có điều kiện tiếp cận đầy đủ mọi thông tin chính xác mà họ cần. Thông tin chậm và thông tin không chung thực vẫn còn gây khó khăn không ít
cho các nhà kinh doanh. Hiện nay công ty ma, công ty đang lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính, hàng hoá vận chuyển lòng vòng hay hàng kém chất lượng, kém phẩm chất v.v khá phổ biến nhưng các nhà kinh doanh XNK lại chỉ phát hiện ra khi thực hiện hợp đồng một phần là do thông tin không kịp thời hoặc thiếu chính xác.
Do sự khác biệt về luật pháp và tập quán thương mại:
Luật pháp điều chỉnh các hợp đồng xuất nhập khẩu ngày càng đầy đủ, song mỗi hệ thông pháp luật lại có những đặc điểm riêng biệt. Hệ thống pháp luật lục địa, điển hình là luật của Pháp, Đức đều được văn bản hoá tỉ mỉ , chính xác và không nhấn mạnh vào vai trò của tiền lệ pháp (án lệ). Trái lại hệ thống pháp luật của Anh - Mỹ ít được pháp điển hoá nhưng lại nhấn mạnh vai trò của tiền lệp pháp. Vì vậy cùng một vấn đề liên quan đến hợp đồng XNK nhưng luật pháp của mỗi quốc gia có thể có những quy định, cách giải quyết khác nhau. Các văn bản luật (đao luật, bộ luật) ít thay đổi nhưng các văn bản dưới luật thường hay thay đổi. Bên cạnh đó các tập quán thương mại trên thế giới cung như các tập quán ở các khu vực cũng rất phong phú và phức tạp. Do vậy, nếu các bên ký kết không nắm bắt kịp thời và đầy đủ sự thay đổi của các quy phạm pháp luật , các tập quán thương mại thì sẽ khó tránh khỏi các tranh chấp phát sinh.
Do yếu tố cung cầu trên thị trường: Quan hệ cung cầu trên thị trường có liên quan chặt chẽ tới hiệu quả kinh doanh của công ty vì thế khi quan hệ cung cầu biến động theo chiều hướng bất lợi cho một trong các bên ký kết thì rất có thể đẩy họ vào tình thế chấp nhận vi phạm hợp đồng. Do vậy đây cũng là nguyên nhân phát sinh tranh chấp giưa các chủ thể của hợp đồng XNK.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Xét về mặt chủ quan thì sự khác biệt nhiều khi là sự đối lập về quyền lợi của người xuất khẩu và người nhập khẩu chính là nguyên nhân cơ bản làm phát
sinh tranh chấp giữa các bên. Những điều gì có lợi cho người xuất khẩu thì có thể bất lợi cho người nhập khẩu và ngược lại. Trong kinh doanh các bên ký kết đều muốn đạt được hiệu quả cao nhất trong mỗi thương vụ. Lợi nhuận thường là mục đích cuốc cùng mà các bên mong đợi trong quá trình giao dịch, đàm phám, ký kết và thực hiện hợp đông. Mặt khác để tận dụng cơ hội kinh doanh nhiều khi các nhà kinh doanh dám chủ động vi phạm các vi phạm trong hợp đồng và sẵn sàng vi phạm nghĩa vụ đã cam kết khi cân nhắc hiệu quả kinh doanh trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nói cách khác, trong một số trương hợp chính các bên ký kết đã chủ động vi phạm hợp đồng nên gây ra các tranh chấp.
Như vậy các tranh chấp trong quá trình nhập khẩu có thể phát sinh do nhiều các nguyên nhân khác nhau vì vậy để hạn chế được các tranh chấp phát sinh trong quá trình nhập khẩu công ty XNK vật tư đường biển cần tìm ra những nguyên nhân cụ thể để từ đó có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. Mặt khác cần lựa chọn các biện pháp giải quyết có hiệu quả nhất .
Nói tóm lại trên đây là những nội dung cụ thể của hoạt động kinh doanh nhập khẩu các mặt hàng của công ty XNK vật tư đường biển mà trong thời gian thực tập tại công ty em đã sưu tập được để hoàn thành nội dung đề tài của mình.Và từ đây em đã có thể đưa ra một số quan điểm để có thể góp ý cho hoạt động kinh doanh của công ty.
Chương III:
Một số giải pháp hạn chế rủi ro và tranh chấp trong quá trình nhập khẩu.
Một số sự báo về tình hình nhập khẩu trong thời gian tời và phương hướng hoạt động của công ty XNK vật tư đường biển.
Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2001 và dự báo năm 2002.
Những kết quả đạt được trong lĩnh vực xuất nhập khẩu năm 2001 đã vượt xa dự kiến ban đầu. Theo số liệu của bộ thương mại, xuất khẩu của năm 2001 đã đạt trên 14,3 tỉ USD, tăng 13% so với kê hoạch và tăng 24% so với mức với mức thực hiện năm 2000. Từ những số liệu trên cho ta thấy:
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta phục hồi rất nhanh sự đẩy nhanh tốc độ xuất khẩu năm 2001 còn do sức mua của thị trường khi việc đã bước vào giai đoạn hồi phục; theo đánh giá của Bộ thương mại, sức mau ở nhiều khu vực châu á đang dần trở lại bình thường như trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ, do đó một số thị trường như Trung Quốc, irăc, Malayxia, Philippin, Indonexia, đã tăng nhanh tốc độ nhập khẩu hàng hoá của nước ta.
+ Giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta trên thị trường thế giới tăng như dầu thô, điều, hạt tiêu, gạo... trong khi giá một số mặt hàng khác lại giảm điển hình là Cafe và đường, hoặc còn đứng ở mức thấp.
Điều đó có nghĩa là tốc độ tăng xuất khẩu nói trên là do chúng ta đẩy mạnh khối lượng hàng hoá xuất khẩu, theo tính toán.
Dự kiến năm 2002 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 19200 triệu USD. Trong đó xuất khẩu hàng hoá ước đạt 16.600 triệu USD và xuất khẩu dịch vụ ước đạt 2.600 triệu USD.
Về nhập khẩu tổng kim ngạch Nhập khẩu cả năm đạt 15,7 tỉ USD tăng 1,9 tỉ so với kế hoạch và tăng 30% so với năm 2000 nhập khẩu tăng nhanh như vậy
là do khối lượng hàng nhập khẩu tăng đặc biệt là các mặt hàng nhập khẩu chủ lực như nguyên vật liệu và thiết bị phụ tùng phục vụ cho sản xuất theo tính toán của Bộ Thương Mại trong vòng 11 tháng đầu năm 2001 nhập khẩu tăng 31,8% so với cùng ký năm 2000, đạt 13772 triệu USD. Do đó nhập khẩu giữ vai trò quan trọng trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Kế hoạch nhập khẩu năm 2002 dự kiến đạt 18.800 triệu USD. Trong đó nhập khẩu hàng hoá dự kiến đạt 17.450 triệu USD và nhập khẩu dịch vụ là 1350 triệu USD. Nhưng mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: ô tô nguyên chiếc các loại dự kiến là 15500 chiếc, ô tô linh kiện lắp ráp dự kiến nhập 1250 nghìn tấn, phân bón URE 2200 nghìn tấn...Điều đó chứng tỏ tỷ trọng nhập khẩu so với xuất khẩu đã có phần giảm hơn và dần dần cải thiện cần thanh toán.
Phương hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới.
Từ thực tế của hoạt động kinh doanh XNK trong thời gian vừa qua và nắm bắt xu thế của nền kinh tế đất nước và khu vực, một xu thế mở, tự do hoá mậu dịch và cạnh tranh gay gắt cùng những dự toán về tình hình kinh doanh trong thời gian tới, công ty xuất nhập khẩu vật tư - đường biển đã đặt cho mình một hướng đi mới trong tương lai.
Hướng phát triển của công ty trong thời gian tới là mở rộng hơn nữa lĩnh vực kinh doanh mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu đặc biệt là tiếp tục thúc đẩy mạnh công tác nhập khẩu và kinh doanh cung ứng nhiên liệu trọng tâm là công tác cung ứng tiêu thụ nhiên liệu, trọng tâm là công tác cung ứng tiêu thụ nhiên liệu ở thị trường trong nước, đặc biệt đối với công tác công ty vận tải trong ngành và các cảng biển. Tiếp tục công tác nghiên cứu thị trường nhằm tìm kiếm những thị trường mới, cơ hội và thách thức mới bên ngoài, dựa vào những thành quả đã đạt được trong những năm qua tiếp tục khai thác thêm những nguồn lợi có thể đạt được trong công tác giao nhận hàng hoá, đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ với các bước trong quá trình nhập khẩu của công ty từ đó giảm bớt những rủi ro và tranh chấp đối với bạn hàng từ đó giảm thiểu những chi phí không đáng có trong quá trình nhập khẩu.
Bên cạnh đó công ty đặt ra những mục tiêu cao hơn trong công tác xuất nhập khẩu trong thời gian tới như sau:
Các chỉ tiêu cho năm 2002.
Giá trị kim ngạch XNK: 32000000 USD
Trong đó : Xuất khẩu 4000000 USD
Nhập khẩu : 28000000 USD
- Doanh số bán ra : 330.000 triệu đồng.
- Lãi gộp : 9000 triệu đồng
- Nộp ngân sách :57.000 triệu đồng
trong đó :
Thuế VAT : 31.000 triệu đồng
Thuế XNK : 26000 triệu đồng
Mục tiêu chủ yếu của công ty đặt ra trong năm 2002 là:
Chấn chỉnh lại công tác quản lý để tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý để tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác kinh doanh xuất nhập khẩu, công tác thị trường, nhằm phục vụ cho các nhu cầu của các đơn vị trong ngành. Triệt để khai thác các nguồn hàng kinh doanh nội địa nhằm tìm đầu vào cho các đơn đặt hàng ở nươcs ngoài. Chấn chỉnh và phát triển các dịch vụ vận tải biể nhằm thu thêm lợi nhuận từ công tác dịch vụ hàng hải. Mặt khác công ty có thể tận dụng lợi ích sẵn có của mình về dịch vụ hàng hải để bao tiêu trọn goí cho những lô hàng xuất khẩu sang các nước láng giềng hay các nước trong khu vực, mà công ty có lợi thế về điều kiện địa lý, để có thể có được lợi nhuận cao hơn trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Mục tiêu tăng kim ngạch XNK năm 2002 đến 32000.000 USD tăng 15% so với kim ngạch XNK năm 2001. Ngoài các mặt hàng xuất nhập khẩu công ty sẽ tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường để tìm kiếm
thêm nguồn hàng và nơi tiêu thụ để mởi rộng hơn nữa ngành hàng kinh doanh nhằm tăng doanh thu cho công ty và lợi ích cho xã hội.
Công ty xây dựng kế hoạch thực hiện doanh số bán ra trong nưm là 330.000 triệu đồng, tăng 120% so với doanh số bán ra công ty ước thực hiện năm 2001, lãi gộp công ty phấn đấu thực hiện là 9000 triệu đồng, lãi gộp chiếm tỷ trọng 2,7% so với doanh số bán ra và nộp ngân sách là 57.000 triệu đồng.
Trên đây là những kế hoạch do ban giám đốc cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty xây dựng và nhất trí thông qua. Qua đây cũng có thể thấy được quyết tâm của toàn công ty trong thời gian tới là tìm cách gia tăng lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, tăng khả năng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh đã đem lại 92% tổng doanh thu của toàn công ty.
Những giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp phát sinh tại công ty XNK vật tư đường biển.
Thực tế đã chứng tỏ sự thành công của công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo. Hàng hoá ngày một dồi dào, hoạt động mua bán với tất cả các châu lục và kết quả là đã mang về cho Việt Nam sự thay đổi từng ngày, đời sống của nhân dân được cải thiện, mặt hàng tiêu dùng ngày càng nhiều. Kinh tế đất nước ngày một phát triển đặc biệt cán cân thương mại dần dần được cải thiện, kinh doanh XNK mang về cho nước ta nguồn ngoại tệ tương đối lớn, cải thiện tình hình thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên việc mua bán với nước ngoài không phải không gặp những khó khăn khi mà công ty XNKVTĐB chưa có sự hiểu biết đầy đủ về mội trường kinh doanh bên ngoài nên dẫn đến những tranh chấp xảy ra trong kinh doanh chính những tranh chấp này đã làm giảm đáng kể hiệu quả kinh doanh của công ty.
Trong những năm tới để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá công ty cần có những giải pháp thích hợp. Song, thành ngữ Việt Nam có câu “ phong bện hơn chữa bệnh”, vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK nói
chung và giải quyết các tranh chấp từ loại hợp đồng này nói riêng trước hết cần phải nói tới các biện pháp phòng ngừa tranh chấp có thể phát sinh, sau đó mới nói tới các biện pháp giải quyết hiệu quả các tranh chấp đó.
Giải pháp nhằm hạn chế các tranh chấp phát sinh trong khâu đàm phán, ký kết hợp đồng.
Ký kết hợp đồng nhập khẩu phải có nội dung đầy đủ, chặt chẽ về khía cạnh kỹ thuật pháp lý.
Như trong chương I đã phân tích các tranh chấp từ hợp đồng XNK hàng hoá có thể phát sinh ngay trong khâu đàm phán, ký kết hợp đồng. Vì vậy, để hạn chế được tranh chấp có thể phát sinh sau này biện pháp đầu tiên mà công ty cần quan tâm đến là phải đàm phán ký kết được hợp đồng XNK có nội dung đầy đủ, chặt chẽ về khía cạnh pháp lý và kỹ thuật. Hợp đồng XNK được coi là luật cao nhất đối với các bên xuất khẩu và nhập khẩu, do vậy khi ký kết, hợp đồng sẽ có giá trị giàng buộc các bên liên quan khi có tranh chấp phát sinh thì chính hợp đồng XNK là cơ sở pháp lý đầu tiên và quan trọng nhất để xác định quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của các bên ký kết. Do vậy, việc xây dựng một hợp đồng có nội dung đầy đủ, chặt chẽ, kín kẽ cả về khía cạnh kỹ thuật và pháp lý là điều hết sức quan trọng thậm chí có thể nói là mang tính chất quyết định đối với sự thành công của thương vụ. Muốn làm được điều đó trước hết cần đảm bảo cho hợp đồng được ký kết phải có đủ điều kiện hiệu lực cần thiết cho quy định của pháp luật.
Để đảm bảo hợp đồng ký kết có hiệu lực về chủ thể thì khi giao dịch ký kết hợp đồng nhập khẩu công ty cần tìm hiểu kỹ đối tác về tư cách pháp lý của họ. Nếu coi nhẹ việc tìm hiểu kỹ đối tác về tư cách chủ thể của họ đối tác sẽ có thể dẫn đến trường hợp hợp đồng đã được ký kết nhưng lại không đảm bảo điều kiện hiệu lực vì chủ thể ký kết không đủ tư cách pháp lý hoặc thậm chí sẽ bị đối phương lừa dối, khi đó công ty có thể bị thiệt hại mà không biết khiếu nại hoặc kiện ai.
Mặt khác người thay mặt bên đương sự ký kết hợp đồng phải là người có thẩm quyền, cho nên phải kiểm tra thẩm quyền của người ký kết. Nếu hợp đồng do người đại diện không có thẩm quyền ký kết thì sau này dễ phát sinh tranh chấp và hậu quả là hợp đồng bị coi là vô hiệu. Hơn nữa, người thay mặt các bên ký vào văn bản sửa đổi bổ sung hợp đồng cũng phải là người có thẩm quyền. Nếu không khi bên đương sự kia thừa nhận thì văn bản sửa bổ sung đó sẽ không có giá trị. Trong thực tiễn kinh doanh ngoại thương hiện tượng này rất hay xảy ra.
Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp là một điều kiện hiệu lực của hợp đồng XNK, cho nên các bên đương sự cần đặc biệt quan tâm. Một hợp đồng có nội dung hợp pháp là hợp đồng có đủ các điều khoản chủ yếu theo quy định của pháp luật và có đối tượng là loại hàng hoá được phép XNK theo quy định của nước XK và nước NK. Vì vậy, trước hết công ty không được ký kết hợp đồng XNK những loại hàng hoá mà nước XK, cũng như nước NK cấm xuất hoặc cấm nhập.
Tiếp theo là công ty ký kết hợp đồng phải có đủ các điều khoản chủ yếu như: tên hàng, số lượng, quy cách phẩm chất, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao nhận hàng. Do vậy, cho dù hợp đồng được ký với các thương nhân mang quốc tịch Anh, Mỹ là nơi mà luật pháp quy định nội dung hợp đồng chỉ cần có thoả thuận về đối tượng hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật thì vẫn phải đảm bảo đủ các nội dung tối thiểu, theo quy định các luật pháp Việt Nam. Nếu so suất để thiếu một trong các điều kiện đó thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu .
Việc bảo đảm cho hợp đồng XNK có đủ các điều khoản chủ yếu theo quy định của pháp luật mới chỉ đảm bảo được tính hợp pháp của hợp đồng. Muốn có được hiệu quả kinh doanh cao thì nội dung hợp đồng còn phải đảm bảo tính kỹ thuật, có nghĩa là hợp đồng còn phải có cả những điều khoản khác mà pháp luật không bắt buộc phải có nhưng nó trực tiếp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên. Đồng thời, những thoả thuận trong hợp đồng phải có thể mang lại lợi
ích kinh tế ở mức độ cao nhất có thể được, ví dụ, mua được hàng với chất lượng cao mà giá cả lại vừa phải hoặc bán được nhiều hàng với giá cao nhất, với những điều kiện thuận lợi nhất.v..v.. Muốn vậy công ty XNK vật tư đường biển cần tránh trường hợp chưa nắm vững thị trường, giá cả, chưa tìm hiểm rõ thương nhân nước ngoài đã vội ký hợp đồng, sau đó thấy bất lợi lại xin điều chỉnh hoặc sửa đổi , thậm chí xin hủy hợp đồng mà không có lý do chính đáng, thực tiễn kinh doanh đã có không ít trường hợp vì nhiều nguyên nhân khác nhau nên ngay sau khi ký hợp đồng phía công ty đã xin huỷ hợp đồng mà không tìm ra được lý do để thuyết phục được khách hàng nước ngoài. Khi đó khó tránh khỏi các tranh chấp phát sinh theo chiều hướng bất lợi cho phía công ty.
Lựa chọn luật áp dụng và cơ quan giải quyết tranh chấp một cách hợp lý khi ký kết các hợp đồng NK.
Ngoài những nội dung bắt buộc phải có theo quy định của pháp luật, để tạo điều kiện cho việc giải quyết các tranh chấp có thể phát sinh sau này, khi giao kết hợp đồng công ty XNK vật tư đường biển cũng nên quy định phương pháp giải quyết tranh chấp bằng cách đưa vào hợp đồng thành một điều khoản riêng có thể gộp các nội dung này vào điều khoản “ trọng tài và luật áp dụng”. Khi lựa chọn luật áp dụng cũng cần chú ý chọn nguồn luật nào thuận lợi nhất. Từ tháng 1/1999, Luật thương mại Việt Nam đã chính thức có hiệu lực, vì thế trong giao dịch công ty nên hướng tới việc áp dụng luật thương mại Việt Nam cho hợp đồng ký với thương nhân nước ngoài. Việc lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp cần chú ý tới những ưu điểm của từng loại hình cơ quan xét xử. Tuỳ từng vụ giao dịch cụ thể, tuỳ đối tượng hợp đồng để lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp cho thích hợp. Tuy nhiên công ty XNK Vật tư đường biển cũng nên cố gắng lựa chọn các cơ quan xét xử của Việt Nam, và nếu điều kiện cho phép thì cố gắng thoả thuận chọn Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, vì như thế sẽ gặp thuận lợi hơn trong việc tranh chấp và bất đồng có thể xảy ra từ hoặc có liên quan đến hợp đồng này trước hết phải được giải quyết bằng phương pháp thương lượng trực tiếp. Nếu không thể giải quyết bằng phương pháp thương lượng trực
tiếp các bên sẽ đưa tranh chấp ra trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam. Việc xét xử được tiến hành theo quy tắc tố tụng của trung tâm này, phán quyết của trọng tài là khung thẩm.
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý của cán bộ làm công tác XNK.
Để có thể phòng ngừa hạn chế các tranh chấp bằng các cách nêu trên cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ pháp lý của đội ngũ cán bộ làm công tác XNK, đặc biệt của những người trực tiếp tham gia đàm phán ký kết và thực hiện các hợp đồng XNK hàng hoá. Thực tế cho thấy không ít trường hợp công ty XNK vật tư đường biển tham gia đàm phán ký kết hợp đồng NK với thương nhân người nước ngoài mà người trực tiếp đàm phán ký kết thì lại vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ vừa yếu về trình độ pháp lý. Nhiều hợp đồng NK sau khi ký kết vừa không chặt chẽ về mặt kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương vừa quá sở hở về pháp lý. Đối với những hợp đồng như thế tranh chấp xảy ra là điều khó tránh khỏi. Vì thế, việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý của các cán bộ trong công ty trước tiên nhằm khắc phục các tranh chấp phát sinh gây thiệt hại cho công ty xuất phát từ sự yếu kém về trình độ kinh doanh.
Những người trực tiếp tham gia đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng NK cần phải có trìn độ hiểu biết đáng kể về kỹ thuật sản xuất, thương phẩm học, nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương, pháp luật về kinh doanh XNK và ngoại ngữ. cao hơn nữa, công ty cần có một chuyên gia pháp lý để hỗ trợ cho mình trong việc đàm phán ký kết hợp đồng, trực tiếp theo dõi việc khiếu kiện và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng NK .
Muốn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý thì phải học tập ở trường lớp và học tập trong thực tiễn. Do vậy công ty cần quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, có kế hoạch cho cán bộ tham gia các lớp học về nghiệp vụ XNK, về pháp luật kinh doanh XNK thông qua các lớp ngắn hạn, tại chức, chuyên đề, hội thảo, nâng cao. Học hỏi để nâng cao trình độ qua thực tiễn cũng hết sức quan trọng, cho nên những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý và kinh nghiệm cần hướng dẫn các cán bộ mới vào nghề, các cán bộ còn chưa chuyên sâu.
Một vài đề xuất với công ty và kiến nghị với nhà nước
Đối với công ty.
Nghiên cứu thị trường, lựa chọn nguồn cung cấp:
Trong thời gian qua việc nghiên cứu thị trường xuất khẩu của công ty chưa được đặt lên hàng đầu và chưa phát huy tốt, công ty chủ yếu bị động trong việc ký kết hợp đồng NK hàng hóa nên công ty cần có một bộ phận chuyên về Marketing có trình độ, có đầu óc khi việc nghiên cứu thị trường có khoa học thì công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn các nguồn hàng tốt nhất và mở rộng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của mình từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho công ty.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tổ chức khai thác tối ưu các nguồn vốn khác:
Với số vốn hiện nay của công ty không thể đáp ứng tất cả các thương vụ kinh doanh XNK do vậy cần có các chính sách sử dụng vốn hợp lý bằng cách ưu tiên vốn cho các mặt hàng kinh doanh có lãi suất cao, tăng vòng quay vốn lưu động kết hợp với việc khai thác nguồn vốn bên ngoài như:
+Khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết
+ Huy động nguồn vốn từ công nhân viên trong công ty và sử dụng các phương thức thanh toán hợp lý.
Công tác quản lý nhân sự:
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, chi nhánh trong công ty, có sự phân công trách nhiệm và quyền lợi một cách hợp lý tránh sự chồng chéo quyền lực giữa các phòng ban.
+ Cắt giảm bộ máy cồng kềnh kém hiệu qủa, giảm thiểu chi phí quản lý, trẻ hoá đội ngũ cán bộ thông qua tuyển dụng và đào tạo cán bộ trẻ có trình độ và năng lực.
+ Nâng cao trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ kinh doanh XNK thông qua các khoá đào tạo ngắn và dài hạn ở các trung tâm đào tạo ngoại thương.
Kiến nghị đối với nhà nước:
Nhà nước cần hoàn thiện và ban hành mới các văn bản hợp đồng XNK.
Để có môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ Nhà nước Việt Nam cần sớm hoàn thiện và ban hành những văn bản pháp lý cần thiết trực tiếp luôn quan tâm đên việc giao dịch và ký kết các hợp đồng XNK cũng như việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng này.
Ngày 10/5/1998, Quốc hội khoá IX nước CHXHCNVN ký họp thứ XI đã thông qua luật thương mại. Luật thương mại Việt Nam đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1999.
Tuy nhiên để luật thương mại thực sự đi vào cuộc sống nghĩa là tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng thì chính phủ sớm ban hành và hoàn thiện một hệ thống đồng bộ các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện luật thương mại, thiếu hệ thống các văn bản đó thì Luật thương mại chưa phát huy được vai trò của nó.
Sau khi có nghị định 57 NĐ/CP ngày 31/7/1999 thì vấn đề về thẩm quyền ký kết hợp đồng XNK đã được giải quyết, nhưng còn nhiều vấn đề liên quan đến hợp đồng XNK ( hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài). điều kiện để huy động khi chỉnh hợp đồng không quy định gì, các trường hợp miễn tránh khác ngoài các sự kiện được coi là bất khả kháng, cơ quan có thẩm quyền xác nhận các sự kiện được coi là bất khả kháng...vẫn chưa được giải quyết.
Tuy nhiên luật thương mại Việt Nam dù có đầy đủ đồng bộ đến đâu cũng chưa chắc đã có thể áp dụng cho hợp đồng XNK, vì điều đó còn tuỳ thuộc vào sự
thoả thuận lựa chọn giữa các bên khi đàm phán ký kết hợp đồng. Nếu thương nhân nước ngoài không tin tưởng vào Luật Việt Nam thì họ sẽ từ chối áp dụng luật của ta mà tìm đến cách nguồn luật khác mà họ tin cậy hơn, được biết đến nhiều hơn. Một trong những nguồn luật đó là công ước viên 1980 về mua bán quốc tế hàng hoá. Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và công ty XNKVTĐB nói riêng áp dụng điều ước quốc tế quan trọng này các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ thương mại, Bộ tư pháp, Bộ Ngoại giao. V..v.. cần tập trung nghiên cứu đề nghị Nhà nước ta gia nhập công ước viên 1980 trong thời gian sớm nhất. Hiện nay do nước ta chưa gia nhập công ước này nên các nhà kinh doanh XNK còn gặp những khó khăn nhất định trong việc lựa chọn nguồn luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài. Bởi lẻ việc áp dụng luật Việt Nam cho loại hợp đồng này không phải lúc nào cũng gặp không ít khó khăn trong việc tìm hiểu nội dung của các quy phạm pháp luật liên quan, còn nếu chỉ trông chờ vào việc áp dụng các tập quán thương mại quốc tế Incoterm 2001 thì cũng không thể giải quyết hết được mọi vấn đề có thể phát sinh từ hợp đồng, vì Incoterm 2001 chỉ có thể giải quyết được một số vấn đề như phân chi nghĩa vụ làm thủ tục hải quan, phân chia chi phí, thời điểm di chuyển rủi ro của hàng hoá, nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá và nghĩa vụ thuê tàu. Các nghĩa vụ khác không được đề cập đến trong Incoterm 2001. Vì thế, việc áp dụng các điều ước quốc tế như công ước viên 1980 sẽ có nhiều thuận tiện hơn. Đến nay đã có 53 nước trên thế giới phê chuản công ước này. Việc áp dụng công ước này cho phép các nhà kinh doanh XNK của ta vừa có thể hạn chế được những tranh chấp, bất đồng có thể phát sinh, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết các tranh chấp khi đã phát sinh từ các hợp đồng XNK hàng hoá.
Nhà nước nên đơn giản hoá các nước thuế XNK và mở rộng khoảng cách giữa các mức thuế. Tránh tình trạng có quá nhiều mức thuế rườm rà như hiện nay, các mức thuế được áp dụng cần nhằm bảo hộ chung chung. Luật thuế XNK nên có các quy định về mức thuế suất khác nhau bao gồm mức thuế suất phổ thông, mức thuế ưu đãi và mức thuế ưu đãi đặc biệt
Kết luận:
Qua việc phân tích nghiên cứu thực tế tại công ty XNK vật tư đường biển chúng ta có thể rút ra kết luận sau:
Thực tiễn quá trình Nhập khẩu ở công ty XNK vật tư đường biển đã chứng minh có các tranh chấp phát sinh vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy để hạn chế các tranh chấp phát sinh công ty XNK vật tư đường biển cần đặc biệt chú ý tới khâu đàm phán ký kết hợp đồng sao cho hợp đồng thể hiện đầy đủ ý chí của mình, hợp đồng còn đủ các điều khoản quy định chặt chẽ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên. Mặt khác cần lựa chọn thật kỹ đối tác về mặt uy tín và thiện chí, bởi vì dù hợp đồng có đầy đủ nội dung và chặt chẽ đến đâu đi nữa, nhưng bên đối tác không có uy tín, không thiện chí vẫn xảy ra vi phạm và phát sinh tranh chấp.
Hiện nay cũng như tất cả các doanh nghiệp nhà nước khác công ty XNK vật tư đường biển đang phải nỗ lực phấn đấu vượt qua những khó khăn trong giai đoạn đầu của nền kinh tế thị trường. Tuy đã đạt được những thành công đáng kể nhưng công ty còn nhiều tồn tại cần giải quyết, đặc biệt cần có những biện pháp phòng ngừa tranh chấp phát sinh trong quy trình nhập khẩu.
Việc nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp nhằm hạn chế các tranh chấp phát sinh trong quá trình nhập khẩu ” không ngoài mục đích nào khác là mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty.
Do phạm vi nghiên cứu rộng và còn nhiều hạn chế về thời gian cũng như về trình độ lý luận, kinh nghiệm thực tiễn nên chắc chắn đề tài của tôi sẽ có những thiếu sót nhất định. Tuy nhiên tôi mong rằng những nghiên cứu suy nghĩ tìm tòi của mình trong đề tài này sẽ có ý nghĩa thiết thực và hữu ích đối với công ty XNK vật tư đường biển trong hoạt động nhập khẩu của mình.
Cuối cùng em xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến cô giáo Vũ Phương Nga và các cán bộ nhân viên trong công ty XNK vật tư đường biển đặc biệt là các bác, các cô chú, anh chị phòng thương mại và dịch vụ đã tận tình chỉ bảo giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0528.doc