Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy mà còn là của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, trong chuyên đề này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
- Đưa ra một quan điểm chung về rủi ro tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
- Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy trong thời gian tới trên cả hai mặt phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ phòng Tín dụng Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
51 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1179 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
au:
Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu như uy tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính... Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, gây những tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán bộ tín dụng hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng dẫn đến tình trạng họ không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Có thể thấy điều này qua một số nét chính như sau:
Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu tố pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, môi trường pháp lý về thế chấp, cầm cố tài sản chưa đầy đủ, Luật sở hữu chưa rõ ràng, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu. Vì vậy, rất khó khăn cho Ngân hàng khi đem những tài sản thế chấp như vậy ra xử lý. Hơn nữa, cũng chính tình trạng lỏng lẻo trong công chứng hồ sơ tài sản mà đã xảy ra tình trạng lừa đảo, một tài sản được đem ra thế chấp tại nhiều Ngân hàng.
Ngay cả khi tài sản thế chấp là hợp pháp thì rủi ro tín dụng đối với những dự án được xét duyệt vẫn xảy ra khi giá trị của tài sản thế chấp được định giá quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa, một khi rủi ro xảy ra, chi phí cho việc phát mại tài sản là không nhỏ. Những tài sản thế chấp của các doanh nghiệp là máy móc, thiết bị... phần lớn đều cũ kỹ lạc hậu, đem phát mại để thu hồi vốn cũng phải mất tới hàng năm. Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản thì lại phụ thuộc vào biến động giá của thị trường bất động sản và quy hoạch của Nhà nước. Một thực tế nữa là nhiều trường hợp tài sản thế chấp mang tính đặc thù của doanh nghiệp. Ví dụ như liên hiệp đường sắt mang toa tầu ra để thế chấp. Trường hợp như vậy nếu có phải phát mại thì Ngân hàng cũng đành bó tay.
Những hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua. Điều này có vẻ như một nghịch lý bởi thế chấp được áp dụng với mục tiêu hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thực chất luôn phải hiểu rằng thế chấp không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để bảo đảm an toàn tín dụng.
Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát không được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy, hệ thống kiểm soát của các Ngân hàng yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của Ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này.
Mặt khác, sự hợp tác giữa Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí, một số Ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng, và điều đó dẫn tới việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Vì thế, Ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại còn chưa có được một phương pháp giám sát khách hàng khoa học và có hiệu quả. Nỗ lực của các Ngân hàng thương mại là cần phải xây dựng một phương pháp giám sát khoa học để luôn đảm bảo được sự an toàn cho mình và cho khách hàng.
Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với người vay là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ quá hạn, số nợ khó đòi trong giai đoạn này. Điều này gây ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt và lâu dài của Ngân hàng. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng mà không chú ý đến điều kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến một hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn mất khả năng trả nợ.
Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không thực sự hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu dài. Và vì thế, Ngân hàng sẽ dần thu hẹp thị phần của chính mình. Trong nhiều trường hợp, nếu Ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng xử lý với các khách hàng căn cứ vào điều kiện của họ thì có thể khả năng trả nợ của khách hàng sẽ sáng sủa hơn, Ngân hàng sẽ có nhiều khả năng thu hồi được vốn.
4. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân, khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Nhưng dù là do nguyên nhân nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những tác động xấu tới bản thân Ngân hàng và đối với cả nền kinh tế. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng.
4.1 Tác động của rủi ro tín dụng đến Ngân hàng:
Trước hết, rủi ro tín dụng khi xảy ra sẽ có tác động xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng. Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn, Ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu nợ, chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng thời, khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho Ngân hàng hoặc rất ít, không đáng kể, trong khi Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được, điều này làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro tín dụng thì không chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt động khác của Ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Một Ngân hàng nếu gặp nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng mà không khắc phục được sẽ gây mất lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại Ngân hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền thì tất nhiên thị phần của Ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và do đó Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những người gửi tiền tại Ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó Ngân hàng không có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể Ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế.
4.2 Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong nền kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín dụng xảy ra làm Ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay, do đó rủi ro tín dụng làm giảm vòng quay sử dụng vốn của Ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của một Ngân hàng có ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác. Khi một Ngân hàng đối mặt với tình trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của Ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc đó rất có thể Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống Ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước
Chương II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY.
I.Khái quát về tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Cầu Giấy- TP Hà Nội .
Là một quận mới thành lập nằm ở phía tây của TP Hà Nội với đặc thù kinh tế chưa phát triển chủ yếu là các trường ĐH, khối hành chính, nông nghiệp,nhưng đặc biệt trên địa bàn lại có rất nhiều công ty xây dựng mà NHĐT&PT lại rất phù hợp cho việc phục vụ loại hình khách hàng này.
1 .Khái quát về hoạt động kinh doanh tại NHĐT&PTCầu Giấy.
1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHĐT&PT Cầu Giấy.
Bộ máy tổ chức: kể từ tháng 10/2003 NHĐT&PT Cầu Giấy đã tiến hành thực hiên dự án hiện đại hoá và mô hình bộ máy tổ chức cũng theo mô hình của hiện đại hoá bao gồm: Ban lãnh đạo (Gerneral), Phòng Kế toán Tổng hợp(G/L) – Ngân quỹ ( Vol ) , Phòng Tín dụng ( Ln ) , Phòng dịch vụ khách hàng (DD&FD ) , Phòng điện toán ( IT ) , các phòng giao dịch và cuối cùng phòng hậu cần.
Lãnh đạo của NHĐT&PT Cầu Giấy gồm : 1 Giám đốc , 3 phó giám đốc lãnh đạo theo từng khối nghiệp vụ. Có 6 phòng ban nghiệp vụ và 2 phòng giao dịch . Mỗi phòng đều có trưởng phòng ,phó phòng , kiểm soát viên , và các thanh toán viên được bố chí theo từng nghiệp vụ . Sơ đồ mô hình tổ chức của NHĐT&PT Cầu Giấy thể hiện như sau :
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY :
Phòng giao dịch số 9 và15
Phòng Kế toán tổng hợp
(G/L )
NHĐT&PT VIỆT NAM
NHĐT&PT Cầu Giấy
Ban giám đốc
Phòng DV khách hàng
Phòng hậu cần
Phòng Điện toán
( IT )
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng tiền tệ ngân quỹ
Phòng tín dụng
( Ln )
Ghi chú :
Chỉ mối quan hệ chỉ đạo
Chỉ mối quan hệ tác nghiệp
II.Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng không chỉ là vấn đề nan giải ở các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với tất cả các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở trong tình trạng nợ quá hạn nặng nề và có xu hướng gia tăng trong những năm tới. Mặc dù các Ngân hàng thương mại đã áp dụng những biện pháp phòng tránh nợ quá hạn mới phát sinh và các biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũ, tuy nhiên, kết quả đạt được là rất khiêm tốn. Mặt khác, trước thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, với các mục tiêu tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá năng lực tài chính mà Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nôi chi nhánh Cầu Giấy đã đặt ra thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro là thực sự cần thiết và luôn được lãnh đạo Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy quan tâm. Để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy thì các giải pháp phải được tiến hành trên cả hai mặt đó là phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề này tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Các giải pháp chia làm hai nhóm: nhóm giải pháp có tính chất phòng ngừa rủi ro và nhóm giải pháp xử lý những rủi ro đã xảy ra.
1. Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng dù xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan cũng được thể hiện trên hai mặt đó là những rủi ro có thể xảy ra và những rủi ro đã xảy ra. Những rủi ro có thể xảy ra tuy là những rủi ro tiềm ẩn nhưng trong nhiều trường hợp do có tính lặp lại nên người ta có thể tìm ra được quy luật của nó và từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, để phòng ngừa rủi ro cần thực hiện một số giải pháp như sau:
1.1Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay:
Sàng lọc khách hàng là việc ngân hàng tìm hiểu và đánh giá khách hàng để lựa chọn ra những khách hàng có đủ điều kiện cho vay. Sàng lọc khách hàng là công việc quan trọng không thể thiếu để ngăn ngừa những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngân hàng đầy rủi ro như hiện nay thì sàng lọc khách hàng càng phải được chú trọng. Sàng lọc khách hàng được thực hiện qua hai hoạt động: Phân tích đánh giá khách hàng và Thẩm định tính khả thi của dự án.
Phân tích đánh giá khách hàng:
Khách hàng là người sử dụng và quyết định hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền vay, cũng là người chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay. Vì vậy, việc phân tích đánh giá khách hàng là một biện pháp hết sức quan trọng và cần thiết để ngăn ngừa những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng trong quá trình xét duyệt. Khi đánh giá khách hàng là các tổ chức, đơn vị kinh doanh, cán bộ tín dụng phải chú ý một số nội dung chủ yếu như sau:
a)Tư cách pháp nhân của khách hàng:
Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khách hàng có được ký kết hợp đồng vay vốn hay không. Theo luật pháp quy định, một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân thì phải có đủ các giấy tờ sau:
Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Giấy phép kinh doanh.
Quyết định tổ chức.
Từ các giấy tờ trên, cán bộ tín dụng sẽ có những đánh giá bước đầu về khách hàng như thành lập được bao lâu, hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề nào… để có đối chiếu với những phạm vi ngành nghề mà ngân hàng không được phép cho vay.
b)Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng:
Khi đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng thì cán bộ tín dụng cần phân tích doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh, đây là hai chỉ tiêu quan trọng nói lên tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Doanh thu là chỉ tiêu cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Doanh thu càng lớn, đơn vị đó càng có điều kiện tăng thu nhập và mở rộng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ ngân hàng càng cao.
Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu đánh giá tổng hợp chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Kết quả sản xuất kinh doanh càng cao thể hiện doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả, sử dụng vốn vay đạt được mục tiêu đặt ra. Với những đơn vị này thì khoản vốn ngân hàng cho vay có đủ điều kiện thu hồi đúng hạn cao.
Tuy nhiên, khi phân tích doanh thu của đơn vị thì cán bộ tín dụng cần xem xét rõ nguyên nhân doanh thu tăng lên là do đâu và phải có sự đối chiếu doanh thu qua một số thời kỳ. Vì trong một số trường hợp, doanh thu tăng lên chưa chắc do tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị tốt.
c)Tình hình tài chính của khách hàng
Cán bộ tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong những thời điểm gần nhất để tiến hành phân tích, đánh giá. Khi phân tích báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng, cán bộ tín dụng cần chú ý các chỉ tiêu sau:
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn so với nguồn hình thành có tỷ lệ 1 là cân đối. Nếu các tỷ lệ này lớn hơn 1 thì có khả năng khách hàng sử dụng vốn chưa phù hợp.
Tài sản ngắn hạn so với nguồn vốn ngắn hạn nếu thấp hơn 1 thì khả năng thanh toán của khách hàng có vấn đề.
Khoản vay ngắn hạn ngân hàng so với vốn chủ sở hữu thường không được lớn hơn 5
Các khoản phải trả so với doanh thu và so với tổng tài sản có tỷ lệ là 1 và 1/3 là lớn nhất. Nếu tỷ lệ này cao hơn, thể hiện khách hàng đang chiếm dụng vốn trong quan hệ thương mại, nhưng cũng có thể là do tình hình tài chính không lành mạnh.
Các khoản phải thu so với doanh thu và so với tổng tài sản có tỷ lệ 1 đến 1/3 là lớn nhất. Nếu lớn hơn tỷ lệ trên thì có thể là khách hàng đang bị chiếm dụng vốn.
Doanh thu so với hàng tồn kho: hàng hoá trong kho phải có vòng quay ít nhất là 2 vòng một năm. Nếu ít hơn mức đó thì có nghĩa là việc tiêu thụ hàng hóa có vấn đề.
Hiện nay, các báo cáo tài chính mà khách hàng nộp cho ngân hàng thường không phản ánh đúng tình trạng thực tế, vì vậy, khi đánh giá cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Tính khấu hao tài sản cố định thấp hơn mức thực tế để nâng giá trị còn lại của tài sản cố định lên.
Tăng giá hàng hoá dự trữ tồn kho.
Khách hàng thường bù trừ giữa số tiền phải thu và số tiền ứng trước của người mua để dấu bớt nợ nần, hỗ trợ nhau vay vốn ngân hàng bằng cách ghi khống vào doanh thu các khoản mà người mua chưa chấp nhận hoặc người mua đã trả tiền nhưng đơn vị chưa giao hàng.
Nhiều khách hàng yếu kém về mặt tài chính thường phản ánh sai lệch các báo cáo tài chính bằng cách giấu bớt doanh thu và thu nhập của niên độ kế toán trước sang niên độ kế toán sau. Làm như vậy, khách hàng có thể tăng doanh thu và thu nhập trong niên độ kế toán sau, đảm bảo có lợi nhuận để vay vốn ngân hàng.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải chú ý đến năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của khách hàng. Những yếu tố này phần nào thể hiện hiệu quả của việc sử dụng tiền vay sau này. Thông thường, những yếu tố này trong hồ sơ xin vay ít đề cập đến. Vì vậy, trong hồ sơ xin vay ngân hàng cần phải yêu cầu khách hàng cung cấp thêm những thông tin này. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần phải tìm hiểu thêm các thông tin về các mối quan hệ giữa khách hàng với các bạn hàng, giữa khách hàng và các ngân hàng để đánh giá lịch sử quan hệ làm ăn, vay trả của khách hàng nhằm tránh những khách hàng có quan hệ làm ăn vay trả không sòng phẳng hay chây ỳ. Thông qua việc phân tích đánh giá về khách hàng như trên, ngân hàng sẽ phân loại khách hàng và có chính sách cho vay phù hợp.
1.1.2 Thẩm định tính khả thi của dự án:
Khách hàng được đánh giá tốt là một điều kiện cần tuy nhiên chưa phải là điều kiện đủ để có thể được ngân hàng cho vay vốn. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định khách hàng có được cho vay vốn hay không đó là khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc lớn vào những nguồn thu trong tương lai trong đó nguồn thu từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng là nguồn trả nợ chính. Vì vậy, khả năng sinh lợi từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng quyết định lớn đến khả năng trả nợ đủ và đúng theo thời hạn trong hợp đồng. Khi thẩm định tính khả thi của dự án, cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Về phương pháp thẩm định:
Khi thẩm định dự án cần phải chú trọng hơn nữa tới giá trị thời gian của tiền, áp dụng các chỉ tiêu hiện đại như NPV, IRR, phân tích độ nhạy... coi là những chỉ tiêu bắt buộc khi phân tích dự án.
Để có tính toán đúng khi xác định dòng tiền để tính những chỉ tiêu trên cần phải xác định đủ và đúng các giá trị như: giá trị thanh lý tài sản cố định, thu hồi vốn lưu động ròng...
Xác định tỷ lệ lãi suất chiết khấu hợp lý dựa trên tính toán về chi phí vốn bình quân.
Xây dựng các bảng dự trù tài chính của dự án để thực hiện phân tích tài chính dự án hàng năm, việc xác định doanh thu và chi phí của dự án hàng năm phải kết hợp tính toán cả công suất dự kiến và khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng năm.
Về tổ chức điều hành thẩm định dự án:
Thực hiện tốt hơn công tác tổ chức điều hành, xây dựng và chuẩn hoá quy trình hoạt động thẩm định, áp dụng chặt chẽ cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống thông tin nội bộ toàn hệ thống để thu thập phân tích và lưu trữ thông tin về các khách hàng, thông tin về tình hình kinh tế...
1.2 Tăng cường công tác thu thập thông tin:
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thông tin nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay rồi mới tiến hành.
Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây công tác thu thập và xử lý thông tin nên dành cho phòng Thông tin - Điện toán. Khi có khách hàng đến vay vốn cán bộ tín dụng sẽ yêu cầu phòng cung cấp cho mình những thông tin cần thiết. Trên cơ sở so sánh, đối chiếu những thông tin do khách hàng cung cấp và những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán bước đầu sẽ cho phép cán bộ tín dụng giá mức độ trung thực của khách hàng vay vốn. Bên cạnh, đó những thông tin của phòng Thông tin - Điện toán cung cấp còn cho phép đánh giá đầy đủ hơn về khách hàng cũng như dự án vay vốn. Như vậy có thể thấy được việc tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động của phòng Thông tin - Điện toán là một trong những vấn đề ngân hàng cần xem xét trong thời gian càng sớm càng tốt vì đó là điều kiện để thực hiện nhiều biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng.
1.3 Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các khoản vay:
Kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Thực hiện thường xuyên sẽ giúp ngân hàng phát hiện kịp thời những sai phạm của doanh nghiệp đồng thời giúp ngân hàng luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm bắt được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án để có biện pháp đối phó kịp thời. Hiện nay việc kiểm tra giám sát sau khi vay ở Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy còn mang nặng tính hình thức, kiểm tra chủ yếu dựa trên những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp và được tiến hành định kỳ mỗi quý một lần. Việc kiểm tra này không mang lại hiệu quả cao, bởi lẽ chẳng có gì đảm bảo rằng những tài liệu do doanh nghiệp cung cấp hoàn toàn đúng sự thật. Kiểm tra định kỳ và không thường xuyên như vậy thì nếu doanh nghiệp không có thiện chí họ sẽ có những thủ thuật để che mắt cán bộ kiểm tra. Để khắc phục điều này trong thời gian tới công tác kiểm tra, giám sát sau khi cho vay phải được tiến hành chặt chẽ hơn nữa, việc kiểm tra trực tiếp tại cơ sở không nên tiến hành định kỳ như hiện nay mà nên tiến hành ngẫu nhiên, không báo trước có vậy mới đảm bảo những gì mắt thấy tai nghe là trung thực. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể trả nợ theo đúng hợp đồng thì cán bộ tín dụng nên báo cáo về ngân hàng để có biện pháp xử lý kịp thời.
1.4 Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là khó tránh khỏi, trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng khiến cho ngân hàng có khả năng lâm vào tình trạng mất vốn kinh doanh. Để khắc phục tình trạng đó, việc ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro là rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có nguồn bù đắp lại những rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà ngân hàng phải gánh chịu.
Mục tiêu của việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là còn để đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, phản ánh đúng vị thế tài chính của ngân hàng và nó được đảm bảo bằng nguồn tiền có thực để trang trải rủi ro khi xảy ra. Trong những trường hợp ngân hàng gặp rủi ro không thu hồi vốn được thì việc xoá những khoản nợ không thể thu hồi này và công bố những khoản mất vốn sẽ là những bât lợi đến kết quả kinh doanh và đến vốn kinh doanh của ngân hàng nếu như không có quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ trước. Trong trường hợp đã có trích lập quỹ dự phòng rủi ro, khi xảy ra khả năng mất vốn thì việc loại trừ những khoản nợ không thể thu hồi sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong báo cáo tài chính của ngân hàng.
Tuy nhiên, cần phải xác định rõ việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro như thế nào là hợp lý bởi vì nếu lập quỹ dự phòng rủi ro quá mức sẽ gây lãng phí không cần thiết, nhưng nếu dự phòng quá thấp sẽ không đủ bù đắp rủi ro khi xảy ra. Việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro ở mỗi nước, mỗi ngân hàng là khác nhau. Nước ta hiện nay, việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng được thực hiện theo quyết định số 488/2000/QĐ - NHNN ban hành ngày 27/11/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, theo quyết định này thì việc lập quỹ dự phòng đối với hoạt động tín dụng được thực hiện trên cơ sở phân loại rủi ro của các khoản cho vay dựa trên thời gian, hình thức cấp tín dụng và bảo đảm tín dụng. Tuy nhiên trong bước đầu nghiên cứu và thực hiện quyết định này có nhiều khó khăn nhất định do điều kiện hệ thống ngân hàng chưa đủ mạnh, vốn không lớn, kỹ thuật đo lường rủi ro chưa tốt, chưa dự báo được những tình huống có thể xảy ra. Vì vậy, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy cần có cố gắng trong việc nghiên cứu và thực hiện việc đo lường, đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay và trích lập quỹ dự phòng rủi ro, để đảm bảo có nguồn bù đắp khi xảy ra rủi ro trong hoạt động tín dụng.
1.5 Đa dạng hoá đầu tư:
Đa dạng hóa đầu tư là biện pháp chiến lược có tính chủ động nhằm phân tán rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Thực chất của đa dạng hoá đầu tư là phân tán đầu tư trên các loại tài sản khác nhau. Trong hoạt động tín dụng cũng vậy, việc phân tán rủi ro được thực hiện thông qua phân tán dư nợ và đồng tài trợ. Qua các hình thức này, ngân hàng không tập trung quá nhiều vốn cho một món vay, phân tán hệ số rủi ro trên số món vay do đó giảm mức rủi ro chung cho toàn bộ hoạt động tín dụng.
Trong thời gian qua, Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy đã thực hiện thành công hoạt động đồng tài trợ nhằm phân tán rủi ro. Tuy nhiên, phân tích cơ cấu cho vay của Ngân hàng cho thấy cơ cấu vốn cho vay không đồng đều, phần lớn tập trung vào một số khách hàng truyền thống như các Tổng công ty lớn, các doanh nghiệp quốc doanh. Vì thế, hoạt động của Ngân hàng cũng phụ thuộc khá nhiều vào các khách hàng này. Do đó, Ngân hàng cần có chính sách khách hàng hợp lý nhằm duy trì tốt mối quan hệ với các khách hàng truyền thống, đồng thời thu hút và mở rộng các khách hàng thuộc các lĩnh vực, ngành nghề khác tạo được cơ cấu tín dụng đa dạng để có thể giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng có thể áp dụng đa dạng hoá các hình thức cho vay như cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay ưu đãi... Bên cạnh đó, cần phát huy hình thức dịch vụ trọn gói từ mở tài khoản, cho vay, mua bán ngoại tệ..., mở rộng hình thức nối mạng thanh toán cho khách hàng với các ngân hàng khác, dịch vụ quản lý vốn cho khách hàng.
1.6 Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng:
Thứ nhất, cán bộ tín dụng là những người thực tế thẩm định và đề xuất cho vay khách hàng, là người chịu trách nhiệm chính đối với khoản tín dụng bị rủi ro. Do vậy phải nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Đây là một việc làm quan trọng nhằm giải quyết tình trạng cán bộ tín dụng “ngại” cho vay. Do yếu tố tâm lý, cán bộ tín dụng cho rằng nếu cho vay thu nợ đầy đủ hàng trăm tỷ cũng không được khen thưởng, không được tăng lương, nhưng chỉ cần một khoản vay phát sinh quá hạn là bị coi là yếu kém, bị xử lý... Do vậy cán bộ tín dụng chỉ cần hoạt động cầm chừng.
Thứ hai, trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật ngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó, đặc biệt với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành, liên ngành; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần phòng tránh những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
2. Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng
Bên cạnh những giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng thì việc xử lý những rủi ro thực tế đã xảy ra cũng là một vấn đề rất bức thiết đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy nói riêng. Qua phân tích tình hình rủi ro tín dụng tại Ngân hàng ở chương II cho thấy, số nợ quá hạn thông thường cũng như nợ khó đòi tập trung vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp quốc doanh.Số nợ khó đòi về cơ bản vẫn chưa có giải pháp xử lý dứt điểm, nên đã xảy ra tình huống số nợ này cứ tồn tại năm này qua năm khác gây ra những tác động xấu đến hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy, việc đưa ra những giải pháp xử lý nợ quá hạn, nợ khó đòi hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng. Do đặc thù của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, nợ quá hạn phát sinh từ tín dụng trung dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chiếm phần lớn số nợ quá hạn tại Ngân hàng nên Ngân hàng trước hết cần thực hiện tốt những biện pháp xử lý theo sự chỉ đạo của Chính phủ sau đó kết hợp với tình hình thực tế để đưa ra những biện pháp hợp lý.
2.1 Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn:
Khi đến hạn trả nợ, khách hàng không tự giác trả nợ và lãi cho Ngân hàng thì Ngân hàng tiến hành trích tiền gửi trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy để thu nợ, thu lãi hoặc nhờ thu qua ngân hàng bạn nếu tài khoản tiền gửi của khách hàng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy không đủ để thanh toán toàn bộ và khách hàng có tài khoản tiền gửi ở ngân hàng khác, hoặc yêu cầu người bảo lãnh vay vốn trả thay.
Đối với các khoản nợ quá hạn thông thường, cán bộ tín dụng phụ trách tích cực bám sát, theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng, liên tục đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để kiểm tra và gửi giấy nhắc trả nợ (có ghi rõ số nợ quá hạn, lãi suất, thời gian quá hạn, biện pháp xử lý có thể áp dụng), theo dõi tài khoản tiền gửi của họ có phát sinh số dư có.
Kiểm soát trưởng hoặc kiểm soát viên cùng với trưởng phòng tín dụng, cán bộ tín dụng phụ trách đơn vị kiểm tra lại việc thực hiện theo quy trình tín dụng của cán bộ tín dụng để xác định lại xem có bỏ qua bước nào không, xác định nguyên nhân làm phát sinh nợ quá hạn là do Ngân hàng, khách hàng hay nguyên nhân khác. sau đó sẽ đến địa điểm sản xuất kinh doanh của khách hàng để rà soát tổng dư nợ vay các loại của khách hàng, xác định khả năng trả nợ của khách hàng, nguyên nhân chi tiết dẫn đến nợ quá hạn để xác định tính chất của khoản nợ quá hạn và đưa ra các biện pháp xử lý có hiệu quả nhất.
2.2 Đối với công tác thu nợ:
Khi người vay đem tiền đến để thanh toán khoản nợ quá hạn thì Ngân hàng tiến hành thu nợ theo thứ tự sau: thu lãi quá hạn, thu gốc quá hạn, thu lãi đến hạn, thu gốc. Vì vậy, đối với các khoản nợ quá hạn trên 12 tháng, nếu khách hàng chỉ có khả năng trả gốc và lãi suất thông thường thì Ngân hàng nên xem xét và quyết định chỉ thu lãi suất thông thường. Trong trường hợp khách hàng thật sự khó khăn, Ngân hàng nên thu hồi phần vốn gốc trước và thu hồi phần lãi sau. Như vậy sẽ đề phòng trường hợp người vay mất khả năng trả nợ trong tương lai, giảm gánh nặng lãi quá hạn cho bên vay. Mặt khác, nếu thu lãi trước sẽ tạo thành thu nhập phải nộp thuế cho Ngân sách Nhà nước trong khi chưa thể thu hồi hết nợ của người vay và đây là điều bất lợi cho Ngân hàng. Nếu bên vay đã trả được nợ gốc, chưa trả lãi thì khế ước vay vốn vẫn được lưu lại ở Ngân hàng và Ngân hàng cùng khách hàng thoả thuận về kế hoạch trả lãi.
2.3 Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, có nợ đọng kéo dài mặc dù Ngân hàng đã tiến hành các biện pháp để giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, Ngân hàng có thể yêu cầu Bộ trưởng, Chủ tịch UBND Tỉnh, Thành Phố, hội đồng quản trị Tổng công ty 91 lựa chọn và quyết định cổ phần hoá các doanh nghiệp này, ngoài ra có thể tiến hành cho thuê, bán, khoán các doanh nghiệp Nhà nước. Sau khi áp dụng các biện pháp này, các Giám đốc doanh nghiệp sẽ là người có năng lực, có quyền tự chủ trong kinh doanh với người lao động tiến hành sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, dần dần phục hồi và phát triển doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, Ngân hàng sẽ từng bước thu hồi được vốn.
Ngoài ra, với số tiền thu được do cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp có thể được dùng để trả nợ cho Ngân hàng hoặc Ngân hàng có thể tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp và tham gia điều hành doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không trả được nợ, trong một số trường hợp, Ngân hàng có thể chuyển vốn cho vay thành vốn góp vào doanh nghiệp kèm theo là việc cử người tham gia vào Hội đồng quản trị của doanh nghiệp. Ngân hàng chuyển số tiền đó từ hình thức cho vay sang hình thức đầu tư. Biện pháp này phụ thuộc vào quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng và để thực hiện thì cần phải có sự đồng ý của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương vì nó liên quan đến việc đem vốn tự có của ngân hàng đi đầu tư.
2.4 Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Đây là biện pháp được dùng để xử lý các khoản nợ khó đòi mà khả năng thu hồi được là rất ít. Trong trường hợp này thường được sử dụng đối với các khoản nợ mà Ngân hàng là chủ động không có bảo đảm được hoặc có bảo đảm một phần. Ngân hàng có quyền đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp phá sản thì Sở giao dịch còn có thể thu hồi được một phần hoặc tất cả nợ gốc. Điều đó vẫn còn tốt hơn là Ngân hàng không thu được nợ gốc, lại mất thêm chi phí giám sát, quản lý khoản nợ nếu doanh nghiệp không bị phá sản.
Nếu khi cho vay, Ngân hàng nhận tài sản thế chấp, cầm cố thì Ngân hàng là chủ nợ có bảo đảm, Ngân hàng sẽ không có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Sau khi bán tài sản thế chấp, cầm cố mà không đủ thanh toán nợ cho Ngân hàng thì Ngân hàng sẽ là chủ nợ không bảo đảm và có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp để thu hồi được nợ từ tài sản còn lại của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, cán bộ tín dụng cần theo dõi tình hình của doanh nghiệp để có thể bán tài sản thế chấp, cầm cố trước khi doanh nghiệp bị các chủ nợ khác yêu cầu tuyên bố phá sản. Nếu đến khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp Ngân hàng muốn bán tài sản thế chấp, phải có sự đồng ý bằng văn bản của thẩm phán, hoặc để cho tổ thanh toán tài sản bán. Tất nhiên, giá bán lúc này không thể cao được. Như vậy, Ngân hàng đã bỏ lỡ cơ hội tối đa hoá số tiền thu được.
Khi thực hiện biện pháp này Ngân hàng cần xác định đúng mình là loại chủ nợ nào của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý hợp lý nhất. Các doanh nghiệp bị áp dụng biện pháp này là các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ Ngân hàng dịch sau khi đã áp dụng các biện pháp khai thác hoặc cố tình dây dưa không chịu trả nợ.
III. CÁC KIẾN NGHỊ :
Như đã phân tích ở chương hai, trong số các nguyên nhân gây ra rủi ro trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có những nguyên nhân khách quan thuộc về phía các cơ quan quản lý vĩ mô mà trực tiếp là Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước. Mặt khác, trong số những giải pháp đưa ra trên đây có những giải pháp pháp chỉ có thể thực hiện và phát huy được hiệu quả khi có sự giúp đỡ, hỗ trợ từ phía các cơ quan này. Những kiến nghị đưa ra sau đây đều nhằm giải quyết hai vấn đề đó.
1. Đối với Nhà nước:
1.1 Tạo môi trường kinh tế ổn định
Một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các Ngân hàng thương mại là môi trường kinh tế không ổn định. Môi trường kinh tế không ổn định sẽ gây khó khăn cho ngân hàng cũng như các doanh nghiệp trong kinh doanh, từ đó có thể dẫn đến rủi ro tín dụng. Chính vì vậy, Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp nhằm đảm bảo môi trường kinh tế ổn định cho hoạt động của các doanh nghiệp, trong đó có ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Nhà nước nên có những giải pháp thiết thực nhằm tháo gỡ khó khăn khi có sự chuyển đổi, điều chỉnh cơ chế chính sách liên quan đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Mặt khác, Nhà nước cũng cần có những biện pháp nhằm bảo vệ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, điều chỉnh và tăng cường hiệu lực pháp lý của chính sách thuế, chính sách bảo trợ sản xuất trong nước, chính sách ngăn chặn hàng nhập lậu…
1.2 Tạo môi trường pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động TDNH.
Hệ thống pháp luật nước ta hiện nay chưa đồng bộ, tính ổn định chưa cao. Trong điều kiện nước ta đang chuyển sang cơ chế thi trường, nhiều vấn đề cơ bản của cơ chế thị trường chưa được nghiên cứu kỹ. Do những tác động cả chủ quan và khách quan mà hệ thống pháp luật nước ta chưa đồng bộ, chưa thực sự là cán cân công lý trong kinh doanh. Trong điều kiện đó, phương pháp tốt nhất để hoàn thiện pháp luật kinh tế là cần tiến hành hai công việc: vừa xây dựng các văn bản pháp quy về kinh tế, vừa nghiên cứu để ban hành bộ luật mới nhằm thống nhất các quy định pháp luật trong văn bản luật kinh tế.
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản luật cần thiết để chỉnh các quan hệ như: Luật doanh nghiệp, Luật thuế, pháp lệnh chuyển giao công nghệ, hợp đồng kinh tế.
Trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với tổ chức kinh tế sự cảnh giác vẫn là một nhân tố quan trọng, đồng thời với việc phát triển hoạt động ngân hàng cũng phải có thêm các biện pháp mới để Luật ngân hàng hoàn thiện hơn. Do đó nhà nước nên sửa và bổ sung một số luật như: Luật đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật thế chấp phát mại tài sản... phục vụ cho hoạt động tín dụng ngân hàng cũng như thị trường vốn.Như vậy đứng trên giác độ ngân hàng các nhân tố trên sẽ làm giảm bớt rủi ro, nâng cao tính sẵn sàng đầu tư của ngân hàng. Những nhân tố đó giúp cho ngân hàng mạnh dạn mở rộng quan hệ tín dụng với mọi thành phần kinh tế.
1.3 Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng.
Để khuyến khích các doanh nghiệp, các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn vào phát triển sản xuất trước tiên Nhà nước cần phải tạo lập được một hệ thống cơ sở pháp lý, cơ chế, chính sách ổn định và hợp lý. Mọi quyết định mà Chính phủ đưa ra đều phải cân nhắc kỹ càng, tránh tình trạng đưa ra một quyết định mới một cách vội vàng rồi lại điều chỉnh, sửa đổi khiến cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư hoang mang.
Chính phủ cần có thái độ rất khoát trong việc rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, chỉ giữ lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, những doanh nghiệp mà Nhà nước thực sự cần phải lắm giữ để đảm bảo vai trò định hướng kinh tế. Còn lại những doanh nghiệp khác có thể xử lý bằng cách giải thể, sáp nhập hoặc cổ phần hoá nhằm tăng vốn, tăng năng lực sản xuất kinh doanh. Với những doanh nghiệp giữ lại Nhà nước cần cung cấp đủ vốn theo điều lệ đã được duyệt nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng.
Kiểm soát nghiêm ngặt các luồng hàng từ bên ngoài đưa vào để ngăn chặn hàng nhập lậu. Đây là một trong những vấn đề nhức nhối nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang phải đối mặt.
Có chính sách khuyết khích các doanh nghiệp có phương án đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu hoặc có thể xuất khẩu, thông qua nguồn cho vay ưu đãi, tạo thuận lợi về mặt thủ tục xuất nhập khẩu.
1.4 Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm.
Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý, phân tích thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có đăng ký để tiến hành đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp đó. Trên cơ sở bảng xếp hạng của tổ chức này, các Ngân hàng thương mại sẽ tham khảo để có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức này, Chính phủ có thể bắt buộc chỉ những doanh nghiệp nào có đăng ký tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm mới được ngân hàng xem xét cho vay vốn. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp sẽ phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng để có được giấy chứng nhận nếu muốn vay vốn ngân hàng.
Ngoài tác dụng giúp đỡ ngân hàng trong việc thẩm định khách hàng, hoạt động của tổ chức này còn tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao năng lực tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao. Đó cũng là một cách để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
2. Đối với ngân hàng nhà nước.
Để bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại, trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các quy định, quy chế và môi trường pháp lý của hoạt động tín dụng, cụ thể là:
2.1 Bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các NHTM.
Thông tin ở đây bao gồm hai loại: thứ nhất là thông tin về doanh nghiệp; thứ hai là những thông tin có tính chất định hướng cho hoạt động của Ngân hàng thương mại. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các Ngân hàng thương mại, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các Ngân hàng thương mại sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng.
Cùng với thông tin về doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước còn phải nắm vững để cung cấp cho các Ngân hàng thương mại những thông tin về phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho Ngân hàng thương mại về những lĩnh vực, những ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương, đường lối phát triển chung đồng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho Ngân hàng thương mại.
Chính vì vậy, CIC cần nâng cao chất lượng thông tin cung cấp cho ngân hàng. CIC cần phối hợp và thu thập thông tin từ các tổ chức ngân hàng, từ các trung tâm thông tin của Bộ, Ngành, từ các cơ quan Nhà nước quản lý doanh nghiệp, từ các doanh nghiệp, tiếp cận với nguồn thông tin nước ngoài (sách báo, tạp chí, cơ quan chuyên cung cấp thông tin quốc tế, các tổ chức nước ngoài...). CIC cần thu thập các thông tin toàn bộ các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam (kể cả các doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng với các ngân hàng), về cả các cá nhân kinh doanh chưa có quan hệ tín dụng (về hồ sơ pháp lý, tình hình tài chính, thị trường và sản phẩm của họ).
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, CIC cần sắp xếp, phân loại các thông tin để có thể cung cấp cho các ngân hàng một cách chính xác nhất, nhanh nhất. Các ngân hàng cũng cần được cung cấp thông tin dự báo vĩ mô về định hướng phát triển kinh tế theo ngành, vùng một cách đầy đủ và kịp thời.
Ngược lại, các ngân hàng thành viên cần thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia cung cấp đầy đủ số liệu về số dư tiền gửi, tiền vay của khách hàng và sự biến động của chúng, cung cấp hồ sơ kinh tế khách hàng cho CIC.
Ngoài ra, các ngân hàng cần giúp đỡ, hỗ trợ nhau trong quá trình xử lý nợ quá hạn: cung cấp thông tin về khách hàng, về tài sản thế chấp, cầm cố, về kinh nghiệm xử lý nợ quá hạn, kết nối hai khách hàng có quan hệ với hai ngân hàng khác nhau nhưng lại có thể bổ sung cho nhau để cùng giải quyết khó khăn.
2.2 Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các Ngân hàng thương mại , chi nhánh Ngân hàng thương mại:
Sự quản lý của NHNN chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt động của các Ngân hàng thương mại không giống nhau, nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình. Đơn cử như quy định về vốn tự có tối thiểu của các doanh nghiệp tham gia vào dự án, trên thực tế có rất nhiều doanh nghiệp có phương án kinh doanh rất tốt, có đủ tài sản thế chấp nhưng không đủ vốn tự có tham gia dự án như yêu cầu nên không được vay vốn, rõ ràng trong trường hợp này ngân hàng đã mất đi một khách hàng đầy tiềm năng. Quy định về tỷ lệ vốn tối thiểu của doanh nghiệp tham gia dự án là nhằm ràng buộc, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc thực hiện dự án. Nhưng điều này thực sự có cần thiết hay không bởi lẽ khi doanh nghiệp đã sẵn sàng thế chấp toàn bộ tài sản của mình để vay vốn thì đương nhiên họ phải có trách nhiệm với khoản vay nếu như không muốn bị xiết nợ bằng tài sản thế chấp. Hay như quy định về một tài sản thế chấp chỉ được thế chấp tại một ngân hàng cũng có chỗ không ổn. Nếu một doanh nghiệp có tài sản thế chấp có giá trị lớn hơn nhiều lần khoản vốn vay nhưng do ngân hàng hiện đang nhận thế chấp không muốn cho doanh nghiệp vay nữa thì doanh nghiệp đó cũng đành chịu không thể vay vốn ở ngân hàng khác. Đưa một vài ví dụ như vậy là để muốn nói rằng vai trò quản lý vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước là cần thiết song ở một mức độ nhất định cần đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các Ngân hàng thương mại để họ phát huy sự sáng tạo, linh hoạt nhằm thích ứng với môi trường kinh doanh.
KẾT LUẬN
Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, việc đổi mới, nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng luôn là yêu cầu cấp bách không chỉ của Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy mà còn là của tất cả các Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Với tinh thần mong muốn đóng góp vốn kiến thức nhỏ bé của mình vào việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, trong chuyên đề này em đã đề cập đến những nội dung chính sau:
Đưa ra một quan điểm chung về rủi ro tín dụng ngân hàng, phân tích các chỉ tiêu đánh giá, các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng để lấy đó làm tham chiếu phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy trong thời gian tới trên cả hai mặt phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Tuy nhiên đây cũng chỉ là những giải pháp sơ lược, mang tính lý thuyết và được đưa ra dưới góc độ nghiên cứu cá nhân. Mặt khác, do năng lực và hiểu biết còn hạn chế nên luận văn này không tránh khỏi những sai sót.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của các cán bộ phòng Tín dụng Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính. Tác giả Frederic S. Mishkin.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
Sách Ngân hàng thương mại. Tác giả Lê Văn Tư.
Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
Quy định cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng đầu tư và phát triển
Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
Độc lâp - Tự do - Hạnh phúc
Khoa Tài chính –Ngân hàng
---------------o0o--------------
BẢN NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Đề tài: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
Sinh viên thực hiện: VŨ TRUNG HIẾU
Cơ quan thực tập: Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy
Ý kiến nhận xét của cơ quan thực tập
............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................ ....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
..........................................................................................................................................................................................................................................................
Điểm chuyên đề tốt nghiệp: ....................................................
Hà Nội, ngày tháng năm 2004
MỤC LỤC
Lêi nãi ®Çu 1
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0365.doc