Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, các NHTM Việt Nam đã và đang khẳng định tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã đem lại nhiều tiện lợi và loại ích cho nền kinh tế cũng như các chủ thể trong nền kinh tế và bản thân các NH.
Khi hệ thống NH nước ta chuyển sang cơ chế thị trường đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên đến nay sau 18 năm đổi mới, nền kinh tế – xã hội, việc ưu thích dùng tiền mặt trong quan hệ thanh toán vẫn còn khá phổ biến. Việc phổ biến sử dụng tiền mặt làm phương tiên thanh toán trong nền kinh tế là dấu hiệu cho thấy trình độ nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò quan trọng thể hiện cho nền kinh tế hiện đại và là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, thanh toán không dùng tiền mặt đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng, đồi hỏi nhiều sự nỗ lực từ các NHTM cũng như sự hỗ trợ về nhiều mặt của NHNN và Chính phủ và các cơ quan hữu quan.
Để đạt được yêu cầu trên, các NHTM không ngừng nghiên cứu, nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ nhằm tăng cường hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt qua NH và hoà nhập với sự phát triển kinh tế khu vực và thế giới.
Trên cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt và quá trình nghiên cứa tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nhỏ bé của mình trong viêcj mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Em cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo . và các cô chú trong Chi nhánh đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
60 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1167 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó xu hướng giảm dần, năm 2001 tỷ trọng của thanh toán bằng séc là 3% sang năm 2002 là 2,8% (song tốc độ tăng vẫn đạt +30,3% so với 2001) đến năm 2003 tỷ trọng là 2,3% và tốc độ tăng ở con số âm (-6,9%) so với năm 2002. Hình thức thanh toán được ưu chuộng nhất và có doanh số thanh toán chiếm tỷ trọng cao nhất phải kể đến là hình thức uỷ nhiệm chi. Tỷ trọng 2001 chiếm 67,2% (tương ứng 11.004.554,1 triệu đồng) sang năm 2002 con số này là 59% (13.493.217 triệu đồng) tăng 22,6% (2.488.662,9 triệu đồng) so với năm 2001, anưm 2003 tỷ trọng của uỷ nhiệm chi là 60% (15.804.591 triệu đồng) tăng 17,1% (tương ứng 2.311.374 triệu đồng). Qua đây ta thấy uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán tiện lợi, an toàn, dễ hiểu, gọn nhẹ, đối với khách hàng mà đặc biệt với khách hàng là các doanh nghiệp. Hình thức thanh toán có doanh số đứng thức hai sau uỷ nhiệm chi là nhóm “các hình thức thanh toán khác” hình thức này có thể bao gồm L/c hoặc các hình thức không liệt vào nhóm các hình thức nói trên. Theo số liệu của bảng 3 ta thấy thanh toán khác năm 2001 có tỷ trọng là 29,5%, năm 2002 là 38% tăng 3.864.591,1 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 80,1% (so với năm 2001), đến năm 2003 tỷ trọng là 37,52% tăng 1.216.645,4 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là 14%. Như vậy nhóm này có chiều hướng giảm dần và giảm mạnh để thay vào đó là sự tăng trưởng của hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi. Nhóm được xếp có tỷ trọng sau cùng là nhóm thanh toán bằng uỷ nhiệm thu, năm 2001 tỷ trọng của nhóm là 0,33%, năm 2002 con số này giảm xuống còn 0,21% (48.026,7 triệu đồng), tốc độ tăng trưởng là con số âm –11,1%, năm 2003 tỷ trọng này chỉ còn 0,18% (47.868 triệu đồng) giảm 158,7 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng là -0,3% so với năm 2002. Qua đây ta thấy các nhóm thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm thu, và nhóm thanh toán khác có xu hướng giảm dần nhưng nhìn chung thì doanh số thanh toán không dùng tiền mặt của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đều tăng trưởng đều đặn. Điều đó cũng chứng tỏ sự ưu chuộng của khách hàng với hình thức uỷ nhiệm chi và sự e dè trong các hình thức còn lại.
Hiểu được vai trò quan trọng và hiệu quả kinh tế của thanh toán không dùng tiền mặt, qua việc phân tích và tìm hiểu nguyên nhân tại sao thanh toán tiền mặt lại được người dân ưu chuộng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh số thanh toán chung của Chi nhánh, Ban giám đốc Chi nhánh cùng với toàn thể CBCNV của Chi nhánh đã rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng và trình độ nghiệp vụ thanh toán. Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến những nỗ lực cải tiến công nghệ, trang thiết bị cũng như những chính sách phục vụ khách hàng nhằm phục vụ tốt hơn công tác thanh toán, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và sự phát triển của quá trình sản xuất – lưu thông hàng hoá trong nền kinh tế hiện đại. Để từ đó nâng cao chất lượng của công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Chi nhánh, vừa có lợi cho khách hàng, vừa có lợi cho nền kinh tế và đặc biệt là cho bản thân Chi nhánh. Chi nhánh đã tạo được uy tín của mình đối với khách hàng và thu hút được rất đông khách hàng đéen giao dịch và sử dụng dịch vụ thanh toán của Chi nhánh. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của Chi nhánh nhằm nâng cao, hoàn thiện và mở rộng dịch vụ của mình theo hướng đa dạng hoá, chuyên môn hoá. Cụ thể của công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình thể hiện như sau.
3.1. Hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi.
Uỷ nhiệm chi là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt được khách hàng ưu chuộng nhất tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Điều này được chứng minh bằng số liệu ở bảng 3, doanh số thanh toán của uỷ nhiệm chi qua các năm đều cao nhất và tăng trưởng đều. Lý do chính có được là do uỷ nhiệm chi là nghiệp vụ thanh toán nhanh gọn, thủ tục đơn giản phạm vi thanh toán rộng và phù hợp với các doanh nghiệp có quan hệ thanh toán. Chính vì vậy uỷ nhiệm chi luôn có tỷ trọng lớn trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt.
Qua số liệu của bảng 4 ta thấy uỷ nhiệm chi không những lớn về doanh số còn lớn cả về số món và cả về mặt giá trị của các món. Giá trị của các món tăng qua các năm, năm 2001 trung bình 1 món thanh toán có giá trị là 135,3 triệu đồng, năm 2002 con số này là 163 triệu đồng và năm 2003 trung bình chung là 184,4 triệu đồng 1 món.
Như vậy hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi của Chi nhánh đều tăng qua các năm và được các cá nhân và tổ chức kinh tế chọn làm phương tiện thanh toán chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ là phổ biến và nhiều nhất. Tuy nhiên hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi này thường được áp dụng với các khách hàng có uy tín lẫn nhau, vì thực tế cho thấy hình thức này vẫn còn có rủi ro lớn cho tất cả các bên sử dụng nó. (sơ đồ)
Qua sơ đồ ta có thể thấy: Nếu bên bán không chịu giao đủ hàng hay giao không đúng hàng, không đúng thời hạn đã hợp đồng với bên mua thì bên mua sẽ gặp rủi ro hoặc ngược lại nếu giao hangf trước bên mua lập uỷ nhiệm chi nhượng lại không có đủ khả năng thanh toán thì quyền lợi của bên bán dễ bị xâm hại.
Tuy vậy hình thức uỷ nhiệm chi vẫn được khách hàng ưu dùng vì trên thực tế hình thức này có thủ tục đơn giản, nhanh gọn, phạm vi thanh toán rộng và đặc biệt nhất là hình thức này có ứng dụng công nghệ tin học trong viẹec chuyển tiền từ NH này sang NH khác một cách nhanh chóng, an toàn và chi phí cho dịch vụ này là rẻ.
3.2. Hình thức thanh toán uỷ nhiệm thu.
Qua số liệu của bảng 3 ta thấy: doanh số thanh toán của uỷ nhiệm thu có tỷ trọng rất nhỏ trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt năm 2001 tỷ trọng là 0,33% (tương ứng là 54.040,2 triệu đồng) năm 2002 tỷ trọng là 0,21% (48.026,7 triệu đồng) và năm 2003 con số đó là 0,18% (47.868 triệu đồng). Với những con số đó ta thấy tốc độ tăng trưởng của hình thức này qua các năm đều mang con số âm, năm 2002 tốc độ tăng trưởng là -11,1% (-6.013,5 triệu đồng) so với năm 2001 và năm 2003 tốc độ tăng trưởng là -6,9% (-158,7%). Qua đây ta thấy uỷ nhiệm chi ngày một không được khách hàng ưu chuộng như uỷ nhiệm chi. Nguyên nhân chính là uỷ nhiệm thu được áp dụng trong phạm vi hẹp, thủ tục rườm rà và chỉ được khách hàng áp dụng trong việc thanh toán các chi phí về điện, nước, điện thoại,... đó là các dịch vụ cung ứng thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng như các tổ chức kinh tế xã hội. (sơ đồ 3)
Theo sơ đồ ta thấy uỷ nhiệm thu là do bên bán (cung ứng hàng hoá, dịch vụ) lập đề nghị NH phục vụ mình thu hộ một khoản tiền nào đó theo định kỳ, do hai bên đã thoả thuận hoặc ký hợp đồng với nhau. Khi nhận được giấy uỷ nhiệm thu do đơn vị bán (cung ứng hàng hoá, dịch vụ) nộp vào NH thì trong vòng 1 ngày làm việc NH bên trả tiền phải trích tài khoản của bên trả tiền cho đơn vị thụ hưởng (đơn vị bán) để hoàn tất việc thanh toán. Nếu do lý do nào đó bên trả không có đủ số dư trên tài khoản để chi trả cho đơn vị bán (thụ hưởng) thì người thụ hưởng có thể phạt trả chậm đối với bên trả tiền. Đây chính là lý do mà khách hàng ít ưu chuộng hình thức thanh toán này và chỉ phù hợp với khách hàng sử dụng các hàng hoá phục vụ cho nhu cầu thiết yếu như điện, nước, điện thoại... Bên cạnh đó trên thị trường thì không phải lúc nào quan hệ mua bán cũng dựa trên sự tín nhiệm lẫn nhau, do đó họ chuyển sang hình thức thanh toán khác.
3.3. Hình thức thanh toán bàng séc.
Séc là hình thức thanh toán tiến bộ trong các hình thức thanh toán truyền thống của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình bởi vì thủ tục thanh toán đơn giản, thời gian thanh toán nhanh, kịp thời, dễ sử dụng. Thanh toán bằng séc tạo ra sự vận động tương đối đồng thời giữa vật tư hàng hoá và tiền tệ. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay hình thức này vẫn còn hạn chế cả về phạm vi và số lượng so với các hình thức khác, điều này trái với sự mong muốn của các nhà quản trị NH cũng như khách hàng. Bên cạnh đó cũng cần phải kể đến một lý do đó là thị trường Việt Nam chưa thực sự phù hợp với hình thức thanh toán này và cũng phần nào do thói quen của người dân nước ta. Nhằm giảm bớt sự chồng chéo cồng kềnh về giấy tờ cũng như thủ tục theo nghị định 30/CP của Chính phủ thì tất cả các loại séc đều cùng được in cùng một loại mẫu chỉ phân biệt thông qua ghi chép và đóng dấu trên séc. Hiện nay tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình có 3 laọi séc thanh toán đó là:
Séc chuyển khoản
Séc bảo chi
Séc chuyển tiền.
Nhìn chung thanh toán bằng bằng séc chiếm tỷ trọng thấp so với các hình thức khác và ngày càng có xu hướng giảm đần. Hiện tượng này đã có từng nguyên nhân nhất định và phụ thuộc vào từng loại séc. Cụ thể công tác thanh toán bằng séc của Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình được thể hiện qua bảng 5.
3.3.1. Thanh toán bằng séc chuyển khoản.
Qua số liệu của bảng 5 ta thấy thanh toán bằng séc chuyển khoản có tỷ trọng giảm dần qua các năm, như vậy có chiều hướng dần ít được khách hàng sử dụng cụ thể là: năm 2001 có tỷ tọng là 73,9% năm 2002 tỷ tọng là 20% và giảm 96,47% so với năm 2001, năm 2003 tỷ trọng là 24,8% tăng 15,5% so với 2002. Lần lượt tương ứng với doanh số thanh toán là 2001 363.031,8 triệu đồng, 2002: 128.071,2 triệu đồng và năm 2003 : 147.960 triệu đồng.
Qua thực tế cho thấy, hiện nay sự tín nhiệm về thanh toán giữa các khách hàng chưa cao, những món tiền có giá trị cao thì không được khách hàng tin tưởng. Qua số liệu bảng 4 ta thấy nhìn chung thanh toán bằng séc có giá trị từng món thấp, năm 2001 trung bình chung 1 món chỉ là 4,9 triệu đồng, 2002 là 5,9 triệu đồng và năm 2003 là 6,5 triệu đồng. Bên cạnh đó việc các NH sử phạt pháp hành séc quá số dư chưa nghiêm, chưa được thực hiện đầy đủ nên quyền lợi của người thụ hưởng rất dễ bị xâm phạm. Điều đó cũng làm cho séc chuyển khoản ngày bị thu hẹp. Không những thế thanh toán bằng séc chuyển khoản bao giờ cũng phải ghi nợ trước có sau, do đó nếu khách hàng mở tài khoản ở hai NH khác nhau mà người thụ hưởng nộp séc vào NH phục vụ mình thì phải mất 1 khoảng thời gian luân chuyển chứng từ từ 1 đến 2 ngày, sau đó người sau đó người thụ hưởng mới nhận được tiền. Séc chuyển khoản mang tính rủi ro cao cho người thụ hưởng cho nên tâm lý của người thụ hưởng rất ít khi chấp nhận thanh toán bằng séc chuyển khoản.
3.3.2. Thanh toán Séc bảo chi.
Séc chuyển khoản tiềm ẩn rủi ro cao cho người thụ hưởng,thì séc bảo chi đã khắc phục được điều đó. Trước hết, sử dụng hình thức thanh toán bằng séc bảo chi thì luôn đảm bảo khả năng thanh toán, không lo đơn vị mua mất khả năng thanh toán vì tiền đã được lưu ký vào tải khoản tiền gửi đảm baỏ thanh toán. Việc thanh toán séc bảo chi cùng hệ thống được phép ghi có trước nên thời gian thanh toán cũng rất nhanh đối với người thụ hưởng, không bị đọng vốn do đó séc bảo chi thưởng được khách hàng ưu chuộng hơn séc chuyển khoản. Điều này được chứng tỏ qua số liệu của bảng 4, 5. Doanh số thanh toán của séc bảo chi qua các năm có tỷ trọng tăng dần, cụ thể năm 2001 tỷ trọng là (25,1%) tổng doanh số thanh toán séc (123.303,1 triệu đồng) năm 2002 tỷ trọng là 79,7% (510.363,8 triệu đồng) tăng 313,9% so với năm 2001 và năm 2003 tỷ trọng là 75,1% giảm 12,26% so với năm 2002.
Tuy nhiên sử dụng séc bảo chi cũng có những nhược điểm nhất định, đặc biệt đối với người mua, người mua phải lưu ký vào tài khoản riêng (không được hưởng lãi), nên ít nhiều cũng bị động vốn trong một thời gian nhất định. Ngoài ra làm thủ tục bảo chi séc tại NH cũng có những phiền hà đối với khách hàng. Với người bán cũng có rủi ro nhất định. Khi tiếp nhận séc bảo chi thì không thể kiểm tra ký hiệu mật để xác minh tính hợp lệ của tờ séc. Trong trường hợp thanh toán séc bảo chi trong cùng hệ thống nhưng khác địa phương thì việc tra soát mã số cũng gặp nhiều khó khăn. Từ những hạn chế đó cũng khiến khách hàng không ưu chuộng hình thức thanh toán bằng séc bảo chi nhiều lắm.
3.3.3. Hình thức thanh toán séc chuyển tiền.
Qua số liệu ta thấy séc chuyển tiền chiếm tỷ lệ thấp trong tổng doanh số thanh toán bằng séc và có xu hướng giảm dần qua các năm, cụ thể như: Năm 2001 séc chuyển tiền chiếm tỷ trọng 1% trong tổng doanh số thanh toán tương ứng với con số 4.912,4 triệu đồng, năm 2002 tỷ trọng là 0,3% (1.920,1 triệu đồng) tốc độ tăng trưởng là -60,89% (tương ứng với giảm- 2.991,3 triệu đồng) so với năm 2001, năm 2003 con số này chỉ đạt 0,1% trong tổng doanh số thanh toán bằng séc (151 triệu đồng) giảm -1.770 triệu đồng tương ứng với tốc độ tăng trưởng con số –92,1%. Đây quả là một điều đáng lo ngại với Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Và cũng qua đó ta thấy tính ứng dụng và phù hợp của séc chuyển tiền với thị trường nước ta, nguyên nhân chính là séc chuyển tiền chứa đựng nhiều rủi ro cho cả bên mua và bên bán, bởi tính hợp lệ , hợp pháp của séc chuyển tiền không cao. Bên cạnh đó cũng cần phải đề cập đến thủ tục thanh toán chưa gọn nhẹ, quá rườm rà và gây phiền hà cho khách hàng cũng như chưa đáp ứng được tính nhanh gọn, kịp thời cho các bên tham gia quan hệ thanh toán.
Như chúng ta biết séc chuyển tiền có phạm vi thanh toán là khác địa phương nhưng cùng hệ thống Ngân hàng Thương mại. Muốn được cấp séc chuyển tiền đơn vị phải lập uỷ nhiệm chi 3 liên, ghi nội dung, mục đích, họ tên, số CMTND, người cầm séc nộp vào NH phục vụ mình. Ngân hàng yêu cầu người cầm séc ký tên vào mặt sau cuống séc rồi giao cả 2 liên séc chuyển tiền. Đây quả là những bất cập làm cho tính ưu việt của séc chuyển tiền không cao và ít không muốn nói là hầu như không được khách hàng sử dụng.
3.4. Các hình thức thanh toán khác.
Hiện nay tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đang áp dụng phổ biến mấy hình thức thanh toán đó là: thư tín dụng, thanh toán thẻ, sổ séc định mức. Vì lý do thời gian bài luận văm có hạn cũng như thời gian nghiên cứu thực tập còn hạn chế, do vậy phần này em cũng chỉ giám nêu một cách sơ lược và khái quát.
Qua số liệu của bảng 3 ta thấy các hình thức thanh toán này có tỷ trọng khá cao chỉ sau hình thức thanh toán uỷ nhiệm chi, cụ thể như sau: tỷ trọng thanh toán khác năm 2001 là 29,5% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, năm 2002 con số này là 38% (tương ứng với 8.690.546,6 triệu đồng) tăng 80,1% (tương ứng với 3.864.591,1 triệu đồng) so với năm 2002 , sang năm 2003 tỷ trọng là 37,52% (tương ứng với 9.907.192 triệu đồng). Trên thực tế chúng ta thấy, tuy nền kinh tế nước ta có gặp nhiều khó khăn nhưng kim ngạch xuất khẩu của nước ta cũng tăng mạnh, quan hệ buôn bán quốc tế ngày một sôi động hơn, điều này ảnh hưởng nhiều tới thanh toán bằng hình thức L/c. Bên cạnh đó do sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ cho nên việc ứng dụng các phần mền tin học vào trong công tác thanh toán đã giúp cho khách hàng ngày một ưu chuộng vì tính ưu việt: nhanh, kịp thời, an toàn, rẻ đem lại. Đó là các hình thức thanh toán thẻ như thẻ thông minh (smart card), thẻ ATM... Hiện nay tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã áp dụng các máy rút tiền bằng thẻ cho khách hàng cho nên doanh số thanh toán luôn tăng qua các năm và tỷ trọng lớn. Điều này chứng tỏ rằng các hình thức thanh toán này có xu hướng thích ứng với điều kiện kinh tế nước ta cũng như thói quen tiêu dùng của người dân.
4. Đánh giá về công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình.
NH là trung tâm thanh toán của nền kinh tế, do vậy đối với công tác thanh toán không dùng tiền mặt được xem như một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NH, là nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân. Hoà chung với công tác thanh toán không dùng tiền mặt cùng với các NH khác trong cả nước, Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình luôn coi trọng và tìm mọi biện pháp đổi mới công tác dịch vụ chuyển tiền thanh toán tiền hàng, đầu tư các khoa học kỹ thuật công nghệ khác, triển khai các chính sách khách hàng hỗ trợ cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng cũng như hoạt động SXKD nói chung.
Trong những năm vừa qua nhờ nhận thức được vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua NH , Ban Giám đốc Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng công tác thanh toán, đồng thời có những biện pháp thu hút khách hàng đến mở tài khoản và gửi tiền vào NH. Do đó công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã đạt được những kết quả đáng mứng. Doanh số thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh tăng đều đặn qua các năm, năm 2002 tăng 6.494.034,8 triệu đồng so với năm 2001 đạt tốc độ tăng trưởng là 39,7% so với 2001, năm 2003 tăng 3.845.665,6 triệu đồng đạt tốc độ tăng trưởng 15,2%. DOanh số hoạt động có chiều hướng tăng qua các năm là do Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã coi trọng dịch vụ thanh toán qua NH cho khách hàng. Các nghiệp vụ phát sinh được xử lý hạch toán kịp thời, chính xác. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế về chứng từ, quỹ đảm bảo thanh toán, quỹ tiền mặt để đảm bảo khả năng thanh khoản cao. Do vậy Chi nhánh luôn được khách hàng tín nhiệm.
Để đạt được những kết quả đó thì trước hết là do sự nỗ lực vượt bậc của 257 CBCNV trong toàn Chi nhánh và sự sáng suốt lãnh đạo, kịp thời của Ban Giám đốc Chi nhánh. Bên cạnh đó cũng cần phải nhắc tới sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo của NHNN VN, NHCT VN và các tổ chức đoàn thể, tổ chức chính trị XH đã giúp đỡ Chi nhánh trong những năm vừa qua.
5. Những tồn tại cần khắc phục về công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình.
Mặc dù công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình trong những năm vừa qua đã đạt được những kết quả khả quan, song vẫn còn tồn tại một số những yếu kém như sau:
Chưa ứng dụng hoạt động Marketing trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Chất lượng công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong những năm vừa qua chưa thực sự đáp ứng yeeu cầu của nền kinh tế thị trường sôi động và có độ nhậy cao.
Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ mới được sử dụng chủ yếu ở các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế, chưa được phổ biến rộng rãi ở mọi tầng lớp dân cư. Mạng lưới thanh toán chưa được mở rộng, quy mô hoạt động còn eo hẹp, chưa tương xứng với nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Thủ tục thanh toán đôi khi còn rườm rà gây lãng phí thời gian của khách hàng cũng như tâm lý khó chịu của khách hàng.
Quy trình thanh toán có đôi chỗ còn phức tạp, chưa tiện lợi cho khách hàng, cản trở tốc độ gia tăng tài khoản cá nhân và các sự cố kỹ thuật khác.
Các dịch vụ thanh toán mới như thanh toán thẻ, máy rút tiền tự động chưa được phát triển vì điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật còn chưa đáp ứng với yêu cầu thực tế.
Nguyên nhân tồn tại chủ yếu là:
Trang thiết bị phục vụ cho công tác thanh toán chưa đồng bộ, công nghệ kỹ thuật về tin học phục vụ cho thanh toán cũng còn hạn chế. Đặc biệt là hệ thống nối mạng, giao dịch thanh toán với khách hàng có quy mô hoạt động lớn
Năng lực trình độ nghiệp vụ của CBCNV còn non kém, thiếu kinh nghiệm khâu tiếp thị khai thác và tìm hiệu khách hàng, hoạt động kinh doanh của khách hàng còn hạn chế.
Do tâm lý và thói quen của người dân thường ưu chuộng thanh toán bằng tiền mặt hơn nữa thanh toán không dùng tiền mặt chưa được phổ biến rộng rãi trong dân cư, hầu như người dân chưa biết đến dịch vụ thanh toán của Ngân hàng. Thanh toán không dùng tiền mặt chỉ mới áp dụng chủ yếu đối với các doanh nghiệp, tổ chức.
Độ tín nhiệm lẫn nhau của khách hàng trong thanh toán không dùng tiền mặt chưa cao, nên tư tưởng áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt là còn thấp.
Thanh toán không dùng tiền mặt luôn gẵn liền với công tác thanh toán vốn giữa các Ngân hàng. Hiện nay có rất nhiều Ngân hàng và tổ chức tín dụng tham gia thanh toán cho nên việc thanh toán giữa các Ngân hàng phục vụ người bán và người mua phải thông qua 1 Ngân hàng trung gian. Mà khâu này thường chậm và chưa đồng bộ gây chậm trễ trong thanh otán vốn của khách hàng.
Chưa chú trọng đến công tác quảng cáo tiếp thị, giới thiệu về dịch vụ thanh toán của Ngân hàng với quảng đại dân chúng.
Chưa đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
chương iii
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh nhct khu vực ba đình
i. định hướng phát triển của chi nhánh nhct khu vực ba đình.
Trong nhiều năm qua, nền kinh tế nước ta có nhiều chuyển biến sâu sắc (tăng trưởng GDP các năm bình quân trên 7%) đời sống kinh tế, chính trị, an ninh ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống Ngân hàng phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại háo đất nước. Trong quá trình hội nhập, lĩnh vực tài chính tiền tệ phải đối mặt với các Ngân hàng khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang mang lại cho hệ thống NHVN những cơ hội mới cho sự tăng trưởng trong kinh doanh, nhưng cũng đặt ra những thách thức lớn mà nếu không vượt qua được thì những cơ hội để phát triển và hội nhập kinh tế thành công sẽ tuột khỏi tầm tay. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng không nằm ngoài bối cảnh này.
Mặc dù trong những năm gần đây hệ thống thanh toán của Ngân hàng Việt Nam đã được cải thiện đáng kể và phục vụ khá tốt cho các khách hàng, đặc biệt trong thanh toán với các Ngân hàng nước ngoài. Nhưng Việt Nam vẫn được đánh giá là chưa thoát khỏi “nền kinh tế tiền mặt” do hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt trong nước vẫn chưa có chuyển biến gì đáng kể vẫn chưa vượt qua con số 60% trong tổng doanh số thanh toán.
Tuy nhiên, những khó khăn thách thức với Ngân hàng là còn lớn sức cạnh tranh chưa cao, trình độ công nghệ chưa tiên tiến, từ đó một số đơn vị sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, thu lỗ kéo dài. Từ những nguyên nhân đó làm cho nền kinh tế có nhiều mặt hạn chế. Mặt khác hoạt động huy động vốn và cho vay của các tổ chức tín dụng ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt.
Trước những khó khăn đó, để thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, cân bằng tài chính đảm bảo việc làm và tăng thu nhập cho đồi sống CBCNV Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đã bám sát định hướng phát triển của ngành, phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ năm 2004 với những mục tiêu cụ thể như sau:
+ Tổng ngườn vốn huy động: 3.650 tỷ đồng tăng 15% so với năm 2003.
+ Tổng dư nợ cho vay: 2.040 tỷ đồng tăng 20% so với năm 2003
Trong đó:
Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ là 40% (816 tỷ đồng).
Tỷ trọng dư nợ quá hạn và nợ tồn đọng dưới 0,5% (10,2 tỷ đồng).
Xử lý nợ tồn đọng : 6,2 tỷ đồng.
+ Lợi nhuận hạch toán đạt 50 tỷ đồng.
Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chi nhánh đã đề ra một số biện pháp nhằm thực hiện các chỉ tiêu trên. Cụ thể như sau:
1. Về công tác huy động vốn.
Trong 6 tháng đầu năm 2004 triển khai thêm 2 quỹ tiết kiệm tại Quận Tây Hồ và phố Đào Tấn (Quận Ba Đình) nhằm mở rộng và thu hút tiền gửi chủ yếu từ dân cư, đặc biệt là trên địa bàn Quận Tây Hồ nơi Chi nhánh chưa có quỹ tiết kiệm nào và cũng trên địa bàn này Chi nhánh sẽ trình lên NHCT VN cho phép mở phòng giao dịch nếu hội đủ các yếu tố. Như vậy số lượng quỹ tiết kiệm trong năm 2004 của Chi nhánh sẽ có 13 qũy (tăng 2 quỹ so với năm 2003).
+ Tiếp tục giữ vững một số doanh nghiệp có tiền gửi lớn lại Chi nhánh, mặt khách tiếp tục tiếp cận một số khách hàng mới có nguồn vốn nhận từ tài trọ quốc tế về mở tài khoản và tiền gửi tại Chi nhánh.
+ Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, có những chính sách thích hợp đối với tưngd khách hàng để áp dụng lãi suẫt huy động vốn linh hoạt theo định chế của NHCT VN.
+ Thường xuyên nâng cao tinh thần phục vụ khách hàng, xử lý nghiệp vụ nhanh để giữ vững và thu hút thêm khách hàng đến gửi tiền tại Chi nhánh.
2. Về công tác cho vay.
+ Quán triệt cho vay theo nguyên tắc thương mại và thị trường nhưng phải đảm bảo có mức tăng trươngr và chất lượng tín dụng lành mạnh, hiệu quả, bền vững.
+ Thực hiện phân tích đánh giá tình hình tài chính và khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiêpj, phân loại khách hàng để xác định mức cho vay, phương thức cho vay, biện pháp bảo đảm nợ cho phù hợp với tưngd đối tượng cho vay và từng khách hàng cụ thể, trong đó cần nắm chắc tình hình công nợ và khả năng thanh toán của các doanh nghiệp.
+ Đối với những doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu nhỏ so với tổng tài sản nợ của doanh nghiệp, chỉ cho vay ở mức độ phù hợp khi đã được sự chấp thuận của NHCT VN.
+ Tiếp tục giảm dần dư nợ một số doanh nghiệp thường xuyên phải gia hạn nợ thu hết nợ ở những doanh nghiệp yếu kém đang vay vốn ở một số Chi nhánh trong cùng hệ thống và vay vốn tại tổ chức tín dungj khác.
+ Không tập chung vốn lớn vào một khách hàng nhằm hạn chế rủi ro, trong hoàn cảnh hiện nay nhiều doanh nghiệp về mặt tổ chức và môi trường kinh doanh chưa ổn định.
+ Tiếp tục tiếp cận các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả để mở rộng đầu tư cho vay, tuyêtj đối không cho vay những doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện vay vốn theo quy chế hiện hành.
+ Từng cán bộ tín dụng phải thực hiện nghiêm túc quy chế cho vay, quy chế về quản lý cho vay theo chương trình hiện đại hoá trong hệ thống INCAS.
3. Về xử lý nợ tồn đọng.
+ Tiếp tục thực hiện xử lý nợ tồn đọng còn lại theo chủ trương của chính phủ, của NHNN và hướng dẫn thực hiện của NHCT VN đồng thời rà soát lại những món nợ tồn đọng của cả ba nhóm để tiếp tục xử lý theo hướng dẫn của NHNN và NHCT VN.
+ Ngoài ra trên tất cả các mặt hoạt động nghiệp vụ khác phải thực hiện nghiêm túc theo quy chế của NHNN và kế hoạch chỉ đạo của NHCT VN trong đó chú trọng hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nhằm đảm bảo an toàn tài sản. Phấn đấu năm 2004 Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình tiếp tục giữ vững là một trong những đơn vị xuất sắc trong toàn hệ thống.
ii. giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại chi nhánh nhct khu vực ba đình.
1. Hiện đại hoá công nghệ tin học.
Hiện đại hoá công nghệ tin học phục vụ cho ngành NH nói chung và công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng là một yêu cầu cần thiết trong hướng phát triển hiện nay. Song song với hình thức thanh toán không dùng tiền mặt đang áp dụng hiện nay thì việc phát triển mạng lưới thanh toán điện tử vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Để tháo gỡ những khó khăn đó, NH cần được trang bị một số lượng máy tính thích hợp để đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hangf. Đồng thời cũng cần phải quan tâm đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ sử dụng thành thạo kỹ thuật máy tính phục vụ cho công tác thanh toán.
Bên cạnh đó để nâng cao chất lượng trong thanh toán, Chi nhánh phải thường xuyên quan tâm kiểm tra phát hiện, sửa chữa kịp thời những hỏng hóc sai sót trong hệ thống máy tính, sớm tiến hành tin học hoá nối mạng vi tính toàn bộ từ NHCT VN, Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình đến các Ngân hàng Thương mại bạn và khách hàng, đảm bảo cơ sở vật chất, tạo tiền đề cho sự phát triển thanh toán không dùng tiền mặt nói chung cũng như những hình thức thanh toán mới như thẻ,... nói riêng trong tương lai.
2. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Ngân hàng.
Con người luôn là yếu tố trung tâm quyết định mọi hành động trong lĩnh vực kinh doanh. Sự thành công trong công tác thanh toán phụ thuộc vào năng lực, trình độ phẩm chất đạo đức, tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác thanh toán trong hoạt động Ngân hàng.
Từ khi bắt đầu thực hiện việc mua bán, chuyển giao hàng hoá cho đến khi kết thúc một quy trình thanh toán, con người luôn đóng vai trò quyết định.
Để nâng cao chất lượng công tác thanh toán, đảm bảo an toàn tiền vốn cho khách hàng và Chi nhánh thì việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là điều cần thiết. Chi nhánh cần phải tiến hành rà soất, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán. Bố trí đủ lượng cán bộ, cán bộ phải có trình độ nhất là trong xu thể hiện nay đòi hỏi cná bộ làm công tác thanh toán phaỉ có trình độ về ngoại ngữ, tin học tinh thông về nghiệp vụ có phẩm chất đạo dức để hoàn thành nhiệm vụ. Đặc biệt cán bộ thanh toán phải nhiệt tình, phục vụ chu đáo, tận tình và vui vẻ khi giao tiếp, hướng dẫn khách hàng.
Cán bộ Ngân hàng những người cung cấp trực tiếp dịch vụ cho khách hàng, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược Marketing, quyết định chất lượng sản phẩm và mối quan hệ với khách hàng. Dưới con mắt của khách hàng, nhân viên của Ngân hàng là hình ảnh của Ngân hàng. Vì vậy khi tiếp xúc với khách hàng, nhân viên cần có thái độ hoà nhã phục vụ tận tình chu đáo, tác phong công nghiệp. Đồng thời phải đặc biệt quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần làm việc tự giác, ý thức kỷ luật cao, tâm huyết với nghề. Các biện pháp cụ thể như sau:
+ Tổ chức đào tạo, đào tạo lại nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ Ngân hàng nói chung và cán bộ làm công tác kế toán nói riêng cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thanh toán, cập nhật nghiệp vụ thanh toán bằng các phương tiện hiện đại.
+ Tăng cường đào tạo kỹ năng ngoại ngữ, tin học xử lý thông tin, các biện pháp bảo mật, an toàn số liệu cho cán bộ nghiệp vụ. Bên cạnh đó phải tuyển chọn và đầu tư đào tạo cán bộ kỹ thuật lắp đặt vận hành, bảo dưỡng thiết bị, máy móc, xử lý sự cố...
+ Có biện pháp khen thưởng, xử phạp thích đáng, khuyến khích vật chất đối với những người có thành tích tốt trong công tác, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm, tiêu cực và phát huy tính sáng tạo, năng lực của mỗi cá nhân.
+ Bồi dưỡng tư cách đạo đức, tính kỷ luật và tác phong thanh lịch cho cán bộ nhân viên.
3. Tăng cường năng lực cạnh tranh.
Về cảm quan bên ngoài, hoạt động kinh doanh của các NHTM khá bình lặng không có sự cạnh tranh như các hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác. Song đằng sau sự phẳng lặng đó là chứa đựng một cuộc cạnh trạnh khốc liệt, nó có thể giúp các NHTM thành công rực rỡ nhưng nó cũng nhấn chìm ngay các NH đó nếu các NH đó không theo kịp những bước tiến vũ bão của cạnh tranh. Với NH thì “tiền” là sản phẩm của quá trình kinh doanh, mà tiền có ảnh hưởng rất lớn tới các hoạt động xã hội nói chung cũng như hoạt động của Ngân hàng nói riêng. Như chúng ta thấy thực tế chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về lãi suất là quan hệ của khách hàng với Ngân hàng đã có thay đổi tức thời.
Để tăng cường hơn nữa cho năng lực cạnh tranh thì Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình nên:
1 Nâng cao hiệu quả công tác quảng cáo tiếp thị.
Nhiều người lầm tưởng hoạt động kinh doanh của NHTM rất rễ chịu, NH chỉ cần treo biển huy động vốn và lãi suất được thị trường ấn định là có thể thoải mái hoạt đoọng. Trên thực tế không như vây, để đạt được những kết quả như hiện nay Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình rất quan tâm đến công tác quảng cáo tiếp thị, nhưng trong thời gian sắp tới thì Chi nhánh cần tăng cường hơn nữa công tác quảng bá các sản phâmr, dịch vụ của mình trên các phương tiên thông tin đại chúng (quảng cáo trên tivi, báo đài, báo viết...). Bên cạnh đó nâng cao hơn nữa hiệu quả của băng rôn cổ động, phát triển đa dạng các loại tờ rơi giới thiệu sản phẩm dịch vụ, đây là phương tiện quản bá rất hữu ích, tiện lợi, tốn ít chi phí.
2. Thành lập phòng tư vấn khách hàng và tổ chức hội nghị khách hàng theo định kỳ.
Các dịch vụ Ngân hàng và hoạt động thanh toán hiện nay ở nước ta còn khá mới mẻ đối với người dân, do vậy việc giúp khách hàng hiểu và thực hiện đúng các nguyên tắc, quy định thủ tục khi đến giao dịch với Ngân hàng là điều rất cần thiết. Không những thế nó còn giúp giải quyết những thắc mắc của khách hàng một cách tỷ mỉ, tư vấn cho khách hàng đồng thời còn từ đó nắm bắt được những nhu cầu mới của khách hàng. Tất cả đó giúp cho mối quan hệ của Ngân hàng ngày càng xích lại gần nhau.
4. Chính sách khách hàng.
Hiện nay thanh toán không dùng tiền mặt còn là hình thức thanh toán chưa phổ biến ở Việt Nam. Vì vậy Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình phải có những chính sách khách hàng phù hợp vì khách hàng là người đề đạt nhu cầu, sử dụng và đánh giá sản phẩm của mình. Để thu hút được nhiều dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh, Chi nhánh phải đảo bảo cho họ sự hài lòng và sự thoả mãn khi họ sử dụng dịch vụ này, để từ đó cho họ thấy được sự tiện lợi, nhánh chóng, an toàn hiệu quả chi phí thấp. Cụ thể như sau:
+ Tích cực tuyên truyền sâu rộng về các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để các khách hàng hiện có cũng như khách hàng tiềm năng.
+ Đơn giản hoá các thủ tục thanh toán và xây dựng bảng phí thanh toán hợp lý.
+ Tích cực giao tiếp hai chiều với khách hàng.
+ Khuyến khích cá nhân mở tài khoàn tiền gửi và thanh toán qua tài khoản tiền gửi đó.
+ Có lãi suất thoả đáng đúng với các khoản tiền gửi, cung cấp các chứng từ miến phí.
5. Đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng.
Nền kinh tế hàng hoá ngày càng đa dạng và phát triển, khối lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng lớn, giá trị hàng hoá ngày càng cao, nên làm phát sinh nhanh chóng khối lượng các khoản giao dịch. Đồng thời cũng phát sinh yêu cầu trong thanh toán của khách hàng ngày càng đa dạng và phức tạp. Từ đòi hỏi phải có phương thức thanh toán nhánh chóng, chính xác, an toàn và hiệu quả... Vì vậy chỉ có thể mở rộng thanh toán của tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội. Cụ thể như sau:
+ Cải tiến và mở rộng các hình thức thanh toán phù hợp với đặc điểm kinh doanh của các cá nhân, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Trong công tác huy động tiền gửi tiết kiệm, nên triển khai tốt dịch vụ gửi tiền một nơi rút tiền nhiều nơi. Điều này vừa mở rộng kênh huy động vốn tốt, vừa khuyến khích thanh toán qua Ngân hàng của các cá nhân, các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế.
+ Cung cấp các loại ấn chỉ, chứng từ miễn phí và không nộp bất kỳ lệ phí nào khi thực hiện các nghiệp vụ thanh toán.
+ Có các chính sách khuyến mại, tiếp thị đối với những khách hàng thường xuyên giao dịch và có số dư bình quân trên tài khoản tièen gửi ổn định ở mức nhất định.
+ Sáng tạo các sản phẩm mới phù hợp với thị hiếu, khả năng đảm bảo định mức chi phí và lợi nhuận cần thiết. Để từ đó thúc đẩy được việc thực hiện chiến lược của Chi nhánh.
6. Phát triển mạnh các hoạt động của Ngân hàng.
Các sản phẩm của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc đẩy mạnh các hoạt động của Ngân hàng làm khả năng hoạt động có hiệu quả, phát triển nhanh, ổn định và lâu dài để phù hợpk với xu thế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác biện pháp này không chỉ có tính tích cực đối với từng dịch vụ Ngân hàng riêng lẻ, trong đó có thanh toán không dùng tiền mặt mà còn tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.
Trước hết Chí nhánh NHCT khu vực Ba Đình phải mở rộng quy mô hoạt động bằng cách tăng cường huy đoọng vốn, cho vay, mở rộng đầu tư, dịch vụ... Đặc biệt là tăng cường huy động vốn tiền gửi thanh toán vì đây là nguồn vốn có chi phí thấp và khả năng huy động nhanh.
Kết hợp dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt với các dịch vụ khác của Ngân hàng nhằm cung cấp moọt cách đầy đủ nhất các tiện ích dịch vụ Ngân hàng, theo quan điểm lấy khách hàng làm trung tâm chứ không quản lý theo từng nghiệp vụ. Ngoài ra cần phải kết hợp chặt chẽ các dịch vụ Ngân hàng với các hoạt động kinh doanh ngoài lĩnh vực Ngân hàng như: Khách sạn, Công ty Chứng khoán... để khuyến khích giao dịch qua Ngân hàng.
7. Tăng cường mở rộng thị trường.
Tăng cường mở rộng thị trường đối Ngân hàng là hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh cuả Ngân hàng, vì nó là cơ sở để Ngân hàng phát triển vững chắc và kinh doanh hiệu quả. Vì vậy, ngoài việc huy động vốn của các cá nhân tổ chức trong nước, Ngân hàng phải hết sức quan tâm đến việc huy động vốn của cá nhân, tổ chức nước ngoài.
Mở rộng mạng lưới giao dịch với NHTM khác, tăng cường phòng giao dịch sao cho từng Quận, huyện, phường xã đều có để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đối với các dịch vụ của Chi nhánh, để từ đó tăng cường khả năng huy động vốn của Chi nhánh và nâng cao uy tín của mình đối với tất cả các khách hàng trong và ngoài nước.
8. Thực hiện hợp tác, liên kết ngành, đa ngành trong công tác thanh toán và cải thiện văn minh thanh toán.
Thực hiện liên kết trong công tác thanh toán giữa các NHTM trong nước là cơ sở để tạo ra sức mạnh tổng hợp để từ đó có thể cạnh tranh với các NH nước ngoài về chi phí, quy mô và chất lượng hoạt động kinh doanh. Đặc biệt là phối hợp với các Ngân hàng khác trong chiến lược hiện đại hoá ngành NH một cách đồng bộ như dịch vụ mới là thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động.
Hợp tác đa ngành là nhằm đẩy mạnh công tác thanh toán và cải thiện văn minh thanh toán. Trong thời đại hiện nay với sự bùng nổ của công nghệ thông tin và viễn thông, thể hiện qua số lượng người sử dụng Internet và điện thoại di động ở Việt Nam ngày càng gia tăng với cường độ cao và đang ở mức thị trường tiềm năng. Tận dụng xu thế này, Ngân hàng có thể hợp tác với ngành Bưu chính Viễn thông để kết nối trực tiếp mạng lưói với các hẹe thống của các nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ, ứng dụng thương mại điện tử. Nhờ đó NH có thể triển khai dịch vụ của mình qua mạng Internet hoặc điện thoại di động, đặc biệt là dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng. Từ đó khách hàng và Ngân hàng có thể giao dịch với nhau qua mạng Internet hay điện thoại di động, thực hiện truy vẫn thông tin tài khoản, thống kê giao dịch liên quan hoặc chủ động tiến hành thanh toán các khoản cước phí điện, nước, điện thoại, Internet, bảo hiểm chuyển tiền, thanh toán tiền mua hàng tại các của hàng, siêu thị ... một cách nhanh chóng, an toàn, chính xác, tiết kiệm và hiệu quả.
iii. một số kiến nghị.
Trên đây em đã trình bầy 8 giải pháp để nâng cao công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình, tuy nhiên để nó mang tính khả thi và có thể áp dụng trong thực tiễn, em xin có một số kiến nghị sau:
1. Kiến nghị với Chính phủ.
Để đảm bảo cho sự ổn định và phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung cũng như các nhân tố caáu thành nền kinh tế đó nói riêng thì việc làm đầu tiên có tầm quan trọng đặc biệt là “Chính phủ phải quản lý tốt các nhân tố vĩ mô” Các nhân tố đó bao gồm:
ổn định chính trị: Sự ổn định chính trị là điều kiện quan trọng góp phần thúc đẩy mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế phát triển. Một nền kinh tế được kiến tạo vững chắc, có thiết chế hợp lý, được quần chúng nhân dân tin yêu và hoàn toàn ủng hộ thì những chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng sẽ dễ dàng được thực hiện. Ngược lại thì sẽ tạo nên những hoài nghi, không tin tưởng của dân chúng về chế độ, chính sách và từ đó họ sẽ e ngại đến với các dịch vụ của Ngân hàng cung cấp.
ổn định tiền tệ: Nhà nước cần đặt ra chính sách tiền tệ đúng đắn đảm bảo ổn định sức mua của đồng tiền trong thị trường nội địa, ổn định tỷ giá đồng Việt Nam trên thị trường ngoại hối, là cơ sở để khai thác vốn trống dân cư nhằm phục vụ cho công cuộc CNH – HĐH đất nước và ngăn chặn các tình huống dẫn đến lạm pháp.
Chính sách phát triển kinh tế đúng đắn. Chính phủ cần có các chính sách hợp lý với điều kiện kinh tế nước nhà và phù hợp với thông lệ quoóc tế (chính sách ngoại giao, đa phương hoá và song phương. chính về tiết kiệm và đầu tư...). Chính phủ cần phải giảm bớt các thủ tục hành chính cồng kềnh, tăng cường tính độc lập của NHVN trong thực thi chính sách tiền tệ quốc gia sao cho phù hợp và gán liền với thực tiến. Bên cạnh đó NH cần phải giải toả vốn bị ứ đọng trong các DNNN hoạt động kém hiệu quả bằng cách đaảy nhanh, mạnh tiến trình cổ phần hoá, để tránh tình trạng đầu tư dàn trải, tham ô, lãng phí, lãi giả lỗ thật...
Củng cố hệ thống NHTM VN. Để nâng cao chất lượng hoạt động của NH, tiến tới hội nhập kinh tế quốc tê với các NHTM trong khu vực và thế giới thì việc cải cách và cungr cố lại hệ thống NHTM VN là việc làm cần thiết. Do vậy Nhà nước cần củng cố hệ thống NHTM theo các hướng sau:
Đối với NHTM quốc doanh: Nhà nước cần cấp đủ, bổ sung thêm vốn điều lệ để tăng năng lực tài chính cũng như tăng sức mạnh cạnh tranh để hoà nhâpj với xu thế chung của các NHTM trong khu vực, cần có sự tách bạch giữa cho vay chính sách và cho vay thương mại.
Đối với NHTM ngoài quốc doanh: Nhà nước cần có sự quản lý, thanh tra kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các NHTM.
Phát triển môi trường pháp lý phù hợp với điều kiện của nền kinh tế. Cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế làm cơ sở để hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng. Từ đó NHNN cần chỉnh sửa, cải tiến và bổ sung các nội dung liên quan đến quy định trong thanh toán không dùng tiền mặt phải có những hình thức thích hợp để áp dụng các luật quốc tế về thanh toán vào Việt Nam như: Luật thanh toán quốc tế, Luật hối phiếu thương mại, quy định về thanh toán hiện đại...
2. Kiến nghị với NHNN.
NHNN cần xây dựng và ban hành các cơ chế đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các Ngân hàng trong quá trình cung cấp các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế.
NHNN cần xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ, có chính sách hỗ trợ các NHTM mở rộng dịch vụ thanh toán thẻ, xây dựng chính sách phù hợp cho quy chế Ngân hàng một cửa và trung tâm thanh toán ATM, khuyến khích vốn đầu tư và thuế Ngân hàng trong thời gian đầu thực hiện các dự án hiện đại hoá trung tâm thanh toán như trung tâm thanh toán thẻ.
Thêm vào đó, cơ chế thanh toán không chứng từ qua mạng lưới vi tính cần được ban hành thống nhất, tạo phầm mềm cho việc xử lý kỹ thuật truyền chứng từ giữa các NH thông qua mạng vi tính, mở rộng thanh toán bù trù thông qua mạng vi tính đến từng quận, huyện...
Về sửa đổi một số điểm trong quy chế về séc. Séc là một hình thức thanh toán được Chính phủ và NHNN quan tâm thúc đẩy sử dụng trong thanh toán không dùng tiền mặt. Nhìn chung những thay đổi về nội dung, hình thức và các quy định ban hành theo nghị định 30-CP đã có nhiều cải tiến góp phần tạo thuận lợi cho người sử dụng. Tuy nhiên cũng cần một số điểm cần thay đổi để có thể thật sự phát huy tác dụng của séc:
+ Khi chủ tài khoản dùng séc để rút tiền mặt thì nên cho phép chỉ cần ghi trả cho “chính mình” không cần ghi đầy đủ các yếu tố như khi phát hành cho người khác, để tạo sự thoải mái và tiện ích cho chủ tài khoản.
+ Thời hạn hiệu lực của séc chỉ có 15 ngày sẽ làm cho người thụ hưởng cảm thấy không an tâm khi nhận thanh toán bằng séc, ngắn so với nhu cầu thời hạn để tiêu dùng giá trị của séc đối với họ. Để đáp ứng nhu cầu thực tế đối với nền kinh tế Việt Nam, sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn giữa các vùng trong nước có thể quy định tờ séc có hiêụ lực trong khoảng 45 hoặc 60 ngày kể từ ngày ký séc đến ngày nộp séc vào tổ chức thanh toán trong đó không bao gồm ngày nghỉ, lễ.
+ Quy định cho phép tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán séc được quyền xác định mức độ thấu chi đôí với chủ tài khoản phát hành séc trên cơ sở mức độ tín nhiệm, dựa trên khả năng thu nhập thực tế của chủ tài khoản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba.
+ Cần taok lập cụ thể hơn nữa một môi trường pháp lý rõ ràng, thông thoáng, bình đẳng giữa Ngân hàng và các bên phát hành séc, chuyển nhượng và thụ hưởng séc, chấm dứt sự can thiệp phận xự của NH trong xử lý tranh chấp vi phạm.
+ Có thể cân nhắc để có thể tiến tới việc cho phép phát hành séc vô danh.
NHNN phải áp dụng các biện pháp mạnh mẽ hơn để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cuư.
Mở rộng dịch vụ thanh toán của NH trong dân cư là một chủ trương lớn của NHNN nhằm tiếp tục cải thiện tình hình thanh toán trong nền kinh tế, tạo dần thói quen về việc sử dụng séc trong thanh toán và tiêu dùng tiền tệ của dân cư, đồng thời qua đó tạo lập nguồn vốn đầu tư phát triển nền kinh tế còn tiềm năng lớn trong dân cư.
Để xoá bỏ được tập quán thích dùng tiền mặt của các tầng lớp dân cư mở rộng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thì công tác tuyên truyền cần phải đẩy mạnh và thường xuyên hơn nữa, tốt nhất là chúng ta cùng các cơ quan thông tin đại chúng, các ngành liên quan và khách hàng có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ thể nhằm đưa các thông tin cần thiết đến với mọi người dân về cách thức sử dụng cũng như những lợi ích từ việc sử dụng công cụ thanh toán qua Ngân hàng. Cần suy nghĩ và thực hiện một cách nghiêm túc, xác đáng hơn nữa về chế độ tiền lương về thu nhập của người lao động nước ta, để có thể có đủ mức thu nhập cần thiết phù hợp với những chỉ tiêu tối thiểu như chi cho ăn ướng, học phí của con cái, điện nướcm chi cho hiếu, hỷ, chăm sóc sức khoẻ... khi việc mở tài khoản cá nhân tại NH của họ khi đó có ý nghĩa thiết thực.
Để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư đòi hỏi phải có những bước đi thích hợp, vững chắc, không thể nóng vội, ồ ạt. Trước mắt, trong nền kinh tế có thể mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân đến công chức, quan chức và người lao động trong các doanh nghiệp thông qua trả lương vào tài khoản cá nhân của họ. Từ đó để hình thức thanh toán không dùng tiền mặt không bị hạn chế về phạm vi thanh toán, cần phát triển mạng lưới Ngân hàng trên khắp cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ trung ương đến địa phương, đặc biệt cho các hình thức thanh toán để có thể thực hiện được đối với bất kỳ các đơn vị kinh tế nào ở bất kỳ nơi đâu trong cả nước.
Chính phủ và NHNN cần bổ sung thêm một số biện pháp sau:
Cần phải có quy định một số khoản thanh toán qua Ngân hàng.
Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp tư nhân và đa số các hộ gia đình còn chưa mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng, trong đó có những lý do không thể bỏ qua như giữ bí mật thu nhập và khoản thanh toán qua Ngân hangf không loại trừ khả năng để dễ bề trốn thuế. Những chương trình này Chính phủ cần có những quy định cần thiết và có thể sử dụng các giải pháp kinh tế, hành chính để khắc phục, cần được các ban ngành liên quan và công luận phối hợp, ủng hộ để thực hiện đúng pháp luật.
Trước hết có thể bắt đầu từ các doanh nghiệp và thương nhân. Hiện nay đa phần các đối tượng này đều có mở tài khoản tại Ngân hàng, nhưng do nhiều lý do khác nhau mà vẫn thường xuyên dùng tiền mặt để thanh toán. Vì vậy Chính phủ có thể quy định các khoản thanh toán từ một mức nào đó trở nên bắt buộc phải thanh toán qua Ngân hàng. Đối với các khoản nộp thuế và nộp khác vào kho bạc Nhà nước cũng có thể áp dụng quy định bắt buôcj thanh toán qua Ngân hàng. Những khoản này có thể quy định Ngân hàng thu phí từ đơn vị thụ hưởng như là hình thức nhờ thu baừng Uỷ nhiệm thu. Còn các khoản học phí, tiền điện, nước, điện thoại, các khoản phải nộp có tính định kỳ đối với các hộ, các tổ chức kinh tế – xã hội ở các thành phố thị xã cũng phải thanh toán qua Ngân hàng. Các vùng thị tứ khác cũng có thể áp dụng trongphạm vi hẹp hơn.
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với việc tuyên truyền lợi ích sử dụng dịch vụ của các tổ chức tín dụng.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ năm 2002, đến nay, sau hơn 2 năm đi vào hoạt động cho thấy bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những tác động tích cực đối với hoạt động tài chính, Ngân hàng như góp phần giữ ổn định các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, khẳng định tính minh bạch chính sách về tài chính tín dụng Ngân hàng của NH NN vừa mang lại an toàn cho NH lẫn khách hàng, vừa tạo được niềm tin trong công chúng khi gửi tiền vào NH. Đây chính là vấn đề quan trọng khuyến khích công chúng yên tân vào việc giao dịch với NH. BHTG VN phải trở thành một trung tâm tuyên truyền trong xã hội để khuyến khích công chúng và các tổ chức kinh tế – xã hội sử dụng các tiện ích của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
NHNN cần thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, hội thảo về séc, thẻ Ngân hàng... cho các tổ chức tín dụng, phối hợp các tổ chức hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về nghiệp vụ. Qua đó, các tổ chức có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau để gải quyết các vấn đề khó khăn thực hiện phát sinh cả về nghiệp vụ giải chuyên môn, nắm chắc kỹ thuật tin học để phục vụ hiện đại hoá công tác thanh toán của NHNN và tư vấn cho các NHTM thành viên.
3. Kiến nghị với NHCT VN.
NHCT VN cần sớm nghiên cứu và ban hành các văn bản hướng dẫn để tạo hành lang pháp lý cho Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình triển khai các dịch vụ, tiện ích mới.
+ NHCT VN cần phải hỗ trợ nhiều hơn nữa trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật tốt phục vụ cho giao dịch.
Trang bị máy ATM tại các phòng giao dịch để mở rộng dịch vụ rút tiền tự động qua máy ATM và phục vụ trả lương thông qua tài khoản ATM cho các khách hàng lớn tại NHCT khu vực Ba Đình.
Trang bị máy vi tính cho các phòng giao dịch.
Hỗ trợ phần mềm giao dịch phù hợp với hoạt động đặc thù của NHCT khu vực Ba Đình.
+ NHCT VN nên hỗ trợ công tác đào tạo cho CBCNV tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình để triển khai toót các dịch vụ, tiện ích mới.
+ Ban hành cơ chế khoán tài chính phù hợp, kích thích việc mở rộng tăng trưởng hoạt động kinh doanh trên địa bàn Hà Nội.
+ Tổ chức phối hợp giữa các NHTM trong việc thực hiện chương trình “gửi tiền một nơi, rút tiền nhiều nơi”. Từ đó, tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng trong việc gửi tiền và rút tiền, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH.
kết luận
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá, các NHTM Việt Nam đã và đang khẳng định tầm quan trọng của mình trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã đem lại nhiều tiện lợi và loại ích cho nền kinh tế cũng như các chủ thể trong nền kinh tế và bản thân các NH.
Khi hệ thống NH nước ta chuyển sang cơ chế thị trường đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên đến nay sau 18 năm đổi mới, nền kinh tế – xã hội, việc ưu thích dùng tiền mặt trong quan hệ thanh toán vẫn còn khá phổ biến. Việc phổ biến sử dụng tiền mặt làm phương tiên thanh toán trong nền kinh tế là dấu hiệu cho thấy trình độ nền kinh tế còn yếu kém. Vì vậy thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò quan trọng thể hiện cho nền kinh tế hiện đại và là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế.
ở Việt Nam, thanh toán không dùng tiền mặt đang trong quá trình hoàn thiện và mở rộng, đồi hỏi nhiều sự nỗ lực từ các NHTM cũng như sự hỗ trợ về nhiều mặt của NHNN và Chính phủ và các cơ quan hữu quan.
Để đạt được yêu cầu trên, các NHTM không ngừng nghiên cứu, nâng cao chất lượng và số lượng dịch vụ nhằm tăng cường hiệu quả thanh toán không dùng tiền mặt qua NH và hoà nhập với sự phát triển kinh tế khu vực và thế giới.
Trên cơ sở lý luận về thanh toán không dùng tiền mặt và quá trình nghiên cứa tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nhỏ bé của mình trong viêcj mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh NHCT khu vực Ba Đình. Em cũng xin chân thành cám ơn thầy giáo ... và các cô chú trong Chi nhánh đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0350.doc