Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ

LỜI MỞ ĐẦU Ngày 10/1/ 2007, trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO cùng với những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới đã tạo ra rất nhiều thuận lợi cho kinh tế Việt Nam phát triển. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu vốn càng lớn. Bên cạnh những thuận lợi do hội nhập kinh tế đem lại thì nền kinh tế Việt Nam cũng gặp không ít những khó khăn, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa - chiếm bộ phận lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, nhưng đang trong tình trạng có vốn đầu tư nhỏ và kĩ thuật lạc hậu. Sự xâm nhập của các công ty đa quốc gia có vốn đầu tư lớn, có kĩ thuật công nghệ hiện đại làm cho các doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, cạnh tranh trở lên khốc liệt hơn. Điều tất yếu là: muốn tồn tại được trong điều kiện đó thì buộc các DNN&V phải nâng cao trình độ chuyên môn, kĩ thuật công nghệ, mở rộng sản xuất. Để thực hiện được ngoài nguồn vốn tự có (thường là rất nhỏ) các DNN&Vphải phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn đi vay từ các TCTD. Đối với các NHTM, sự ra đời của hàng loạt các TCTD với những hình thức khác nhau và sự xâm nhập của hàng loạt các ngân hàng nước ngoài – quy mô vốn lớn, khả năng cho vay đối với các doanh nghiệp cao trong thời gian qua khiến cho sự canh tranh trở lên trở lên gay gắt hơn. Đồng thời các Ngân hàng Cổ phần với chính sách cho vay hấp dẫn hấp dẫn đã tạo áp lực lớn cho hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng quốc doanh. Trong điều kiện đó đòi hỏi Ngân hàng quốc doanh phải có những biện pháp tìm kiếm khách hàng mới phù hợp với khả năng của mình, DNN&V là một trong những đối tượng khách hàng rất phù hợp. Vì thế, đề tài : “ Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ ” được chọn nhằm góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn thông qua việc phân tích tình hình cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ phù hợp với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1 : Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNN&V. Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. Chương 3 : Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với các DNN&V tại Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của thầy giáo TS. Đặng Ngọc Đức đã giúp dỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các cô chú, anh chị cán bộ Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã tạo điều kiện thuận lợi và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua. Danh mục các bảng biểu 1. Bảng 2.1 : Tình hình huy động vốn của Chi nhánh 2. Bảng 2.2 : Tình hình tín dụng của Chi nhánh 3. Bảng 2.3 : Kết quả kinh doanh của Chi nhánh 4. Bảng 2.4 : Dư nợ cho vay đối với DNN&V 5. Bảng 2.5 : Cơ cấu dư nợ đối với DNN&V phân theo thời gian 6. Bảng 2.6 : Dư nợ trung dài hạn đối với DNN&V phân theo loại hình doanh nghiệp 7. Bảng 2.7 : Tình hình nợ xấu tại Chi nhánh

doc73 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng được mở rộng không chỉ giới hạn ở địa bàn quận mà còn được mở rộng sang những quận, huyện khác. Trong số các khách hàng có quan hệ với Chi nhánh có đủ các ngành nghề:nông – lâm nghiệp, thúy sản, công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ và các ngành khác. Đây là lực lượng khách hàng tiềm năng để ngân hàng có thể mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn. Chi nhánh đã chủ động tìm những khách hàng có nhu cầu vay vốn trung, dài hạn về vay tại NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ như: Ban quản lý điện miền nam, Tổng công ty xăng dầu,... Trong thời gian qua, DNN&V vẫn còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu cho vay của Chi nhánh ( chỉ khoảng 10% ) nhưng con số này đang dần được cải thiện. Ngoài những khách hàng truyền thống là các doanh nghiệp quốc doanh thì Chi nhánh ngày càng chú trọng tới thành phần kinh tế ngoài quốc doanh: Công ty Cổ phần, công ty TNHH, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể, đây là bộ phận có nhu cầu vốn vay rất lớn. Mặc dù, các DNN&V còn gặp nhiều khó khăn khi vay vốn ngân hàng và phía các ngân hàng có tâm lí cho vay DNN&V sẽ gặp nhiều rủi ro. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực trong việc tìm kiếm những khách hàng có đủ đủ điều kiện vay vốn và có tiềm năng phát triển, đồng thời có nhiều biện pháp để thu hút khách hàng như: cho vay không cần dùng tài sản đảm bảo, Chi nhánh đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận được với nguồn vốn vay ngân hàng, giải quyết được phần nào nhu cầu vốn cấp thiết của các DNN&V trên địa bàn Thủ đô. Hoạt động này không những mang lại nguồn thu nhập quan trọng mà còn tạo nên mối quan hệ tin tưởng, làm ăn lâu dài giữa khách hàng và Chi nhánh, mở rộng cung ứng các dịch vụ ngân hàng, tăng được nguồn thu từ dịch vụ. Phần lớn dư nợ đối với DNN&V là dư nợ ngắn hạn, dư nợ ngắn hạn luôn chiếm khoảng 70% tổng dư nợ đối với DNN&V. Tính đến ngày 31/12/2004 dư nợ ngắn hạn chiếm 74,5%, ngày 31/12/2005 là 74% và đến năm 2006 là 67%,. Dư nợ trung, dài hạn đối với DNN&V ngày càng gia tăng về số lượng cũng như tỷ trọng. Về số tuyệt đối, năm 2004 tổng dư nợ trung, dài hạn của DNN&V 35,956 tỷ đồng, đến năm 2005 đã là 48,564 tỷ đồng tăng 35% so với năm 2004 và năm 2006 là 71,614 tỷ đồng tăng 47% so với năm 2005. Về số tương đối, tỷ trọng liên tục tăng qua các năm, 31/12/2004 tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn đối với DNN&V là 25,5%, năm 2004 là 26,2% và năm 2006 là 33%. Chất lượng cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V là tương đối tôt. Chi nhánh là ngân hàng có tỷ lệ nợ qua hạn cũng như tỷ lệ nợ xấu rất thấp và an toàn so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn. Tỷ lệ nợ xấu trong những năm gần đây luôn dừng ở mức dưới 1% so với tổng dư nợ. Đây là một lợi thế rất lớn trong việc mở rộng hoạt động cho vay, tăng nguồn thu, góp phần tạo điều kiện cho các DNN&V mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn Thủ đô. Những hạn chế còn tồn tại Mặc dù đã đạt được những thành công nhất định, song hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh vẫn còn nhiều hạn chế. Trong cơ cấu dư nợ tại Chi nhánh thì chủ yếu là cho vay các doanh nghiệp lớn, DNNN còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, DNN&V thì rất ít do tâm lí nghi ngại cho vay vì mức độ rủi ro khi cho vay trung dài hạn đối với các doanh nghiệp này cao hơn. Trong cơ cấu dư nợ đối với DNN&V thì dư nợ trung, dài hạn vẫn còn chiếm một tỷ trọng khiêm tốn, chủ yếu là dư nợ ngắn hạn. Điều này có thể thấy rằng dư nợ đối với DNN&V có sự mất cân đối mặc dù chỉ tính đến ngày 31/12/2006 thì huy động trung, dài hạn lớn gấp 1,76 lần so với huy động ngắn hạn. Dù có lợi thế về nguồn huy động nhưng Chi nhánh không mạnh dạn mở rộng cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V mà chủ yếu là cho vay đối với doanh nghiệp lớn đồng thời chuyển vốn về Trung ương để hưởng mức phí điều chuyển vốn , đây là biện pháp an toàn nhưng nhiều khi bỏ qua mất cơ hội kinh doanh tốt. Nguyên nhân Những hạn chế còn tồn tại trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau: nguyên nhân thuộc về phía các DNN&V, về phía các NHTM mà cụ thể ở đây là Chi nhánh và nguyên nhân thuộc về phía môi trường vĩ mô. a, Nguyên nhân thuộc về phía các DNN&V Như đã phân tích ở chương 1, những điểm yếu của DNN&V là những nguyên nhân chủ yếu hạn chế ngăn cản doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn vay từ ngân hàng đặc biệt là vốn vay trung, dài hạn. Các DNN&V còn gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu về tài sản đảm bảo, quy mô vốn tự có thấp, hiệu quả kinh doanh chưa cao, độ tin cậy của các báo cáo tài chính thấp, vì thế đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn vay vốn ở Chi nhánh. Thông thường người ta chia thành 3 điều kiện cơ bản: tài sản đảm bảo, dự án ( phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả ), uy tín và khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp. Phân tích 3 yếu tố cơ bản này đối với khách hàng là các DNN&V tại Chi nhánh ta thấy: - Về tài sản đảm bảo: nhiều doanh nghiệp không chứng minh được quyền sở hữu tài sản hợp pháp của mình do đó nhiều khi Chi nhánh buộc phải từ chối một số khách hàng có dự án hiệu quả nhưng lại không đáp ứng đủ điều kiện về tài sản đảm bảo. - Về hiệu quả tài chính của dự án: DNN&V có quy mô hoạt động nhỏ nên sẽ khó khăn khi đối mặt với những biến động lớn của thị trường. Mặt khác, trình độ chung của chủ doanh nghiệp chưa cao, khả năng nhanh nhạy trong cơ chế thị trường còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh đối ngoại nên rất dễ có khe hở trong hợp đồng kinh tế dẫn tới thua lỗ trong kinh doanh. Khi vay vốn theo dự án thì những kết quả của dự án thường mang tính chủ quan, có thể chưa lường hết được những biến động của thị trường đầu vào cũng như thị trường đầu ra. Do đó, hiệu quả của dự án thường không tạo được sự tin cậy đối với Chi nhánh. Điều này khiến cho Chi nhánh gặp nhiều khó khăn để tìm ra phương án hoặc dự án khả ti để tiến hành cho vay, để mở rộng hoạt động cho vay. - Về uy tín và khả năng quản lí của chủ doanh nghiệp: uy tín và khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp được thể hiện qua hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời gian dài, đủ để tạo được một vị thế cho sản phẩm trên thị trường. Về điều này thì đa số các chủ DNN&V chưa thể có được do hiện nay số lượng các DNN&V làm ăn có hiệu quả tạo được hình ảnh của mình trên thị trường còn ít, hơn nữa trình độ của các chủ DNN&V còn chưa cao, chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm là chính. Do vậy cán bộ tín dụng luôn cân nhắc yếu tố định tính này nhưng lại là yếu tố rất quan trọng khi xét duyệt cho vay trung, dài hạn. Thực tế tình trạng làm ăn thiếu trung thực của các DNN&V ngoài quốc doanh với ngân hàng,và giữa các doanh nghiệp với nhau cũng như tình trạng sử dụng vốn vay sai mục đích, cung cấp thông tin cho Chi nhánh không đúng sự thật, điều này đã gây ấn tượng không tốt cho Chi nhánh trong quan hệ với các DNN&V. b, Về phía Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ - Tâm lí của cán bộ tín dụng tại Chi nhánh hiện nay còn e ngại khi cho vay trung, dài hạn, đặc biệt là đối với DNN&V ngoài quốc doanh vì mức độ rủi ro cao. Do khi dự án gặp rủi ro dẫn đến không thu được nợ thì nguời cán bộ tín dụng có thể phải chịu trách nhiệm về việc thẩm định và quản lý dự án vay vốn của mình. Hiện nay, cho vay trung, dài hạn chủ yếu tập trung vào DNNN, khi cho vay các doanh nghiệp này chi phí thẩm định thấp hơn, thời gian thẩm định nhanh hơn và cán bộ tín dụng cảm thấy an tâm hơn. - Trình độ chuyên môn cũng như sự hiểu biết về các lĩnh vực cho vay của cán bộ tín dụng tại Chi nhánh không đồng đều và còn một số mặt hạn chế. Đặc biệt là khi cho vay trung, dài hạn theo dự án đòi hỏi người cán bộ tín dụng phải có hiều biết sâu rộng về lĩnh vực cho vay, các chỉ tiêu kinh tế kĩ thuật liên quan đến dự án, chỉ tiêu trung bình ngành, … để có thể đánh giá đúng hiệu quả của dự án. Do những hạn chế trên cùng với đặc điểm cho vay trung, dài hạn rủi ro cao nên cán bộ tín dụng có tâm lí e ngại khi cho vay. - Hiện nay nhu cầu vay vốn ngắn hạn tại Chi nhánh cũng khá lớn, trong khi phòng Tín dụng còn chật hẹp, cở sở vật chất, phương tiện làm việc cho cán bộ tín dụng còn chưa hiện đại. Hơn nữa cho vay ngắn hạn ít rủi ro hơn, thủ tục, quy trình thẩm định và xét duyệt cho vay nhanh hơn, chính vì vậy cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ đối với DNN&V của Chi nhánh. - Thêm vào đó gần đây do có sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên nên vốn huy động ( trong đó nguồn trung, dài hạn chiếm ưu thế ) hạn chế cho vay mà điều chuyển vốn để hưởng phí. - Cơ cấu nhân sự tại Hội sỏ và một số đơn vị trực thuộc chậm được hoàn thiện ảnh hưởng khônh nhỏ tới việc điều hành tác nghiệp thuộc chức trách và trách nhiệm được giao, vì thế nó cũng hạn chế đến việc tìm kiếm khách hàng và tiến hành cho vay. c, Nguyên nhân thuộc về môi trường kinh tế vĩ mô Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sáh khuyến khích hỗ trợ các DNN&V nhưng thực tế triển khai thực hiện thì còn xảy ra nhiều bất cập, chưa tạo ra được hành lang pháp lý cần thiết cho DNN&V trong việc tiếp cận nguồn vốn vay của ngân hàng. Vấn đề pháp lý về thế chấp , bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất còn nhiều thủ tục rườm rà gây khó khăn cho DNN&V khi vay vốn ngân hàng. Hoạt động của các DNN&V chưa được sự kiểm tra, kiểm soát thường xuyên của cơ quan chức năng nên tình trạng hoạt động làm ăn phi pháp giả mạo giấy tờ, lừa đảo trốn thuế,… còn tồn tại nhiều, gây mất niềm tin cho các ngân hàng. Các tổ chức xã hội nghề nghiệp của DNN&V với số lượng ít, hoạt động lại chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được chức năng là cầu nối giữa doanh nghiệp với ngân hàng. Việc triển khai thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng đối với DNN&V hầu như chỉ đang tồn tại trên phương diện lí thuyết, để đi vào thực tế còn cần nhiều vấn đề phải bàn. Triển vọng mở rộng cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V của Chi nhánh NHNo&PTNT Việt Nam Theo đánh giá của các nhà phân tích kinh tế trong thời gian tới các DNN&V sẽ là đối tượng khách hàng đầy tiềm năng của các NHTM. Với quy mô đông đảo và được Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách ưu tiên, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển, DNN&V sẽ có bước chuyển mình quan trọng, phát huy được tiềm năng và thế mạnh của mình. Các NHTM Việt Nam đang xây dựng những chiến lược kinh doanh mà đối tượng tài trợ là DNN&V. Điều này xuất phát từ một số lí do sau: Theo tính toán của các nhà phân tích kinh tế hiện nay, tốc độ tăng trưởng tín dụng của các NHTM là khá cao do nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế là rất lớn. Nhưng về mặt dự báo thì có thể có những rủi ro tiềm ẩn, rủi ro này không chỉ đối với các NHTM mà còn đối với cả nền kinh tế, đặc biệt là việc vốn tập trung quá nhiều vào các dự án của Tổng công ty 90-91. Riêng Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam trong tổng dư nợ hiện tại là 84.900 tỷ đồng thì 42% là dư nợ của các Tổng công ty loại này. Hàng nghìn tỷ đồng vốn xây dựng cơ bản đang bị nợ, trong khi vốn đầu tư cho các dự án của Tổng công ty có thời gian dài ( tử 5-10 năm ), nên hiệu quả của các dự án cũng như mức độ rủi ro mất vốn của các ngân hàng là rất cao. Theo thông lệ quốc tế thì những khoản vốn lớn đầu tư cho những dự án như trên phải được huy động trên thị trường chứng khoán, thế nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thực sự phát triển và còn tồn tại nhiều bất cập nên gánh nặng vẫn đổ lên vai các NHTM. Một thực tế khác đó là các NHTM Nhà nước đã chịu thiệt hại lớn khi cho vay đối với các dự án xi măng lò đứng, công ty mía đường,… Riêng số lỗ của các công ty mía đường đã lên tới 2.400 tỷ đồng. Chính vì vậy, để hạn chế rủi ro đối với hoạt động cho vay hiện nay các NHTM đang chuyển hướng mạnh mẽ sang cho vay các DNN&V, các hộ sản xuất kinh doanh, hộ làm trang trại nhằm phân tán rủi ro. Bởi vì từ sau khi có Luật doanh nghiệp mới. các DNN&V hoạt động trong môi trường pháp lí mới đã ngày càng làm ăn có hiệu quả hơn. Một lí do khác nữa, đó là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế WTO, nền kinh tế nước ta được hội nhập với nền kinh tế quốc tế trong đó có lĩnh vực Ngân hàng tài chính. Khi tham gia hội nhập, các ngân hàng nước ngoài sẽ được phép vào hoạt động và cạnh tranh bình đẳng với các NHTM Việt Nam. Mặt khác, các ngân hàng nước ngoài có lợi thế rất lớn so với các NHTM ở nước ta như: khả năng tài chính mạnh, công nghệ và trình độ quản lý cũng như nghiệp vụ cao hơn, thủ tục cho vay và cung cấp dịch vụ nhanh và đơn giản hơn. Thực tế, nhờ những ưu thế trên mà hiện nay một số Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã thu hút được nhiều doanh nghiệp Nhà nước lớn ( Tổng công ty 90-91 ) đến vay vốn và thực hiện các giao dịch với ngân hàng. Họ cũng ngày càng tin tưởng và yên tâm hơn khi giao dịch với các chi nhánh ngân hang nước ngoài. Đó cũng sẽ là xu hướng trong tương lai khi mà các ngân hàng nước ngoài được tham gia hoạt động tại thị trường Việt Nam. Chính vì vậy, các DNN&V sẽ là đối tượng thích hợp để các NHTM trong nước mở rộng cho vay và cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang có nhiều chính sách và biện pháp khuyến khích và hỗ trợ cho các DNN&V, đặc biệt là việc tạo hành lang pháp lý về các điều kiện cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này như: điều kiện về tài sản thế chấp, tính tự chủ trong cho vay và quản lí tiền vay, … Ngân hàng Ngoại thương là ngân hàng đi đầu trong công cuộc đổi mới và mở rộng hoạt động cho vay đối với DNN&V. Ngân hang này đã thành lập một ban chỉ đạo cho vay đối với DNN&V do một Phó tổng giám đốc phụ trách, đồng thời tách riêng quỹ với tổng trị giá lên tới hơn 500 tỷ đồng ( năm 2003) để thực hiện chương trình cho vay đối với các doanh nghiệp này. NHNo&PTNT Việt Nam cũng là một ngân hàng đi đầu trong việc tài trợ hoạt động cho các DNN&V và được các tổ chức quốc tế như: WB, ADB, AFD, … đánh giá cao và tiếp tục ủy thác thực hiện nhiều dự án lớn trong thời gian tới, trong đó có một số dự án hàng trăm triệu USD dành cho DNN&V như: dự án tài chính doanh nghiệp nông thôn ADB, dự án tài chính nông thôn WB, … Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng có những tạo điều kiện mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp loại này. Ngoài ra, một số NHTM quốc doanh khác và các Ngân hàng Cổ phần cũng đã và đang có nhiều chính sách và dự án tài trợ cho hoạt động của DNN&V như: Ngân hàng Công thương Việt Nam với chương trình cho vay phát triển làng nghề truyền thống, hỗ trợ tạo công ăn việc làm đô thị; Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với chương trình cho vay đổi mới công nghệ, cải tiến kĩ thuật đối với doanh nghiệp Nhà nước loại vừa và nhỏ; NHTM Cổ phần Á Châu với chương trình cho vay trung, dài hạn đối với các DNN&V nhằm giúp các DNN&V thực hiện các dự án mua sắm, thay thế và đổi mới trang thiết bị. Việc các NHTM trong nước tranh thủ và khai thác, mở rộng cho vay đối với các DNN&V không những nâng cao được dư nợ tín dụng mà còn có thể mở rộng được hoạt động, chiếm lĩnh thị trường để cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Thông qua đó góp phần tạo điều kiện cho các DNN&V phát huy được tiềm năng và thế mạnh của mình, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cùng với xu thế chung của các NHTM ở nước ta, đồng thời có sự khuyến khích của Nhà nước, của NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam, trong thời gian tới triển vọng mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V của Chi nhánh sẽ rất lớn và phát triển không ngừng. CHƯƠNG 3 : GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN ĐỐI VỚI DNN&V TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT LÁNG HẠ Phương hướng nhiệm vụ kinh doanh của Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ trong thời gian tới. Thành phố Hà Nội là nơi tập trung khá nhiều DNN&V đặc biệt là doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp mới thành lập ngày càng nhiều và có xu hướng ngày càng gia tăng, đây chính là tiềm năng mà Chi nhánh cần khai thác. Qua nhiều lần tiếp xúc trực tiếp và qua các hội nghị khách hàng cũng như việc nghiên cứu tình hình thực tế, Ban lãnh đạo Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ đã sớm nắm bắt được xu thế phát triển và đề ra những chiến lược để thu hút mở rộng đối tượng khách hàng này. Cụ thể phương hướng, nhiệm vụ của những năm như sau: - Đẩy mạnh huy động vốn trong đó chú trọng tiền gửi dân cư, phấn đấu đến cuối năm 2007 nguồn vốn huy động đạt 6.300 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2006, tiền gửi dân cư chiếm 50% tức 3.150 tỷ đồng, đến năm 2010 nguồn vốn huy động đạt 11.000 tỷ đồng. - Tiếp tục phát triển tín dụng bền vững và hiệu quả, đạt mức tăng trưởng dư nợ tín dụng 36% so với năm 2006. Chú trọng quản trị rủi ro, nâng cao cất lượng thẩm định phương án, dự án vay vốn, tuân thủ các quy trình nghiệp vụ tín dụng nhằm hạn chế phát sinh nợ quá hạn, phấn đấu dạt tỷ lệ nợ xấu dưới 3%. Bên cạnh đó Chi nhánh cũng tiến hành đổi mới cơ cấu, nâng cao chất lượng tín dụng, tăng tỷ trọng cho vay trung,dài hạn chiếm 45%; cho vay khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cho vay tiêu dùng cầm cố, đời sống chiếm 40% tổng dự nợ. - Khai thác, mở rộng cho vay đối tượng khách hàng nhỏ lẻ, kinh tế tư nhân, các hộ sản xuất công thương, các làng nghề truyền thống, các DNN&V, ... - Phấn đấu đạt tỷ lệ thu từ dịch vụ đạt 15% tổng thu nhập ròng, đảm bảo có đủ năng lực tài chính để chi lương cho CBCNV theo quy định và làm các nghĩa vụ đối với Nhà nước đầy đủ. Định hướng phát triển DNN&V trong thời gian tới và xu hướng mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh. Định hướng phát triển các DNN&V ở Việt Nam Vai trò của DNN&V là rất quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm cụ thể và mục tiêu riêng mà chiến lược cũng như các biện pháp khuyến khích hỗ trợ DNN&V có sự khác nhau vào từng giai đoạn nhất định. Đối với nước ta, nền kinh tế đang trong quá trình đổi mớitừ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hơn nữa do xuất phát điểm thấp, chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta luôn động viên khuyến khích các thành phần kinh tế phát huy mọi tiềm lực để phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, đối với các loại hình doanh nghiệp, tư tưởng đó của Đảng và Nhà nước được quán triệt trong Nghị quyết số 10/TW ngày 27/05/2000: “ Nhà nước thừa nhận bảo hộ, khuyến khích tất cả các loại hình doanh nghiệp có vai trò, hình thức tổ chức và sở hữu khác nhau, bình đẳng trước pháp luật, ... ” và các chủ trương chính sách của Đảng theo hướng: “ Phải tạo ra môi trường tài chính ổn định, thông thoáng, thuận lợi, khuyến khích cá doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hăng hái đầu tưvào sản xuất kinh doanh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Tiến tới đồng nhất môi trường kinh doanh chung đối với tất cả các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất kinh doanh. Nhà nước tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ tăng quy mô vốn đầu tư phát triển, nhanh chóng đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế và lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp”. DNN&V ở nước ta chiếm số lượng đông đảo trong tổng số doanh nghiệp và ngày càng có những đóng góp quan trọngvào sự phát triển kinh tế, xã hội và đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng này, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này phát triển như: trợ giúp thông qua các biện pháp tài chính, khuyến khích các tổ chức, cá nhân góp vốn đầu tư vào DNN&V; quy định và hướng dẫn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNN&V, tạo điều kiện giải quyết vấn đề bức xúc của DNN&V hiện nay khi tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng, đó là tài sản đảm bảo; các biện pháp hỗ trợ mặt bằng sản xuất, hỗ trợ thông tin và khả năng cạnh tranh. Đặc biệt, Nhà nước thành lập một số tổ chức trợ giúp các DNN&V như: Cục phát triển DNN&V, Hội khuyến khích phát triển DNN&V, Trung tâm hỗ trợ kĩ thuật DNN&V tại Hà Nội và một số các thành phố lớn khác trong cả nước. NHNo&PTNT Việt Nam với việc đáp ứng nhu cầu vốn vay cho các DNN&V Thực hiện Nghị quyết TW 5 và chỉ đạo của Thống đốc NHNN Việt Nam, NHNo&PTNT Việt Nam đã tập trung chỉnh sửa ban hành các cơ chế tín dụng, thanh toán trên nguyên tắc hợp tác, bình đẳng đúng luật không phân biệtcác thành phần kinh tế, chú trọng phát triển quan hệ tín dụng với doanh nghiệp trên mọi địa bàn. Chủ tịch Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam đã ban hành quyết định số 72/QĐ-HĐQT ngày 31/3/2002 về “ Quy định cho cay đối với khách hàng trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam” trong đó có những quy định mới trong hoạt độngc tín dụng: - Ngoài các nhu cầu không được cho vay theo quy định, NHNo&PTNT Việt nam có thể đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống. - Thời hạn cho vay không phụ thuộc vào đối tượng cho vay mà do Ngân hang và doanh nghiệp thỏa thuận với nhau, căn cứ vào chu kì sản xuất kinh doanh , thời hạn thu hồi vốn của các dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hang, nguồn vốn cho vay của NHNo&PTNT Việt Nam. - Mức dư nợ tối đa của một doanh nghiệp tại NHNo&PTNT Việt Nam là 350 tỷ đồng, gấp đôi so với các NHTM khác. Tuy nhiên, NHNo&PTNT Việt Nam có thể trình Chính phủ cho phép dư nợ đối với một khách hang vượt trên mức đó nếu dự án có hiệu quả. Cần nói thêm rằng gần đây Chính phủ đã cấp bổ xung vốn tự có cho NHNo&PTNT Việt Nam thêm 1000 tỷ đồng nữa. Theo đó NHNo&PTNT Việt Nam có thể cho vay một doanh nghiệp với mức dư nợ là 500 tỷ đồng. - Mức vốn tự có của doanh nghiệp theo quy định đối với dự án vay vốn ngắn hạn tối thiểu là 10% trong tổn nhu cầu vốn và tối thiểu 20% đối với dự án vay vốn trung, dài hạn. Đối với các doanh nghiệp có uy tín trong hoạt động cho vay, thanh toán thì mức vốn tự có tham gia dự án có thể thấp hơn quy định trên. Vấn đề này NHNo&PTNT Việt Nam giao cho Giám đốc các chi nhánh được quyền quyết định. - NHNo&PTNT Việt Nam được dùng toàn bộ nguồn vốn huy động trung, dài hạn và 30% nguồn vốn huy động ngắn hạn để thực hiện cho vay trung, dài hạn. Do vậy, NHNo&PTNT Việt nam có thể mở rộng cho vay trung, dài hạn đối với các doanh nghiệp. - Theo quy định mới, NHNo&PTNT Việt Nam có thể áp dụng nhiều phương thức cho vay như: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay hợp vốn, cho vay theo dự án đầu tư,… - Cuối cùng là vấn đề có lẽ đáng quan tâm nhất, đó là vấn đề về tài sản bảo đảm. Đối với NHNo&PTNT Việt Nam vấn đề quan trọng để quyết định cho vay là dự án có hiệu quả, có khả năng trả nợ. Do vậy, các chi nhánh được linh hoạt trong việc yêu cầu có hay không cần tài sản đảm bảo cho món vay và như nghị quyết TW 5 đã nhấn mạnh: “ Kinh tế tư nhân được dùng tài sản hình thành từ vốn vay để thế chấp vay vốn ngân hàng”. Do đó, việc thế chấp tài sản được linh hoạt và thông thoáng hơn. Như vậy, NHNo&PTNT Việt Nam sẵn sàng và mong muốn đáp ứng nhu cầu vay vốn đối với tất cả khách hàng không phân biệt thành phần kinh tế, phân biệt loại hình doanh nghiệp, địa bàn hoạt động, cho tất cả nhu cầu vốn trừ nhu cầu bị pháp luật cấm, nếu khoản vay đáp ứng đủ điều kiện tín dụng quy định NHNo&PTNT Việt nam sẵn sàng hợp tác và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp với phương châm: “ Hiệu quả của ngân hàng là do hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại”. Tuy nhiên, NHNo&PTNT Việt Nam cũng nhận thức rõ rằng: có cán bộ ngân hàng chưa phục vụ tận tình, vì thế NHNo&PTNT mong muốn được trao đổi thẳng thắn với doanh nghiệp để từ đó có những biện pháp giải quyết nhằm đưa hoạt động của cà ngân hàng và doanh nghiệp hiệu quả hơn. Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh Tăng cường hoạt động huy động vốn. Đáp ứng vốn cho yêu cầu phát triển các DNN&V là một vấn đề cực kì quan trọng và cấp bách đối với nước ta trong nhiều năm tới. Báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “ Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo đường lối mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định và vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ bên ngoài. Chiến lược lâu dài là phải huy động tối đa nguồn vốn trong nước để chiếm tỷ trọng cao trong đầu tư ”. 3.3.1.1 Mở rộng hoạt động huy động vốn trong các tổ chức kinh tế và dân cư. NHNo&PTNT Láng Hạ thực hiện phương châm “ đi vay để cho vay “, tuy nhiên không phải nguồn vốn huy động nào cũng có thể sử dụng để cho vay trung, dài hạn được. Để đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung, dài hạn của các DNN&V thì Chi nhánh cần huy động được các nguồn vốn có kì hạn phù hợp và ổn định được phép cho vay trung, dài hạn. Chi nhánh cần thực hiện các biện pháp nhằm thu hút các nguồn tiền gửi trung, dài hạn hoặc tiền gửi ngắn hạn được phép cho vay trung, dài hạn.như tiền gửi không kì hạn, có kì hạn của dưới 12 tháng của tổ chức; tiền gửi không kì hạn, có kì hạn dưới 12 tháng của các nhân , phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, ... thông qua chính sách lãi suất, chính sách gửi tiền tiết kiệm có thưởng hoặc cung cấp thêm các tiện ích cho khách hàng gửi tiền. Chi nhánh cần phải tiếp tục đẩy mạnh hoạt động huy độn vốn ngắn hạn vì đây là nguồn vốn có chi phí nhỏ hơn so với chi phí của nguồn vốn huy động trung, dài hạn. Số dư huy động vốn ngắn hạn càng lớn thì số lượng số lượng được sử dụng cho vay trung, dài hạn càng nhiều. Huy động vốn ngắn hạn thông qua các hình thức tiết kiệm và tiền gửi thanh toán là những dịch vụ truyền thống của ngân hàng. Tuy nhiên, để có thể huy động được tối đa được các nguồn vốn nhàn rỗi, ngoài lãi suất hấp dẫn Ngân hàng cần quan tâm đưa ra các hình thức tiết kiệm mới phù hợp với nhu cầu của người dân đồng thời tăng thêm các tiện ích về cầm cố, chuyển nhượng, xác nhận số dư sổ tiết kiệm, ... đồng thời cung cấp các dịch vụ thuận tiện và sinh lời đối với các tài khoản pháp nhân. Bên cạnh đó, Chi nhánh cần đẩy mạnh mạnh hoạt động thu hút vốn thông qua phát triển dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán thẻ. Việc đẩy mạnh phát hành thẻ giúp các ngân hàng mở rộng đối tượng khách hàng với chi phí giao dịch thấp đồng thời khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt. 3.3.1.2 Thu hút nguồn vốn nước ngoài Nguồn vốn nước ngoài có vai trò quan trọng để Chi nhánh có thể mở rộng hoạt động cho vay. Để thu hút được nguồn vốn này, Chi nhánh cần sử dụng nhiều biện pháp tích cực và đồng bộ. Bên cạnh đó Ch nhánh cũng cần phải còn nhiều dự án tốt, khả thi để có thể thu hút được nguồn vốn nước ngoài. Mở rộng phải đi đôi với nâng cao chất lượng cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V Mở rộng cho vay trung, dài hạn để giúp cho cácDNN&V đổi mới công nghệ. Đầu tư vốn trung, dài hạn là đầu tư cho tương lai của các doanh nghiệp, là để các doanh nghiệp xây dựng cở sở vật chất kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để phát triển. Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà nội dung cơ bản là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, … diễn ra mạnh mẽ và đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Việc áp dụng những thành tựu đó vào trong hoạt động sản xuât, kinh doanh sẽ làm cho các doanh nghiệp có hiệu quả hơn, đồng thời khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng tăng lên. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và đặc biệt là các DNN&V có kĩ thuật công nghệ tương đối lạc hậu vì vậy hoạt động sản xuất chưa đạt hiệu quả cao, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ Ngân hang của doanh nghiệp. do đó, Chi nhánh cần đầy mạnh cho vay vốn trung, dài hạn để giúp các DNN&V đổi mới công nghệ, đồng thời cũng phải biết lựa chọn, ưu tiên cho các dự án có quy mô nhỏ và vừa, ứng dụng công nghệ tiên tiến tránh tình trạng mua lại những thiết bị cũ, lạc hậu của các nước. Để có thể đẩy mạnh đầu tư vốn trung, dài hạn cho các DNN&V, Chi nhánh Láng Hạ cần phải giải quyết một số vấn đề sau: - Ngân hàng cần có một bộ phận giúp các DNN&V xây dựng cũng như thẩm định lại các dự án có tính khả thi, lựa chọn công nghệ phù hợp và áp dụng công nghệ đó vào sản xuất do DNN&V thường không đủ điều kiện để giải quyết các vấn đề liên quan đến công nghệ, họ thường thiếu thông tin về những công nghệ mới. - Cho phép các DNN&V được thế chấp tài sản đựoc hình thành từ vốn vay của Ngân hàng để khắc phục tình trạng nhiều doanh nghiệp có dự án khả thi, có đủ vốn tự có nhưng lại không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. - Cần phối hợp với chính quyền các cấp để tạo điều kiện giúp đỡ các doanh nghiệp trong các vấn đề lien quan đến đất đai, thủ tục hành chính để các dự án được thực hiên một cách thuận tiện. 3.3.2.2 Nâng cao chất lượng cho vay, bảo đảm an toàn vốn và hạn chế rủi ro. Việc mở rộng hoạt động cho vay không thể thực hiện một cách tùy tiện được, nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có yếu tố chất lượng cho vay.Việc mở rộng chỉ thực hiện khi chất lượng cho vay tốt. Để đạt được điều đo, Chi nhánh cần cón những biện pháp: - Có cơ chế cho vay và điều kiện cho vay chặt chẽ, đồng bộ với nhau, chống sơ hở để từ đó hạn chế rủi ro cho vay. - Có chính sách phù hợp đối với từng khách hang, phân loại khách hang theo từng nhóm khi tiến hành cho vay để dễ quản lí, hạn chế rủi ro. - Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát đối với khách hang; tiến hành thu thập thông tin, xử lí thông tin chính xác, nhanh nhạy để từ đó đưa ra các biện pháp kịp thời. 3.3.2.3Nâng cao chất lượng thẩm định của dự án. Mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn luôn phải gắn liền với nâng cao chất lượng cho vay. Vì vậy, muốn thực hiện giải pháp mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V một cách có hiệu quả thì Chi nhánh cần phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác, nếu kết quả thẩm định dự án là chắc chắn thì có thể cho vay dựa trên tính khả thi của dự án, không cần tài sản đảm bảo mà vẫn tránh được rủi ro. Điều này không những đem lại lợi nhuận cho ngân hàng mà còn giúp các doanh nghiệp không bỏ lỡ mất cơ hội đầu tư. Để nâng cao chất lượng thẩm định, ngân hàng cần chú ý một số vấn đề sau: - Cán bộ cần tuân thủ đúng quy trình thẩm định dự án theo quy định của NHNo&PTNT Việt Nam, thẩm định theo hai nội dung là thẩm định dự án và thẩm đụnh chủ dự án. Quy trình thẩm định cần tiến hành một cách chặt chẽ, đầy đủ, đúng đắn, khách quan nhưng vẫn đảm bảo nhanh chóng thuận tiện cho khách hàng. - Tìm hiểu và thu thập những thông tin cần thiết về khách hàng để tránh được những rủi ro do thông tin không cân xứg mang lại. Các thông tin này có thể thu thập từ nhiều nguồn như: Từ khách hàng thông qua tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính của từng doanh nghiệp; thông tin từ phòng tín dụng; thông tin từ NHNo&PTNT Việt Nam; thông tin từ cơ quan quản lý của Nhà nước và chính quyền dịa phương nơi doanh nghiệp hoạt động. - Bên cạnh bộ phận thẩm định tín dụng, Ngân hàng nên tổ chức một bộ phận có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát lại kết quả thẩm định để đưa ra được kết luận đúng đắn, khách quan, tránh tình trạng cán bộ thẩm định chủ quan dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng hoặc bỏ lỡ khách hàng tốt. 3.3.2.4 Củng cố và hoàn thiện đội ngũ cán bộ tín dụng Trong bất cứ hoạt động nào thì nhân tố con người cũng là nhân tố quyết định. Để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy của các kết luận thẩm định và có quyết định cho vay đúng đắn thì cán bộ tín dụng phải có kiến thức và hiểu biết về chủ trương chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, địa phương và ngành, các quy chế quản lý kinh tế, tài chính. Đặc biệt là hoạt động cho vay đối với các DNN&V, đây là loại hình doanh nghiệp còn mới và có rất nhiều đặc trưng vì vậy sự hiểu biết về đối tượng này của các cán bộ tín dụng vẫn còn hạn chế. Do đó, để mở rộng hoạt động cho vay đối với các DNN&V Chi nhánh cần chú ý đến việc đào tạo và bối dưỡng đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ tín dụng về các DNN&V nói riêng. Ngân hàng cần có một chiến lược đào tạo lâu dài song trước mắt cần tập trung vào những công việc chủ yếu sau: Về tổ chức cán bộ: Chi nhánh nên thành lập tổ chuyên trách các khách hàng là DNN&V. Cán bộ tín dụng này sẽ thường xuyên được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ và hiểu biết về các DNN&V để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định dự án vay vốn của các đối tượng này được chính xác và tin cậy hơn. Về tuyển dụng và đào tạo nhân sự: Ngân hàng cần thường xuyên mở các đợt tuyển dụng nhân sự và có các chính sách ưu đãi trong tuyển dụng nhằm thu hút nhân tài đén với Ngân hàng. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng nên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, đặc biệt là chú trọng đến việc nâng cao trình độ thẩm định và phân tích cho các cán bộ tín dụng. Bố trí cán bộ: Ngân hàng cần phải căn cứ vào độ quan trọng, tính phức tạp của các dự án và trình độ của mỗi cán bộ để phân công công việc cho phù hợp. Ngân hàng cũng cần xem xét và rà soát lại đội ngũ cán bộ, đặt kế hoạch bồi dưỡng hay chuyển sang làm công việc khác đối với những cán bộ không đáp ứng được yêu cầu công việc. Cố như vậy mới tạo dược môi trường làm việc cạnh tranh hiệu quả. Bên cạnh đó, Chi nhánh cũng cần có chính sách cụ thể về các hình thức khen thưởng đối với công việc cũng như các chính sách liên quan đến hình thức kỉ luật nghiêm minh đối với các cán bộ cố tình làm việc sai trái hoặc vô tình gây nên hậu quả nghiêm trọng cho Chi nhánh.Có chế độ khuyến khích các cán bộ tự nghiên cứu học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ. Đồng thời Chi nhánh cũng nên tổ chức các lớp học thêm để nâng cao bồi dưỡng kiến thức về tin học, ngoại ngữ cho cán bộ ngân hàng để đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hiện đại hoá ngân hàng. Hoàn thiện chính sách tín dụng đối với DNN&V Chính sách tín dụng hợp lý và hấp dẫn sẽ có tác dụng thu hút khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ. Hiện nay, khi cho vay DNN&V ngân hang vẫn thường áp dụng chung cơ chế cho vay giống như các đối tượng khách hàng khác. Điều này gây bất lợi cho các DNN&V khi vay vốn ngân hàng vì DNN&V có nhiều đặc điểm riêng không giống với các doanh nghiệp có quy mô lớn. Do đó,để mở rộng hoạt động cho vay các đối tượng DNN&V trước tiên Chi nhánh cần xây dựng một chính sách tín dụng phù hợp, đổi mới cơ chế cho vay DNN&V theo những hướng sau: Thành lập quỹ riêng để cho vay DNN&V Để đảm bảo có nguồn vốn ổn định, chủ động đáp ứng nhu cầu khách hang đồng thời giúp cán bộ yên tâm hơn khi cho vay các DNN&V thì Chi nhánh nên sử dụng nguồn vốn thành lập quỹ riêng để cho vay DNN&V tạo điều kiện cho việc mở rộng tín dụng có hiệu quả. Khi Chi nhánh có quỹ riêng để cho vay thì các DNN&V cũng sẽ bớt e ngại khi đến vay vốn ở ngân hàng. Cải tiến điều kiện cho vay Để có thể vay vốn của ngân hàng thì doanh nghiệp càng đáp ứng được điều kiện vay vốn của Ngân hàng. Khó khăn lớn nhất đối với DNN&V hiện nay là vấn đề về tài sản đảm bảo. Các doanh nghiệp này thường không có đủ tài sản đảm bảo cho các khoản vay do đó có thể không được vay vốn mặc dù có phương án kinh doanh khả thi. Vì vậy, để tạo điều kiện cho các DNN&V được vay vốn và cũng có thể thu hút thêm khách hàng thì ngân hàng nên cho vay dựa trên thực trạng hoạt động của doanh nghiệp và tính hiệu quả dự án. Nếu trong trường hợp ngân hàng thấy doanh nghiệp cần thiết phải có tài sản đảm bảo thì nên có biện pháp phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp như sau: - Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và đủ tài sản thế chấp cho phần còn lại thì doanh nghiệp phải thực hiện đảm bảo nợ theo yêu cầu. Ngân hàng định giá tài sản đảm bảo theo giá thị trường đảm bảo công bằng cho phía ngân hàng và doanh nghiệp. - Đối với doanh nghiệp được bảo lãnh tín dụng một phần và tài sản thế chấp không đủ đảm bảo cho phần còn lại thì yêu cầu dùng tài sản hình thành từ vốn vay để đảm bảo cho phần nợ vay còn lại. - Đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện hai dạng trên thì ngân hàng phải chú trọng thẩm định dự án, phương án vay vốn thong qua hội đồng tín dụng và các chuyên gia tư vấn theo chuyên môn, nếu thực sự dự án mang lại hiệu quả cao thì sẽ quyết định cho vay. Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với DNN&V DNN&V có những đặc điểm riêng so với các doanh nghiệp lớn, đó là : quy mô hoạt động nhỏ, trình độ quản lý cũng như hệ thống sổ sách còn nhiều hạn chế. Do đó, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận với nguồn vốn trung, dài hạn thì Chi nhánh cần có một quy trình ccho vay riêng phù hợp với DNN&V, tuy nhiên phải phù hợp với các quy định của NHNN và phù hợp với mục tiêu. Chiến lược phát triỉen của Chi nhánh. Để làm được điều này, trước hết Chi nhánh cần chỉnh sửa kịp thời những quy định không phù hợp với thực tiễn, cụ thể hóa thể lệ, chế độ mà NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam ban hành bằng một quy trình cho vay riêng linh hoạt và thích ứng với từng đối tượng khách hàng nói chung và các DNN&V nói riêng. Cần phải đơn giản hóa thủ tục cho vay, vừa giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn vay vừa giảm thiểu chi phí và thời gian thực hiện món vay. Mặt khác, để tránh tình trạng bỏ qua cơ hội đầu tư và thu hút được khách hàng thì Chi nhánh nên sử dụng phương pháp chấm điểm trong thẩm định cho vay, dựa trên hiệu quả của dự án cũng như năng lực của doanh nghiệp để quyết định chứ không hoàn toàn dựa vào tài sản thế chấp. Đa dạng hóa hình thức cho vay Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp nói chung và DNN&V nói riêng ngày càng tăng theo đó các hình thức tín dụng cũng ngày càng được mở rộng và đa dạng. Hiện nay, Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Hạ chủ yếu là cho vay theo dự án, cho vay theo món. Để mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn thì trong thời gian tới Chi nhánh nên đa dạng hóa các hình thức cho vay như: cho vay trả góp, cho vay đồng tài trợ, cho thuê tài chính,… Ngân hàng cũng nên mở rộng cho vay bằng ngoại tệ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tham gia vào thị trường khu vực và quốc tế. Ngoài ra, để mở rộng hoạt đọng cho vay đối với DNN&V, đặc biệt là các DNN&V khối ngoài quốc doanh thì Chi nhánh có thể mở rộng diện vay tín chấp với khối lượng lớn các DNN&V thông qua các tổ chức đoàn thể, hiệp hội,… tạo điều kiện cho các doanh nghiệp không đủ tài sản thế chấp nhưng vẫn có thể vay vốn của ngân hàng bằng các hình thức bảo lãnh. Tăng cường hoạt động Marketing ngân hàng Trong những năm gần đây, Chi nhánh đã xác định được DNN&V là đối tượng khách hàng quan trọng của ngân hàng và để thu hút được khách hàng, mở rộng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNN&V thì Chi nhánh cần phải thực sự có một chiến lược marketing nhằm tuyên truyền quảng bá sản phẩm, dịch vụ đến với các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về Chi nhánh cũng như các tiện ích mà Chi nhánh cung cấp. Để thực hiện được điều này, Chi nhánh càn xây dựng chiến lược Marketing theo hướng sau: Thứ nhất, Chi nhánh cần xây dựng một phòng Marketing riêng biệt phụ trách chiến lược marketing tổng thể cũng như chiến lược marketing đối với từng đối tượng khách hàng trong đó có DNN&V. Thứ hai, Chi nhánh phải có chiến lược tìm kiếm khách hàng mới, giữ chân khách hàng truyền thống. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng có nhu cầu sử dụng nguồn vốn vay nhưng vấn đề là ngân hàng phải xác định được những nhóm đối tượng khách hàng của mình và thu hút họ đến với ngân hàng. Vì vậy, bộ phận chuyên trách phải thu thập, nghiên cứu và phân tích thông tin về tình hình kinh tê nói chung và tình hình hoạt động của các DNN&V nói riêng trên địa bàn để có những biện pháp cụ thể. Thứ ba là đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các hội nghị khách hàng DNN&V, ... Đây là biện pháp nhằm đưa các thông tin cần thiết về ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ cũng như các tiện ích mà ngân hàng cung cấp đến với doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp biết và đến với ngân hàng, có như vậy mới thu hút được khách hàng. Ngoài ra, Chi nhánh có thể đưa ra các chính sách ưu đãi về lãi suất, ra hạn nợ, bổ sung thêm các tiện ích khi sử dụng sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh. Một số biện pháp hỗ trợ Nâng cấp công nghệ Hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, việc ngân hàng có một hệ thống trang thiết bị hiện đại, ứng dụng thành tựu của công nghệ thông tin vào trong hoạt động của ngân hàng đã trỏ thành một giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng thẩm định cũng như khả năng cạnh tranh với những ngân hàng khác. Vì vậy, Ngân hàng cần trang bị cho bộ phận thẩm định cũng như các bộ phận khác đầy đủ các phương tiện làm việc tuỳ theo tính chất công việc để có thể truy cập và xử lý thông tin một cách hiệu quả, áp dụng các phương thứ thẩm định hiện đại. Tuy nhiên việc đầu tư, nâng cấp công nghệ phải tuân thủ theo yêu câu tiết kiệm, chống lãng phí. Với biện pháp như trên, chất lượng thẩm định dự án và khách hàng sẽ được nâng lên một bước. Một khi kết quả thẩm định có chất lượng, có thể tin cậy được thì cán bộ tín dụng sẽ vững tâm và mạnh dạn hơn trong quyết định cho vay đặc biệt là đối với DNN&V. Nâng cao chất lượng thông tin Việc Chi nhánh thiếu thông tin chính xác về khách hàng trước khi ra quyết định cho vay rất dễ xảy ra trong thực tế do nhiều lí do, trong đó lý do quan trọng nhất là nguồn cung cấp thông tin bị hạn chế. Do đó, Chi nhánh nên cử ra ít nhất một cán bộ chuyên trách về thông tin có trách nhiệm thu thập, xủ lý và truyền thông tin cho các bộ phận khác. Những thông tin liên quan đến các dự án vay vốn, khách hàng phải được cung cấp nhanh chóng, đảm bảo kịp thời. Định kì các bộ phận trong ngân hàng phải tiến hành báo cáo cho bộ phận thông tin để bộ phận này hợp thành một ngân hàng dữ liệu chung thống nhất. Một số kiến nghị Kiến nghị đối với Chính phủ Do thị trường chứng khoán nước ta còn non trẻ, quy định về việc phát hành chứng khoán của các doanh nghiệp ra thị trường rất khắt khe đặc biệt là đối với các DNN&V, nên NHTM vẫn là sự lựa chọn số đầu tiên khi các DNN&V xuất hiện nhu cầu vốn. Vì vậy, Chính phủ cần hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt chính sách cho các ngân hàng và các DNN&V nhằm tạo thuận lợi giúp doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng, đó là: Thứ nhất, chính sách đất đai có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của khu vực DNN&V. Nếu doan nghiệp không được quyền sử dụng hoặc thuê đất và công trình xây dựng một cách lâu dài, chắc chắn thì hoạt động sản xuất không thể ổn định. Đồng thời, giấy chứng nhận vè quyền sử dụng đất sẽ giảm bớt được sự mập mờ về tính hợp pháp của đất đai và cho phép doanh nghiệp được sử dụng để thế chấp xin vay. Do đó, Chính phủ cũng như chính quyền các cấp cần khẩn trương hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngoài ra Chính phủ cần giải quyết một số vấn đề liên quan đến chính sách đất đai, thực hiện chính sách cho thuê đất đai bình đẳng với tất cả các thành phần kinh tế để sử dụng vào mục đích kinh doanh. Thứ hai, thúc đẩy nhanh sự hình thành và hoạt động của quỹ bảo lãnh cho các DNN&V nhằm làm tăng mức độ tín chấp của ngân hàng. Nguồn vốn của các quỹ này do ngân hàng cấp và được bổ sung từ vốn hỗ trợ DNN&V trong và ngoài nước. Đồng thời, nới rộng và cụ thể hoá các quy định về cho vay tín chấp đối với DNN&V. Thứ ba, để khai thông các kênh đầu tư vốn cho DNN&V, Chính phủ cần hoàn thiện hành lang pháp lý và đưa ra cá chính sách nhất quán và cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tự giác chấp hành nghiêm chỉnh của quy định của pháp luật, cụ thể là các cơ quan tài chính, cơ quan thuế nên hướng dẫn và quy định các DNN&V thực hiện chế độ quyết toán và kiểm tra việc chấp hành hoạt động kinh doanh thông qua nộp thuế trên tinh thần tạo nhiều điều kiện nhất cho các doanh nghiệp. Thứ tư, nhân tố con người là rất quan trọng và không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào. Thực tế, đội ngũ quản lý các DNN&V hiện nay ở nước ta còn thiếu nhiều và trình độ còn chưa cao. Do đó, Chính phủ cần phải có kế hoạch chỉ đạo các cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ DNN&V bằng cách lập các trung tâm đào tạo đồng thời hỗ trợ chi phí đào tạo và khuyến khích DNN&V tự đầu tư đúng mức cho nguồn nhân lực của mình bằng các ưu đãi về thuế và hành chính. Kiến nghị đối với NHNN Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và hoạt động của các NHTM. Để DNN&V tiếp cận được nguồn vốn vay trung, dài hạn của NHTM Ngân hàng Nhà nước cần đưa ra những biện pháp đồng bộ dể ổn định tiền tệ, tránh tình trạng lạm phát lạm phát cao ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng khi gửi tiền vào các NHTM. Điều này sẽ giúp cho nguồn vốn huy động của ngân hàng được ổn định và gia tăng đáp ứng được nhu cầu vay vốn của thị trường. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước cần đổi mới phương thức và thủ tục tín dụngtheo hướng thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế có dự án đầu tư kinh doanh khả thi được vay vốn ngân hàng. Đối với các DNN&V, là đối tượng được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển Ngân hàng Nhà nước nên có những quy định cụ thể và nới lỏng hơn về điều kiện tài sản thế chấp và mở rộng phạm vi tài sản dùng để thế chấp do đây là điểm yếu của các DNN&Vkhi tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thông tin và cung cấp thông tin tín dụng cho các NHTM . Trung tâm tín dụng ( CIC ) là nơi cung cấp thông tin về tín dụng cho các tổ chức tín dụng. Mỗi khách hàng khi sử dụng vốn vay đều có báo cáo tình hình dư nợ tại Trung tâm thông tin tín dụng. Do vậy, đây là nơi cung cấp thông tin thêm về khách hàng rất chính xác và có ích đối với ngân hàng trong việc ra quyết định cho vay. Tuy nhiên hiện nay Trung tâm còn gặp rất nhiều khó khăn đó là: một số tổ chức tín dụng chưa được thực hiện tốt việc báo cáo thông tin; việc phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp còn hạn chế, ... Do đó, trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước cần có những biện pháp hoàn thiện hơn hệ thống thông tin, tạo mối quan hệ thông tin hai chiều giữa Ngân hàng và Trung tâm. Kiến nghị đối với NHNo&PTNT Việt Nam Thứ nhất, phát huy thành công và đẩy mạnh chương trình cho vay các DNN&V, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế lớn trong cả nước. Thứ hai, NHNo&PTNT Việt Nam cần thường xuyên tổ chức các lớp huấn luyện, đào tạo chuyên sâu đối với công tác thẩm định, đánh giá thực trạng kinh doanh của DNN&V cho toàn hệ thống, giúp các chi nhánh có quyết định đúng đắn trong quá trình thẩm định dự án và không để lỡ mất cơ hội đầu tư của cả ngân hàng và DNN&V. Thứ ba, tập trung phát triển sản phẩm dịch vụ mới phù hợp với nhu cầu của khách hàng nói chung và của DNN&V nói riêng, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ đến các DNN&V nhằm có điều kiện tiếp xúc và thu thập thông tin tù đó nắm bắt được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp, qua đó hình thành những đảm bảo tài chính an toàn cho ngân hàng. Thứ tư, hoàn thiện mạng lưới thu thập, xử lý thông tin tín dụng và sử dụng thông tin một cách có hiệu quả, đặc biệt là những thông tin nhạy cảm như: thông tin về tình hình tài chính, rủi ro kinh doanh, năng lực quản lý điều hành, khả năng thanh toán, ... của doanh nghiệp. Kiến nghị với các DNN&V Để tiếp cận được nguồn vốn vay trung, dài hạn của ngân hàng, ngoài việc tháo gỡ những vướng mắc từ phía các ngân hàng và hệ thống pháp lý thì các DNN&V cũng cần có những hành động thiết thực nhằm tạo được niềm tin với các ngân hàng. Cụ thể: - Các DNN&V cần nâng cao trình độ hiểu biết về nguyên tắc và quy trình tín dụng của ngân hàng. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp chuẩn bị đầy đủ các điều kiện mà ngân hàng yêu cầu khi vay vốn, tạo sự tin tưởng đối với ngân hàng đồng thời rút ngắn được thời gian xin vay, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. - Nâng cao trình độ quản lý, nâng cao chất lượng lập dự án kinh doanh, cung cấp những thông tin chính xác, trung thực cho ngân hàng. Hiện nay, công tác kế toán tại các DNN&V vẫn thường bị xem nhẹ, các báo cáo tài chính thường sơ sài, thiếu minh bạch, không đủ tin cậy. Điều này gây khó khăn cho ngân hàng khi thẩm định và xét duyệt cho vay. Vì vậy, để có thể vay vốn ngân hàng một cách dễ dàng và thuận tiện hơn các DNN&V cần chấp hành nghiêm túc pháp lệnh về kế toán, thống kê mà Nhà nước đã ban hành. - Ngoài ra, DNN&V cũng cần phải nâng cao uy tín đối với ngân hàng bằng năng lực cạnh tranh của mình. Doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích, hiệu quả cao và trả nợ đúng hạn. - Các doanh nghiệp cũng nên liên kết lại với nhau để thành lập các hiệp hội chung, uy tín của hội có thể bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. KẾT LUẬN Hiện nay nhu cầu vốn cho nền kinh tế là rất lớn, mặc dù các kênh cung ứng vốn khác như: thị trường chứng khoán, công ty tài chính … đã khá phát triển song cũng tồn tại không ít những hạn chế, thì gánh nặng vẫn chủ yếu đổ lên vai các NHTM. Đối với các DNN&V, lực lượng chủ yếu trong hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam thì nhu cầu vốn, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn để đầu tư cho việc đổi mới máy móc, trang thiết bị công nghệ, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn.Tuy nhiên khả năng tiếp cận nguồn vốn này của các DNN&V đang còn gặp rất nhiều khó khăn mà nguyên nhân xuất phát từ cả phía doanh nghiệp và ngân hàng. Qua thời gian tìm hiểu thực tế hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ cùng với việc đánh giá những thành công cũng như hạn chế em đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay trung và dài hạn đối với DNN&V tại Chi nhánh. Tuy nhiên do trình độ hiểu biết, điều kiện và phạm vi nghiên cứu có hạn nên chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn và ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để đề tài này trở lên thiết thực hơn. NHNo&PTNT Việt Nam Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ Độc lập- Tự do- Hạnh phúc ------------*---------------- -----------------------*-------------------- NHẬN XÉT CỦA ĐƠN VỊ THỰC TẬP …………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Hà Nội, ngày tháng năm Đơn vị thực tập Danh mục các bảng biểu 1. Bảng 2.1 : Tình hình huy động vốn của Chi nhánh 2. Bảng 2.2 : Tình hình tín dụng của Chi nhánh 3. Bảng 2.3 : Kết quả kinh doanh của Chi nhánh 4. Bảng 2.4 : Dư nợ cho vay đối với DNN&V 5. Bảng 2.5 : Cơ cấu dư nợ đối với DNN&V phân theo thời gian 6. Bảng 2.6 : Dư nợ trung dài hạn đối với DNN&V phân theo loại hình doanh nghiệp 7. Bảng 2.7 : Tình hình nợ xấu tại Chi nhánh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCDMo rong CV Trung.dai han .doc
Tài liệu liên quan