Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm dịnh dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng trách nhiệm hữu hạn Indovina

Hoạt động cho vay là hoạt động đặc trưng và quan trọng nhất đối với bất cứ ngân hàng thương mại nào. Việc nâng cao chất lượng cho vay là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý ngân hàng. Để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời trong hoạt động của mình, cấc ngân hàng đã tính tới nhiều giải pháp để thúc đẩy nâng cao chất lượng của hoạt động này. Một trong các giải pháp đó là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay. Tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai, đến chất lượng của khoản cho vay. Làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay đúng đắn, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong chuyên đề thực tập này, Em đã nghiên cứu những lý luận về thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng thương mại, kết hợp với thực tiễn thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng Indovina, đánh giá kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay, tìm hiểu nguyên nhân và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng Indovina trong thời gian tới.

doc69 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1543 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm dịnh dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng trách nhiệm hữu hạn Indovina, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Dự án xin vay vốn xây dựng nhà máy Công nghiệp Tân Á (Hà Nội) sản xuất kinh doanh giấy nhôm, bao bì thùng carton gợn sóng tại sài Đồng B- Gia Lâm- Hà Nội. Sự cần thiết phải đầu tư. Sự thành lập công ty công nghiệp Tân Á – Hà Nội chuyên sản xuất các loại bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng xuất khâu và giấy nhôm dán thay thế hàng nhập khẩu tại Hà Nội, nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lúc này nhằm những mục đích sau: Sản xuất kinh doanh các loại bao bì thùng các tông và hộp các tông gợn sóng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu thị trường sẵn có ở nước ngoài của công ty New Toyo Ltd. Điều này bảo đảm chắc chắn 10% khối lượng sản phẩm bao bì thùng và hộp các tông cũng như giấy nhôm dán của Tân Á sẽ được xuất khẩu thu ngoại tệ mạnh và tự mình cân đối nhu cầu ngoại tệ phục vụ tái sản xuất. Hợp tác với một số nhà máy giấy tại Hà Nội, Bãi Bằng, Vĩnh Phúc và các tỉnh phía bắc hiện đang hoạt động không hết công suất máy hoặc ngừng hoạt động vì thiếu nguyên liệu và phụ tùng để phục hồi sản xuất và nâng cấp máy móc thiết bị nhằm sản xuất ra các loại sản phẩm có đủ các điều kiện kỹ thuật và đạt chất lượng cao. Giải quyết việc làm cho gần 150 lao động trực tiếp làm việc cho Tân Á và khoảng vài trăm lao động khác làm việc cho các nhà máy giấy. Tiếp thu công nghệ hiện đại trong việc sản xuất thùng và hộp các tông. Hình thức đầu tư: Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội là một công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài, chuyên sản xuất các loại bao bì từ nguyên liệu giấy xuất khẩu và thay thế xuất khẩu. Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội là một công ty trách nhiệm hữu hạn, trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, công ty tân Á chịu trách nhiệm với các bên đối tác trong phạm vi vốn pháp định của mình. Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội có tư cách pháp nhân theo luật pháp Việt Nam, có chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, tự chịu lỗ lãi, có con dấu riêng trong quan hệ giao dịch của mình, được mở tài khỏn bằng đồng VN và tiền nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam, ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài đặt trụ sở trên lãnh thổ Việt Nam. Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội được quyền quyết định về những hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, phù hợp với luật pháp và chủ trương chính sách của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghiã Việt Nam. Nguồn vốn của Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội là nguồn vốn tự có của công ty gốc new Toyota PTE. Ltd Singapore. Thời gian xin đầu tư là 45 năm. Tên và địa điểm công ty. Tên công ty: Công ty TNHH Công nghiệp Tân Á Hà Nội. Tên giao dịch nước ngoài: New Asia Industries Company Ltd. Địa điểm: Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội sử dụng mặt bằng thuê trong 45 năm của công ty điện tử hà Nội tại khu công nghiệp Sài Đồng B, Gia Lâm, Hà Nội. Diện tích thuê đất là 20.000 m2. Giá thuê đất theo biên bản thỏa thuận là 40 USD/m2/45 năm. Ngoài ra còn có khoản phí quản lý khu công nghiệp là 0,4 USD/ m2/ năm. Phương án sản phẩm và tiêu thụ. Sản phẩm của Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội gồm hai mặt hàng chính: Bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng với quy cách và kiểu dáng rất đa dạng. Giấy nhôm dán. Kế hoạch sản xuất dự kiến như sau: Năm 1 Năm 2 Năm 3 Bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng các loại 4800 T 5520 T 6348 T Giấy nhôm dán 50 T 60 T 70 T 2.5.4.2. Phương án tiêu thụ: Sản phẩm của Công ty công nghiệp Tân Á Hà Nội được tiêu thụ như sau: Năm 1 Năm 2 Năm 3 Bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng 552 T - Xuất khẩu 10 % 480 T 4968 T 635 T - Trong nước 90% 4320 T 5520 T 5713 T Cộng 4800 T 6 T 6318 T Giấy nhôm dán xuất khẩu 10% 5 T 54 T 7 T Trong nước 90% 45 T 63 T Thẩm định phương án máy móc và quy trình công nghệ. Máy móc thiết bị chính: Công ty Tân Á Hà Nội sẽ được trang bị những dây chuyền máy móc thiết bị hiệ đại do công ty Hung Ih ở Đài Loan cung cấp. trị giá tổng cộng toàn bộ máy móc thiết bị chính là 872.600 USD chia ra thành: Xưởng sản xuất bao bì thùng các tông gợn sóng trị giá 450.600 USD. Xưởng sản xuất bao bì các tông gợn sòng nhiều màu trị giá 214.100 USD. 2.5.5.2. Máy móc thiết bị phụ: 184.000 USD. 2.5.6. Thẩm định tài chính kinh tế: Tổng vốn đâu tư: tổng vốn đầu tư của công ty tân Á Hà Nội là 3.200.000 USD, được chia thành hai giai đoạn đầu tư: - Giai đoạn 1: sản xuất bao bì thùng các tông gợn sóng và bao giấy nhôm: 2.345.000 USD. - Giai đoạn hai ( sau 1 năm): sản xuất hộp các tông và bao giấy nhôm tới 90% sản lượng tối đa: 855.000 USD. Trong số 3.200.000 USD, đầu tư cho vố cố định: 2.672.600 USD, và đầu tư cho vốn lưu động là 527.400 USD. Vốn pháp định: 1.200.000 USD, trong đó 100% là vốn của nước ngoài do công ty gốc New Toyo Ltd. Nguồn vốn đầu tư: là nguồn vốn tự có hoặc tự vay của công ty gốc new Toyo ltd dưới hình thức tiền mặt, vật tư, nguyên liệu và máy móc thiết bị. Thời gian chuyển vốn vào Việt Nam: 7 ngày sau khi nhận giấy phep đầu tư, New Toyo Ltd sẽ cho xuống tàu và chuyển từ Tân Á Sài Gòn các thiết bị máy móc cần thiết cho giai đoạn một, cũng như các máy móc từ nước ngoài vào để sản xuất thùng các tông gợi sóng. Cùng lúc máy móc thiết bị giai đoạn 1 chuyển đến Sài Đồng B, New Toyo Ltd sẽ chuyển tiền mặt và nhiên liệu vào để kịp thời xây dựng nhà xưởng, lắp đặt thiết bị và chuẩn bị chạy thử trong vòng từ hai đến ba tháng. Đồng thời New Toyo Ltd sẽ cử kỹ sư ngành giấy sang nghiên cứu và khảo sát các nhà máy giấy Việt nam để hợp tác phục hồi, nâng cấp và sản xuất ra các loại sản phẩm giấy kraft đạt tiêu chuẩn cần thiết, cung cấp cho công ty Tân Á Hà Nội làm thùng và hộp các tông gợn sóng. Thành phần vốn đầu tư: gồm 4 phần chính: Vốn đầu tư xây dựng. gồm: Chi phí xây dựng nhà xưởng: 740.000 USD. Chi phí hệ thống điện nước: 70.000 USD. Chi phí lắp đặt thiết bị và chạy thử: 40.000 USD. Chi phí dự phòng: 50.000 USD. Chi phí xây dựng đường, ngoại thất: 100.000 USD. Cộng: 1.000.000 USD (A) Vốn máy móc thiết bị. gồm: Máy móc thiết bị sản xuất: 872.600 USD. Vốn cố định khác: 787.000 USD. Cộng: 1.659.600 USD (B). Vốn chuẩn bị đầu tư. Gồm: Chi phí đào tạo, tuyển dụng: 6.500 USD. Chi phí trước thành lập: 6.500 USD. Cộng: 13.000 USD © Vốn lưu động, gồm: Năm thứ nhất: 527.400 USD Năm thứ hai, đầu tư thêm giai đoạn hai, và năm thứ 3 nhà máy hoạt đọng 100% công suất, vốn lưu động vẫn được đảm bảo tất cả các sai biệt tăng vốn lưu động, công ty Tân Á HN tự cân đối bằng cách trích lợi nhuận của mình để bổ sung. Cộng tổng vốn đầu tư: A + B + C + D = 3.200.000 USD. Tổng chi phí: Năm thứ nhất, sản xuất thùng các tông dợn sóng và giấy nhôm, nguyên liệu nhập với giá 413 USD/tấn. năm thứ hai, sản xuất thêm hộp các tông và phát triển giấy nhôm, nguyên liệu do các nhà máy giấy Việt Nam hợp tác với công ty Tân Á cung cấp với giá 434 USD/tấn, giấy nhôm từ 2800 USD/T tăng đến 3087 USD/T cho năm thứ 3. Tổng chi phí hàng năm, có bao gồm cả tiền thuế doanh nghiệp đánh vào khối lượng sản phẩm tiêu thụ tại thị trường trong nước như sau: - Năm 1: 2.691.915 USD. - Năm 2: 3.211.926 USD. - Năm 3: 3.765.536 USD. Tổng doanh thu/ năm: Giá bán các loại thùng các tông và hộp gợn sóng tại thị trường nước ngoài hiện nay của công ty New Toyo là 800 USD/ T. Giá bán sỉ tại các thị trường tương đương cũng khoảng 800 USD. Mặt hàng giấy nhôm tại thị trường nội địa hiện nay không có nơi nào sản xuất kinh doanh, ngoại trừ các nhà máy của Toyo tại Hồ Chí Minh cung ứng cho nhu cầu sản xuất của bản thân mình, bằng cách nhập nguyên liệu thiếc cuộn, tự lo các khâu sản xuất và dán tại chỗ. Sản phẩm của Tân Á khi tham gia vào thị trường ở bước đầu dự kiến giá bán như sau: bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng nhập khẩu: 800 USD/T. Bao bì thùng và hộp các tông gợn sóng tiêu thụ nội địa: giá khoảng 10 triệu đến 10,4 triệu/T. Giấy nhôm dán: 50 triệu – 60 triệu / tấn. Với giá bán sản phẩm này, tổng doanh thu/năm, ngoài phần bán sản phẩm chính, còn có phần thu từ tiền bán phế phẩm và các tông vụn, như sau: Năm 1: 3.507.600 USD. Năm 2: 4.248.960 USD. Năm 3: 5.127.388 USD. Lợi nhuận gộp: Năm 1: 3.507.600 – 2.691.915 = 815.685 Năm 2: 4.248.960 – 3.211.926 = 1.037.034 Năm 3: 5.127.388 – 3.765.536 = 1.361.852 Lợi nhuận ròng = lợi nhuận gộp – thuế lợi tức Thuế lợi tức 17%: Năm 1: 815.685 - 815.685 x 17% = 677.019 Năm 2: 1.037.034 - 1.037.034 x 17% = 860.738 Năm 3: 1.361.852 - 1.361.852 x 17% = 1.130.337 Thời gian thu hồi vốn: T = Tổng vốn đầu tư Lãi ròng + khấu hao Tổng vốn đầu tư: 3.200.000 USD Lãi ròng năm thứ hai: 921.469 USD Lãi ròng thực sự: 829.627 USD Khấu hao: 566.578 USD 3.200.000 : ( 829.627 + 531.022) = 2,35 ( 2 năm 4 tháng). III. Đánh giá chất lượng hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại IVB. 1. Đối với chỉ tiêu hiệu quả tài chính:. Mỗi ngân hàng thương mại có những quan điểm riêng về các chỉ tiêu thẩm định dự án, tùy vào chiến lược phát triển của ngân hàng hoặc quan điểm của ban lãnh đạo. Có ngân hàng chỉ chú trọng vào NPV, hoặc điểm hòa vốn. Đối với ngân hàng Indovina, các cán bộ thẩm định lại đề cao chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) : dự án sẽ được chấp nhận nếu T T* thì dự án xem như bị loại. T* được xác định trên cơ sở kinh nghiệm và các cơ hội đầu tư khác của chủ đầu tư, do đó nó sẽ khác nhau đáng kể trong những trường hợp khác nhau. Trong số các dự án xem xét, dự án nào có thời hạn thu hồi vốn ngắn nhất sẽ được chấp nhận lựa chọn. Khi sử dụng phương pháp thời gian thu hồi vốn đầu tư có các ưu điểm chính là cho biết thời gian khách hàng có thể hoàn trả vốn đã vay của Ngân hàng. Khi đó Ngân hàng sẽ giảm thiểu được các khoản nợ quá hạn và khó đòi, không có khả năng thanh toán khi khách hàng làm ăn thua lỗ. Tuy nhiên phương pháp đánh giá theo chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn chỉ đề cập đến thời gian mà vốn bỏ ra được hoàn lại nên có những hạn chế đối với quyết định của Nhà đầu tư khi Ngân hàng từ chối cho vay vì: Thứ nhất: nó không xem xét đến lợi nhuận của dự án sau thời gian hoàn vốn. Đôi khi một dự án có thời gian hoàn vốn dài nhưng thu nhập về sau lại cao hơn thì vẫn có thể là dự án tốt. Thứ hai: phương pháp thời gian hoàn vốn không xem xét đến giá trị thời gian của đồng tiền vì vậy sẽ dẫn đến sai lầm khi dùng phương pháp này để so sánh các phương án có những khoản tiền tệ khác nhau xuất hiện tại những thời điểm khác nhau. Do nhược điểm của phương án này mà thực tế để so sánh các phương án IVB thường yêu cầu cán bộ thẩm định dự án tính toán chỉ tiêu thời gian hoàn vốn theo phương pháp động. Phương pháp này được thực hiện bằng cách tính chiết khấu các khoản tiền tệ xuất hiện ở các thời điểm khác nhau trong tương lai về một thời điểm gốc nào đó để tính thời gian hoàn vốn. Không có chỉ tiêu thẩm định nào là tuyệt đối chính xác, vì vậy khi tiến hành thẩm đinh các dự án đầu tư nói chung và các dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay nói riêng, các cán bộ tín dụng cần kết hợp nhiều chỉ tiêu, nhiều phương pháp dể có thể khắc phục hạn chế của mỗi phương pháp. Đồng thời, nâng cao sự an toàn về vốn đầu tư, cho vay của ngân hàng. 2. Một số thành tựu đạt được và một số hạn chế cần khắc phục. 2.1. Một số thành tựu đạt được. Từ các báo cáo tài chính cho thấy, thu nhập từ hoạt động tín dụng là nguồn thu quan trọng nhất trong hoạt động kinh doanh của IVB. Do đó yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại IVB ngày càng trở lên bức thiết hơn bao giờ hết. Chúng ta biết rằng, trên nguyên tắc, tất cả các dự án xin vay đều phải qua bước thẩm định kỹ càng trước khi duyệt cho vay. Tuy nhiên, đối với các món vay ngắn hạn thì việc thẩm định sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với các dự án cho vay trung và dài hạn. Sở dĩ như vậy là vì các dự án đầu tư trung và dài hạn có thời gian thu hồi vốn lâu, do vậy khó xác định các yếu tố liên quan quyết định đến hiệu quả của vốn vay trong tương lai. Trong những năm gần đây, công tác thẩm định dự án đầu tư được các ngân hàng nói chung và Ngân hàng IVB nói riêng đặc biệt được coi trọng. Sự coi trọng ấy đã mang lại những kết quả đáng khích lệ. Nỗ lực của cán bộ tín dụng đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thẩm định dự án đầu tư ở ngân hàng một cách đáng kể, nhằm loại bỏ những dự án không hiệu quả và ra quyết định đầu tư đối với những dự án được đánh giá là khả thi. Chất lượng của công tác thẩm định dự án đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp tới sự an toàn về nguồn vốn của ngân hàng. Điều này có nghĩa là, khi chất lượng của công tác thẩm định dự án tăng lên thì việc phòng ngừa rủi ro của ngân hàng. Một yếu tố nữa giúp IVB thành công trong thời gian qua, đó là nhờ phương thức kinh doanh của IVB thực sự mang lại hiệu quả. Trong khi nhiều ngân hàng coi trọng khả năng sinh lợi, tức là khả năng trả nợ của dự án, như là yếu tố quyết định thì bên cạnh đó Ngân hàng IVB còn chú trọng đến cả khía cạnh phi tài chính. Đó là những gì doanh nghiệp xin vay không phải trình bày hoặc ít phải đề cập đến trong dự án. Ngoài các giấy tờ thủ tục liên quan về mặt pháp lý cần phải kể đến tư cách người vay, chẳng hạn như trình độ chuyên môn, năng lực lãnh đạo, nhân cách đạo đức. Trên thực tế, việc thẩm định những vấn đề này vô cùng khó khăn và đòi hỏi ở người cán bộ thẩm định phải có nghệ thuật ứng xử và óc nhạy bén, càng không thể thiếu chuyên môn nghiệp vụ sâu. Nhờ đó mà ngân hàng đã tránh được những dự án có nguy cơ rủi ro mặc dù theo dự án thì có khả năng sinh lời lớn. Bước đi của IVB là hoàn toàn đúng hướng và thực sự cần thiết, nhất là trong bối cảnh kinh tế nước ta đang trong giai đoạn hội nhập. Đối với các doanh nghiệp xin vay vốn trung và dài hạn, công tác thẩm định dự án đầu tư cũng có vai trò hết sức to lớn. Quá trình thẩm định thực chất là việc các cán bộ tín dụng đánh giá, phân tích lại mức độ hợp lý của dự án về các khía cạnh như tổng vốn đầu tư, thời điểm rót vốn, tiến độ rót vốn và hiệu quả sử dụng vốn… Nhờ đó cán bộ tín dụng giúp các doanh nghiệp tăng cơ hội tiết kiệm được phần vốn có thể bị sử dụng lãng phí trong dự án hay lựa chọn được phương án đầu tư tối ưu nhất. Quy trình nghiệp vụ tín dụng trung - dài hạn cũng như thẩm định được xây dựng dựa trên các quy định pháp lý và kinh nghiệm tích luỹ trong những năm qua. - Các chỉ tiêu mà ngân hàng đặt ra trong quy trình thẩm định bao gồm : doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, nguồn trả nợ.... rất cụ thể, tạo điều kiện cho người lập dự án có thể dễ dàng đối chứng với sự chênh lệch, điều chỉnh so với dự án mà họ đã lập, những chỉ tiêu này cũng phản ánh được tương đối chính xác tình hình của dự án. Các chỉ tiêu mà ngân hàng đang dùng cho thấy sự lựa chọn tương đối kỹ lưỡng, có sự kết hợp, áp dụng những chỉ tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường vào Việt Nam một cách hợp lý. So với các ngân hàng khác trong hệ thống NHTM Việt Nam thì đây là một lợi thế cuả Ngân hàng IVB. - Các dự án cũng bắt đầu được xem xét trong cả trạng thái tĩnh và trạng thái động ( bằng cách dùng chỉ tiêu độ nhạy của dự án ) để có một quyết định đúng đắn, hỗ trợ cho quyết định đầu tư. Việc sử dụng hệ thống chỉ tiêu này đã giúp cho ngân hàng có những giải pháp, tính toán tiết kiệm vốn cho doanh nghiệp, tránh tình trạng thừa hoặc thiếu vốn. Dựa trên kinh nghiệm được tích luỹ ngày càng nhiều, ngân hàng cũng có thể định ra mức vốn cũng như chi phí cho một số ngành, dự án đầu tư vào một số lĩnh vực nhất định. - Cách tính toán trong quá trình thẩm định tài chính đã loại bỏ được sai sót trong tiến độ bỏ vốn, các khoản mục bất hợp lý hay cách tính khấu hao cơ bản không đúng để giảm thuế phải nộp. Sự tin cậy của các báo cáo thẩm định cũng giúp cho Ban lãnh đạo có những quyết định đúng đắn, ngăn ngừa rủi ro tín dụng ngay từ khâu đầu tiên: “ Thẩm định trước khi cho vay”. - Phê duyệt món vay được thực hiện bởi hội đồng tín dụng. Ngân hàng đã có quy định về thẩm quyền phê duỵệt đối với từng hạn mức này. IVB đã xây dựng được cơ chế hoạt động phân cấp tương đối hợp lý cho hoạt động thẩm định tài chính dự án. Cơ chế làm việc trực tiếp giữa cán bộ tín dụng, trưởng phòng tín dụng và Ban lãnh đạo ngân hàng đã thúc đẩy nhanh tiến độ thẩm định tài chính dự án. Phương thức hoạt động phân cấp như vậy cũng ngăn ngừa được rủi ro đạo đức của cán bộ tín dụng. - Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp được coi là công việc bắt buộc khi thẩm định tài chính dự án. Từ việc phân tích khách hàng vay vốn, ngân hàng có thể nắm được những điểm mạnh, thuận lợi về năng lực tài chính, vị thế, uy tín, trình độ quản lý điều hành trong sản xuất kinh doanh, chấp hành chính sách pháp luật cũng như những điểm yếu của doanh nghiệp để từ đó đưa ra những giải pháp, phương hướng cho doanh nghiệp, góp phần hỗ trợ tích cực cho quyết định đầu tư. - Ngoài ra IVB còn tổ chức cho cán bộ tín dụng đi thực tế doanh nghiệp, địa bàn nơi dự án sẽ được đầu tư nhằm nắm chắc tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn, thăm dò thị trường, tìm hiểu hiện trường nơi dự án sẽ được đầu tư để kết hợp giữa nhận định thực tế đối với dự án và khả năng trả nợ của khách hàng. - Khi trình Ban lãnh đạo Ngân hàng IVB xem xét các dự án, ngoài việc tuân thủ các quy định của Ngân hàng, các cán bộ phòng tín dụng đã đưa ra nhiều giải pháp để Ban lãnh đạo có thể tiện theo dõi, xử lý trước khi ký quyết định. - Ban lãnh đạo ngân hàng đã phối hợp với các cán bộ phụ trách phòng tín dụng để phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng theo ngành, phương pháp này vừa tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng trong thẩm định, vừa tạo điều kiện cho cấp trên quản lý dễ dàng. - Trong quá trình thẩm định dự án, đối với một số doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ nhưng có dự án khả thi thì IVB vẫn tiến hành cho vay để dự án này không những có thể hoàn vốn cho ngân hàng đúng hạn mà còn có khả năng hỗ trợ cho cả doanh nghiệp trong một số dự án hoạt động không có hiệu quả trước đây. Thực hiện phương pháp này, ngân hàng đã giúp cho một số doanh nghiệp cải thiện được tình hình tài chính của mình và thu hồi được một phần dư nợ đã đưa vào khoản mục nợ quá hạn. Mạng nội bộ của Ngân hàng IVB hoạt động tương đối có hiệu quả. Ngân hàng đã tiến hành nối mạng để các cán bộ tín dụng tiện theo dõi thông tin về khách hàng của mình cũng như lịch trình thu nợ, nhận nợ, dễ dàng kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng tiền vay nhằm có các biện pháp khắc phục kịp thời, tránh gây thất thoát về vốn, giảm nợ đọng, nợ khó đòi . Trên đây là một số thành tựu mà công tác thẩm định dự án đầu tư ở Ngân hàng IVB đạt được. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường để khẳng định thương hiệu và lòng tin của khách hàng đòi hỏi ngân hàng phải không ngừng đổi mới nhằm tự hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thẩm định dự án đầu tư, góp phần đảm bảo chất lượng kinh doanh của ngân hàng ngày càng tăng lên. 2.2Những hạn chế cần khắc phục Phương diện thẩm định tài chính : - Việc tính toán các chỉ tiêu NPV, IRR, PP, .... chỉ mới được đề cập và mang tính hình thức, không được coi là những chỉ tiêu trọng yếu. Giá trị thời gian của tiền không được đề cập trong nhiều dự án, điều nay ít nhiều cũng gây ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định tài chính dự án. - Thời điểm bỏ vốn đầu tư và thời điểm thu về là hai khoảng thời gian cách xa nhau nên giá trị của đồng tiền chắc chắn sẽ không bằng nhau. Do vậy, nếu tính thời gian hoàn vốn của dự án cũng như thời gian hoàn trả vốn mà chỉ dựa vào cách tính thời gian hoàn vốn giản đơn thì việc tính toán này đồng nghĩa với sự ngầm định rằng đồng tiền hôm nay và đồng tiền sau đó n năm ( n > 1 ) có giá trị như nhau và tỷ lệ chiết khấu cũng không được tính đến. - Việc lựa chọn lãi suất để tính NPV còn chưa thống nhất, chưa có một căn cứ khoa học rõ ràng trong việc lựa chọn mà chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ thẩm định. Việc tính doanh thu hàng năm chỉ dựa trên phương pháp so sánh đối chiếu, dựa vào kinh nghiệm và nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định mà chưa có một phương pháp định lượng chính xác để xác định chính xác nhu cầu.Việc đánh giá dự án mới chỉ dừng lại ở việc xem xét trạng thái tĩnh chứ chưa dự trù được những thay đổi của thị trường. - Bộ Tài chính đã ra quyết định áp dụng luật thuế giá trị gia tăng từ ngày 01/01/1999 để thay thế cho thuế doanh thu song khi thẩm định dự án, có trường hợp Ngân hàng vẫn tính thuế doanh thu dự kiến cho dự án hoạt động từ sau ngày luật thuế VAT được thực thi. - Một số tài sản tuy thời gian khấu hao đã hết nhưng khi kết thúc dự án vẫn còn giá trị sử dụng. Việc hoàn trả hay định giá tài sản cũng như hoàn trả vốn lưu động khi kết thúc dự án cũng chưa có quy định cụ thể. - Thông tin còn thiếu hụt: Trong thực tế, các thông tin về doanh nghiệp và dự án thường thiếu hụt hoặc không đầy đủ, cán bộ tín dụng chỉ có một nguồn duy nhất là báo cáo tài chính của doanh nghiệp và hồ sơ dự án do chủ đầu tư cung cấp. Những công việc còn lại phần lớn lại dựa vào kinh nghiệm, khả năng và trình độ của họ. Thẩm định kỹ thuật: CBTD không xác định được chính xác tính tiên tiến của máy móc trong dự án có phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh ở Việt nam hay không ( về thời tiết, khí hậu, độ ẩm..). Ngoài ra CBTD cũng không phân tích cụ thể về khả năng sử dụng, vận hành thiết bị, công nghệ mới của dự án. Cụ thể là trình độ của đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật. Trong trường hợp dự án được duyệt trong tình trạng không đạt yêu cầu về kỹ thuật sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động của dự án khi đi vào hoạt động. Thẩm định thị trường : thị trường là nơi tiêu thụ sản phẩm, tạo nguồn thu cho dự án và đảm bảo khả năng trả nợ cho ngân hàng. Việc đánh giá khả năng cạnh tranh, khả năng tiêu thụ của dự án liên quan đến nhiều vấn đề, đòi hỏi ở CBTD khả năng phân tích, tổng hợp và óc phán đoán mới nắm bắt được tình hình. Yêu cầu này thực sự không đơn giản, nhất là đối với sản phẩm mới xuất hiện hoặc chưa có trên thị trường. Về mặt này, việc thẩm định còn quá sơ sài, chưa chính xác . Về mặt xã hội : một dự án cho dù có mang lại lợi nhuận lớn đến đâu và có khả năng trả nợ gốc và lãi đi chăng nữa cũng không thể được chấp nhận nếu nó gây ra những ngoại ứng tiêu cực cho xã hội, đặc biệt liên quan đến vấn đề môi sinh. Trình độ thẩm định các khía cạnh của dự án : Một dự án đầu tư bao gồm nhiều phương diện khác nhau, và tất cả các phương diện này đều rất quan trọng. Do đó, về mặt lý thuyết, trong quá trình thẩm định, CBTD phải xem xét mọi vấn đề liên quan đến dự án. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số các dự án chưa được phân tích kỹ càng, toàn diện. Tính khả thi của dự án chủ yếu được đánh giá dựa vào kết quả phân tích, tính toán trên phương diện tài chính. Điều đó dẫn đến kết quả thẩm định không đầy đủ , thiếu chính xác, và có thể dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm, gây hậu quả nghiêm trọng không lường trước được… 3. Nguyên nhân dẫn tới tồn tại về chất lượng hoạt động thẩm định Thứ nhất: Nguyên nhân từ phía ngân hàng: Biểu hiện tồn tại về chất lượng hoạt động thẩm định do xuất phát từ những nguyên nhân sau: a) Thực hiện qui trình tín dụng còn nhiều thiếu sót: Việc thực hiện qui trình tín dụng còn có nhiều thiếu sót, cụ thể: Bước 1: Nhận hồ sơ và đánh giá hồ sơ hộ: Chưa thu thập được đủ thông tin đánh giá. Bước 2: Kiểm tra thực tế: Không thu thập đầy đủ thông tin cho quá trình phân tích đánh giá, bỏ qua cơ hội “ngàn vàng” để thu thập thông tin khi xuống kiểm tra thực tế, các thông tin này không được thể hiện trong báo cáo tài chính, kế hoạch kinh doanh (KHKD). Bước 3: Thẩm định và lập tờ trình: Các thông tin về giới thiệu doanh nghiệp chỉ mang tính chất liệt kê thông tin từ hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp, không coi trọng đánh giá về tư cách và khả năng quản lý của khách hàng. Phân tích và xử lý thông tin không được tốt. Bước 4: Định giá tài sản đảm bảo: Thường coi trọng vào việc định giá TSĐB nhà bỏ qua những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng khoản vay đó là: tính khả thi của dự án, khả năng trả nợ, tư cách của chủ doanh nghiệp. TSĐB được định giá chính xác nhưng nếu KHKD không khả thi, tư cách của chủ doanh nghiệp kém rủi ro tín dụng vẫn không tránh khỏi. Bước 5: Phê duyệt khoản vay Có thể có sai sót như: hồ sơ chưa đầy đủ, các thông tin chưa thu thập đầy đủ, các đánh giá của cán bộ chưa chính xác. Bước 6: Hoàn thiện thủ tục Các sai sót trong khâu lập hợp đồng tín dụng gồm: Hạn mức tín dụng vượt quá khả năng quản lý của khách hàng. Các điều khoản về kỷ luật tín dụng và xử lý tranh chấp gây bất lợi cho ngân hàng. Các sai sót trong khâu lập hợp đồng đảm bảo tài sản gồm: Điều khoản hợp đồng gây bất lợi cho ngân hàng khi xử lý tài sản ví dụ như: Không qui định ngân hàng được toàn quyền phát mại tài sản, mà phải qua trung tâm bán đấu giá. Hợp đồng được qui định một thời hạn nhất định nhưng hết thời hạn đó vẫn chưa xử lý được TSĐB, như vậy liệu ngân hàng vẫn có quyền xử lý TSĐB khi hết thời hạn hợp đồng. Có những trường hợp khách hàng thế chấp cả quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, nhưng trong hợp đồng chỉ ghi thế chấp quyền sở hữu nhà do vậy gây bất lợi cho ngân hàng khi xử lý TSĐB. Bước 7: Giải ngân: Đã xảy ra trường hợp khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích, gây thất thoát vốn, khách hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng. Bước 8: Quản lý: Thông thường CBTD chỉ có những biện pháp xử lý sau khi đã phát sinh nợ quá hạn, có một số trường hợp gia hạn trước cho khách hàng rồi bổ xung “đơn xin gia hạn sau” để hoàn thiện thủ tục. Bước 9: Xử lý nợ: CBTD không tham gia vào quá trình xử lý nợ sẽ không rút ra được những bài học, không thấy được tính phức tạp, những thủ đoạn, mánh khoé của khách hàng... để kịp thời rút ra những kinh nghiệm, tích luỹ được trình độ, kiến thức nhằm nâng cao chất lượng trong việc thẩm định, đánh giá, quản lý những khoản vay tiếp theo. Bước 10: Giải chấp. Sau khi kết thúc khoản vay, CBTD làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, giải chấp và lưu trữ hồ sơ tín dụng. Công tác tổng kết và rút kinh nghiệm không được thực hiện nên dẫn tới tình trạng: Một số CBTD mới được tuyển dụng lại mắc phải những sai lầm trước đây của CBTD cũ, ví dụ: trong khâu thẩm định, đánh giá, xác định thời hạn cho vay, lập hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp, cầm cố. Do không được tổng kết, rút kinh nghiệm nên ngay cả những CBTD cũ cũng lặp lại những sai lầm trước đây đã mắc phải. Thứ hai : Nguyên nhân từ phía khách hàng Năng lực tài chính: Hiện nay ở nhiều doanh nghiệp vốn ghi trong điều lệ chỉ là hình thức, nhiều công ty có vốn trong đăng ký lớn hàng tỷ đồng nhưng vốn kinh doanh thực chất lại rất ít vì khi xin giấy phép họ vay mượn vốn gửi vào ngân hàng để xin xác nhận đăng ký, khi được cấp giấy phép lại rút tiền ra để trả nợ, do vậy dẫn tới rủi ro tín dụng. Khả năng về vốn của các khách hàng hạn chế, máy, móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, không có vốn để đầu tư chiều sâu xây dựng nhà xưởng, mở rộng sản xuất kinh doanh. Vốn tham gia vào dự án thiếu, chủ yếu dựa vào vốn vay của ngân hàng, có doanh nghiệp vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư một phần vào máy móc thiết bị, phần còn lại dùng làm vốn lưu động do đó dẫn tới mất khả năng thanh toán khi đến hạn Khả năng quản lý kinh doanh: Do bị hạn chế về năng lực, trình độ và kinh nghiệm quản lý, đặc biệt trong điều kiện thị trường cạnh tranh găy gắt như hiện nay. Dẫn tới khó khăn cả khâu sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp và khả năng trả nợ ngân hàng. Thứ ba: Nguyên nhân khách quan Môi trường kinh tế không ổn định: Nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường nên các chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới và hoàn thiện, sản xuất kinh doanh trong nước phải cạnh tranh găy gắt với hàng lậu và hàng nhập ngoại, các doanh nghiệp chậm thích nghi với cơ chế thị trường, việc chuyển hướng và điều chỉnh phương án sản xuất kinh doanh không theo kịp với sự thay đổi của cơ chế và chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước, nhiều doanh nghiệp chưa kịp điều chỉnh KHKD phù hợp với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước hoặc có trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến trường hợp phát triển tràn lan quá mức. Vì vậy một số doanh nghiệp và ngành sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, thu lỗ, mất khả năng thanh toán, làm phát sinh nợ khó đòi cho ngân hàng. Sức ép cạnh tranh Sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại đã gây không ít khó khăn trong việc quản lý khách hàng do họ có thể quan hệ với nhiều tổ chức tín dụng dẫn đến việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Ngân hàng không thể xác định đúng đắn, chính xác về tình hình tài chính, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp và sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng khi cho vay. CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG LĨNH VỰC CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG INDOVINA. I. Định hướng hoạt động cho vay của ngân hàng Indovina trong thời gian tới 1. Định hướng hoạt động cho vay của ngân hàng Indovina trong thời gian tới 1.1 Định hướng hoạt động chung Từ khi Việt Nam gia nhập WTO, sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng trở nên rất gay gắt, vì vậy ngân hàng Indovina cũng đã đặt ra rất nhiều chiến lược để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Ngân hàng phấn đấu trở thành ngân hàng dẫn đầu không chỉ trong khối ngân hàng liên doanh nước ngoài mà còn trở thành một ngân hàng có tầm cỡ trong khu vực. Sau đây là một số chỉ tiêu hoạt động chủ yếu của IVB đến năm 2009. Bảng 3.1 Các chỉ tiêu hoạt động chủ yếu của ngân hàng Indovina đến năm 2009 Đơn vị tính: Triệu USD Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 Vốn điều lệ 35 35 50 Tổng tài sản 400 550 800 Lợi nhuận ròng trước thuế 180 270 360 Số lượng chi nhánh 8 10 12 Số lượng cán bộ nhân viên 250 300 360 (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006 ngân hàng Indovina) Trong năm 2006, tại Hà Nội đó mở rộng thêm một chi nhánh tại quận Đống Đa. Ngoài ra, đầu tháng 2 năm 2007, chi nhánh Hà Nội đó đưa vào hoạt động trụ sở của mình tại tòa nhà 11 tầng tại 88 Hai Bà Trưng, nâng cao ảnh, vị thế của Ngân hàng trong thị trường nội địa. Đi đôi với việc mở thêm chi nhánh là việc tuyển thêm nhân lực, đặc biệt là nhân viên phòng tín dụng, phòng thanh toán quốc tế để có thể kịp thời nắm bắt các cơ hội đầu tư. Hơn thế nữa, đội ngũ nhân viên trẻ nhưng còn thiếu kinh nghiệm sẽ được đưa đi đào tạo tại ngân hàng cổ đông Cathay United, đáp ứng kịp thời và đầy đủ trước yêu cầu hội nhập. Tuy có được sự hậu thuẫn từ phía Ngân hàng cổ đông Cathay United nhưng công nghệ của IVB ở thời điểm hiện tại vẫn còn rất nhiều hạn chế. Trong thời gian sắp tới, khi mà các ngân hàng nước ngoài với tiềm lực về vốn và công nghệ hiện đại, tiên tiến xâm nhập vào Việt Nam, các ngân hàng trong đó có IVB phải đổi mới công nghệ nhằm cung cấp cho khách hàng dịch vụ nhanh nhất, tốt nhất. Bên cạnh đó công nghệ máy móc được cải thiện, nâng cấp cũng góp phần tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên làm việc có hiệu quả hơn. So với nhiều ngân hàng trong nước, vốn chủ sở hữu của IVB vẫn còn nhỏ (35 triệu USD). Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì tỷ lệ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% so với vốn tự có. Với 47 triệu USD vốn tự có của IVB như hiện nay thì việc tiếp cận với các dự án lớn là rất khó khăn, do đó cũng mất đi một phần thu nhập đáng kể. Vì vậy việc gia tăng vốn chủ và vốn tự có là việc tất yếu trong giai đoạn tới của Ngân hàng Indovina. Ngân hàng Indovina là ngân hàng đầu tiên và cũng là ngân hàng dẫn đầu trong khối các ngân hàng liên doanh hiện đang hoạt động tại Việt Nam. Vì vậy để duy trì vị thế này và nâng cao uy tín lên tầm khu vực, trong những năm tới ngân hàng tập trung khai thác mở rộng tìm kiếm những khách hàng tiềm năng bằng việc cung cấp những dịch vụ thuận tiện nhất, nhanh chóng và thuận tiện nhất, thoả mãn tối đa nhu cầu của họ. 1.2 Định hướng hoạt động thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay. Đối với nghiệp vụ cho vay, IVB vẫn giữ nguyên chính sách cho vay an toàn. Các khoản vay đều phải được thẩm định, kiểm tra chặt chẽ. Các nhân viên marketing tín dụng mở rộng mạng lưới và tìm kiếm khách hàng về cho Ngân hàng, bên cạnh đó các cán bộ tín dụng đẩy mạnh công tác thẩm định dự án đầu tư. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay vẫn sẽ chiếm vị trí chủ đạo trong tổng lợi nhuận của IVB. Bảng sau là một số chỉ tiêu phấn đấu cho hoạt động cho vay trong một vài năm tới. Bảng 3.2 Các chỉ tiêu hoạt động cho vay của ngân hàng Indovina trong những năm tới Đơn vị tính: Triệu USD Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 1. Doanh số cho vay 450 600 800 2. Dư nợ cho vay 400 470 720 3. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay 9,6 12,7 15 4. Tỷ lệ nợ quá hạn < 0,1% < 0,1% < 0,1% (Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006 ngân hàng Indovina) Ngân hàng sẽ vẫn chú trọng vào cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi đây là thị trường chủ yếu, bên cạnh đó cũng khai thác tối đa thị trường cho vay tiêu dùng, tìm kiếm và mở rộng cho vay đối với các dự án phát triển kinh tế. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vấn đề thông tin liên quan thường có chất lượng không cao nên cán bộ tín dụng cần được đào tạo thêm để có thể khai thác triệt để thị trường này, đem lại lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng. Đối với những khách hàng truyền thống, ngân hàng sẽ củng cố mối quan hệ này hơn nữa bằng những dịch vụ nhanh hơn, tốt hơn, lãi suất ưu đãi hơn. Cán bộ ngân hàng Indovina cần tránh không để các ngân hàng khác kéo mất khách hàng truyền thống, hơn nữa cũng phải tìm kiếm các khách hàng tiềm năng, khách hàng mới để họ thấy được chất lượng phục vụ tốt trong các dịch vụ của mình. Trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, đi đôi với việc mở rộng tìm kiếm khách hàng, cán bộ tớn dụng cũng phải kiểm tra, giám sát chặt chẽ hơn các khoản cho vay, nội dung, quy trình thẩm định cũng được tuân thủ chặt chẽ hơn, đảm bảo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thẩm định phải đứng trên quan điểm của người cho vay, nhận xét đánh giá đúng khả năng, phương án kinh doanh khả thi có lợi của khách hàng, đặc biệt là khả năng chi trả vốn vay tại ngân hàng. Sau khi khoản vay được giải ngân cũng cần giám sát chặt chẽ để có bất cứ dấu hiệu xấu nào cán bộ ngân hàng cũng có những xử lý kịp thời, tránh tình trạng doanh nghiệp phá sản lúc đó ngân hàng mới biết. Nếu sớm phát hiện ra tình hình tài chính của doanh nghiệp xấu đi, ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp để giảm thiểu rủi ro cho mình. Với những định hướng hoạt động thẩrm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay như trên, chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp cần phải được nâng hơn nữa để đáp ứng được yêu cầu hội nhập của nền kinh tế. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Indovina. 1. Một số giải pháp đối với ngân hàng Indovina. 1.1.Hoàn thiện nội dung phân tích. Nội dung thẩm định tại ngân hàng Indovina mặc dù đã khá đầy đủ và chi tiết song vẫn có những thiếu sót. Cán bộ tín dụng là người đầu tiên gặp gỡ, tiếp xúc với khách hàng, thu thập thông tin và sau đó xử lý thông tin và đưa ra quyết định. Tất cả những công việc này đều do một cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Điều này có thể khiến cho thời gian thẩm định bị kéo dài do khối lượng công việc của một người làm quá lớn, đặc biệt những lúc có nhiều khách hàng đến xin vay thì việc để khách hàng phải chờ đợi dẫn tới mất cơ hội kinh doanh của họ là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Trong những trường hợp như vậy khách hàng sẽ đến ngân hàng khác để vay vốn cũng là điều dễ hiểu. Hiện nay đa số các doanh nghiệp tới vay vốn ngân hàng đều chưa được kiểm toán báo cáo tài chính bởi các tổ chức kiểm toán độc lập. Vì vậy để xác minh tính trung thực và chính xác của những báo cáo này đòi hỏi người phân tích phải tìm hiểu rất kỹ lưỡng từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra việc phân định giữa người phân tích và người trực tiếp làm việc với khách hàng cũng tránh được việc câu kết giữa khách hàng với cán bộ tín dụng. Việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới các chỉ tiêu tổng hợp của doanh nghiệp sẽ giúp cán bộ tín dụng đưa ra được những đánh giá cần thiết về tầm quan trọng của từng nhân tố, cũng như đưa ra được những dự đoán chính xác hơn về hiệu quả dự án đầu tư của doanh nghiệp trong tương lai, từ đó góp phần nâng cao chất lượng thẩm định. 1.2. Nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho việc phân tích. Thông tin là một vấn đề vô cùng quan trọng, nó tác động rất lớn tới kết quả thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp. Thông tin đầy đủ, chính xác và trung thực là cơ sở để cán bộ tín dụng phân tích và đưa ra được kết luận đúng đắn. Nguồn thông tin đầy đủ cũng giúp ngân hàng nắm bắt được những diễn biến của môi trường kinh doanh, của thị trường trong nước, quốc tế, những thay đổi trong chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, từ đó ngân hàng đề ra các biện pháp xử lý kịp thời, dự đoán, đề phòng được những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Vì vậy vấn đề nâng cao chất lượng thông tin phục vụ cho việc phân tích là vấn đề ngân hàng Indovina cần phải thực hiện ngay trong thời gian tới. Để đảm bảo nguồn thông tin về doanh nghiệp, ngân hàng cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết về nội dung những thông tin mà doanh nghiệp phải cung cấp cho ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn. Đối với các doanh nghiệp xin vay vốn có báo cáo tài chính đã được kiểm toán cần có chính sách hỗ trợ, ưu đãi. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần thường xuyên giám sát tình hình của doanh nghiệp, tăng cường phỏng vấn, trao đổi tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, để kiểm tra đối chiếu thông tin, nhận biết được các dấu hiệu phản ánh tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách xác thực. Để nâng cao chất lượng thông tin cán bộ ngân hàng Indovina cần thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, không nên chỉ tập trung phân tích các thông tin do doanh nghiệp cung cấp. Về thông tin do doanh nghiệp cung cấp, cần yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các báo cáo tài chính của 3 năm gần nhất, khuyến khích khách hàng kiểm toán báo cáo tài chính của mình. Khi khoản vay đó được giải ngân, cán bộ tín dụng nên yêu cầu khách hàng cung cấp số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng nợ vay. Ngân hàng cũng cần tăng cường thu thập những thông tin từ những doanh nghiệp khác cùng kinh doanh lĩnh vực với khách hàng đang xin vay vốn để từ đó có được sự so sánh cần thiết. Ngân hàng Indovina cần đẩy mạnh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin, thiết lập các phần mềm để quản lý thông tin về khách hàng, thống kê, nghiên cứu, lưu trữ thông tin từ đó bổ sung cho việc phân tích đánh giá khách hàng từ các lần vay sau. Việc lưu trữ các thông tin về khác hàng đó và đang có quan hệ tín dụng cần được tiến hành cập nhật đầy đủ, thường xuyên và phân loại khoa học để tiện cho việc tra cứu. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng cần tính đến việc mua thông tin để đảm bảo có được thông tin chất lượng cao. Tăng cường hợp tác, trao đổi, chia sẻ thông tin với các ngân hàng thương mại khác trong việc cung cấp thông tin cho nhau về khách hàng, cũng là một cách để ngân hàng có thêm nguồn thông tin phân tích, nhằm giảm thiểu rủi ro. 1.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng. Ngân hàng Indovina là một trong số ít những ngân hàng có đội ngũ cán bộ có năng lực chuyên môn cao, đồng đều. Indovina rất hạn chế trong việc tuyển dụng vì vậy những cán bộ của ngân hàng đều có bằng cấp cao, năng lực giỏi. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng hầu hết cán bộ của ngân hàng Indovina có bằng trên đại học, bằng đại học nước ngoài. Tuy nhiên không phải tất cả nhân viên tín dụng đều đã có nhiều kinh nghiệm, nhiều người mới chỉ hoạt động trong ngành ngân hàng 2-3 năm, trong khi đó độ tuổi có thể coi là có kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng là trên 7 năm. Đặc biệt trong nghiệp vụ thẩm định các dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay thì yếu tố kinh nghiệm đúng vai trò hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng không nhỏ tới kết quả thẩm định dự án đầu tư. Số lượng cán bộ của ngân hàng Indovina rất hạn chế, vì vậy mỗi người đều phải gánh vác khối lượng công việc rất lớn. Trước tình hình nền kinh tế ngày càng phát triển, nhu cầu vay vốn ngày càng cao thì với số lượng nhân viên hạn chế, ngân hàng Indovina sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên việc tuyển dụng thêm nhân viên mới không phải là dễ dàng vì với những người mới ra trường họ chưa có kinh nghiệm, ngân hàng cần phải đào tạo và công việc này mất thời gian và công sức. Với những người đã có kinh nghiệm thì rất khó để thu hút họ từ ngân hàng khác về. Để có thể làm được việc này đòi hỏi ngân hàng Indovina phải có chế độ đãi ngộ đặc biệt, thường là tốn kém chi phí. Như vậy ngân hàng Indovina cần phải kết hợp cả mở rộng thêm chi nhánh và nhân sự, cả người có kinh nghiệm lẫn người chưa có kinh nghiệm nhưng có năng lực, nhiệt tình, ham học hỏi. Ngoài ra, ngân hàng cần bồi dưỡng, đào tạo để nâng cao trình độ thường xuyên hơn nữa. Vì ngân hàng Indovina có lượng khách hàng là người nước ngoài khá lớn, đặc biệt là khách hàng Trung Quốc, vì vậy cán bộ cần được đào tạo thêm ngoại ngữ, ngoài tiếng Anh cần biết thêm tiếng Trung hay tiếng Nhật, tiếng Hàn… Về cơ chế đãi ngộ, khen thưởng, ngân hàng cần có cơ chế lương thưởng phù hợp, khuyến khích được nhân viên làm việc hết mình, như vậy mới thu được chất lượng cao trong hoạt động phân tích nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Đối với những cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm, lơi là trong công việc hay có biểu hiện cấu kết với khách hàng, ngân hàng cần có những biện pháp xử lý thật nghiêm khắc, kịp thời. 1.4. Cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật Một trong những hạn chế mà hầu hết các ngân hàng Việt Nam đều mắc phải đó là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật còn tương đối yếu kém, lạc hậu đặc biệt là hệ thống vi tính và an ninh mạng. Ngành ngân hàng là một ngành đòi hỏi có sự áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất vào hoạt động của mình. Tuy nhiên do quy mô cũng như ngân sách cho việc nâng cấp hệ thống này ở các ngân hàng trong nước còn hạn hẹp nên chưa đạt được hiệu quả cao nhất trong các hoạt động của mình. Trong nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp cần có sự hỗ trợ của vi tính và mạng, nó giúp cho việc phân tích được nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên hệ thống vi tính, mạng kết nối như hiện nay ở ngân hàng Indovina vẫn còn rất chậm, hay bị lỗi mạng. Khả năng lưu trữ cơ sở dữ liệu vẫn còn rất nhỏ, chưa đáp ứng đầy đủ nhu cầu lưu trữ của ngân hàng. Ngoài ra vấn đề bảo mật thông tin cũng cần phải được tăng cường, đây là một vấn đề chung của hệ thống thông tin của nước ta không chỉ riêng trong ngành ngân hàng. 1.5. Tăng cường kiểm tra giám sát cán bộ tín dụng. Trong nghiệp vụ thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp trong hoạt động cho vay tại ngân hàng Indovina cần tăng cường kiểm tra giám sát các cán bộ tín dụng nhằm đảm bảo công tác phân tích được thực hiện nghiêm túc. Vì công việc thu thập thông tin và phân tích chỉ do một người tiến hành thực hiện nên nếu chỉ kiểm tra kết quả phân tích không thôi thì chưa đủ. Cần phải kiểm tra giám sát ngay từ khi cán bộ thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ những nguồn nào, có đáng tin cậy hay không, có đầy đủ hay không. Khi cán bộ tiến hành xử lý thông tin cũng cần kiểm tra xem có thực hiện đầy đủ các nội dung thẩm định doanh nghiệp hay không, các chỉ tiêu dùng để thẩm định có chính xác, có phù hợp hay chưa. Hơn nữa cần xác minh xem cán bộ tín dụng có mối quan hệ bất thường với khách hàng hay không. Công việc kiểm tra giám sát này đòi hỏi sự hợp tác của cán bộ tín dụng cũng như sự trung thực, nghiêm khắc của người giám sát nếu không cũng sẽ có sự thông đồng giữa họ. Để tránh tình trạng này ngân hàng nên bố trí những người có kinh nghiệm, có trách nhiệm để làm nhiệm vụ kiểm tra, giám sát này. Trên đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng Indovina. Để những giải pháp này trở nên hữu ích và thiết thực cần thực hiện một cách linh hoạt và đồng bộ, bên cạnh đó cũng cần có sự giúp đỡ, phối hợp của nhiều ban ngành, đối tượng có liên quan. 2. Một số kiến nghị. 2.1. Kiến nghị với Nhà nước. Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh tế chính trị ổn định, cần đưa ra những chính sách kinh tế ổn định, hoàn chỉnh bộ máy tổ chức quản lý, hệ thống văn bản pháp lý thống nhất, tạo một hành lang pháp lý đơn giản, cụ thể và hiệu quả tránh cồng kềnh phức tạp, phiền hà. Chính phủ thực hiện sửa đổi các văn bản pháp lý không chỉ trong hệ thống ngân hàng mà ở các doanh nghiệp: các quy định trong hoạt động cấp giấy phép kinh doanh, quy định quyền sở hữu của doanh nghiệp… Bên cạnh đó, Chính phủ cần đẩy mạnh đưa công nghệ thông tin vào cơ quan hành chính Nhà nước nhằm cung cấp thông tin kịp thời, thông suốt và công khai thông tin. Đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi Việt Nam trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, Chính phủ cần có văn bản pháp lý hợp lý, kịp thời tránh gây xáo trộn lớn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các doanh nghiệp gây ảnh hưởng tới ổn định kinh tế chính trị. Chính phủ tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp và ngân hàng trong nước phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Yêu cầu về tính trung thực của các số liệu tài chính là một yêu cầu bức thiết của ngân hàng khi thực hiện phân tích tài chính khách hàng. Sự minh bạch về tài chính cũng là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Ở các nước có nền kinh tế tài chính phát triển, doanh nghiệp bắt buộc phải công bố công khai các báo cáo tài chính đó được kiểm toán trên nhiều kênh thông tin như website của doanh nghiệp hay các tạp chí kinh tế. Trong khi đó ở Việt Nam việc công khai hoá số liệu tài chính chủ yếu chỉ có quy định bắt buộc đối với các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán, chưa có các tổ chức chuyên nghiệp về cung cấp thông tin tài chính, các doanh nghiệp cũn e ngại việc cụng khai thụng tin do nhiều nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, Nhà nước cũng cần có những quy định bắt buộc phải thực hiện kiểm toán độc lập đối với tất cả các doanh nghiệp, không loại trừ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời yêu cầu công khai các báo cáo tài chính này. Có như vậy mới có thể làm minh bạch các số liệu tài chính, đồng thời cũng tạo cơ sở để xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành. Biện pháp này cũng đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn trung thực, có ý thức hơn trong việc cung cấp công khai các số liệu tài chính, giúp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 2.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) là một kênh thông tin quan trọng hỗ trợ cho các ngân hàng rất nhiều trong quá trình phân tích tín dụng của mình. Qua kênh thông tin này, ngân hàng sẽ có được thông tin về quan hệ của khách hàng với các tổ chức tín dụng khác trong quá khứ và hiện tại, điều đó giúp ngân hàng đưa ra được những nhận xét, đánh giá chính xác hơn về khách hàng của mình. Việc nâng cao hiệu quả sẽ giúp các thành viên – các ngân hàng hạn chế được rủi ro trong hoạt động của mình. Ngân hàng nhà nước cần tích cực củng cố thông tin tín dụng, đảm bảo cho CIC thực hiện và phát huy đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Ngân hàng Nhà nước cần quy định chặt chẽ, chi tiết trách nhiệm và quyền lợi tương ứng của các thành viên khi tham gia vào kênh thông tin này. Bên cạnh đó, CIC nên mở rộng nguồn thông tin như tăng cường các thông tin kinh tế, tài chính phục vụ cho hoạt động phân tích tín dụng nói chung và phân tích tài chính khách hàng nói riêng của các ngân hàng thương mại. KẾT LUẬN Hoạt động cho vay là hoạt động đặc trưng và quan trọng nhất đối với bất cứ ngân hàng thương mại nào. Việc nâng cao chất lượng cho vay là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý ngân hàng. Để đảm bảo mục tiêu an toàn và sinh lời trong hoạt động của mình, cấc ngân hàng đã tính tới nhiều giải pháp để thúc đẩy nâng cao chất lượng của hoạt động này. Một trong các giải pháp đó là nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay. Tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp trong tương lai, đến chất lượng của khoản cho vay. Làm tốt công tác thẩm định dự án đầu tư của khách hàng giúp ngân hàng đưa ra quyết định cho vay đúng đắn, giảm thiểu rủi ro, nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trong chuyên đề thực tập này, Em đã nghiên cứu những lý luận về thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng thương mại, kết hợp với thực tiễn thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng Indovina, đánh giá kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay, tìm hiểu nguyên nhân và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư trong lĩnh vực cho vay tại ngân hàng Indovina trong thời gian tới. Do thời gian thực tập không nhiều và sự hạn chế về mặt kiến thức, kinh nghiệm nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, Em rất mong có được sự góp ý của cô giáo hướng dẫn và của các anh chị phòng tín dụng tiếp thị ngân hàng Indovina chi nhánh Hà Nội để chuyên đề thực tập của Em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PTS. Mai văn Bưu - Chủ biên : Giáo trình Hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước - ĐH Kinh tế Quốc dân - NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1998 PTS. Đoàn Thu Hà - PTS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền : Chính sách kinh tế xã hội- NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội 1999. PGS.TS Phan Thị Thu Hà (Chủ biên):Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê 2006. PTS Lưu Thu Hương - Chủ biên : Giáo trình Tài chính doanh nghiệp - ĐH Kinh tế Quốc dân PGS.TS Lưu Thị Hương, 2006, Thẩm định tài chính dự án, NXB Thống kê. Ths. Cao Tuấn Anh , 2006, Luận văn thạc sỹ kỹ thuật trường Đại Học Xây Dựng. Báo cáo thường niên Ngân hàng Indovina Năm 2004, 2005, 2006, 2007. Một số tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Ngân hàng các năm 2003-2007. Luật các tổ chức tín dụng. Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2006. MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1 Kết quả huy động vốn của ngân hàng Indovina 26 Bảng 2.2 Tỷ trọng của vốn huy động từ các thị trường 27 Bảng 2.3 Doanh số cho vay và dư nợ cho vay tại ngân hàng IVB 29 Bảng 2.4 Các khoản cho vay của ngân hàng Indovina 30 Bảng 2.5 Thu nhập từ hoạt động cho vay tại ngân hàng Indovina 30 Bảng 2.6 Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ 31 Bảng 3.1 Các chỉ tiêu hoạt động chủ yếu của ngân hàng Indovina đến năm 2009 54 Bảng 3.2 Các chỉ tiêu hoạt động cho vay của ngân hàng Indovina trong những năm tới 56

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12358.doc
Tài liệu liên quan