Ngoài ra, phải có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ phía chính phủ về chính sách thuế, về các quy định pháp luật để các NHTM Việt Nam có định hướng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ góp phần phát triển xã hội lâu dài, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý kinh tế xã hội và pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán thẻ, bổ sung những chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ và thuận lợi.
Cho đến nay, cơ sở pháp lý cao nhất và tương đối chi tiết về mặt nghiệp vụ để các ngân hàng ở nước ta căn cứ vào đó triển khai cụ thể thêm là quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng ngày 19/10/1999 theo quyết định 371/1999/QĐ-NHNN1. Quy chế này ra đời làm thông thoáng hơn và hợp pháp hoá dịch vụ phát hành và thanh toán bằng thẻ ở nuức ta. Mặc dù vậy, để hoạt động thanh toán và phát hành thẻ ở Việt Nam phát triển hơn nữa thì Nhà nước nên ban hành một số pháp lệnh (hay thấp hơn là Nghị định của chính phủ) quy định về "sử dụng các phương tiện TTKDTM” trong đó có hình thức thanh toán thẻ nhằm đảm bảo một hành lang pháp lý cao hơn, khả thi hơn và nhất là thống nhất hơn giữa các ngân hàng phát hành để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường thanh toán, giúp cho các nhu cầu có khả năng thanh toán được thực hiện trong một nền kinh tế đang hướng tới sự năng động và hiệu quả.
Về lâu dài, Nhà nước nên chú ý đến các vấn đề như tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho người dan cho cán bộ - công nhân viên chức, không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, trình độ giao dịch của ngân hàng, giảm thiểu các loại phí trong việc đăng ký và sử dụng thẻ, mở rộng đối tượng sử dụng thẻ trên cơ sở xem xét lại điều kiện để được làm ứng viên chủ thể, tức là không phải cứ người nào có thu nhập cao mới được xem xét cấp thẻ vì điều này đã loại bỏ một số lượng lớn khách hàng.
Ta thấy việc áp dụng hình thức thanh toán thẻ là một bước đột phá mạnh mẽ của quá trình hiện đại hoá. Hiện nay, trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn, do vậy, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cũng như ngân hàng cần thấy được tầm quan trọng của thẻ thanh toán, từng bước khắc phục khó khăn nhằm phát huy hiệu quả của hình thức này. Có như vậy thì hoạt động thanh toán thẻ nước ta mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế phát triển.
Trên đây là một số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM của các ngân hàng Việt Nam nói chung và sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng. Ta tin tưởng rằng, trong thời gian tới, hệ thống thanh toán của ngân hàng sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và hệ thống TTKDTM có thể vững bước trên con đường hội nhập với hệ thống thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.
78 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1707 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Sở giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thức này khá phức tạp, không linh hoạt từ lúc mở cho đến khi thanh toán.
- Với quy định mức tiền tối thiểu của 1 TTD là 10 triệu, khách hàng phải lưu ký toàn bộ số tiền vào 1 tài khoản riêng không hưởng lãi, điều này thuận lợi cho ngân hàng nhưng lại gây bất lợi cho khách hàng do bị ứ đọng vốn lớn.
- Phạm vi thanh toán của TTD bị hạn chế. Ngân hàng phục vụ bên trả tiên chỉ nhận mở TTD trong trường hợp bên thụ hưởng mở tài khoản ở ngân hàng cùng hệ thống. Nếu bên thụ hưởng mở tài khoản ở ngân hàng khác hệ thống thì trên địa bàn đó phải có ngân hàng cùng hệ thống tham gia thanh toán bù trừ.
- Thời hạn của TTD quá dài (3 tháng) gây bất lợi về vốn cho khách hàng.
e). Tình hình thanh toán bằng NPTT
Cũng theo số liệu bảng 5 ta thấy tình hình sử dụng phương thức thanh toán bằng NPTT có nhiều biến động. Cụ thể :
Năm 1999, doanh số NPTT đạt 422.247 triệu, chiếm 0,22% tổng doanh số thanh toán với 101.384 món, chiếm 79,98%, tổng số món TTKDTM.
Sang năm 2000, NPTT tăng thêm 45.194 món tương ứng với số tiềnlà 254.253 triệu.
Đến năm 2001, NPTT được sử dụng với 180.563 món chiếm 64,45% tổng TTKDTM với doanh số 890.000 triệu, chiếm 0,18% tổng giá trị thanh toán KDTM. Mặc dù NPTT tăng lên cả về số món, số tiền nhưng tỷ trọng của nó trong tổng số món và tổng số tiền của TTKDTM lại giảm. Điều này cho thấy NPTT vẫn được dân ta sử dụng nhiều và ưa chuộng vì thói quen sử dụng tiền mặt của ta vẫn khó có thể thay đổi. NPTT là một sản phẩm thay cho tiền mặt nhưng nó giống như tiền mặt (tại sở giao dịch, hình thức này vẫn được tổng kết trong báo cáo tổng thanh toán KDTM). Tuy nhiên, chính thanh toán bằng NPTT đã làm cho nhu cầu tiền mặt ngày càng trầm trọng hơn. Thanh toán bằng NPTT đã gây ra một số bất lợi cho ngành ngân hàng đó là làm cho người dân, kể cả các doanh nghiệp không có nhu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng do đó, hệ thống ngân hàng không còn khả năng mở rộng tín dụng dựa trên số dư của tài khoản tiền gửi thanh toán. Bên cạnh đó, thanh toán bằng NPTT không làm giảm đi sự lưu thông bằng tiền mặt, nó luôn phải được chuyển đổi ra tiền mặt khi NPTT hết hạn lưu hành. (Trên đây là tình hình sử dụng NPTT của Sở giao dịch các năm 1999, 2000, 2001, trong thực tế, đến tháng 4/2002, NPTT đã chấm dứt lưu hành).
f). Tình hình sử dụng thẻ thanh toán
Giống như TTD, thẻ thanh toán cũng chưa được áp dụng tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam. Với những ưu thế vượt trội so với các thể thức thanh toán khác nhưng cho đến nay, thẻ thanh toán vẫn chưa tìm được chỗ đứng cho mình tại sở giao dịch nói riêng cũng như trong toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung. Sự phát triển chưa tương xứng của thẻ so với tiềm năng thị trường thẻ ở Việt Nam xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
- Hệ thống CSHT có liên quan phục vụ cho hoạt động phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ chưa phát triển. Nhiều ngân hàng trong đó có sở giao dịch còn e ngại khi kinh doanh thẻ là do rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ tương đối cao. Rủi ro này không thông thường là do hậu quả của việc sử dụng thẻ gian lận, giả mạo gây ra. Trong khi đó, kinh nghiệm về quản lý và kiểm soát rủi ro đối với các trường hợp sử dụng thẻ gian lận, giả mạo của các NHTM còn nhiều hạn chế.
- Thông tin về thẻ ngân hàng còn hạn chế. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của ngành công nghiệp thông tin thì phương tiện thanh toán bằng thẻ càng thể hiện nhiều tiện ích so với phương thức thanh toán bằng tiền mặt như thanh toán nhanh chóng, an toàn, văn minh, lịch sử... Tuy nhiên, những tiện ích của thanh toán bằng thẻ chưa được đa số người dân biết đến, thậm chí nhiều người còn không biết thẻ thanh toán là gì, sử dụng như thế nào ? Đây là điểm yếu của không chỉ sở giao dịch mà của cả ngành ngân hàng.
Dù có nhiều tiện ích song thanh toán bằng thẻ không phải không có nhược điểm.
- Đối với người sử dụng thẻ : thẻ tín dụng không phù hợp để mua hàng hoá, dịch vụ hoặc rút tền với giá trị lớn bởi giới hạn của tín dụng. Ngoài ra, thẻ tín dụng còn bị giới hạn hơn sử dụng tiền mặt là thẻ chỉ sử dụng được ở những nơi chấp nhận thanh toán thẻ.
- Đối với cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ có thể bị rủi ro mất doanh thu khi ngân hàng phát hành tù chối thanh toán vì không thực hiện đúng các quy định về kiểm tra, lập hoá đơn thanh toán thẻ.
- Đối với ngân hàng phát hành : đòi hỏi một khối lượng đáng kể thẻ phát hành nếu thu được lợi nhuận (do tốn kém chi phí, cần thời gian và chuyên môn điều hành).
Cho đến giai đoạn hiện nay, thẻ thanh toán vẫn được xem là công cụ hiệu quả nhất (nó có thể khắc phục được nhược điểm và phát huy những ưu thế của các hình thức TTKDTM khác và là một sản phẩm dịch vụ đạt chuẩn quốc tế. Nhận biết một được vị thế, vai trò, tầm quan trọng của thẻ nên trong thời gian không xa, sở giao dịch sẽ gia nhập thị trường thẻ với bước khởi đầu là làm đại lý chấp nhận thanh toán thẻ.
2.3. Nhận xét về công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
2.3.1. Những kết quả đạt được
Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng công tác thanh toán nói chung và công tác TTKDTM nói riêng của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam những năm gần đây ta có thể thấy rằng : mặc dù phải đối mặt với nền kinh tế sôi động, chịu sự cạnh tranh gay gắt của các tổ chức khác trên địa bàn nhưng sở giao dịch đã và đang từng bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế. Với sự quyết tâm của ban lãnh đạo cùng tập thể cán bộ công nhân viên đã dần vượt qua được những khó khăn trở ngại của buổi đầu hoạt động, giành thế chủ động hoà nhập với nền kinh tế thị trường, hoàn thành tốt nhiệm vụ đặt ra, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của TTKDTM, sở giao dịch đã đầu tư hiện đại hoá trang thiết bị, đưa công nghệ thông tin vào phục vụ công tác thanh toán tại sở. Do vậy, đã căn bản thực hiện chuyển đổi công tác thanh toán từ phương pháp thủ công sang phương pháp tin học, hiện đại. Chuyển hẳn từ thanh toán bằng thư qua bưu điện hoặc điện thoại sang phương thức thanh toán qua mạng vi tính, đảm bảo an toàn, chính xác, thuận lợi...
Song song với việc hiện đại hoá về mặt vật chất, sở giao dịch không ngừng nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ thanh toán, trình độ khoa học để làm chủ công nghệ mới và phong cách làm việc theo hướng cải cách hành chính cho phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của cơ chế thị trường.
Những kết quả này được thể hiện cụ thể trong việc không ngừng tăng lên của doanh số TTKDTM qua các năm. Tăng 294.565.692 triệu với tỷ lệ tăng 151,4% so với năm 1999 và tăng 115.316.982 triệu tương ứng với tỷ lệ tăng 30,8% so với năm 2000. Các hình thức TTKDTM ngày càng phát huy được ưu thế và có chiều hướng tăng lên qua các năm.
2.3.2. Những tồn tại cần khắc phục
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác TTKDTM tại sở giao dịch còn tồn tại những mặt yếu kém cần phải khắc phục.
- Cũng như tình trạng chung của các ngân hàng, nghiệp vụ TTKDTM hiện nay ở sở giao dịch còn nhiều hạn chế nhất là hình thức thanh toán bằng séc còn chiếm tỷ trọng thấp.
- Hiện tượng ưa dùng tiền mặt vẫn còn phổ biến trong các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư. Kể cả khi có tài khoản ở ngân hàng vẫn còn không ít doanh nghiệp vay và thanh toán bằng tiền mặt.
- Việc triển khai mở tài khoản và thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản qua ngân hàng trong các tầng lớp dân cư còn rất hạn hẹp nhất là séc chưa có chỗ đứng trong thanh toán của các tầng lớp dân cư. Thực tế tại sở giao dịch đa phần nghiệp vụ thanh toán mới chỉ phục vụ trong khu vực doanh nghiệp, các cơ quan hành chính sự nghiệp còn đại bộ phận dân cư vẫn chưa tiếp cận được với các dịch vụ thanh toán của ngân hàng ngoài những món chuyển tiền và mở tài khoản cá nhân với một lượng không đáng kể. Trong khi đó, một số hình thưc sthanh toán mới ra đời như thẻ thanh toán, séc... còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, chưa thực sự hấp dẫn khách hàng.
- Bên cạnh đó còn phải kể đến sự không đồng bộ về chương trình máy tính, công đoạn thủ công, trùng lặp trong kế toán còn nhiều, kết quả là thời gian làm việc kéo dài, chậm trễ trong thanh toán, chưa đáp ứng đòi hỏi của các chi nhánh; thao tác nghiệp vụ còn xảy ra sai sót trong chuyển vốn.
- Còn để xảy ra phàn nàn từ khách hàng do sự phối hợp với sở giao dịch I vẫn chưa kịp thời, khách hàng thường xuyên chuyển tiền nhầm lẫn giữa 2 sở làm chậm trễ, thiệt hại cho người thụ hưởng.
- Ngoài ra, công việc đào tạo, huấn luyện tại chỗ chưa thường xuyên, một bộ phận cán bộ mới vào ngành còn hạn chế nghiệp vụ do đó đã dẫn đến kết quả không như mong muốn.
- Một hạn chế nữa của sở giao dịch là chưa thực sự chủ động trong việc tiếp thị, khai thác, tìm kiếm và thu hút khách hàng, còn thiếu các biện pháp tổ chức thực hiện các mục tiêu chiến lược khách hàng. Đây là nhược điểm chung của nhiều ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Năm 2000, sở giao dịch đã đưa hệ thống máy ATM vào hoạt động, tuy nhiên đến nay vẫn chủ yếu là để trả lương cho cán bộ, công nhân viên nên lượng giao dịch tăng theo kỳ lương nhưng số lượng máy còn quá ít nên nhiều khi khách hàng phải xếp hàng để rút tiền. Mặt khác, trong thời gian qua, hệ thống ATM gặp nhiều lỗi kỹ thuật phải dừng phục vụ (có đợt phải dừng nhiều ngày) đã ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ này.
2.3.3. Nguyên nhân
Trước những tồn tại và bất cập nêu trên đòi hỏi Ban lãnh đạo của sở giao dịch phải xác định được nguyên nhân của những bất cập đó để có hướng đi thích hợp trong thời gian tới. Từ thực tế tại sở giao dịch, có thể thấy một số nguyên nhân làm cho TTKDTM không được các tầng lớp dân cư hưởng ứng nhiệt tình là :
- Điều kiện kinh tế của Việt Nam chưa cao dẫn đến thu nhập của dân ư nhìn chung còn táp (GDP bình quân đầu người chỉ gần 400 USD/năm) vì thế việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân phần lớn hiện nay chỉ là hình thức. Các ngân hàng nói chung và sở giao dịch nói riêng đã vận động các cán bộ - công nhân viên của mình mở tài khoản - là những người hiểu biết rõ lợi ích của nghiệp vụ này nên cán bộ - công nhân viên đã hưởng ứng 100% song do tiền lương chỉ đủ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu hàng ngày nên sau khi nhập lương vào tài khoản là các “chủ tài khoản” lập tức rút tiền mặt do đó không đem lại hiệu quả cho TTKDTM.
- Do một thời gian dài sống trong nền sản xuất nhỏ tạo cho các tầng lớp dân cư tâm lý ưa thích tiền mặt, khi giao dịch muốn sở hữu ngay, cầm chắc trong tay số tiền thanh toán. Thói quen sử dụng tièn mặt là một thói quen lâu đời của người Việt Nam do đó khó có thể thay đổi trong “một sớm, một chiều” được.
- Ngoài ra, trình độ dân chúng nhìn chung còn thấp, hiểu biết về hoạt động ngân hàng còn quá ít ỏi cũng là một hạn chế lớn cho thanh toán qua ngân hàng.
Xét về phía sở giao dịch, việc tổ chức và thực hiện thanh toán còn những yếu kém nhất định, chẳng hạn :
- Công tác tuyên truyền, quảng cáo của sở còn hình thức, chưa hiệu quả, còn ở trong tình trạng “đợi khách” chứ chưa thực sự tiếp cận, lôi cuốn khách hàng bằng phương pháp Marketing thiết thực, đó cũng là nguyên nhân làm hạn chế sự hiểu biết của dân chúng về ngân hàng.Tư đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của công tác TTKDTM.
- Bên cạnh đó, tổ chức phục vụ thanh toán còn yếu kém... Các ngân hàng hầu như chỉ bó hẹp sự giao dịch trong hệ thống của mình, việc hợp tác giữa các ngân hàng thiếu đồng bộ... Từ đó dẫn đến tốc độ thanh toán chậm, thủ tục thanh toán rườm rà.
- Hệ thống CSHT liên quan đến các hoạt động TTKDTM chưa phát triển tương xứng cũng ảnh hưởng đến kéet quả TTKDTM tại sở giao dịch, đặc biệt là đối với công tác thanh toán bằng thẻ. Hiện nay trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có 6500 điểm bán hàng chấp nhận thanh toán bằng thẻ và có chưa đến 10 máy ATM để rút tiền mặt do các ngân hàng lắp đặt. Với số lượng địa điểm chấp nhận thanh toán bằng thẻ và số lượng máy ATM còn hạn chế đã ảnh hưởng rất nhiều đến việc sử dụng thẻ của khách hàng. Việc trang bị thiết bị tin học trong những năm qua còn tồn tại nhiều vấn đề cần giải quyết. Tiến trình hiện đại hoá ngân hàng còn quá dài và chậm so với yêu cầu phát triển các sản phẩm kinh doanh, dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh đó, trình độ của cán bộ về tin học hiện tại còn hạn chế, lại không được cập nhật kiến thức mới. Thực tế này sẽ là khó khăn không nhỏ khi thực hiện các dự án hiện đại hoá hoạt động ngân hàng.
- Sở giao dịch mới được thành lập và đi vào hoạt động nên vẫncòn đang trong quá trình hoàn thiện cơ cấu tổ chức, chương trình hoạt động, khai thác, tìm kiếm thị trường. Do đó, phần nào cũng ảnh hưởng đến công tác thanh toán nói chung và TTKDTM nói riêng của sở giao dịch.
- Nhà nước chưa có các chính sách phối kết hợp các ngành có liên quan trong quá trình thanh toán để đưa sản phẩm TTKDTM trở thành sản phẩm có tính “xã hội hoá” cao. (Hiện nay, các cơ quan, doanh nghiệp mới chỉ coi tổ chức TTKDTM là trách nhiệm riêng của ngân hàng).
- Mặc dù, trong những năm qua, chính phủ cũng như NHNo đã ban hành nhiều nghị định, nghị quyết về công tác tổ chức TTKDTM nhưng vẫn chưa đạt đến sự thống nhất, hoàn thiện, còn gây nhiều bất cập trong thanh toán. Bản thân các hình thức TTKDTM cũng chưa thật sự thuận tiện để người dân có thể dễ dàng sử dụng.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho sở giao dịch trong thời gian tới là rất nặng nề. Để khắc phục được những tồn tại trên, trên cơ sở đó đưa TTKDTM vào sử dụng rộng rãi trong dân cư thì sở giao dịch phải từng bước loại bỏ những nguyên nhân gây ra những tồn tại đó đồng thời phải có sự hỗ trợ, giúp đỡ của các cấp, ngành có liên quan.
Chương 3
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM
3.1. Định hướng hoạt động của sở giao dịch NHNo&PTNT Việt Nam
3.1.1. Một số chỉ tiêu của kế hoạch kinh doanh năm 2002
- Thực hiện tốt các nhiệm vụ do Tổng giám đốc giao như : quản trị điều hành mạng SWIFT, làm đầu mối thanh toán quốc tế; đầu mối kinh doanh ngoại tệ, quản lý, điều hoà với nội, ngoại tệ trong hệ thống, hạch toán các loại vốn, quỹ của NHNo & PTNT Việt Nam và thực hiện tốt các nhiệm vụ khác.
- Phấn đấu đạt các chỉ tiêu kế hoạch năm 2002
+ Nguồn vốn đạt 2.580 tỷ đồng, tăng 373 tỷ, tốc độ tăng trưởng 17% so với cuối năm 2001.
+ Dư nợ đạt 670 tỷ đồng, tăng 216 tỷ, tốc độ tăng trưởng 47% so với cuối năm 2001.
+ Tỷ trọng dư nợ trung, dài hạn chiếm 80% tổng dư nợ.
+ Phấn đấu giảm tỷ lệ nợ quá hạn xuống dưới 1% tổng dư nợ.
+ Mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động dịch vụ như : mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thanh toán chuyển tiền, dịch vụ thanh toán thẻ, séc du lịch... phấn đấu thu dịch vụ đạt 10% trong tổng thu nghiệp vụ của sở giao dịch.
+ Tài chính đảm bảo kinh doanh có lãi, quỹ thu nhập 946 A tăng từ 3 - 5% so với năm 2001. Đảm bảo quỹ tiền lương theo quy định.
+ Tập trung củng cố hệ thống chương trình máy tính với mục tiêu giảm thời gian làm ngoài giờ, cập nhật chính xác số liệu cụ thể.
- Tiếp nhận, thực hiện có hiệu quả hệ thống thanh toán liên ngân hàng, các chương trình hiện đại hoá của hoạt động thanh toán.
- Phối hợp xây dựng chương trình báo Có, báo Nợ qua mạng chương trình bù trừ, chương trình với số liệu giao dịch từ mạng SWIFT.
- Hoàn chỉnh chương trình mạng máy tính với kho bạc, triển khai chương trình với CITYBANK, các ngân hàng nước ngoài và một số tổ chức tài chính khác.
3.1.2. Phương hướng thực hiện
- Bám sát mục tiêu nhiệm vụ năm 2002 của HĐQT, của ban điều hành NHNo & PTNT Việt Nam và của Sở giao dịch để đưa ra giải pháp và chương trình cụ thể phù hợp với môi trường kinh doanh trên địa bàn. Thực hiện tốt chiến lược huy động vốn và chiến lược khách hàng đối với các Tổng công ty 90, 91 của NHNo & PTNT Việt Nam.
- Thực hiện tốt nhiệm vụ mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng trưởng thị phần nguồn vốn và tín dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Đối với nguồn vốn của khách hàng tiền gửi là tổ chức kinh tế. Thực hiện tốt cơ chế ưu đãi khách hàng, mở rộng quan hệ với các đơn vị tiền gửi lớn, thường xuyên để duy trì và mở rộng nguồn vốn như kho bạc nhà nước, quỹ hỗ trợ phát triển, bảo hiểm tiền gửi... đồng thời tích cực mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, tăng cường áp dụng công nghệ tin học vào công tác thanh toán để thu hút khách hàng, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi.
+ Đa dạng hoá các hình thức tiền gửi cá nhân, tiền gửi tiết kiệm. Mở rộng hình thức huy động tiết kiệm ngoại tệ kỳ hạn trên 1 năm, huy động tiết kiệm đồng EUR.
+ Đối với khách hàng vay vốn, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của trụ sở chính để tiếp tục tiếp cận các dự án lớn, phối hợp các NHTM khác tham gia các dự án đồng tài trợ hoặc chủ động làm đầu mối thu xếp tài chính cho các dự án lớn, chủ động tiếp cận và mở rộng quan hệ tín dụng với tổng công ty 90, 91 và các đơn vị thành viên. Đồng thời tăng cường tiếp cận với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh sản xuất, kinh doanh hiệu quả để thiết lập và mở rộng quan hệ tín dụng, thanh toán.
- Củng cố bộ máy tổ chức của sở giao dịch, đảm bảo đủ mạnh, cải tiến lề lối làm việc, tổ chức phối hợp chặt chẽ các phòng nghiệp vụ để nâng cao chất lượng nghiệp vụ, đáp ứng tốt nhất dịch vụ cho khách hàng, kể cả khách hàng tiền gửi, khách hàng vay vốn cũng như khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán; tăng cường khả năng cạnh tranh với các NHTM khác về chất lượng dịch vụ.
- Thành lập bộ phận “chăm sóc khách hàng’ trong phòng kinh doanh, chuyên nghiên cứu các cơ chế chính sách của nhà nước liên quan đến hoạt động thanh danh của sở; các cơ chế nghiệp vụ, các cơ chế ưu đãi của ngân hàng thương mại khác đang áp dụng, từ đó thực hiện tiếp thị mở rộng khách hàng theo các bước : quảng cáo, tuyên truyền, tiếp cận khách hàng, có cơ chế ưu đãi về lãi suất, dịch vụ; trong phong cách giao dịch phải biết lắng nghe nguyện vọng của khách hàng và chính sách khách hàng của các ngân hàng khác để điều chỉnh cho phù hợp.
Mục tiêu của chiến lược khách hàng là giữ vững khách hàng hiện có, mở rộng khách àng mới phù hợp với khả năng và điều kiện kinh doanh của sở giao dịch. Giáo dục cho cán bộ - công nhân viên nhận thức rõ không có khách hàng thì không có ngân hàng, không có khách hàng lớn thì chưa đúng vị thế và nhiệm vụ của sở giao dịch. Từ cán bộ lãnh đạo đến cán bộ nghiệp vụ phải coi trọng công tác tiếp thị và thực hiện chiến lược khách hàng theo chỉ đạo của NHNo & PTNT Việt Nam.
- Tăng cường trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật, phương tiện làm việc, xây dựng chương trình phần mềm giao dịch đồng bộ đáp ứng yêu cầu quy trình điều hành, quy trình nghiệp vụ đặc thù của sở giao dịch và khai thác tốt cơ sở dữ liệu trong quá trình tác nghiệp. Trước mắt, phải tập trung hiện đại hoá nhanh hệ thống thanh toán, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có như: dịch vụ chuyển tiền nhanh, rút tiền tự động ATM, chuyển tiền điện tử... Từng bước mở rộng các dịch vụ khác như : thanh toán thẻ, séc du lịch, nối mạng thanh toán với khách hàng, xây dựng các chương trình giao dịch nội bộ như báo có qua SWIFT, phân chia điện SWIFT, chuyển tiền mua bán, thanh toán ngoại tệ... giảm tối đa lao động thủ công trong các mặt nghiệp vụ và chuyên môn, điều hành. Từng bước hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao năng suất lao động để tăng cường năng lực cạnh tranh với các NHTM khác trên địa bàn; cung cấp đa dạng các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, phục vụ tốt hơn các nhu cầu của khách hàng.
- Triển khai thực hiện tốt các kế hoạch đào tạo đã xây dựng. Tiến hành tiêu chuẩn hoá cán bộ (cán bộ điều hành và cán bộ nghiệp vụ) thực hiện đánh giá phân loại cán bộ để kế hoạch đào tạo phù hợp. Mục tiêu đào tạo tập trung vào hai mục tiêu chính sau :
+ Giỏi về kỹ năng nghiệp vụ : giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng tiếp nhận và sử dụng thành thạo công nghệ ngân hàng hiện đại.
+ Kỹ năng giao tiếp tốt : giỏi về tiếp thị và luôn có thái độ đúng đắn trong giao tiếp và ứng xử.
Thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, tin học để đảm bảo đáp ứng nhu cầu công việc.
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam
Xuất phát từ vai trò to lớn của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường và thực trạng công tác TTKDTM tại ngân hàng mình, sở giao dịch cần có giải pháp hoàn thiện các hình thức thanh toán, mở rộng phạm vi thanh toán (không chỉ giới hạn đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế mà còn mở rộng đến các tầng lớp dân cư). Cho đến nay, việc đẩy mạnh công tác TTKDTM vẫn còn là một thách thức với toàn hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Trong những năm qua, tuy đã có những văn bản pháp quy về hoạt động ngân hàng và công tác thanh toán được ban hành nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu và có những quy định chưa phù hợp. Bên cạnh đó, chúng ta thấy cơ sở vật chất và trình độ của hệ thống thanh toán hiện nay chỉ thích ứng với tình hình trước mắt : khối lượng thanh toán chưa cao, thị trường tài chính chưa thực sự phát triển. Dự báo nền kinh tế Việt Nam trong khoảng vài năm tới sẽ có bước phát triển mạnh, khối lượng thanh toán có thể tăng gấp nhiều lần, nhu cầu chuyển tiền có giá trị cao gia tăng và thời kỳ tiếp theo là sự giao lưu với thị trường tài chính quốc tế. Quá trình này đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu hoàn thiện các hình thức thanh toán, cung ứng các dịch vụ thanh toán phù hợp, có các biện pháp đẩy mạnh TTKDTM góp phần mang lại hiệu quả trong hoạt động ngân hàng, thực hiện thành công sự nghiệp hiện đại hoá ngân hàng, đẩy mạnh tiến trình chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hoà nhập với cộng đồng ngân hàng khu vực và thế giới.
Qua nghiên cứu lý luận kết hợp với tình hình thực tế về hoạt động TTKDTM tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị nhằm đáp ứng phần nào những đòi hỏi của nền kinh tế nói chung và công tác TTKDTM nói riêng.
3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lý
Để hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán qua ngân hàng trong điều kiện mới (theo hướng cải tiến, hoàn thiện hệ thống thanh toán và tăng cường hiệu quả quản lý Nhà nước về công tác thanh toán) đề nghị NHNN cần phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có hiêụ quả cao để tạo môi trường, hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động thanh toán, cụ thể :
- NHNN cần ban hành quy chế chính thức về thanh toán thông qua chứng từ điện tử, sử dụng các máy giao dịch tự động, các quy định chuẩn nguồn dữ liệu.
- Bổ sung các điều khoản về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thanh toán ngân hàng, do vấn đề này chưa được đề cập trong Nghị định 20/2000/NĐ-CP ngày 15/6/2000 của chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
- Cần nghiên cứu để ban hành luật séc, bởi séc là một công cụ thanh toán rất phổ biến trên thế giới ngay cả khi có các công cụ thanh toán mới hiện đại hơn xuất hiện. Hiện tại cũng như trong tương lai thì séc vẫn là công cụ thanh toán chủ lực ở nước ta bởi điều kiện để phát triển thanh toán thẻ ở nước ta chưa đầy đủ, chi phí cho việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật sẽ rất tốn kém và mất nhiều thời gian. Trong khi đó, thu nhập của người dân còn thấp, nhu cầu sử dụng thẻ trong xã hội chưa phổ biến. Hơn nữa, xu hướng phát triển của séc là không chỉ thanh toán bằng VNĐ mà còn có séc bằng ngoại tệ; séc không chỉ thanh toán trong nước mà còn được sử dụng để thanh toán với các nước trong khu vực và trên thế giới. Muốn vậy, séc của Việt Nam phải được chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Việc nghiên cứu để điều chỉnh nâng cấp Nghị định 30/CP về quy chế phát hành và sử dụng séc thành Luật séc là cần thiết hiện nay.
- Ngân hàng nhà nước cần rà soát lại tất cả các chế độ, thể lệ thanh toán để loại bỏ hẳn các quy định, các công cụ thanh toán không còn phù hợp như TTD (vì đã từ lâu khách hàng không còn sử dụng công cụ này do việc quy định quá phức tạp, thủ tục luân chuyển chứng từ rườm rà, tốc độ thanh toán chậm gây đọng vốn cho khách hàng) hoặc cần quy định lại cho phù hợp, thông thoáng hơn.
3.2.2. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác và an toàn là một trong những định hướng và chủ trương lớn mà ngành ngân hàng đã đặt ra trong nhiều năm nay. Để thực hiện chủ trương này, NHNN cần làm những việc sau :
- NHNN phải có kế hoạch và biện pháp tiếp nhận các nguồn vốn viện trợ của nước ngoài, đặc biệt là của WB và sử dụng hợp lý, có hiệu quả phục vụ công cuộc đổi mới công nghệ ngân hàng. So với các ngân hàng nước ngoài thì vốn tự có trong các NHTM ở Việt Nam còn rất thấp do vậy nếu không có nguồn tài trợ giúp đỡ từ bên ngoài thì rất khó có thể cạnh tranh, đứng vững và phát triển được.
- NHNN và các NHTM trước hết là NHTM quốc doanh phải phối hợp với nhau để nghiên cứu xây dựng quy trình chuyển tiền thanh toán điện tử đồng bộ. Các NH cần phải kết hợp với nhau trong thanh toán, khắc phục tình trạng thanh toán rời rạc theo từng hệ thống NH như hiện nay.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích vốn đầu tư và thuế cho hệ thống ngân hàng trong thời gian đầu thực hiện các dự án hiện đại hoá các dự án thanh toán của ngân hàng như trung tâm thanh toán thẻ, séc ...
- NHNo & PTNT Việt Nam cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ tin học và công tác kế toán, chuẩn hoá chương trình kế toán giao dịch trực tiếp và nhanh chóng tin học hoá công tác thanh toán toàn hệ thống. Thực hiện nối mạng vi tính giữa các NHTM với nhau để giao dịch trực tiếp, rút ngắn thời gian thanh toán, từng bước thực hiện thí điểm nối mạng giữa ngân hàng với khách hàng trước hết là với khách hàng lớn có uy tín để thực hiện việc giao dịch tại nhà.
- Xây dựng một hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng để có thể xử lý thanh toán bù trừ tự động, tất cả các khoản thanh toán bù trừ theo chứng từ hiện nay sẽ được thay thế bằng thanh toán bù trừ tự động qua hệ thống thanh toán điện tử.
3.2.3. Đối với thanh toán bằng tiền mặt và KDTM
ở nước ta, việc sử dụng tiền mặt để thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong nền kinh tế còn tràn lan kể cả các tổ chức kinh tế và các cá nhân có tài khoản tại ngân hàng. Thực trạng này đã gây bao nhức nhối trong quản lý kinh tế và xã hội. Thanh toán bằng tiền mặt dẫn đến nhiều chi phí phát sinh kèm theo làm lãng phí nguồn lực của nền kinh tế. Không những thế, nó còn là nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà nước không thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trên thị trường và làm cho CSTT của Nhà nước mất tính hiệu quả. Việc không quy định chặt chẽ phạm vi TTKDTM cũng tạo khe hở cho một số kẻ tham ô, lợi dụng, bòn rút tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Chính vì vậy, chính phủ cần phải đưa ra quyết định bắt buộc mang tính pháp lý đối với doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể và các hộ kinh doanh khi thanh toán phải thông qua tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng.
Đối với dân cư, chính phủ nên có quy định bắt buộc phải mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Với những món quy định giá trị là bao nhiêu trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ thì phải thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản, bằng UNC, séc hay bằng các hình thức TTKDTM khác. Có như vậy mới có thể bắt buộc được các tầng lớp dân cư mở tài khoản tại ngân hàng và sử dụng chúng để thanh toán chứ không phải để gửi rồi lại rút tiền mặt như hiện nay. Nếu các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định trên thì sẽ bị xử phạt hành chính. Mới đầu có thể thử nghiệm trong dân cư ở thành phố, thị xã lớn sau đó tiến hành nhân rộng ra cả nước. Bên cạnh những giải pháp bắt buộc, Nhà nước cần phải có chỉ đạo, tuyên truyền, giải thích cho người dân thấy rõ ý nghĩa và tác dụng của chính sách này và bước đầu nên có giải pháp khuyến khích về kinh tế ví dụ như : không thu phí các khoản thanh toán nhỏ, giảm thuế thu nhập trong thời gian đầu, giảm VAT...
Ngoài ra, chính phủ cần có biện pháp buộc các đối tượng như các đơn vị bán hàng hoá và cung ứng dịch vụ thiết yếu, đặc biệt là các doanh nghiệp như bưu điện, nhà máy nước, cơ quan thuế ... phải mở tài khoản tại ngân hàng từ đó các doanh nghiệp sẽ khống chế được người mua, yêu cầu người mua thanh toán bằng chuyển khoản và áp dụng hình thức UNT.
Tóm lại, khi mà khối lượng thanh toán bằng tiền mặt giảm xuống thì tất yếu thanh toán qua ngân hàng (TTKDTM) sẽ tăng lên, các phương tiện TTKDTM sẽ được sử dụng rộng rãi hơn. Như vậy, thực hiện quy định sử dụng tiền mặt trong thanh toán không những góp phần chống tham nhũng, giảm chi phí cho xã hội mà còn thúc đẩy TTKDTM phát triển.
3.3. Kiến nghị về việc cải tiến các hình thức TTKDTM hiện có và đưa vào áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại
3.3.1. Đối với hình thức thanh toán séc
Séc là một hình thức thanh toán thông dụng được sử dụng mang tính truyền thống và rộng khắp trên toàn thế giới. Về phương diện khoa học cũng như phương diện thực tiễn, séc thoả mãn nhu cầu đa dạng của nhiều đối tượng khách hàng. Nhưng thực tế tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam hình thức này còn bị hạn chế cả về số món và doanh số thanh toán bởi nhiều lý do. Hiện nay, chúng ta đang áp dụng quy chế phát hành và sử dụng séc theo Nghị định 30/CP và thông tư hướng dẫn số 07/TT-NH1. Tuy đã đem lại những kết quả nhất định nhưng NHNN cũng cần có những nghiên cứu để chỉnh sửa, bổ sung những điều bất hợp lý, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho người sử dụng. Do đó, ngành ngân hàng nên nghiên cứu, sửa đổi theo các hướng sau :
- Việc ngân hàng xử lý đối với những trường hợp séc nộp quá thời hạn phải có xác nhận của UBND xã, phường đã gây phiền hà cho người có liên quan đến tờ séc và người được chuyển nhượng séc. Do vậy, cần phải loại bỏ hẳn quy định đến UBND xã, phường xác nhận lý do nộp séc quá thời hạn. Séc là lệnh trả tiền vô điều kiện, điều đó có nghĩa là tờ séc được xuất trình lúc nào thì ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán ngay khi tờ séc phát hành hợp pháp, hợp lệ và tài khoản tiền gửi đủ số dư thanh toán. Người thụ hưởng là người sở hữu số tiền trên tờ séc nên bao giờ cũng muốn nộp vào ngân hàng càng nhanh càng tốt. Hơn nữa, việc xác nhận này không có ý nghĩa mà chỉ mang tính hình thức vì không phải lúc nào UBND xã, phường cũng có thể kiểm soát được tất cả các hoạt động của khách hàng. Vì vậy, truờng hợp này, NHNN nên quy định từ chối thanh toán đối với những séc quá thời hạn để tránh những thủ tục phiền hà đồng thời cũng tạo ra tính nghiêm túc trong quan hệ thanh toán giữa Ngân hàng với khách hàng
- Ngân hàng nên quy định một số mức thấu chi đối với một số đơn vị sử dụng séc. Đối với khách hàng có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả thì ngân hàng nên cho phép thấu chi qua séc chuyển khoản. Thấu chi không phải với mục đích tín dụng mà để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong việc chi trả trên tài khoản tiền gửi. Tuy nhiên, còn có sự thoả thuận giữa khách hàng với ngân hàng bằng hợp đồng tín dụng thấu chi. Khoản tiền quá số dư đó được coi như khoản tín dụng với lãi suất tiền vay quá hạn. Như vậy, quan hệ giữa khách hàng với ngân hàng mang nội dung kinh tế hơn nội dung hành chính.
- Quy định về sức chuyển khoản hiện nay là phải có 2 đường gạch chéo song song ở góc trên, bên trái tờ séc hoặc tờ séc phải có cụm từ “chuyển khoản”. Nên bỏ quy định có 2 đường gạch chéo, bởi lẽ góc bên trái là góc đóng nhật ký chứng từ nên khi đóng rồi sẽ khó khăn cho việc kiểm tra, kiểm soát sau này.
- Về séc phát hành quá số dư : hiện nay theo nghị định 30/CP và thông tư 07/TT-NH1 quy định : Khi tờ séc, phát hành quá số dư thì ngân hàng từ chối thanh toán, điều này gây bất lợi cho người thụ hưởng trong trường hợp séc chỉ quá số dư 1 phần. Ngân hàng nên quy định nếu tờ séc phát hành quá số dư toàn bộ thì từ chối thanh toán và trả lại tờ séc cho người thụ hưởng cùng giấy từ chối thanh toán; nếu séc quá số dư 1 phần thì nên tiến hành thanh toán cho người thụ hưởng trong phạm vi số dư, phần còn lại từ chối thanh toán. Như vậy, muốn thực hiện được thì trên tờ séc nên có thêm 2 dòng “Tổng số tiền được thanh toán” và “tổng số tiền từ chối thanh toán”.
Đối với người phát hành séc thì mọi trường hợp phát hành quá số dư đều phải xử phạt theo chế độ quy định để đảm bảo tính công bằng, nghiêm minh trong thanh toán.
- Thông tư 07/TT-NH1 có nêu “trường hợp có nhiều tờ séc nộp cùng vào một thời điểm để đòi tiền từ một tài khoản mà trên tài khoản không đủ số dư để thanh toán được xác định theo số séc đã phát hành, các tờ séc có số thứ tự nhỏ hơn sẽ được thanh toán trước”. Vấn đề đặt ra là có trường hợp tờ séc có số thứ tự nhỏ nhưng mệnh giá lớn hơn số dư trên tài khoản, khi đó ngân hàng phải linh hoạt xử lý bằng cách lập phiếu từ chối thanh toán và trả lại séc cho đơn vị, đồng thời yêu cầu đơn vị lập lại bảng kê nộp séc và các tờ séc với mệnh giá nhỏ hơn hoặc bằng số dư trên tài khoản của đơn vị, như vậy sẽ thoả mãn tốt nhất quyền lợi của khách hàng.
- Về việc bản séc trắng : Thông tư 07/TT/NH1 quy định số lượng tối đa mỗi lần bán cho pháp nhân là 3 cuốn séc và cá nhân là 1 cuốn - với những khách hàng có nhu cầu thanh toán thường xuyên số lượng này quá ít. Vì vậy, việc bán séc trắng nên bỏ quy định số lượng tối đa mỗi lần bán mà giao nó cho giám đốc các TCTD và cục trưởng cục KBNN TW quyết định. Căn cứ vào từng hoàn cảnh cụ thể của khách hàng trong quá trình sản xuất kinh doanh và mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng mà đưa ra quyết định về số lượng hợp lý nhất, tạo điều kiện cho khách hàng trong quá trình thanh toán được dễ dàng và thuận lợi.
- Phạm vi thanh toán séc còn hạn chế. Trong điều kiện hiện nay, mối quan hệ kinh tế không còn giới hạn trong từng vùng, từng địa phương mà đã phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, trong nước và quốc tế. Do đó cần hiện đại hoá công nghệ và nối mạng thanh toán trong toàn ngành, phát triển một chương trình thanh toán liên ngân hàng, hội nhập tất cả các TCTD trong nước vào một hệ thống thanh toán thống nhất với sự hỗ trợ của máy tính và phần mềm ứng dụng (NHNN làm trung tâm thanh toán bù trừ).
- Hệ thống ngân hàng hiện nay chưa có trung tâm xử lý séc toàn quốc cũng như chưa có hệ thống thanh toán bù trừ toàn quốc do đó việc thanh toán séc so với trước đây vẫn chưa thoát khỏi phạm vi chỉ thanh toán giữa 2 khách hàng có tài khoản ở 2 ngân hàng khác hệ thống nhưng trên cùng địa bàn có tham gia thanh toán bù trừ. Đó là một hạn chế lớn cho việc triển khai thanh toán séc rộng khắp cả nước. Như vậy, cần tiến tới thành lập trung tâm xử lý séc toàn quốc và trung tâm bù trừ khu vực hay toàn quốc để các ngân hàng tham gia thanh toán séc và thanh toán bù trừ được nhanh chóng, thuận tiện.
3.3.2. Đối với hình thức thanh toán bằng UNC
Theo hình thức thanh toán này, việc trả tièn nhanh hay chậm đều phụ thuộc vào khả năng tài chính và ý thức thái độ trách njhiệm của đơn vị mua trong việc thanh toán. Tuy nhiên, trong các quy định hiện hành lại không hề có kỷ luật thanh toán nào để ràng buộc đơn vị mua. Do đó cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các đơn vị trong thanh toán bằng cách :
- Cần quy định rõ thời hạn đơn vị mua phải lập UNC để trả tiền. Trong diều kiện hiện nay, nên quy định sau 2 ngày kể từ ngày nhập kho hàng hoá, nhập các cung ứng dịch vụ thì đơn vị mua phải lập UNC để trích tài khoản trả tiền cho đơn vị cung cấp. Khi nộp UNC phải kèm theo hoá đơn nhập kho hàng hoá để ngân hàng kiểm soát.
- Khi đơn vị mua đã lập UNC để thanh toán, nếu trên tài khoản đơn vị mua không còn tiền hoặc thiếu tiền thì ngân hàng nên giữ lại UNC để theo dõi và tính phạt chậm trả, phạt phát hành quá số dư như đối với hình thức thanh toán séc.
- Trong cơ chế thị trường hiện nay, khách hàng của các ngân hàng chủ yếu là các danh nghiệp và các tổ chức sản xất kinh doanh cũng như cá nhân có nhu cầu về vốn cao, việc cho khách hàng vay trong thanh toán vừa tháo gỡ khó khăn về tài chính cho khách hàng, đảm bảo cho đơn vị thụ hưởng thu được tiền, vừa thực hiện được nhiệm vụ kinh doanh của ngân hàng lại giữ được quan hệ tốt với khách hàng. Như vậy, khi UNC quá số dư thì ngân hàng nên cho vay để đảm bảo khả năng thanh toán. Để làm tốt điều đó thì phải phân loại khách hàng. Nếu đối tượng là khách hàng tốt, có quan hệ thường xuyên lâu dài nhưng do nguyên nhân khách quan dẫn tới số dư trên tài khoản không đủ thanh toán trong thời ngắn thì ngân hàng nên cho khách hàng vay với mức lãi suất phù hợp (cao nhất là bằng lãi suất nợ quá hạn của loại cho vay ngắn hạn mà ngân hàng đang áp dụng).
3.3.3. Đối với hình thức thanh toán UNT
Khi khách hàng mở tài khoản ở ngân hàng một cách phổ biến thì nhà nước nên quy định các ngành thu các loại dịch vụ như : bưu điện, điện, nước, thuế ... sử dụng hình thức thanh toán UNT. Chắc chắn, khách hàng sẽ ưa chuộng hình thức này vì họ đỡ mất thời gian đi lại, muốn vậy, đòi hỏi bảng kê thanh toán tiền dịch vụ của các ngành bưu điện, điện lực... phải chính xác. Khi doanh số thanh toán bằng UNT tăng nhanh, tức là khối lượng công việc mà ngân hàng làm dịch vụ gia tăng thì ngân hàng cũng cần xem xét thu phí thanh toán theo tỷ lệ phần trăm nhất định sao cho hợp lý.
3.3.4. Đối với hình thức thanh toán TTD
Để TTD có thể phát huy được những ưu điểm và được khách hàng chấp nhận, NHNN nên xem xét, sửa đổi các văn bản cũ, bổ sung các văn bản mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế về hình thức thanh toán bằng TTD. Muốn vậy thì :
- Cần xoá bỏ bức tường ngăn cách giữa các ngân hàng cùng hệ thống và khác hệ thống, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quan hệ giao dịch và thanh toán.
- Cần đưa ra các tỷ lệ ký quỹ khác nhau đối với từng đối tượng khách hàng như ký quỹ 100%, 50% hay 20% với khách hàng là doanh nghiệp lớn có doanh số lưu chuyển trên tài khoản thường xuyên.
- Để khuyến khích khách hàng áp dụng hình thức này thì ngân hàng nên có quy định số tiền ký quỹ sẽ được hưởng lãi theo lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
Nếu những biện pháp trên được thực hiện mà không đem lại hiệu quả (nghĩa là TTD vẫn không được áp dụng rộng rãi) thì nên loại bỏ hình thức này để tìm kiếm một hình thức khác phù hợp hơn.
3.3.5. Đối với hình thức thẻ thanh toán
Một trong những phát minh quan trọng của con người đẩy nền văn minh của nhân loại tiến một bước dài là sự ra đời của tiền tệ. Tiền tệ ra đời và không ngừng được nghiên cứu, hoàn thiện nhằm 2 mục đích chính : sự tiện lợi và an toàn. Qua nhiều hình thái phát triển, ngày nay bằng kỹ thuật hiện đại, tiền tệ đã đạt tới đỉnh cao của chất lượng : tiền điện tử - một phương thức TTKDTM tiên tiến và hiện đại. Thẻ thanh toán là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Thẻ thanh toán ra đời không những đạt được 2 mục tiêu nói trên mà còn thể hiện được tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hoá toàn cầu.
Ngày nay, trên 70% gia đình tại Mỹ đã sử dụng thẻ thanh toán để trả tiền hàng hoá, dịch vụ thay vì họ phải trả bằng tiền mặt hoặc dùng các phương tiện TTKDTM khác. Trong khi đó, tại Việt Nam số lượng các ngân hàng thực hiện thanh toán bằng thẻ mới chỉ có khoảng 10 ngân hàng, số lượng các điểm chấp nhận thẻ cũng như các máy rút tiền tự động (ATM) còn quá ít. Thậm chí sở giao dịch NHNo&PTNT là sở đầu mối của cả hệ thống NHNo & PTNT Việt Nam cũng mới chỉ trang bị được 1 máy ATM và chủ yếu là dùng cho cán bộ công nhân viên rút tiền lương.
Để đáp ứng đòi hỏi trong tương lai này, sở giao dịch cần có sự chuẩn bị trước. Công việc chuẩn bị bao gồm yếu tố con người và trang thiết bị.
- Yếu tố con người
+ Đầu tư nguồn nhân lực. Chúng ta chưa có chuyên gia hàng đầu trong hoạt động thẻ, tài liệu nghiệp vụ hoàn toàn bằng tiếng Anh... là một khó khăn lớn hạn chế thanh toán thẻ cán bộ quản lý điều hành và cán bộ tác nghiệp ngoài đòi hỏi phải có một trình độ ngoại ngữ tương đối còn phải có một trình độ tổng hợp kiến thức nhất định. Do đó, cán bộ ngoài nỗ lực của bản thân phải tham gia các khoá học dài hạn, bài bản và có thời gian thực hành để có kiến thức chuyên sâu, trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh doanh thẻ.
+ Để thẻ trở nên quen thuộc với dân chúng, các ngân hàng cần đẩy mạnh các hoạt động quảng cáo, tiếp thị, đặc biệt là phải giới thiệu được những tiện ích khi sử dụng thẻ... Bên cạnh đó, vai trò của NHNN trong vấn đề hỗ trợ tuyên truyền cho các NHTM là cần thiết vì chức năng hoạch định chính sách tiền tệ của một ngân hàng trung ương, ngân hàng trung ương nên làm đầu mối tổ chức các cuộc hội thảo ứng dụng (chứ không phải hội thảo khoa học) để tuyên truyền mạnh mẽ trước hết là trong giới sinh viên và giới công chức.
- Về trang thiết bị
Đây là thách thức lớn nhất do đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Các NHTM nói chung và sở giao dịch nói riêng cần dành 1 nguồn vốn thích đáng cho việc trang bị các thiết bị phục vụ cho quy trình thanh toán bằng thẻ, đặc biệt là máy đọc thẻ và nghiên cứu đặt máy tại những nơi có điều kiện giao dịch thuận lợi, an toàn. Về phía NHNN cũng hỗ trợ thêm thông qua các nguồn vốn tài trợ kêu gọi được từ các tổ chức nước ngoài với lãi suất ưu đãi trong thời gian đầu để cùng với hệ thống NHTM tạo 1 hệ thống CSHT căn bản ngay từ đầu cho các giao dịch bằng thẻ ở trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng nên thoả thuận với nhau để lắp đặt, trang bị máy móc thích hợp tại 1 đơn vị chấp nhận thẻ để tránh trường hợp nhiều ngân hàng cùng lắp đặt, trang bị máy móc tại 1 đơn vị.
+ Hợp tác với công ty cho thuê tài chính để thuê lại các máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại.
+ Các ngân hàng cần có sự hợp tác để quản lý và kiểm soát rủi ro có hiệu quả. Để có thể quản lý và kiểm soát rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ thì trước hết các ngân hàng cần có sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ với nhau nhằm kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp thanh toán và sử dụng thẻ giả mạo, góp phần làm giảm thiểu rủi ro đối với hoạt động kinh doanh thẻ. Bên cạnh đó, mỗi Ngân hàng phải tạo cho mình ký hiệu mật riêng, tránh rủi ro trong quá trình thanh toán.
+ Nhà nước cần có chính sách phối kết hợp ngân hàng với các ngành khác để mở rộng mạng lưới giao dịch nhằm thu hút khách hàng thông qua việc lập chi nhanh mới tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước và các phòng giao dịch đặt tại các khu vực dân cư phát triển.
Ngoài ra, phải có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ từ phía chính phủ về chính sách thuế, về các quy định pháp luật để các NHTM Việt Nam có định hướng triển khai dịch vụ thanh toán thẻ góp phần phát triển xã hội lâu dài, thực hiện chủ trương ổn định tiền tệ, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng... Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý kinh tế xã hội và pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thanh toán thẻ, bổ sung những chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ và thuận lợi.
Cho đến nay, cơ sở pháp lý cao nhất và tương đối chi tiết về mặt nghiệp vụ để các ngân hàng ở nước ta căn cứ vào đó triển khai cụ thể thêm là quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng ngày 19/10/1999 theo quyết định 371/1999/QĐ-NHNN1. Quy chế này ra đời làm thông thoáng hơn và hợp pháp hoá dịch vụ phát hành và thanh toán bằng thẻ ở nuức ta. Mặc dù vậy, để hoạt động thanh toán và phát hành thẻ ở Việt Nam phát triển hơn nữa thì Nhà nước nên ban hành một số pháp lệnh (hay thấp hơn là Nghị định của chính phủ) quy định về "sử dụng các phương tiện TTKDTM” trong đó có hình thức thanh toán thẻ nhằm đảm bảo một hành lang pháp lý cao hơn, khả thi hơn và nhất là thống nhất hơn giữa các ngân hàng phát hành để tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường thanh toán, giúp cho các nhu cầu có khả năng thanh toán được thực hiện trong một nền kinh tế đang hướng tới sự năng động và hiệu quả.
Về lâu dài, Nhà nước nên chú ý đến các vấn đề như tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho người dan cho cán bộ - công nhân viên chức, không ngừng nâng cao trình độ công nghệ, trình độ giao dịch của ngân hàng, giảm thiểu các loại phí trong việc đăng ký và sử dụng thẻ, mở rộng đối tượng sử dụng thẻ trên cơ sở xem xét lại điều kiện để được làm ứng viên chủ thể, tức là không phải cứ người nào có thu nhập cao mới được xem xét cấp thẻ vì điều này đã loại bỏ một số lượng lớn khách hàng.
Ta thấy việc áp dụng hình thức thanh toán thẻ là một bước đột phá mạnh mẽ của quá trình hiện đại hoá. Hiện nay, trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn, do vậy, mỗi cá nhân, mỗi tổ chức cũng như ngân hàng cần thấy được tầm quan trọng của thẻ thanh toán, từng bước khắc phục khó khăn nhằm phát huy hiệu quả của hình thức này. Có như vậy thì hoạt động thanh toán thẻ nước ta mới thực sự đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế phát triển.
Trên đây là một số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM của các ngân hàng Việt Nam nói chung và sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng. Ta tin tưởng rằng, trong thời gian tới, hệ thống thanh toán của ngân hàng sẽ phục vụ khách hàng tốt hơn, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế và hệ thống TTKDTM có thể vững bước trên con đường hội nhập với hệ thống thanh toán của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Kết luận
TTKDTM có vai trò hết sức quan trọng đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường. Sự ra đời của nó là bước phát triển tất yếu của quá trình thanh toán, đánh dấu một bước tiến mới của nền văn minh nhân loại.
Trong thời gian qua, công tác TTKDTM của Việt Nam nói chung và của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam nói riêng đã gặt hái được nhiều thành công tốt đẹp. Doanh số cũng như tỷ trọng của TTKDTM ngày càng tăng, khắc phục được những hạn chế của thanh toán bằng tiền mặt, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, đảm bảo sự an toàn, tiện lợi cho các bên tham gia. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì tỷ lệ này vẫn còn rất thấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có những nguyên nhân từ phía Nhà nước, những nguyên nhân từ phía Ngân hàng và từ phía khách hàng. Nhận biết được các nguyên nhân này từ đó đưa ra hướng giải quyết là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của mọi cấp, mọi ngành đặc biệt là của ngành Ngân hàng.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, công tác TTKDTM cần phải đổi mới, hoàn thiện và mở rộng hơn nữa, phấn đấu đưa công tác TTKDTM của Việt Nam sánh kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
Sau một thời gian học tập tại trường, qua thực tế tại sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam, với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM em đã đưa ra một số giải pháp, tuy nhiên, với thời gian có hạn, trình độ và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Vì vậy, em kính mong được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo, các cán bộ trong Sở giao dịch và toàn thể các bạn để em có thể hoàn thiện hơn kiến thức của mình.
Qua đây, em cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô giáo đã tham gia giảng dạy tại Học viện Ngân hàng- những người đã tận tình truyền đạt cho em những kiến thức quý báu trong suốt khoá học vừa qua, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo thạc sỹ Lê Văn Luyện, cùng toàn thể các cán bộ Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam- những người đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn !
Hà nội, tháng 07/ 2002
Sinh viên
Nghiêm Thị Thu HươngDanh mục tài liệu tham khảo
1. “Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính” - Frederic S.Mishkin - _NXB Khoa học và Kỹ thuật- 1999_
2. “Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại”
_ NXB Chính trị Quốc gia_
3. Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam năm 1999, 2000, 2001.
- Báo cáo TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam năm 1999, 2000, 2001.
4. Một số “Tạp chí ngân hàng”, “Thị trường tài chính tiền tệ” và “Thời báo ngân hàng” các năm 1999, 2000, 2001.
5. Quyết định 22/QĐ-NH1 ngày 20/2/1994 của Thống đốc NHNN Việt Nam về thể lệ TTKDTM
- Nghị định 30/CO ngày 2/5/1996 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc.
- Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 về hướng dẫn thực hiện nghị định 30/CP.
- Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999 về việc ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng.
- Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
6. “Kế toán ngân hàng”
_ NXB Tài chính-2000_
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về ttkdtm
1.1 Sự cần thiết khách quan và vai trò của TTKHTM 3
1.1.1 Sự cần thiết khách quan của thanh toán không dùng tiền mặt 3
1.1.2 Vai trò của TTKDTM trong nền kinh tế thị trường 6
1.2 Những quy định mang tính nguyên tắc trong TTKDTM 6
1.2.1 Mở và sử dụng tài khoản thanh toán 6
1.2.2 Đảm bảo khả năng thanh toán 8
1.2.3 Thực hiện lệnh thanh toán 8
1.2.4 Phí dịch vụ thanh toán 8
1.2.5 Chứng từ thanh toán 8
1.2.6 Trách nhiệm của Ngân hàng 8
1.3 Sơ lược về quá trình phát triển TTKDTM ở Việt Nam 9 9
1.4 Các hình thức TTKDTM 11
1.4.1 Thanh toán bằng Séc 11
1.4.2 Thanh toán bằng UNC - chuyển tiền 16
1.4.3 Thanh toán bằng UNT 17
1.4.4 Thư tín dụng 18
1.4.5 Thẻ thanh toán 20
Chương 2:
thực trạng công tác ttkdtm tại sở giao dịch
nhno& ptnt việt nam
2.1 Khái quát chung về hoạt động của sở giao dịch NHNo & PTNT Việt Nam 24
2.1.1 Sự hình thành và phát triển 24
2.1.2 Tình hình kinh của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam 26
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn 27
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn 29
2.1.2.3 Công tác kế toán- thanh toán 30
2.1.2.4 Kết quả tài chính 31
2.2 Thực trạng công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam 32
2.2.1 Tình hình thanh toán chung 32
2.2.2 Tình hình vận dụng các hình thức thanh toán 34
a). Tình hình sử dụng séc 35
b). Thanh toán bằng UNC- chuyển tiền 38
c). Tình hình thanh toán bằng UNT 39
d). Tình hình thanh toán TTD 41
e). Tình hình thanh toán bằng NPTT 41
f). Tình hình sử dụng thẻ thanh toán 42
2.3 Nhận xét về công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam 43
2.3.1 Những kết quả đạt được 43
2.3.2 Những tồn tại cần khắc phục 44
2.3.3 Nguyên nhân 45
Chương 3:
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác TTKDTM
3.1 Định hướng hoạt động của Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam 48
3.1.1 Một số chỉ tiêu của kế hoạch năm 2002 48
3.1.2 Phương hướng thực hiện 49
3.2 Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác TTKDTM tại Sở giao dịch NHNo & PTNT Việt nam 51
3.2.1 Hoàn thiện môi trường pháp lý 52
3.2.2 Không ngừng hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng 53
3.2.3 Đối với thanh toán bằng tiền mặt và TTKDTM 54
3.3 Kiến nghị về việc cải tiến các hình thức TTKDTM hiện có và đưa vào áp dụng các hình thức thanh toán hiện đại 55
3.3.1 Đối với hình thức thanh toán séc 55
3.3.2 Đối với hình thanh toán bằng UNC 58
3.3.3 Đối với hình thức thanh toán UNT 59
3.3.4 Đối với hình thức thanh toán TTD 59
3.3.5 Đối với hình thức thẻ thanh toán 60
kết luận 64
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29158.doc