Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An

Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế cả nước, ngành thuỷ sản đã và đang triển khai thực hiện nghị quyết TW VII, cùng với việc tổ chức thực hiện nghị quyết TW V, chuyển dịch cơ cấu một cách hợp lý và có hiệu quả nhất, nhằm cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực đánh bắt hải sản xa bờ, phát triển nuôi trồng các mặt hàng có giá trị lớn trong xuất khẩu, chuyển đổi từ xuất khẩu nguyên liệu sang xuất khẩu thành phẩm, từng bước tiếp cận với các siêu thị khó tính nhất ( như Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ). Phát triển Khoa học Công nghệ, hình thành một lực lượng sản xuất có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá ngành thuỷ sản, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới của tích cực của các ngành liên quan. Tất nhiên muốn thực hiện được các mục tiêu trên, ngoài những cố gắng nỗ lực của ngành, một trong những yếu tố quyết định khác là sự quan tâm và ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ và hiệp lực tích cực của các ngành liên quan đối với công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . Hy vọng rằng trên cơ sở những thành tích đã đạt được trong thời gian vừa qua, công ty sẽ tiếp tục đa dạng hoá các sản phẩm cho phù hợp với từng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng hàm lượng chất xám của sản phẩm, tăng cường tiếp thị để tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm chủ yếu ở các thị trường chính, vươn lên chiếm lĩnh thị trường đối với các mặt hàng chủ lực có nhiều tiềm năng. Điều cuối cùng là phải nâng cao được hiệu quả của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng.

doc55 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của công ty với khối lượng 0,91 nghìn tấn, năm 2004. Việt Nam còn có biên giới chung với Trung Quốc nên đối với công ty là rất thuận tiện cho việc giao thông đi lại và giao lưu buôn bán. “Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến xuất khẩu thuỷ sản sang Trung Quốc giảm là việc yêu cầu việc bán hàng phải thông qua Ngân hàng của hai nước và đáng lưu ý hơn là từ 30/6/2003 theo quy định của tổng cục Kiểm dịch kiểm nghiệm giám sát chất lượng Trung Quốc, các lô hàng thuỷ sản xuất hàng vào Trung Quốc phải được kiểm tra và cấp chứng nhận chất lượng an toàn vệ sinh theo các chỉ tiêu do Trung Quốc quy định đồng thời phải đăng ký danh sách Doanh nghiệp xuất khẩu vào Trung Quốc kèm theo mã số. Trong tuơng lai, các rào cản này chắc chắn sẽ càng ngày càng chặt chẽ hơn”. Tuy nhiên, Trung Quốc và Hồng Kông vẫn là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của công ty , chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản của công ty ”. Với tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy, thị trường Trung Quốc đã bám sát nút với thị trường Nhật và khẳng định vị trí quan trọng của mình. Trung Quốc là thị trường có nhiều tiềm năng để phát triển đối với công ty nhưng cũng luôn biến động và khó có thể dự báo chính xác. Tuy nhiên, Trung Quốc đang thi hành chính sách hạn chế khai thác và tăng cường nuôi trồng. Trong các thời kỳ Trung Quốc cấm khai thác hải sản tất yếu nhu cầu nhập khẩu sẽ tăng lên. Tuy nhiên, họ chỉ nhập khẩu nguyên liệu thô là chính. EU là một trong những miền đất “quả vàng” đối với các nhà xuất khẩu và nhiều ngành sản xuất của Việt Nam. Riêng xuất khẩu thuỷ sản sau khi xếp 18 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản vào nhóm 1 trong tháng 3 năm 2004 trong đó có công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An, EU cũng đã cho phép xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ của Việt Nam vào nhóm 1, nhưng dường như còn chưa đủ thời gian để sự thay đổi về lượng này tạo nên sự tăng trưởng đáng kể cho xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Hàn Quốc và Đài Loan cũng là hai thị trường truyền thống tiêu thụ thuỷ sản của công ty. Hai thị trường này nhập khẩu các loại cá bò, cá cơm, cá ngừ v.v .. 3. Mặt hàng xuất khẩu chính của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . Đất nước ta nông nghiệp chiếm đa phần nên việc phát huy tiềm năng về lĩnh vực chế biến nông - thủy sản là điều kiện hiển nhiên của một nước đang phát triển với chủ trương CNH, HĐH đất nước Bảng 2.7 Đóng góp của thủy sản đối với nông sản ở Việt Nam Năm 2002 2003 2004 Tỷ lệ % so với nông sản 39,5 39,6 39.1 (Nguồn: Bài “Một số vấn đề trong sản xuất các mặt hàng thủy sản ở nước ta” của Lê Sỹ Hải, tạp chí thuỷ sản số tháng 6/2004) Nhìn ở bảng trên, ta thấy sự đóng góp của thuỷ sản đối với nông sản hàng năm không phải là nhỏ. Song một điều đáng tiếc là cho đến nay các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu vẫn là các loại hàng khô mới qua sơ chế nên giá trị không cao. Bảng 2.8. Tỷ lệ của các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu Loại hàng 2002 (%) 2003 (%) 2004(%) Hàng khô 7 5 5 Cá đông lạnh 10 8 12 Tôm đông lạnh 59 35 30 Nhuyễn thể đông lạnh 11 9 15 Các loại khác 13 43 38 (Nguồn: Bài “Một số vấn đề trong sản xuất các mặt hàng thủy sản ở nước ta” của Lê Sỹ Hải, tạp chí TS số 6/2004) Như vậy, có thể thấy rằng xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ tiềm năng kinh tế thuỷ sản , cá tôm và các hải sản thân mềm… đã trở thành sản phẩm xuất khẩu chính của công ty được ưa chuộng trên thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, Mỹ. - Tôm đông: Có khối lượng xuất khẩu khoảng 4 nghìn tấn năm 2004, tăng so với năm 2003 tương đương là 3,3%. Rõ ràng tôm đông xuất khẩu năm 2004 của công ty đã có chất lượng cao hơn nhiều so với năm 2003. Giá tôm xuất trung bình của chúng ta năm 2004 lên tới 9,5 USD/kg, cao hơn 24% so với giá năm 2003 (7,9 USD/kg). Sự tăng giá này, một phần do thuận lợi của thị trường tôm thế giới, nhưng mặt quan trọng hơn là do cơ cấu mặt hàng tôm của ta đã chuyển mạnh sang các dạng sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao, là những mặt hàng có mức giá tăng mạnh nhất trên thị trường. Tôm đông xuất khẩu năm 2004 đã có thay đổi với cán cân nghiêng về các mặt hàng khác ngoài tôm đông. Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu tôm đông lớn của công ty. Về khối lượng, mức nhập từ công ty không tăng lên là bao (năm 2003 là 2,3 nghìn tấn), nhưng giá trị tăng lên nhiều do giá tôm năm 2004 ở Nhật tăng lên và chất lượng tôm của công ty cũng được cải thiện hơn. Thị trường tôm Nhật Bản chiếm 4,7% giá trị xuất khẩu tôm của công ty (năm 2004. Giá tôm trung bình của công ty tại thị trường Nhật cũng còn rất thấp so với giá tôm của các công ty ở Thái Lan, Inđônêxia, thậm chí còn thấp hơn cả giá tôm trung bình của toàn thị trường Nhật Bản. Mỹ vẫn là thị trường lớn thứ hai với tôm xuất khẩu Việt Nam. Năm 2004 Mỹ nhập từ Việt Nam 3,4 nghìn tấn tôm đông. Đây là bước tiến vượt bậc so với năm 2003. Thị trường Mỹ đã chiếm 35% giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam. Điều rất đáng chú ý là giá tôm trung bình của Việt Nam tại Mỹ rất cao, tới 14,9 USD/kg là mức cao nhất ở thị trường này, do phần lớn là tôm chế biến với chất lượng cao. Tuy nhiên, thị phần tôm của công ty tại thị trường tôm số 1 thế giới này còn rất nhỏ, bằng 0,15% trong số các nước xuất khẩu tôm vào Mỹ. Như vậy thị trường Nhật và Mỹ đã chiếm đa số giá trị xuất khẩu tôm đông của công ty trong năm 2004. EU là thị trường nhập khẩu tôm lớn thứ ba thế giới. Riêng Tây Ban Nha hằng năm nhập khẩu gần 100 nghìn tấn, Pháp 70 nghìn tấn tôm. Điều đáng tiếc là tôm đông công ty xuất sang EU năm 2000 chỉ vẻn vẹn có 2,47 nghìn chiếm tỷ trọng quá nhỏ bé. - Cá: Năm năm gần đây, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cá nhanh nhất so với tất cả các nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu, thậm chí còn cao hơn tôm – mặt hàng chủ yếu, chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu hàng xuất khẩu của công ty , đạt mức tăng trưởng bình cao hàng năm. Trong những năm2001-2004, giá trị xuất khẩu cá đạt khoảng trên 7-10 triệu USD và chiếm tỉ trọng gần 7,3% trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, trong đó sản phẩm cá ngừ chiếm khối lượng khá lớn. Năm 2004, xuất khẩu cá đạt tốc độ tăng trưởng kỷ lục, tăng 72% so với năm 2001. Bước nhảy vọt này có thể ghi nhận ở hai mặt ở hai mặt hàng tương đối quan trọng là cá tra/basa và cá ngừ đông lạnh. Đây là năm thâm nhập hiệu quả nhất vào thị trường Mỹ, sau những năm khai phá và thử nghiệm . Năm 2003, xuất khẩu cá chiếm trên 17% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của công ty, so với năm 2002, tăng 20,2% so với năm trước nên giá trị xuất khẩu cá đạt khá cao, với trên 310,07 triệu USD – tăng 35%. Năm 2004, xuất khẩu cá đã vươn lên đạt gần 23% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản của công ty với gần 8 triệu USD, tăng 49,3% so với năm trước. Năm 2003 và 2004 là 2 năm có nhiều biến động lớn về thị trường và có nhiều biến cố chính trị, xã hội ở một số nước lớn, ảnh hưởng đến tiêu thụ thuỷ sản. Bên cạnh đó là vấn đề dư lượng kháng sinh trên thị trường EU. Ba nguyên nhân chính để xuất khẩu cá giữ được sức tăng trưởng mạnh trong giai đoạn này là sản phẩm cá thường có mức giá vừa phải, phù hợp với mức giá vừa phải, phù hợp với mức chi tiêu của đại đa số người tiêu dùng bậc trung và thấp hơn; sản phẩm dễ chế biến phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của khách hàng hiện đại; sản phẩm khai thác cá biển trên thế giới không tăng trong khi các thị trường lớn vẫn có nhu cầu cao. Về các sản phẩm xuất khẩu chính của cá, cá đông lạnh, các loài có giá trị xuất lớn là cá tra/basa, cá ngừ, cá bò, cá cơm, cá thu, cá nu, cá mối, cá bơn lưỡi trâu, cá mú... trong đó cá tra/basa và cá ngừ là 2 loài xuất khẩu có giá trị rất lớn. Năm 2004 xuất khẩu cá tra/basa đạt trên 4 triệu USD, cá ngừ đạt 2 triệu USD (chưa kể các sản phẩm đồ hộp và một số loài khác). Đáng chú ý là cá biển chiếm tỉ trọng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu và giá một số loài cao hơn rất nhiểu so với cá nuôi. Đây là nguồn cung cấp được hầu hết các thị trường ưa chuộng bởi hương vị ngon tự nhiên và không có vấn đề về dư lượng hoá chất. - Các sản phẩm khác: Ngoài những sản phẩm chủ lực trên, những sản phẩm xuất khẩu thuỷ sản khác của công ty cũng đóng một vai trò tích cực vào bức tranh sáng sủa của xuất khẩu thuỷ sản của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An năm 2002, đặc biệt là những mặt hàng thực phẩm chế biến, cua ghẹ, đặc sản biển. Trong 11 tháng của năm 2002, “các nhóm sản phẩm này đạt kim ngạch trên 2,79 triệu đôla, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm tỷ trọng 1,15 trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản”. Tuy nhiên, điều đáng mừng cho nhóm hàng này là “Uỷ ban châu Âu (EC) cho phép xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ sang thị trường EU” . Tính đến nay, Uỷ ban châu Âu mới công nhận 15 nước đủ tiêu chuẩn xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ và công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An của Việt Nam là một công ty trong đó. Những kết quả trên được coi là thắng lợi của việc đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng. Đây là xu hướng tích cực cần được tiếp tục duy trì và phát triển trong những năm tiếp theo đối với chiến lượnc phát triển xuất khẩu của công ty. 4. Đánh giá kết quả kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản của công ty . a. Số lượng và kim ngạch xuất khẩu. Bảng 2.9 Xuất khẩu thuỷ sản của công ty thời kỳ 1994 - 2004 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Kim ngạch (tr USD) 2,05 2,68 3,56 2,50 3,70 2,80 3,58 4,71 4,79 5,83 5,92 Số lượng (nghìn tấn) 6,1 6,3 7,2 7,1 7,7 6,5 7,3 8,1 8,2 8,8 8,9 Nguồn:Báo cáo tổng kết kinh doanh của công ty Năm 1994 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty đạt 2,05 triệu USD đến năm 2004 đạt 5,92 triệu đôla, một con số kỷ lục, như vậy trong vòng 10 năm 1994-2004 xuất khẩu thuỷ sản của công ty đã tăng rất nhanh, mức tăng xuất khẩu trung bình hàng năm đạt 18% còn nếu so với mức xuất khẩu. Như vậy, tổng khối lượng thuỷ sản xuất khẩu của công ty năm 200 với 8,9 nghìn tấn, giá trị 5,92 triệu USD, tăng 1.54% so với năm 2003 là một trong những mức tăng trưởng nhanh của công ty. Bên cạnh đó, nếu đem so sánh tốc độ phát triển và tốc độ tăng của sản xuất thuỷ sản hàng năm thời kỳ năm năm gần đây là trên 4% thì ta sẽ thấy rõ vai trò của xuất khẩu thuỷ sản trong việc thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của công ty. Còn nếu so với tốc độ tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản của thế giới lần lượt là 4.3% và 10% thì xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nói riêng và công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói chung là một trong những ngành đang phát triển đóng góp đáng kể vào sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước nhà đặc biệt là đóng góp vào việc hiện đại hoá ngành thuỷ sản Việt Nam. Bên cạnh đó, thị trường xuất khẩu cho thuỷ sản của công ty ngày càng mở rộng. Vào những năm 90, công ty chỉ có các thị trường xuất khẩu truyền thống như : Nhật, ASEAN,Trung quốc. Nhưng đến năm những năm 2000 công ty đã có thể xuát khẩu sang các thị trường mới, khó tính hơn là EU, Mỹ. Đây là những kết quả đạt được rất quan trọng để công ty củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả xuất khẩu thuỷ sản Bảng 2.11. Kim ngạch xuất khẩu Tôm và Cá của công ty năm 2004 Thị trường Tôm Cá Khối lượng (1000Tấn) Giá trị (Triệu USD) Khối lượng (1000Tấn) Giá Trị (Triệu USD) Mỹ 3.2 3.04 3.01 2.92 Nhật 2.3 2.21 2.4 2.21 Trung Quốc & Hồng Kông 1.8 2.01 1.4 1.34 ASEAN 0.3 0.27 1.01 0.96 EU 0.9 0.81 0.75 0.82 Các nướckhác 0.4 0.32 0.33 0.25 Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của công ty Năm 2002 đến 2004 sau một thời gian triển khai đồng bộ các chương trình: “Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản”; “Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản”; “Chủ chương phát triển khai thác hải sản xa bờ và ổn định khai thác vùng gần bờ; tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư; nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường quốc tế”, hàng thuỷ sản nói chung và tôm nói riêng của Việt Nam nói chung và công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng đã có bước nhảy vọt về số lượng và chất lượng. Giá tôm xuất khẩu trung bình của công ty đã tăng lên đáng kể. Sự tăng giá này, một phần là do cơ cấu mặt hàng tôm của công ty đã chuyển mạnh sang các dạng sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, là những mặt hàng có mức giá tăng mạnh nhất trên thị trường. Nhưng mặt khác quan trọng không kém, là do công ty đã biết đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, thay đổi cơ cấu thị trường hợp lý. Điển hình là thị trường Mỹ, vào năm 2004 tôm đông chiếm tỷ trọng áp đảo trong các mặt hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ với 3.02 nghìn tấn , giá trị 3.04 triệu USD. Rất ít các công ty xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ lại có tỷ lệ mặt hàng tôm đông lớn như của công ty. Bên cạnh tôm là mặt hàng cá cũng có những chuyển biến rất mạnh trong việc xuất khẩu sang các thị trường khác nhau. Cụ thể, với thị trường lớn nhất là Mỹ năm 2004 công ty xuất khẩu khoảng 3.01 nghìn tấn đạt giá trị 3.92 triệu. Thị trường lớn thứ hai của xuất khẩu cá của công ty sau Mỹ là Nhật. Năm 2002, công ty xuất khẩu sang thị trường này khoảng 2.4 nghìn tấn cá các loại đạt giá trị 2.21 triệu USD. Điều này càng chứng tỏ xuất khẩu thuỷ sản của công ty đang từng bước phát triển, thể hiện hiệu quả kinh tế cao sau một khoảng thời gian yếu kém trong việc xuất khẩu cũng như tạo được hiệu quả trong việc này. III./ Đánh Giá Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An Nước ta có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ưu đãi nên rất thuận lợi cho việc khai thác, nuôi trồng thuỷ sản. Đây cũng là tiền đề cho ngành thuỷ sản phát triển và thu được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, không phải không có những khó khăn, tồn tại mà ngành thuỷ sản vẫn phải đang đối mặt và tìm phương án giải quyết. 1. Những thành tựu đạt được. 1.1 Xuất khẩu thuỷ sản đã có sự tiến bộ và phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời góp phần bảo đảm an ninh và chủ quyền trên biển; có đóng góp lớn trong lĩnh vực xuất khẩu; Việc khai thông thị trường đã thúc đẩy phát triển cơ sở vật chất và năng lực khai thác, nuôi trồng thuỷ sản, năng lực hậu cần dịch vụ, tạo việc làm với thu nhập ngày càng cao cho hàng chục vạn lao động, bảo đảm đời sống của hơn 3 triệu người, làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng nông thôn ven biển, đặc biệt là của các cộng đồng ngư dân và nông ngư dân. Từ chỗ là một bộ phận không lớn thuộc khối kinh tế nông nghiệp, với trình độ lạc hậu vào năm 1980, thuỷ sản đã trở thành một ngành kinh tế công nông nghiệp có tốc độ phát triển cao, qui mô ngày càng lớn, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Trong thời gian hơn một thập kỷ qua, sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An đã đạt được những thành tựu rất khả quan. Đặc biệt năm cuối cùng của thế kỷ XX đã trở thành một trong những công ty xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất nhì Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã tăng vượt bậc 1.2 Xuất khẩu thuỷ sản của công ty khẳng định vị trí chủ đạo Trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam và bước đầu xác định được vị trí có ý nghĩa chiến lược trên thị trường thuỷ sản thế giới. Mặt khác, xuất khẩu thuỷ sản của công ty cũng góp phần nâng cao uy tín của hàng xuất khẩu Việt Nam, mở rộng quan hệ buôn bán với các nước trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 đạt 5.92 triệu USD, chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Năm 2004 là năm thành công của công ty xuất khẩu thuỷ sản trong việc khôi phục, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản. Đến nay, hàng thuỷ sản xuất khẩu của công ty đã có mặt ở trên 20 nước, được đánh giá đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường EU, Bắc Mỹ. Theo quyết định của cộng đồng chung châu Âu (EC): “Tổ chức của Việt Nam có thẩm quyền trong việc chứng nhận chất lượng, điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản là Trung tâm kiểm tra chất lượng về vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN). Điều này khẳng định uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, uy tín về chất lượng của các mặt hàng thủy sản và uy tín của NAFIQACEN trên trường quốc tế ” . Như vậy, Việt Nam được phép xuất khẩu các sản phẩm thuỷ sản từ các doanh nghiệp đã được phê chuẩn với tư cách là một nước thuộc danh sách 1 các nước được phép xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU. Trước mắt, EU đã chấp thuận 18 doanh nghiệp trên 33 doanh nghiệp đã kiểm tra đủ điều kiện trong đó có công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . Các doanh nghiệp còn lại định kỳ NAFIQACEN đệ trình lên EC để được bổ sung thêm vào Danh sách 1. Ngoài những gì đã đạt được ở trên, công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An cũng không ngừng tổ chức, tham gia vào những hoạt động bổ ích để nâng cao vai trò và vị trí của mình. Một trong các hoạt động tích cực của ngành là việc tham gia các Hội chợ triển lãm quốc tế thủy sản diễn ra tại Trung tâm Kasati thành phố Hồ Chí Minh từ 5/2 đến 8/2/2003. Hội chợ đã thu hút 100 đơn vị trong và ngoài nước tham dự giới thiệu nhiều thiết bị công nghệ và mặt hàng mới”, “điều bất ngờ là hội chợ đã thu hút khá đông người đến dự ngay trong ngày khai mạc. Các mặt hàng thủy sản chế biến và các mặt hàng khô đều bán rất chạy vì đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong dịp tết” . 1.3 Thành công trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản nói chung và của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng góp phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cả nước. Trong chế biến thuỷ sản, đã từng bước khắc phục tình trạng lao động thủ công là chính sang sử dụng máy móc công nghệ khá hiện đại và đồng bộ. Công ty đã đưa một số khoa học công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó kéo dài thời gian giữ chất lượng và độ tươi sống của hàng thuỷ sản; tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá, trọng lượng, mẫu mã với chất lượng tốt, số lượng nhiều, giá thành hạ phục vụ nhu cầu ăn ngay, nấu ăn rất tiện dụng của người tiêu dùng và nâng cao giá trị hàng thuỷ sản, mở rộng thị trường tiêu thụ. Lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển khá mạnh mẽ và vững chắc, từng bước đẩy lùi nuôi trồng manh mún, tự phát theo lối thủ công truyền thống dựa vào thiên nhiên sang nuôi trồng có quy hoạch với khoa học công nghệ hiện đại hơn, công ty đã đầu tư vốn cho người lao động để giúp họ có điều kiện nuôi trồng thuỷ hai sản và trực tiếp thu mua cho họ. Trong dịch vụ hậu cần nghề cá, nhờ có trang thiết bị hiện đại và ứng dụng khoa học công nghệ mới công ty đã quyết định đầu tư thêm vốn cho người dân, mở ra nhiều ngành nghề mới phục vụ các khâu nuôi trồng, khai thác, chế biến với chất lượng tốt hơn; cung cấp nhiều phương tiện phục vụ nuôi trồng công nghiệp, công nghệ sửa tàu thuyền, sản xuất ngư lưới cụ phát triển, hệ thống cảng cá được đầu tư nâng cấp hiện đại hơn. 1.4 Xây dựng và đào tạo được một đội ngũ các nhà doanh nghiệp thuỷ sản. Xuất hiện nhiều tấm gương, nhiều mô hình sản xuất xuất sắc, đầy tính năng động, sáng tạo. Ngoài đội ngũ cán bộ trong công ty có kiến thức và kinh nghiệm hoạt động trong nền kinh tế thị trường còn có hàng trăm kỹ sư giỏi, hàng vạn công nhân lành nghề. Đội ngũ này có nhiệt tình và ý chí vươn lên mạnh mẽ, là lực lượng có vị trí quan trọng trong giai đoạn phát triển sắp tới. Trong 15 năm qua cũng đã xuất hiện một thế hệ ngư dân mới, đông đảo, có tri thức kỹ thuật và kinh nghiệm góp phần tích cực vào sản xuất và bảo quản nguyên liệu cho công ty. Công ty đã đầu tư cải tạo nâng cấp nhà xưởng, đổi mới trang thiết bị, công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh phù hợp với yêu cầu thị trường thế giới. Với những thành tựu trên, công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An đã góp phần không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà. Riêng về xuất khẩu thuỷ sản, không những hàng năm mang về cho đất nước nhiều ngoại tệ mà còn góp phần đưa Việt Nam hội nhập nhanh hơn vào khu vực và thế giới thông qua sự năng động của các doanh nghiệp trong đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu cũng như thị trường xuất khẩu, tăng cường các quan hệ hợp tác, hiểu biết lẫn nhau và nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. 2. Những mặt còn tồn tại. 2.1 Thị trường xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng chưa phải là thị trường nhập khẩu trọng điểm của thế giới, nhiều thị trường còn thiếu ổn định, trong khi nhiều thị trường rất có tiềm năng lại chưa được khai thác triệt để. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam chưa phải là thị trường nhập khẩu trọng điểm của thế giới, ngoài Nhật Bản. Như vậy, so với các nhà xuất khẩu khác thì Việt Nam hiện đang gặp những bất lợi về mặt thị trường. Việc tăng nhanh xuất khẩu sang Mỹ, EU mới chỉ ở giai đoạn đầu. Chỉ riêng đối với thị trường Mỹ, công ty đã phải cạnh tranh với một số đối thủ có khả năng khai thác, chế biến, tiêu thụ lớn như các công ty thuộc Thái lan, Ê-qua-đo, Mê-hi-cô, ấn Độ, Trung Quốc, Băng-la-đét, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a… trong đó, các công ty của Thái Lan đang được đánh giá “là nước dẫn đầu thế giới về xuất khẩu thủy sản và là nhà cung cấp lớn về tôm và cá ngừ hộp cho thị trường Mỹ. Sản phẩm của các công ty Thái lan chất lượng cao, bao gói đẹp, giá cả hợp lý, phù hợp với yêu cầu của thị trường Mỹ” . Cần chú ý rằng năm 2004, một trong những nguyên nhân quan trọng khiến xuất khẩu thuỷ sản của công ty có bước nhảy vọt là do thị trường thuỷ sản thế giới có nhiều thuận lợi. Khi nước ta được mùa lớn về tôm nuôi thì các nước Tây bán cầu lại mất mùa lớn tạo ra sự thiếu hụt khoảng 100 nghìn tấn trên thị trường tôm mà chủ yếu là thị trường Mỹ, điều này rất thuận lợi cho công ty . Trong thời gian tới, mức độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn nhiều. Thí dụ, tôm nuôi của Ecuađo, Mêhicô … có thể chưa hồi phục ngay được mức trước đây, nhưng các nước như Brazil, Pêru … đang thực thi các dự án nuôi tôm rất lớn và đầy tham vọng. Sản lượng tôm nuôi của Tây bán cầu chắc sẽ tăng trưởng nhanh. Các nước nuôi tôm ở châu á như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Thái Lan, Bănglađét … cũng là các đối thủ cạnh tranh đáng gờm với công ty . Trung Quốc gần đây sản xuất hàng năm gần 1 triệu tấn tôm với giá thấp. Trước đây họ lấy thị trường nội địa là chính, nhưng năm 2004 đã có nhiều dấu hiệu cho thấy họ đã quay lại thị trường xuất khẩu. Đây rõ ràng là đối thủ nặng ký cho công ty trong thời gian tới về xuất khẩu tôm. Với thị trường EU, đây là một thị trường giàu tiềm năng, tuy nhiên chiếm tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của công ty rất nhỏ năm 2004. Như vậy, dù công ty đã được công nhận đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thuỷ sản sang EU nhưng dường như còn chưa đủ thời gian để sự thay đổi về lượng này tạo nên sự tăng trưởng đáng kể cho xuất khẩu, thuỷ sản sang thị trường này. Những năm vừa qua, ngoài Mỹ và EU, thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty là Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Hồng Kông… Điều đáng chú ý là một số thị trường xuất khẩu của ta là những bạn hàng trung gian; chẳng hạn năm 2002, trên 20% lượng thuỷ sản của công ty được tiêu thụ tại thị trường Mỹ nhưng không phải do công ty xuất đi mà được tái xuất từ các nhà máy của Nhật, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… Như vậy, thị trường tiêu thụ tuy có tiềm năng nhưng lại rất thiếu ổn định. Do vậy, vấn đề thị trường xuất khẩu thuỷ sản của công ty cần phải đa dạng hoá hơn nữa để tiến tới xây dựng được thị phần của sản phẩm của công ty được ổn định và không ngừng mở rộng. 2.2 Mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng hoá. Chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu của công ty gồm chủ yếu là tôm, cá đông lạnh sơ chế. Tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng chưa cao. Chất lượng sản phẩm tuy có tiến bộ song vẫn vấp phải những yêu cầu chất lượng khắt khe của các nước nhập khẩu lớn. Vì vậy, đòi hỏi công ty phải có những nỗ lực lớn trong đa dạng hoá sản phẩm cũng như phát triển sản phẩm mới và vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP. 2.3 Giá cả xuất khẩu tuy có tăng nhưng vẫn thấp hơn so với các công ty thuộc các nước trong khu vực. Giá nhìn chung của công ty thấp chỉ bằng khoảng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của các công ty thuộc Thái Lan và Inđônexia nhưng vẫn không cạnh tranh trong xuất khẩu thuỷ sản: tài nguyên thuỷ sản phong phú, điều kiện khí hậu đất đai thuận lợi, giá lao động rẻ hơn so với các nước khác, nhưng trình độ khoa học và công nghệ thấp, cơ sở hạ tầng yếu kém và thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu của công ty giảm sút nhiều và xuất khẩu không đạt được hiệu quả mong muốn vì giá thấp. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của công ty còn chưa tương xứng với tiềm năng tài nguyên đất nước và nếu so sánh với các nước có tiềm năng thuỷ sản giống công ty ( như Thái Lan) thì mức độ chênh lệch về trình độ công nghệ và trình độ quản lý là rất lớn, do vậy mục tiêu chiến lược của công ty là phải phát huy được những tiềm năng của thuỷ sản nước nhà và đưa trình độ công nghệ sản xuất, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản cũng như trình độ quản lý lên ngang tầm khu vực và thế giới. Chương III Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy Mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An I. Mục tiêu và phương hướng xuất khẩu thuỷ sản Của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . 1. Mục tiêu Các phần trong mục này được tổng hợp từ các bản Kế hoạch xuất khẩu thời kỳ 2000-2005, 1999-2010 của ngành Thuỷ sản – trang Web thông tin Bộ Thuỷ sản. a. Mục tiêu chung. * Nâng cao giá trị và sản lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, tiếp tục giữ vị trí mũi nhọn của kinh tế thuỷ sản trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. * Xác lập vị trí ngày càng cao của sản phẩm thuỷ sản của công ty trên thị trường khu vực và thế giới, xứng đáng với tiềm năng thuỷ sản đất nước, từng bước làm chủ thị trường thế giới về một số sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. * Đổi mới công nghệ và kỹ thuật một cách đồng bộ với các bước đi thích hợp trong một hệ thống sản xuất liên hoàn từ tạo nguyên liệu đến chế biến xuất khẩu theo hướng giảm mạnh xuất khẩu sản phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm giá trị cao và giá trị gia tăng. * Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao trình độ lao động nghề cá đủ khả năng và điều kiện đáp ứng nhu cầu phát triển. b. Mục tiêu đến hết năm 2005. - Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng nhanh, đưa kinh tế thủy sản phát triển thành ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đất nước, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện bộ mặt nông thôn và ven biển, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường sinh thái. - Gắn chế biến, xuất khẩu thủy sản với nuôi trồng, khai thác, bảo quản nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất và khai thác có hiệu quả tiềm năng thủy sản, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tăng hiệu quả và tăng tích lũy để tái sản xuất mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững và phát triển thị trường tiêu thụ hàng thủy sản của công ty . c. Mục tiêu đến 2010. - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 tổng sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 2.0.000 tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt trên 25.000.000 USD, tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 2000 người; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển. 2. Phương hướng xuất khẩu thuỷ sản của công ty . 2.1 Phát triển thêm nhiều mặt hàng thuỷ sản mới cho xuất khẩu. Trong cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của thế giới hiện nay, khoảng 75% là dạng sản phẩm cá tươi, ướp đông, đông lạnh và giáp xác, nhuyễn thể tươi, ướp đông, đông lạnh, ( riêng giáp xác và nhuyễn thể 33%-35%) rồi đến sản phẩm đồ hộp thuỷ sản hơn 15%, còn dạng khô, muối,hun khói chiếm hơn 5% dầu cá và bột cá cộng lại xấp xỉ 5%. Còn cơ cấu xuất khẩu của công ty thời gian qua khoảng 90%là dạng sản phẩm thuỷ sản tươi, ướp đông, đông lạnh (riêng giáp xác và nhuyễn thể 80-85%). Sự mất cân đối về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu như đã phân tích ở trên một mặt phản ánh thế so sánh của công ty trong xuất khẩu thuỷ sản mặt khác lại thể hiện sự yếu của ngành , nhưng đây cũng là tiềm năng để công ty có thể đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu nhằm tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thời gian tới. Như vậy, cơ cấu mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu thời gian tới của công ty sẽ phù hợp tương đối với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản của thế giới: tăng hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu đồ hộp thuỷ sản (phát triển các mặt hàng mới như đồ hộp cá ngừ hay tôm hộp), tăng tỷ trọng cá và tăng tỷ trọng thuỷ sản sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông, đông lạnh và giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Chuyển hướng cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty vì hai lẽ cơ bản: Khối lượng xuất khẩu tăng và giá xuất khẩu tăng như vậy kim ngạch có khả năng tăng lớn. Như vậy, vào đầu thế kỷ XXI, ngoài việc phấn đấu để nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu (các dạng đồ hộp tôm, cá ngừ hay sashimi....) đưa tỷ lệ này lên 25%-30% từ mức 12%-13% hiện nay, có một khả năng nữa cho việc tăng xuất khẩu thuỷ sản của công ty từ thay đổi cơ cấu sản phẩm đó là việc tăng cường xuất khẩu các thuỷ sản cao cấp ở dạng sống mà Trung Quốc (kể cả Hồng Kông ) nổi lên là một thị trường tiềm năng nhất trong thời kỳ khó khăn của khu vực hiện nay. 2.2 Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản nói chung và công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng. Tiềm năng kinh tế thuỷ sản là rất lớn, nhưng để tiếp tục duy trì và nâng cao vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế quốc dân, cần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì ngành thuỷ sản là một bộ phận có tiềm năng và vị trí lớn trong nên kinh tế quốc dân; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong công ty là không chỉ trang bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn, là một yêu cầu bức xúc hiện nay. Đặc biệt, trên thị trường thuỷ sản thế giới, yêu cầu về mặt hàng sạch sẽ, vệ sinh, được chế biến sẵn… ngày càng cao, nên có thể nói công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một trong những yêu cầu quan trọng nhất công ty nếu muốn khẳng định vị trí của mình trên thị trường thuỷ sản thế giới. 2.3 Tiếp tục đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tăng thị phần ở thị trường EU, Bắc Mỹ, tận dụng tốt thời cơ để mở rộng thị trường xuất khẩu ra toàn thế giới. Thực tế, thị trường hàng thuỷ sản thế giới xét trên tổng thể là một thị trường còn có khả năng mở rộng lớn và luôn có xu hướng cung chưa đáp ứng được cầu và như dự báo ở trên, trong thời gian trung hạn tới trọng tâm nhập khẩu thuỷ sản của thể giới vẫn tập trung vào Nhật Bản, Bắc Mỹ và EU. Nhưng nếu xét về cục diện thị trường xuất khẩu thuỷ sản của công ty thì thị trường nhập khẩu lớn nhất hiện tại là thị trường Nhật Bản (45%-50% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty ), thị trường các nước ASEAN (10%), Đài Loan (15%-20%), Trung quốc.... Từ giữa năm 1997 trở về trước, người ta đã coi khu vực Đông và Đông Nam á là khu vực thị trường thịnh vượng nhất vào đầu thể kỷ tới và xuất khẩu thuỷ sản vào đây là hết sức thuận lợi vì sự tăng lớn của nhu cầu nhập khẩu do tăng thu nhập khiến cho các nhà nhập khẩu sẵn sàng trả mức giá hấp dẫn. Song, trong những năm gần đây thị trường thuỷ sản Nhật Bản nhìn chung đã ở mức bão hoà (tuy rằng nhập khẩu trung bình thời gian qua vẫn tăng với tốc độ 10%) và đang trong thời kỳ suy thoái về kinh tế, thị trường các nước Đông á, Đông Nam á khác tạm thời trì trệ do khủng hoảng kinh tế tài chính thời gian từ 1997 trở lại đây, nhiều thị trường nhập khẩu sản phẩm của công ty là các thị trường trung gian tái xuất: Singapo đối với hầu hết các loại thuỷ sản và Đài Loan nổi lên mới đây như là người nhập khẩu chính cá ngừ đại dương của công ty Nam để xuất sang Nhật Bản...Với những đặc điểm như vậy, việc duy trì thị phần của công ty ở đây là rất khó khăn và phụ thuộc rất lớn vào cạnh tranh của các nước xuất khẩu khác ở trong vùng, đặc biệt là cạnh tranh từ Thái Lan, Inđônêxia, ấn độ và Trung Quốc trong xuất khẩu tôm mực.. Trong khi thị trường tiêu thụ nội địa thu hẹp lại và nhập khẩu giảm sút thì sự mất giá tiền tệ của đồng bạt Thái Lan và đồng Rupiát Inđônexia và đồng Ring ghít Malaixia...lại được coi như một lợi thế lớn trong cạnh tranh xuất khẩu của công ty nhất là xuất khẩu sang Nhật Bản,một thị trường cũng đang trì trệ,việc giảm giá xuất khẩu là một vũ khí lợi hại để tăng lượng bán hàng. Về hai khu vực thị trưòng thuỷ sản chính khác của thế giới là EU và Bắc Mỹ, không có lý do gì để hàng thuỷ sản của công ty không chiếm được một thị phần nào đó khi mà thế giới đang trong xu thế đang trong xu thế toàn cầu hoá. Nhất là khi công ty đã được đưa vào Danh sách 1 các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang EU (16.11.1999), và tính đến đầu năm 2004 Do vậy, dự đoán tỷ trọng xuất khẩu sang EU và Mỹ năm 2003 có thể là 10%-20% và vào năm 2005 có thể sẽ đạt mức 15-25% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của công ty . Ngoài ra, cũng cần chú ý tới các thị trường truyền thống cũ của công ty ở Đông Âu, thị trường Trung đông và Bắc Phi và các thị trường khác tuy không lớn nhưng có thể có cơ hội tốt cho xuât khẩu hàng thuỷ sản của công ty . 2.4. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Bảng 3.1 Mục tiêu xuất khẩu của công ty trong giai đoạn 2003-2005. Năm 2003 2004 2005 Giá Trị (tỷ USD) 0.23 0.26 0.3 Nguồn:Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty.. Theo dự báo thị trường thuỷ sản thế giới nếu mở rộng với tốc độ 5%/ năm do kết hợp cả tăng số lượng và xuất có khả năng đạt tới 73,3 tỷ đôla vào năm 2003 và trên 80 tỷ đôla vào năm 2005. Theo kế hoạch phát triển xuất khẩu thuỷ sản của công ty thì tốc độ tăng bình quân của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 là 15,2%, cao hơn tốc độ tăng trung bình của thế giới rất nhiều. Cũng theo kế hoạnh trên, thị phần của thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam sẽ là 3,75% năm 2005 thay vì 2% năm 2000. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được nếu công ty dựa trên thực tế về tăng xuất khẩu thuỷ sản giai đoạn 1996-2002 là 1.9%/năm, vào đường lối chính sách ưu tiên của nhà nước giành cho ngành thuỷ sản cũng như những nỗ lực của công ty để phát huy tiềm năng to lớn của công ty trong thời gian tới. 2.5. Phấn đấu tăng giá thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh. Xu hướng tăng giá quốc tế hàng thủy sản thời gian tới vẫn tiếp tục do khả năng cung cấp không thoả mãn nhu cầu, do tăng chi phí khai thác và tăng giá lao động, ngoài ra là do thay đổi cơ cấu sản phẩm thuỷ sản theo hướng tăng tỷ trọng hàng thuỷ sản ăn liền và các hàng thuỷ sản cao cấp khác... Xét trên đặc thù xuất khẩu của công ty về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu, về mức giá xuất khẩu so với giá cả trung bình của thế giới và về các tương quan khác, công ty có thể cải thiện giá xuất khẩu hàng thuỷ sản từ mức thấp hiện nay và nâng mức giá trung bình xuất khẩu hàng thuỷ sản lên ít ra cũng bằng 75%-85% mức giá xuất khẩu cùng loại sản phẩm của các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, việc tăng giá sản phẩm ở đây vẫn phải đảm bảo hàng thuỷ sản của công ty rói riêng có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế khi mà công ty muốn tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng năm. Vì vậy, trong chiến lược về giá cả việc áp chiến lược tăng giá hay giảm giá đi liền với những sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị hiếu của chế biến và có quan hệ mật thiết với dạng sản phẩm xuất khẩu, nhu cầu thị hiếu của thị trường nhập khẩu. Đối với các thuỷ sản xuất khẩu phổ biến, muốn tăng được số lượng xuất khẩu thì việc phấn đẩu để giá cả thấp vẫn có tính cạnh tranh mạnh nhất, trong khi đối với các loại thuỷ sản cao cấp và quý hiếm, chưa chắc giá cả thấp đã là hay vì đối với đặc điểm tâm lý của người tiêu thụ thuộc phần thị trường này, giá cả cao lại làm tăng giá trị của người tiêu dùng sản phẩm đó.Yếu tố quyết định để nâng được mức giá xuất khẩu thuỷ sản của công ty thời gian tới sẽ là thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, việc nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu như đồ hộp thuỷ sản hay thuỷ sản ăn liền trong tổng xuất khẩu hàng thuỷ sản, cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới để có khả năng xuất khẩu các loại thuỷ sản sống giá trị cao ...còn dạng sản phẩm sơ chế khó có thể nói tới việc tăng giá, trừ khi cung cấp không đáp ứng được nhu cầu... Tất nhiên, nghiên cứu để đạt được một chính sách giá hợp lý để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của công ty là một công việc khó khăn và phải được đầu tư thích đáng, có thể đây là một hướng đi sâu nghiên cứu trong hoạt động marketing xuất khẩu . II./ Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản ở công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . 1. Phát triển sản xuất nguyên liệu. Phát triển sản xuất nguyên liệu là yếu tố hàng đầu để tăng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Muốn tăng nhanh giá trị kim ngạch, vấn đề nguyên liệu phải được giải quyết đồng bộ, từ khâu giống, công nghệ khai thác, thu mua và bảo quản sau thu hoạch, hạ giá thành sản xuất nguyên liệu để đảm bảo có nguồn nguyên liệu phát triển ổn định và có chất lượng tốt. Phát triển sản xuất nguyên liệu phải được định hướng bằng các chương trình sản phẩm chủ lực như nhóm sản phẩm tôm, cá, nhuyễn thể, thực phẩm phối chế và đồ hộp. Phát triển sản xuất nguyên liệu từ 3 nguồn: khai thác, nuôi trồng thuỷ sản và nhập nguyên liệu. Trong nuôi trồng thuỷ sản hướng vào nuôi tôm (vì tôm là mặt hàng chủ lực); nuôi cá biển và cá nước ngọt thương phẩm, nuôi đặc thuỷ sản. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản phải trên cơ sở quy hoạch (quy hoạch vùng nuôi, sản xuất, cung ứng giống, công nghệ nuôi, sản xuất thức ăn, phòng trừ dịch bệnh, bảo vệ môi trường bền vững,..). Cơ cấu nguyên liệu khai thác trong những năm đầu vẫn chiếm tỷ trọng lớn, cần phát triển đội tàu khai thác các đối tượng có giá trị xuất khẩu cao, quan tâm đầy đủ các thiết bị, phương tiện bảo quản sau thu hoạch, khuyến khích việc nhập nguyên liệu để chế biến tái xuất. 2. Đầu tư quy hoạch phát triển sản xuất theo nhóm sản phẩm chủ yếu gắn chặt chẽ với chế biến và thị trường tiêu thụ. a/ Nuôi tôm. - Xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển công nghiệp nuôi tôm sú và các loài tôm biển khác trên tòan quốc và cho các tỉnh trọng điểm, hình thành các vùng nuôi tôm công nghiệp qui mô lớn, với công nghệ tiên tiến, bền vững về phương diện môi trường, chuyển dần từ phương thức quảng canh sang bán thâm canh và thâm canh, từ nuôi ở vùng hạ triều sang nuôi cao triều với tỷ suất đầu tư tăng dần. - Đầu tư xây dựng các dự án thuỷ lợi nước mặn lợ, phục vụ các vùng nuôi tôm bán thâm canh và nuôi công nghiệp cũng như các mô hình xen canh tôm-lúa và cáchình thức khác. - Thực hiện qui hoạch sắp xếp lại các cơ sở xuất giống tôm gắn với công nghệ sản xuất tôm giống sạch bệnh, giá thành hạ. Đồng thời, cho phép nhập tôm giống để bổ sung. Thành lập một số cơ sở công ích để nuôi vỗ tôm bố mẹ nhân tạo, phục vụ việc sản xuất giống tôm ổn định. Có chính sách trợ giá cho các cơ sỏ nuôi tôm bố mẹ và cơ sỏ sản xuất giống tôm càng. - Đầu tư cho các dự án nuôi bán thâm canh và nuôi công nghiệp tại các địa phương đã có kinh nghiệm và phong trào nuôi tôm sú - Đầu tư cho công tác quản lý môi trường nước, thường xuyên tổ chức kiểm soát chất lượng môi trường nước và nghiên cứu dự báo kịp thời dịch bệnh ở các vùng nuôi trọng điểm để giảm bớt thiệt hại cho nghề nuôi. - Xây dựng hệ thống các tổ chức khuyến ngư của Nhà nước và tổ chức tự nguyện tại các địa phương cần thường xuyên hướng dẫn và huấn luyện về công nghệ nuôi, chuyển giao công nghệ và sử dụng trang thiết bị trong nuôi tôm. - Xây dựng các cơ sở sản xuất thức ăn với công nghệ mới, tăng cường chất lượng thức ăn, giá thành hạ; kiểm tra chặt chẽ chất lượng thức ăn, tạo nên động lực canh tranh để thúc đẩy đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng. b/ Nuôi cá biển và cá nước ngọt thương phẩm. - Nhập giống và nhập công nghệ sản xuất giống nhân tạo ở qui mô công nghiệp để tạo ra một cách ổn định và chủ động nguồn cá biển giống nuôi. Trước mắt khuyến khích và tìm biện pháp nhập giống cá biển từ Trung Quốc, Thái lan, Đài Loan....thực hiện chính sách khuyền khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất giống cá biển tại Việt Nam để có khả năng sản xuất 0.8-1 triệu con giống vào năm 2005. 3. Cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thuỷ sản xuất khẩu. Ngoài việc phấn đấu giảm giá thành để có ưu thế trong cạnh tranh xuất khẩu hàng thuỷ sản thì vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với việc xuất khẩu hàng thuỷ sản của công ty, công ty có thể thấm thía điều này qua ví dụ cụ thể là trường hợp Thái lan, trở thành nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất nhất thế giới hiện nay là nhờ việc Thái Lan tập trung mọi nỗ lực của ngành thuỷ sản, cả tư nhân và nhà nước để cải tiến chất lượng hàng thuỷ sản khẩu ..Hướng xuất khẩu thuỷ sản thời gian tới của công ty là phải tăng thị phần ở liên minh Châu Âu và Bắc Mỹ , nơi mà mọi vấn đề liên quan đến chất lượng đều được qui tụ trong việc thực hiện trong tiêu chuẩn HACCP .Vì vậy , không có các nào khác là sự vươn lên của công ty cùng với sự trợ giúp về kỹ thuật ,tài chính của Nhà nước và quốc tế để cải tiến chất lường hàng thuỷ sản . 4. Xây dựng cơ cấu mặt hàng thuỷ sản hợp lý và đạt hiệu quả cao, xây dựng cơ cấu đầu tư nhằm phát huy các lợi thế so sá địa phương Theo dự báo của các nhà kinh tế thế giới, quan hệ cung cầu trong thời gian tới sẽ mất cân đối gay gắt hơn. Mức giá của phần lớn thuỷ sản sẽ có xu hướng ngày càng tăng. Tuy vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh và tăng kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản công ty cần phải thường xuyên nghiên cứu nhu cầu của thị trường thế giới; chú ý phát triển các loại thuỷ sản có chất lượng cao, nhu cầu trên thị trường thế giới đang có xu hướng tăng lên. Ngoài hải sản (tôm, cá, nhuyễn thể chân đầu và chân bụng, thực phẩm phối chế, đồ hộp thuỷ sản), chú ý phát triển các thuỷ đặc sản khác như: cua ghẹ, rong biển, hải sâm và cầu gai, ếch nuôi, cá sấu, ba ba, trai ngọc… Đây là những thuỷ đặc sản có giá trị cao và nhu cầu của thị trường thế giới đang tăng lên. 5. Về thị trường: xây dựng cơ cấu thị trường theo hướng đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng; giảm dần tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, có nhu cầu thuỷ sản lớn. Trong công tác xúc tiến thương mại và tăng cường công tác thông tin thị trường tăng cường đào tạo cán bộ thị trường và tiếp thị chuyên nghiệp, để giữ vững và ổn định thị trường truyền thống, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, đồng thời mở rộng hơn nữa các mặt hàng của công ty có khả năng phát triển để xuất ra các thị trường lớn như : Liên minh Châu Âu (EU), Mỹ, Trung Quốc...; giảm tỷ trọng các thị trường trung gian, tăng nhanh tỷ trọng các thị trường tiêu thụ trực tiếp, cụ thể là: - Đối với thị trường Nhật Bản cần tăng tỷ trọng các mặt hàng thủy sản tinh chế và hàng phối chế đóng gói nhỏ cho siêu thị, tôm sống, cá ngừ tươi và đông và các đặc sản khác, đưa tỷ trọng các mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản chiếm từ 38% đến 40% trong tổng sản phẩm xuất khẩu và giá trị kim ngạch xuất khẩu. - Đối với thị trường Bắc Mỹ và Châu á ( kể cả thị trường Trung Quốc), xúc tiến việc công nhận lẫn nhau giữa Việt Nam và Mỹ về kiểm soát và chứng nhận chất lượng hàng thủy sản; bàn để thỏa thuận cơ chế thanh toán chính thức và mở rộng thị trường chính ngạch với Trung Quốc, nhất là với các tỉnh phía Tây Nam và Đông Bắc của Trung Quốc, cố gắng đưa tỷ trọng hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Châu á từ 20% đến 22%, thị trường Bắc Mỹ từ 16% đến 18% trong tổng sản phẩm xuất khẩu; giá trị kim ngạch xuất khẩu - Đối với thị trường khối liên minh Châu Âu (EU) và một số thị trường mới khác ngoài các thị trường trên đây, cần nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm đáp ứng theo yêu cầu của các thị trường này, phấn đấu đưa tỷ trọng các mặt hàng thủy sản của công ty xuất khẩu vào EU đạt từ 12% đến 16% và vào các thị trường khác từ 8% đến 10% trong tổng sản phẩm xuất khẩu, tổng giá trị kim ngạch xuất 6. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản của công ty . 6.1 Miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản Hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của công ty và trước đây có lợi thế cạnh tranh khá lớn vì vậy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt tốc độ tăng trưởng cao trong thời gian qua . Tuy nhiên , ngày nay lợi thế cạnh tranh này đã giảm đi rất nhiều do chi phí tàu thuyền ngày càng cao , giá lao động tăng lên nhiều trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biến trong tình trạng quá lạc hậu so với trình độ chung , vì vậy để tăng cường sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất , chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu cần có chính sách thuế thoả đáng cho nên việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thuỷ sản từ 15/2/1998 để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng thuỷ sản có thể tăng cường cạnh tranh về mặt giá cả . Còn đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu thì nên hoàn trả 100% thuế nhập khẩu , và đề nghị Nhà nước nên đầu tư đổi mới trang tiết bị cho chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu thông qua qui định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khíc các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị .. Việc áp dụng linh hoạt các chính sách thuế có tác động tích cực đối với việc tăng cường sức mạnh cạnh tranh xuất khẩu của hàng thuỷ sản công ty, khuyến khích mở rộng thị trường xuất khẩu và đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. 6.2 Cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quĩ hỗ trợ sản xuất , xuất khẩu thuỷ sản. Vấn đề tài trợ xuất khẩu bao trùm toàn bộ các biện pháp tài chính tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng thuỷ sản , đây là một trong nhưng yếu tố qyết định thành công của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản nhu cầu tài trợ xuấ khẩu bao gồm 1/ tài trợ trước khi giao hàng (vốn cho đầu vào sản xuất chế biến hàng xuất khẩu (mua nguyên liệu và máy móc thiết bị phụ tùng cần thiết , nhu cầu về vốn này rất quan trọng do đặc điểm của ngành thuỷ sản là sản xuất nguyên liệu có tính thời vụ cao và nhiều loại nguyên liệu có tính cần thiết cho chế biến lại phải nhập khẩu ..) ;2/tài trợ trong khi giao hàng ;3./tín dụng sau giao hàng 7. Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Một yếu tố rất quan trọng và không thể thiếu được đó là yếu tố con người. Việc phát triển nguồn nhân lực cho công ty thông qua việc nâng cao trình độ văn hoá và tay nghề, đào tạo mới và đào tạo lại cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của cơ chế thị trường có điều tiết là chìa khoá cho sự thành công của chiến lược xuất khẩu thuỷ sản thời gian tới ,bởi vì các biện pháp khuyến khích xuất khẩu của công ty ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn mới chỉ là một vế của phương trình xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng được mọi sự ưu đãi có thể chào bán được các sản phẩm có tính cạnh tranh coa để mở rộng thị trường xuất khẩu lại thuộc về bản thân công ty cũng như các nỗ lực chủ quan. Đào tạo nhân lực không chỉ là mối quan tâm ở mức doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của quốc gia cũng như quốc tế . Ngoài ra , trợ giúp kỹ thuật và tài chính của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản ở công ty Kết luận Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế cả nước, ngành thuỷ sản đã và đang triển khai thực hiện nghị quyết TW VII, cùng với việc tổ chức thực hiện nghị quyết TW V, chuyển dịch cơ cấu một cách hợp lý và có hiệu quả nhất, nhằm cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, nâng cao năng lực đánh bắt hải sản xa bờ, phát triển nuôi trồng các mặt hàng có giá trị lớn trong xuất khẩu, chuyển đổi từ xuất khẩu nguyên liệu sang xuất khẩu thành phẩm, từng bước tiếp cận với các siêu thị khó tính nhất ( như Tây Bắc Âu, Bắc Mỹ). Phát triển Khoa học Công nghệ, hình thành một lực lượng sản xuất có ý nghĩa quyết định đến toàn bộ sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá ngành thuỷ sản, góp phần đưa sự nghiệp đổi mới của tích cực của các ngành liên quan. Tất nhiên muốn thực hiện được các mục tiêu trên, ngoài những cố gắng nỗ lực của ngành, một trong những yếu tố quyết định khác là sự quan tâm và ưu đãi của Nhà nước cũng như sự hỗ trợ và hiệp lực tích cực của các ngành liên quan đối với công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An . Hy vọng rằng trên cơ sở những thành tích đã đạt được trong thời gian vừa qua, công ty sẽ tiếp tục đa dạng hoá các sản phẩm cho phù hợp với từng thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng hàm lượng chất xám của sản phẩm, tăng cường tiếp thị để tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm chủ yếu ở các thị trường chính, vươn lên chiếm lĩnh thị trường đối với các mặt hàng chủ lực có nhiều tiềm năng. Điều cuối cùng là phải nâng cao được hiệu quả của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và của công ty cổ phần chế biến và xuất nhập khẩu thủy sản Đại An nói riêng. tài liệu tham khảo I/ sách: Đoàn Ngọc Cảnh. “Vấn đề an ninh ở khu vực Đông Nam á”. Nxb Chính trị quốc gia, 2001. Tô Xuân Dân - Đỗ Đức Bình. “Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế - Cơ hội và thách thức”. Đại học Kinh tế quốc dân xuất bản,2002. Tô Xuân Dân - Vũ Chí Lộc. “Quan hệ kinh tế quốc tế”. Nxb Hà Nội, 2002. Bùi Xuân Lưu, Giáo trình Kinh tế ngoại thương - Đại học Ngoại Thương, nhà xuất bản Giáo dục,2003. Bộ Thuỷ sản – “Phát triển kinh tế hải sản và các giải pháp phát triển kinh tế thời kỳ mới 2002” II/ báo: 1. Báo “Tin tức” năm 2001-2002. 2. Báo “Tin tức buổi chiều” năm 2003 3. "Thời báo kinh tế Việt Nam" 7 tháng đầu năm 2004. 4. Báo “Đầu tư” các số 2001-2002. 5. Báo “Thương mại” - các số 2001. 6. “Thông tin thương mại thuỷ sản” các số 2001-2003. III/ tạp chí: 1. “Những vấn đề kinh tế thế giới” số: 4/2002, 6/2003, 5/2002 2. “Kinh tế và phát triển” số: 5/2002, 7/2003, 9/2003. 3. “Nghiên cứu kinh tế” số: 24/2002. 4. Tạp chí “Thương mại” - các số 2002-2003. 5. Tạp chí “Kinh tế thế giới” các số 2003.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0519.doc
Tài liệu liên quan