Là một doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thành lập nhưng nguồn vốn ngân sách cấp và bổ sung là rất nhỏ bé chưa tương xứng với khả năng hiện hành của Xí nghiệp. Theo chế độ, mỗi doanh nghiệp được đảm bảo tối thiểu 30% vốn lưu động, nhưng do chưa có nguồn vốn để cung cấp nên không phải doanh nghiệp nào cũng được cung cấp đầy đủ, trong khi có các doanh nghiệp thừa vốn lại khó điều đến các doanh nghiệp thiếu vốn. Vì thế nhiều doanh nghiệp Nhà nước, mà trong đó có Xí nghiệp xây lắp điện đang phải đối phó với tình trạng thiếu vốn lưu động nghiêm trọng. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động hoàn toàn không chỉ do ngân sách không đảm bảo được mà cái chính là do các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau dẫn đến tình trạng lưu động vốn thanh toán trong các quay vòng luẩn quẩn nên đã làm cho tình trạng tài chính của các doanh nghiệp phức tạp, nợ nần dây dưa, thiếu vốn lưu động nghiêm trọng.
Theo Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/91 về chế độ thu sử dụng vốn NSNN với các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách Nhà nước đều phải nộp một khoản thu sử dụng vốn từ 3,6% - 4,8%/ năm tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, số tiền thu sử dụng vốn trên được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, một một số ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay một số các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn kinh doanh trầm trọng, khả năng tích luỹ nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước chưa cao, lợi nhuận sau thuế còn ít, nhu cầu bổ sung vốn còn lớn, do vậy không nên thu khoản thu này và thực tế hiện nay tổng số tiền thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp Nhà nước vào ngân sách Nhà nước hàng năm không đáng kể, bỏ khoản thu này doanh nghiệp Nhà nước sẽ có thêm điều kiện tự tích luỹ và phát triển thêm vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có thể nói từ những lí do này việc bỏ khoản thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là hoàn toàn hợp lý và là một giải pháp cực kì quan trọng để tháo gỡ tình hình thiếu vốn kinh doanh đang diễn ra ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1688 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhăm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở Xí Nghiệp xây lắp điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.Tổng vốn.
91.334
5.802.375
2.Vốn lưu động.
84.378
1.965.407
3.Vốn cố định.
6.956
3.836.968
4.Vốn chủ sở hữu.
5.328
2.775.280
5.Tổng nợ.
86.006
3.027.095
6.Doanh thu.
39.871
4.070.318
7.Doanh thu thuần.
39.871
4.070.205
8.Lợi tức thuần từ hoạt động sxkd.
197
241.676
9.Lợi tức trước thuế.
115
258.006
10.Lợi tức sau thuế.
86
175.678
11.Hiệu quả sử dụng vốn(6/1).
0,437
0,701
12.Hệ số doanh lợi VKD(8/1).
0,002
0.042
13.Hệ số doanh lợi doanh thu thuần(8/7).
0,005
0.059
14.Tỷ suất lợi nhuận VCSH (10/4).
0,190
0,063
15.Sức sản xuất vốn cố định (7/3).
5,732
1,061
16.Sức sinh lời vốn cố định (9/3).
0,017
0,067
17.Suất hao phí vốn cố định (3/8).
35,310
15,876
18.Hàm lượng vốn cố định (3/6).
0,174
0,943
19.Sức sinh lời của vốn lưu động (8/2).
0,003
0.123
20.Số vòng quay (7/2).
0,473
2,071
21.Số ngày luân chuyển (360/(20)).
761
174
22.Sức sản xuất vốn lưu động (6/2).
0,981
2,071
23.Khả năng thanh toán hiện thời (2/5).
0,942
0,649
24.Hệ số nợ (5/1).
2,116
0,522
25.Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động (2/7).
0,483
Từ Biểu 14 ta thấy, năm 2001 hầu hết các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp Xây lắp Điện là kém hơn các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của Công ty Điện lực I. Điều này có nghĩa là, trong năm 2001 Xí nghiệp là một trong những đơn vị của Công ty Điện lực I sử dụng vốn kém hiệu quả. Vì vậy, trong những năm tiếp theo Xí nghiệp cần phấn đấu hơn nữa, để quản lý và sử dụng vốn của mình một cách có hiệu quả nhất, góp phần khẳng định vị trí của mình ở Công ty Điện lực I và vị thế của mình trên thị trường.
Đánh giá tổng quát hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của Xí nghiệp Xây lắp Điện
Như bất kỳ một doanh nghiệp nào, khi sản xuất kinh doanh thì mục tiêu đầu tiên bao giờ cũng là lợi nhuận. Và lợi nhuận chính là thước đo để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn có được lợi nhuận lớn thì không thể không tính đến việc sử dụng vốn cố định và vốn lưu động một cách hợp lý, tiết kiệm. Thông qua việc phân tích đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và cụ thể là thực trạng sử dụng vốn cố định và vốn lưu động, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét chung về tình hình sử dụng vốn của Xí nghiệp Xây lắp Điện trong những năm gần đây.
1. Những mặt tích cực trong việc sử dụng vốn kinh doanh
Xí nghiệp đã cố gắng để đưa ra những biện pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả nguồn vốn do Ngân sách Nhà nước cấp cũng như vốn tự bổ sung. Điều đó được thể hiện qua việc Xí nghiệp đảm bảo lợi nhuận luôn dương trong bốn năm liên tiếp, tăng dần nguồn vốn chủ sở hữu, điều tiết dần cơ cấu nợ phải trả, tìm cách sử dụng tài sản hợp lý hơn và đầu tư tài sản cố định bằng nguồn vốn chủ sở hữu.
Đứng trước những yêu cầu thách thức của cơ chế thị trường, Ban lãnh đạo Xí nghiệp đã nhận thức đúng đắn và đề ra phương hướng, con đường phát triển cho Xí nghiệp một cách hợp lý. Xí nghiệp rất quan tâm đến đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên. Xí nghiệp luôn khuyến khích công nhân làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, hàng năm Xí nghiệp có tổ chức các cuộc thi nâng bậc, nâng lương... Để công nhân viên thêm hăng say lao động. Ban lãnh đạo của Xí nghiệp luôn quan tâm đến thu nhập của người lao động, giúp cho họ có được một mức lương ổn định để họ yên tâm là việc cũng như có thể nâng cao cao mức sống của gia đình (mức thu nhập trung bình của lao động là 1.261.000/tháng).
Xí nghiệp Xây lắp Điện là đơn vị luôn làm trọn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Xí nghiệp luôn nộp đúng, nộp đủ thuế, góp phần không nhỏ vào việc tăng thu cho ngân quỹ quốc gia. Nguồn thu này đã góp ích rất nhiều cho xã hội, cho tăng trưởng chung của nền kinh tế quốc dân, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.
Nhờ sự linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo của ban giám đốc và nhờ có một đội ngũ công nhân viên có năng lực nên Xí nghiệp đã dần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường, Xí nghiệp đã lập được những kế hoạch huy dộng, sử dụng vốn lưu động và vốn cố định một cách tiết kiệm. Xí nghiệp đã làm tốt công tác thanh toán với khách hàng nên khoản phải thu đã giảm, vì vậy tăng được nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh.
2. Những bất hợp lý trong việc sử dụng vốn
Qua phân tích thực trạng sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp đã cho thấy mặc dù trong thời gian qua đã liên tục có những cố gắng vượt bậc, nhưng việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của Xí nghiệp vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém.
2.1 Những bất hợp lý trong việc sử dụng vốn cố định
Như đã trình bày trong phần phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định, mặc dầu trong những năm gần đây có sự tăng lên về vốn cố định nhưng hiệu suất sử dụng vốn cố định lại tăng giảm thất thường. Điều này cho thấy đồng vốn đầu tư vào tài sản cố định có phần chưa hợp lý và chưa được sử dụng có hiệu quả tối đa.
Thực tế hiện nay cho thấy, tài sản cố định của Xí nghiệp vừa ít, vừa lạc hậu, nguồn tài trợ cho tài sản cố định chủ yếu là do Công ty bổ sung. Đây cũng là vấn đề cần quan tâm, vì nếu cứ trông chờ vào nguồn do Công ty bổ sung thì sẽ không bao giờ có được tài sản cố định mang tính chất cộng nghệ hiện đại, đáp ứng được yêu cầu phục vụ thi công các công trình với hiệu quả cao. Nói tóm lại, nguyên nhân của tình trạng ít ỏi, chậm đổi mới và hiện đại hoá tài sản cố định trong Xí nghiệp là do thiếu vốn và do có một cơ cấu nguồn vốn bất hợp lý.
2.2. Những bất hợp lý trong sử dụng vốn lưu động
Lượng vốn bằng tiền là quá nhỏ (năm 1998 là 2.150 triệu đồng chiếm tỷ trọng 2,79% nguồn vốn, năm 1999 là 1.308 triệu đồng chiếm tỷ trọng 1,39% nguồn vốn, năm 2000 là 2.161 triệu đồng chiếm 3,12% nguồn vốn, năm 2001 là 2.420 triệu đồng chiếm 2,650% nguồn vốn), không đáp ứng được nhu cầu về vốn lưu động của Xí nghiệp.
Cơ cấu vốn của Xí nghiệp còn chưa hợp lý, có sự chênh lệch rất khác biệt giữa các nguông huy động. Vay ngắn hạn rất ít, nợ dài hạn thì hoàn toàn không có. Nguồn huy động tập trung chủ yếu vào tín dụng thương mại làm cho hệ số nợ lên rất cao, dẫn đến Xí nghiệp khó lòng có thể tiếp tục huy động vốn bằng vay nợ, và nếu vay được thì mức độ rủi ro rất cao và có thể mất quyền tự chủ về tài chính.
Tỷ lệ vốn bị chiếm dụng vẫn cao, khoản phải thu của Xí nghiệp tăng lênlà do Xí nghiệp chưa có kế hoạch giám sát chung một cách chặt chẽ, chưa có kế hoạch phân bổ trả nợ đều trong năm và giữa các năm. Nhưng thực ra là do Xí nghiệp ngày càng mở rộng quan hệ với khách hàng nên cũng không tránh khỏi. Xí nghiệp cũng chưa xác định chính xác và đầy đủ các nhu cầu vốn, và khâu quản lý vốn chưa thật hoàn chỉnh. Do đó, làm vốn bị ứ đọng ở một số khâu quá lớn (hàng tồn kho) kế hoạch phân bổ vốn mới chỉ dừng lại ở cả năm chứ chưa lên một kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn. Các nguyên nhân này dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Xí nghiệp là rất thấp.
Với những tồn tại này đòi hỏi trong năm tới Xí nghiệp phải có những giải pháp, hướng đi cụ thể để không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
3. Nguyên nhân
Qua những đánh giá về mặt tích cực, những bất hợp lý trong việc sử dụng vốn như đã trình bày ở trên, có rất nhiều nguyên nhân. Nhận biết và xem xét những nguyên nhân này gắn với điều kiện, tình hình thực tế của quá trình sản xuất kinh doanh sẽ tìm ra hướng khắc phục những bất hợp lý và phát huy những mặt tích cực.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, môi trường kinh doanh trong những năm gần đây có nhiều biến động. Thị trường xây dựng cơ bản ngày càng có sự cạnh tranh gay gắt. Chế độ quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều khúc mắc, có quá nhiều văn bản nội dung chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước vẫn chưa được hưởng ưu đãi do đóng vai trò chủ đạo mang lại.
Thứ hai, phải kể rằng Xí nghiệp là một đơn vị hạch toán phụ thuộc, trực thuộc Công ty Điện lực I. Do vậy, Công ty với tư cách là cơ quan chủ quản đẫ tiến hành đầu tư cho hoạt động của Xí nghiệp. Trong công tác huy động vốn, Công ty đã đầu tư cho Xí nghiệp bằng việc khống chế mức vay ngân hàng ở hạn mức 1 tỷ đồng. Chính vì thế mà nguồn vay ngắn hạn từ ngân hàng của Xí nghiệp rất thấp.
Nguyên nhân chủ quan
Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan gây ảnh hưởng đến việc bảo toàn và sử dụng vốn của Xí nghiệp, nhưng chúng ta chỉ tập trung xem xét ở một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Đối với vốn cố định. Nguyên nhân của những bất hợp lý trong sử dụng vốn cố định của Xí nghiệp Xây lắp Điện chủ yếu là do một cơ cấu nguồn vốn không hợp lý. Trong cơ cấu nguồn vốn của Xí nghiệp vốn chủ sở hữu chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ, còn nợ dài hạn là hoàn toàn không có, trong khi nguồn vay này là rất cần thiết với bất kỳ một doanh nghiệp nào, để phục vụ cho nhu cầu đầu tư thay thế thiết bị đã lạc hậu, cải tạo đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ. Kết quả của một kết cấu nguồn vốn bất hợp lý như thế này của Xí nghiệp, một mặt là do nguồn vốn ngân sách đầu tư cho Xí nghiệp quá ít, mặt khác là khi xét chi phí bỏ vốn ra để tiến hành vay dài hạn thì tính hiệu quả lại không có vì lãi suất vay dài hạn rất cao, và khi vay đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. Mà thực tế thì Xí nghiệp không có đủ tài sản để thế chấp nếu như vay dài hạn. Hơn thế nữa, ngoài những sự rườm rà về thủ tục pháp lý thì Xí nghiệp sẽ còn phải chấp nhận để ngân hàng tham gia vào kiểm soát nguồn vốn, đó là điều mà không có bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn.
Đối với vốn lưu động.
Như trên đã nói, là loại hình Xí nghiệp xây lắp, nên sản phẩm của Xí nghiệp không giống các ngành khác. Thứ nhất nó là sản phẩm mang tính chất liên ngành. Thứ hai, nó được sản xuất trong một thời gian dài. Thứ ba giá thành của sản phẩm rất cao. Nhưng không vì thế mà Xí nghiệp làm ít sản phẩm, Xí nghiệp luôn liên tục mở rộng thị trường bằng phương pháp đấu thầu hoặc chủ nhiệm công trình. Bên cạnh đó Xí nghiệp phải hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Tuy nhiên, giới hạn về vốn chủ sở hữu là quá nhỏ bé và không thể đảm bảo được nhu cầu về vốn. Do vậy, giữa Xí nghiệp và bạn hàng cũng như với nhà cung ững đã tiến hành phương thức tín dụng thương mại. Vì giá thành một công trình xây lắp thường rất cao và công tác nghiệm thu, quyết toán chấm nên nợ phải trả, khoản người mua đặt trước và khoản phải thu của Xí nghiệp là rất lớn.
Nhu cầu vốn lưu động phải đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách liên tục, nhưng đồng thời phải đảm bảo tiết kiệm. Có như vậy mới thúc đẩy hoạt động sản xuất và phương thức kinh doanh của Xí nghiệp. Nhưng vấn đề là với thực trạng biến động vốn phức tạp như hiện nay Xí nghiệp chưa xác định được phương pháp tính toán nào để nhu cầu vốn lưu động dự kiến sẽ sát nhất với nhu cầu vốn lưu động thực tế của Xí nghiệp.
Tìm hiểu rõ những nguyên nhân, phân tích những tác động và tác động của từng nguyên nhân đến việc bảo toàn và sử dụng vốn của Xí nghiệp. Từ đó có những biện pháp nhằm bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề cần thiết và cấp bách đối với Xí nghiệp. Do đó, đòi hỏi phải được sự quan tâm của tất cả các bộ phận, các khâu trong quá trình kinh doanh. Không nên tách rời những nguyên nhân, cần đặt nó trong mối quan hệ biên chứng ràng buộc lẫn nhau trên cơ sở lý luận khoa học kết hợp với điều kiện thực tế nhằm đề ra những biện pháp tốt nhất.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của xí nghiệp xây lắp điện
Căn cứ vào mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội của nước ta và những nguyên tắc cơ bản của chính sách định hướng phát triển kinh tế. Thì công nghiệp điện là một trong những ngành ưu tiên để phục vụ cho quá trình CNH – HĐH đất nước, để đảm bảo xây dựng thắng lợi CNXH. Xí nghiệp xây lắp điện tuy chỉ là đơn vị trực thuộc Công ty điện lực I, mặc dù thời gian thành lập và hoạt động chưa lâu, nhưng Xí nghiệp đã xác định rõ nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của Xí nghiệp phải gắn liền với định hướng chung của Đảng và Nhà nước. Trước tình hình đặt ra như vậy, việc bảo toàn, phát triển, và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn là điều tối quan trọng.
Như ở chương II đã phân tích, trong những năm 1998,1999, 2000 và 2001, công tác quản lí và sử dụng vốn của Xí nghiệp đã có những tiến bộ đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn còn không ít những mặt hạn chế cần phải khắc phục. Đây là những hạn chế rất khó tránh khỏi khi hoạt động trong lĩnh vực này. Tuy nhiên nếu không khắc phục được những hạn chế này thì tất yếu dẫn đến tình trạng hiệu quả kinh doanh của Xí nghiệp giảm sút, Xí nghiệp sẽ khó có thể đứng vững và tồn tại trong thị trường. Do đó, một vấn đề đang được đặt ra đối với Xí nghiệp hiện nay là phải tìm ra nhưng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, sử dụng tiết kiệm và sử dụng với hiệu quả kinh tế cao nhất các nguồn vốn hiện có, các tiềm năng về lao động và các lợi thế khác của Xí nghiệp. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.
Tăng cường đầu tư mới tài sản cố định, đặc biệt là đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị phục vụ trực tiếp cho sản xuất, thi công
Thực tế hiện nay tài sản cố định của Xí nghiệp vừa ít, vừa lạc hậu, đây là kết quả của việc không chú trọng đầu tư mới, hiện đại hoá tài sản cố định. Do vậy, mà nó ảnh hưởng đến chất lượng các sản phẩm, tiến độ thi công các công trình và khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp.
Như đã phân tích trong chương II, nguyên nhân của việc chậm đổi mới và hiện đại hoá tài sản cố định trong Xí nghiệp là do thiếu vốn đầu tư. Những năm qua Ngân sách Nhà nước đang dần cắt giảm để tăng cường tính năng động, tự chủ cho các doanh nghiệp. Nhu cầu vốn thì rất lớn, nhất là vốn đầu tư cho đổi mới, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng việc vay vốn ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác gặp nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất và Xí nghiệp gặp phải là lãi suất cao, trong khi thị trường kinh doanh gặp nhiều khó khăn – không đảm bảo cho việc trả nợ. Vì vậy, Xí nghiệp chỉ có thể vay những khoản nhỏ, đủ để cải thiện chút ít tình hình sản xuất, do đó, chưa tạo ra năng lực sản xuất mới.
Để giải quyết khó khăn trên Xí nghiệp có thể tạo vốn bằng hình thức thuê mua. Vì trong điều kiện thị trường vốn chưa phát triển, thuê mua là hình thức dễ thực hiện hơn, nhất là đối với các doanh nghiệp nhỏ, khó có khả năng vay tín dụng dài hạn để đầu tư tài sản cố định. Khi tạo vốn bằng hình thức thu mua đã bảo đảm tài trợ linh hoạt nhu cầu vốn, cho phép doanh nghiệp thực hiện đầu tư kịp thời mà không phải đảo lộn cơ cấu tài chính,không cần có các bảo lãnh như khi vay mua và nó không làm tăng hệ số nợ của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp có cơ hội tốt hơn để huy động các nguồn vốn khác khi cần thiết. Tín dụng thuê mua còn có tác dụng như một biện pháp hạn chế rủi ro, lạc hậu kĩ thuật cho doanh nghiệp.
Như đã phân tích ở trên, là loại hình Xí nghiệp xây lắp quy mô nhỏ việc đầu tư quá nhiều vào máy móc thiết bị cũng không phải là tốt, vì Xí nghiệp có thể hoạt động thuê mua, phục vụ cho từng công trình. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì Xí nghiệp vẫn phải có trong tay một số máy móc thiết bị mới, hiện đại để không chỉ phục vụ cho các công tác thi công các công trình của Xí nghiệp mà còn phục vụ cho các hoạt động của các đơn vị phụ trợ của Xí nghiệp. Vì vậy Xí nghiệp cần phải cố gắng hơn nữa trong việc tìm tòi, nghiên cứu, xây dựng các phương án đầu tư mở rộng sản xuất, xây dựng được những phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả để thu hút được vốn đầu tư của nhà nước và các tổ chức tín dụng.
Một điều rất quan trọng trong đầu tư đổi mới công nghệ đó là đánh giá được hiệu quả của việc đầu tư đổi mới công nghệ đó bên cạnh việc phải lựa chọn công nghệ phù hợp với yêu cầu thi công. Nói tóm lại là việc đầu tư đó phải mang lại lợi ích kinh tế cho Xí nghiệp, có như vậy thì số vốn đầu tư cho tài sản đó mới có hiệu quả và Xí nghiệp mới nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Có rất nhiều chỉ tiêu hiệu quả để đánh giá hiệu quả đầu tư đổi mới công nghệ. Sau đây em xin nêu ra ba chỉ tiêu quan trọng:
Chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng (net present value - NPV) là số tiền mà chủ đầu tư có được tính tại thời điểm đầu tư sau khi đã lấy tất cả các khoản thu khấu trừ đi tất cả các khoản chi.
NPV =
Trong đó:
Bi : các khoản thu năm i do công nghệ mang lại
Ci : các khoản chi năm thứ i
n : tuổi thọ của công nghệ
r : suất thu lợi tối thiểu do nhà đầu tư xác định trên cơ sở tình hình kinh doanh thực tế trên thị trường.
Nếu NPV > 0 thì nên đầu tư công nghệ này.
Chỉ tiêu suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate of Return - IRR) là lãi suất chiết khấu r* mà ứng với nó giá trị hiện tại ròng bằng không. Tức là IRR là nghiệm của phương trình:
NPV = = 0
Nếu vốn đầu tư là vốn vay với lãi suất r thì khi r = r* = IRR thì chủ đầu tư chỉ hoà vốn và ngược lại nếu r < IRR thì việc đầu tư công nghệ thì có lãi.
Ngoài ra khi quyết định đầu tư công nghệ mới Xí nghiệp nên đưa ra nhiều phương án và tính toán NPV, IRR cho mỗi phương án. Sau đó lựa chọn phương án nào có NPV (IRR) lớn hơn.
Trong trường hợp NPV (IRR) của các phương án bằng nhau thì cần tính toán thêm chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu thời hạn thu hồi vốn đầu tư (T) là chỉ tiêu phản ánh thời gian cần thiết để thu hồi vốn đầu tư. T là nghiệm của phương trình
=
Phương án được chọn là phương án có T nhỏ nhất.
Ngoài ra, có một số trường hợp khi đầu tư thiết bị công nghệ mới không thể tính riêng các khoản thu do công nghệ đó mang lại để so sánh với chi phí bỏ ra, làm cơ sở để quyết định có đầu tư hay không. Trong trường hợp này Xí nghiệp có thể so sánh trực tiếp mức độ tiết kiêm nhân công, thời gian rút ngắn tiến độ thi công công trình so với các phương án công nghệ khác.
Giải pháp này có ưu điểm là tăng năng lực sản xuất thi công nâng cao chất lượng sản xuất thi công các sản phẩm, tạo cho Xí nghiệp một vị thế vững chắc phù hợp với chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước trong tiến trình đổi mới đất nước. Nhưng hạn chế của giải pháp này là thiếu vốn dẫn đến phải đổi mới, hiện đại hoá tài sản cố định trong một thời gian dài.
Nâng cao tốc độ chu chuyển vốn
Thực trạng ở Xí nghiệp xây lắp điện hiện nay lượng hàng tồn kho luôn cao và có xu hướng gia tăng. Điều này một mặt chứng tỏ Xí nghiệp đang có nhiều việc làm cho người lao động, nhưng mặt khác nó lại thể hiện sự kém hiệu quả trong quá trình hoạt động, khi mà lượng hàng tồn kho tăng tập trung vào chi phí sản xuất kinh doanh dở dang. Rõ ràng là nó làm cho chi phí sử dụng vốn tăng lên, nguồn vốn tồn đọng lớn, trong khi nhu cầu vốn lưu động cho kinh doanh lại bị thiếu trầm trọng.
Để nâng cao tốc độ chu chuyển vốn ta xem xét một số chỉ tiêu:
Số vòng quay VLĐ =
Khả năng thanh toán hiện thời =
Khả năng thanh toán nhanh =
Như vậy, để nâng cao tốc độ chu chuyển vốn vấn đề đặt ra là làm sao chúng ta tăng được tổng doanh thu, tăng tài sản lưu động và giảm nợ ngắn hạn. Vì vậy Xí nghiệp cần phải quan tâm giải quyết các vấn đề sau:
Trong quá trình hoạt động kinh doanh Xí nghiệp không nên hoạt động đơn lẻ mà tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan chủ quản cấp trên, của các cơ quan chuyên môn như Tổng công ty điện lưc, Công ty điện lực I, hiệp hội các nhà thầu... Đồng thời thiết lập các mối quan hệ vững chắc với khách hàng, bạn hàng và đặc biệt với ngân hàng. Xử lý nhanh các thiết bị máy móc đã cũ, các tài sản cố định chờ thanh lý, đây là một trong những biện pháp nhằm giải quyết ứ đọng vốn qua đó tăng hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp. Ngoài ra, việc thanh lý tài sản cố định sẽ còn giúp cho Xí nghiệp bổ sung vốn vào sản xuất kinh doanh giải quyết một phần tình trạng thiếu vốn.
Chỉ đạo thi công nhanh, dứt điểm từng hạng mục công trình rút ngắn thời gian xây dựng để nhanh chóng có được nguồn vốn do chủ đầu tư thanh toán theo từng hạng mục công trình, đồng thời nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Hiệu quả của việc rất ngắn thời gian xây dựng được thể hiện như sau:
Rút ngắn thời gian xây dựng, sớm bàn giao công trình sẽ mang lại hiệu quả do vốn đầu tư sớm dược thu hồi:
H = V. []
Trong đó:
r : Suất hao phí vốn do Xí nghiệp tính toán
V: Vốn đầu tư thi công công trình hoặc hạng mục công trình theo hợp đồng
Tdm : Thời gian thi công định mức
Ttt : Thời gian thi công thực tế
H: Phần chi phí vốn giảm được do rút ngắn thời gian sử dụng vốn cho thi công
Rút ngắn thời gian xây dựng tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động tiết kiệm được một lượng vốn lưu động trong thi công một công trình là:
DV = [Ttt - Tdm]
Trong đó:
DV: lượng vốn lưu động tiết kiệm được một năm do đẩy nhanh tiến độ thi công.
Ttt, Tdm : thời gian thi công thực tế và thời gian thi công định mức.
Thực tế quản lý và sử dụng vốn trong năm 2001 cho thấy Xí nghiệp bị chiếm dụng một lượng vốn quá lớn.
Đầu năm là 15.346 triệu đồng, chiếm 23,412% tổng số vốn lưu động.
Cuối năm là 12.385 triệu đồng, chiếm 14,678% tổng số vốn lưu động.
Điều này chứng tỏ vốn lưu động của Xí nghiệp bị ứ đọng trong khâu lưu thông là rất lớn. Lượng vốn này không những không sinh lãi mà còn làm giảm vòng quay của vốn.
Nguyên nhân bị chiếm dụng vốn là do hiện tượng thiếu vốn khá phổ biến hiện nay, đồng thời khi có quan hệ làm ăn Xí nghiệp không có sự lựa chọn, đánh giá đúng đắn về khả năng tài chính của đơn vị bạn.
Để hạn chế lượng vốn bị chiếm dụng Xí nghiệp cần triệt để thực hiện phương châm thanh toán nhanh nhằm không gây ứ đọng vốn. Thực hiện phương châm này Xí nghiệp cần thực hiện các hoạt động cụ thể sau:
Trong quá trình ký kết hợp đồng với bạn hàng Xí nghiệp cần đánh giá khả năng tài chính của họ, để tránh được rủi ro có thể xẩy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng, cụ thể:
+ Bên A (chủ đầu tư) phải ứng trước một khoản tiền trên 10% giá trị hợp đồng đã ký.
+ Trong quá trình thực hiện hợp đồng bên A cần thực hiện các điều khoản. Thực hiện nghiêm túc việc nghiệm thu công trình khi hợp đồng đã thực hiện xong và quy định mức phạt từ 5 – 10% giá trị hợp đồng cho việc chậm thanh toán khi thời hạn thanh toán không đúng như đã ký kết hợp đồng.
+ Trường hợp cùng một lúc thực hiện nhiều hợp đồng thi công, Xí nghiệp cần thu thập các thông tin về chủ đầu tư qua đó phân tích xem xét chủ đầu tư nào có khả năng thanh toán nhanh thì ưu tiên thi công dứt điểm công trình đó.
- Về phía Xí nghiệp cần nhanh chóng bàn giao công trình cho chủ thầu sau khi công trình hoàn thành và sau khi đã được nghiệm thu, Xí nghiệp cần nhanh chóng tiến hành biên bản kiểm nghiệm và yêu cầu chi trả. Như vậy, sau khi kết thúc giai đoạn sản xuất vốn lưu động của Xí nghiệp đã chuyển sang lĩnh vực thanh toán.
Để thu hồi công nợ, Xí nghiệp có thể áp dụng các hình thức thanh toán như: thanh toán bằng tiền, thanh toán bằng hiện vật, hoặc thanh toán bằng máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu. Việc thanh toán bằng nguyên vật liệu đem lại nhiều lợi ích, Xí nghiệp có thể sử dụng nguyên vật liệu trong thi công, nhờ sử dụng nguyên vật liệu này mà Xí nghiệp giảm được chi phí mua, chi phí vận chuyển bốc dỡ, chi phí kho bãi, chi phí dự trữ bão quản... Như vậy, sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Ngoài ra, để thu hồi công nợ còn có thể dùng phương pháp bán nợ cho ngân hàng hoặc các công ty tài chính.
Phải nói rằng với đặc điểm nhiệm vụ kinh doanh của Xí nghiệp thì việc nâng cao tốc độ chu chuyển vốn là khó. Tuy nhiên, điều này vẫn có thể được cải thiện nếu Xí nghiệp giải quyết tốt các vấn đề trên và Xí nghiệp quan tâm hơn nữa đến việc xây dựng phương án, chương trình kinh doanh cụ thể, thậm chí cụ thể đối với từng công trình xây dựng. Không phải chỉ riêng Xí nghiệp mà đối với đa số các doanh nghiệp, khi xây dựng phương án kinh doanh, mới chỉ chú trọng dến việc trình bày những kết quả chính bản thân phương án dự định đầu tư, mà chưa chú ý đến việc đặt phương án đó trong mối quan hệ chặt chẽ với những hoạt động khác của Xí nghiệp, với những dự án khác. Vì vậy, đôi khi một dự án chưa thể hiện rõ tác động của nó đến sự tăng trưởng và triển vọng hoạt động của Xí nghiệp. Do đó, một trong những yêu cầu đặt ra để đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động kinh doanh là phải thể hiện được kết quả tổng hợp của Xí nghiệp. Điều đó có nghĩa là, khi tiến hành tham gia một hoạt động xây dựng nào, Xí nghiệp cần phải xem xét một cách tổng quát đến nguồn vốn sẽ huy động, các chi phí sẽ bỏ ra, dự kiến thời gian xây lắp, các công tác về quyết toán, thanh toán công trình, và một vấn đề cũng rất quan trọng, đó là phải nâng cao hơn nữa chất lượng người lao động mà lực lượng công nhân xây lắp trực tiếp chiếm vị trí chủ đạo. Ngoài lực lượng lao động của mình, Xí nghiệp có thể thuê lao động thời vụ, nhưng lực lượng này cũng cần có sự quản lý chặt chẽ về thời gian và về chất lượng lao động.
Khi giải quyết tốt vấn đề này, công trình sẽ được hoàn thành sớm, khi công tác quyết toán được tiến hành nhanh chóng Xí nghiệp mới có thể thu hồi vốn và nhờ đó làm giảm lượng hàng tồn kho và nâng cao số vòng luân chuyển vốn.
III. Lựa chọn và áp dụng hợp lý các nguồn vốn
Từ phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp Xây lắp Điện ta thấy, cơ cấu vốn của Xí nghiệp còn chưa hợp lý, có sự chênh lệch rất khác biệt giữa các nguồn huy động. Vay ngắn hạn rất ít, nợ dài hạn thì hoàn toàn không có.
Việc huy động vốn gắn liền với chi phí huy động, sử dụng vốn và tỷ trọng của các nguồn trong cơ cấu vốn, nên khi huy động các doanh nghiệp cần phải tính đến hai nguồn rẽ nhất là tín dụng thương mại và nợ tích luỹ. Nhưng ở Xí nghiệp hai nguồn này đã được huy động một cách triệt để và hầu như không còn khả năng huy động thêm Vì vậy ở đây Xí nghiệp cần phải xem xét lại nguồn vốn huy động từ tín dụng thương mại, tỷ lệ của nguồn này quá cao khiến Xí nghiệp có thể rơi vào tình trạng mất tự chủ về tài chính bất cứ lúc nào và hơn nữa nó cũng là một nguyên nhân khiến Xí nghiệp không tăng được hạn mức tín dụng từ phía ngân hàng lên. Bây giờ vấn đề đặt ra là Xí nghiệp phải điều chỉnh lại cơ cấu nguồn vốn.
Với nguồn vốn chủ sở hữu: Hiện nay nguồn vốn chủ sở hữu của Xí nghiệp chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong nguồn vốn của Xí nghiệp (năm 1998 là 4,294%; năm 1999 là 3,892%; năm 2000 là 8,183%; năm 2001 là 5,834%). Do đó, trong thời gian tới Xí nghiệp phải cố gắng tăng số lượng và tỷ trọng của nguồn này lên. Muốn tăng nguồn này lên một mặt phải có sự góp sức của Nhà nước, Nhà nước tác động đến nguồn này bằng cách tăng nguồn vốn ngân sách cho doanh nghiệp và giảm thu đối với doanh nghiệp. Mặt khác, để tăng nguồn vốn này thì Xí nghiệp phải tăng hiệu quả kinh doanh, đảm bảo hoạt động có lãi. Từ đây, Xí nghiệp lại phải trở về với việc tính toán mức độ hiệu quả của từng dự án và vai trò của nó trong sự phát triển của Xí nghiệp, và vấn đề mở rộng thị trường, tăng khả năng đấu thầu.
Với nguồn vốn vay ngân hàng: Đây chính là vấn đề bức xúc của Xí nghiệp. Là một đơn vị trực thuộc, Xí nghiệp chịu sự điều tiết của Công ty Điện lực I về lượng vốn vay ngắn hạn. Hạn mức của Xí nghiệp hiện nay là 1 tỷ đồng, đây có thể nói là một hạn mức quá thấp đối với Xí nghiệp. Việc quy định như thế này một phần là do Công ty phải cân đối hoạt động cho các Xí nghiệp thành viên chứ không chỉ có Xí nghiệp Xây lắp Điện, nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản ở đây là do Xí nghiệp chưa chứng tỏ được tính hiệu quả trong hoạt động của mình. Vì vậy muốn tăng được hạn mức tín dụng thông qua ngân hàng thì Xí nghiệp phải đề xuất ra được những phương án kinh doanh có tính hiệu quả cao.
Một thực tế ở Xí nghiệp là hàng năm vẫn thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh của Công ty đưa xuống và đa số các công trình mà Xí nghiệp thực hiện đều là chỉ định thầu, ý nghĩa của hoạt động chỉ định thầu ở đây chính là việc Công ty đã định giá, định doanh thu, định thời gian cho Xí nghiệp. Thực tế này đã nói lên rằng bản thân Xí nghiệp thực sự chưa đưa ra được những phương án có hiệu quả bằng những phương án Công ty đưa xuống. Công tác đấu thầu ở Xí nghiệp cũng rất hạn chế. Vì vậy có thể nói, thứ nhất, do Xí nghiệp chưa chủ động nhiều trong việc đấu thầu và tạo thị trường; thứ hai, Xí nghiệp chưa có được nhiều phương án kinh doanh có hiệu quả nên hạn mức tín dụng ngân hàng không tăng lên được. Như vậy, để tăng được hạn mức tín dụng ngân hàng thì nhiệm vụ đặt ra đối với Xí nghiệp là phải giải quyết những tồn tại này.
Để xây dựng được phương án có hiệu quả, có tính thuyết phục thì Xí nghiệp phải tập trung lực lượng cán bộ có có kinh nghiệm, trình độ cao. Đội ngũ cán bộ của Xí nghiệp cần được thường xuyên đào tạo thêm, cập nhập thêm về lĩnh vực chuyên môn, lĩnh vực lập dự án..., để có được đội ngũ cán bộ giàu năng lực, bản lĩnh và biết phán đoán tình thế, để đưa ra các giải pháp thích hợp. Bên cạnh đó, trong những công việc nhất định không thuộc chuyên môn của Xí nghiệp hoặc lĩnh vực còn thiếu cán bộ giỏi thì Xí nghiệp có thể thuê tư vấn có uy tín, kinh nghiệm giúp đỡ.
Ngoài ra, để tăng được nguồn vốn vay từ ngân hàng, tăng cường tính chủ động trong việc tìm kiếm thị trường, một mặt Xí nghiệp phải trợ giúp cho các đội, mặt khác tự bản thân các đội mà đứng đầu là đội trưởng phải mở rộng hơn nữa quan hệ với khách hàng, tăng cường hiệu quả, chất lượng các công trình thi công, nhờ đó tăng được sự tín nhiệm của khách hàng và có cơ hội hơn nữa khi khách hàng tự tìm đến đặt hợp đồng.
Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần tạo dựng cho Xí nghiệp một cơ cấu nguồn vốn hợp lý hơn, hạn chế được tình trạng thiếu vốn trong sản xuất kinh doanh, giúp Xí nghiệp tự chủ hơn về mặt tài chính và chủ động hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
IV. Lựa chọn hình thức quản lý tài chính trong cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Trong hoạt động đầu tư xây dựng, từ trước đến nay có năm hình thức cấp phát, cho vay vốn thanh toán như sau:
Thứ nhất: Cấp phát vốn thanh toán theo giá trị khối lượng theo tuần kỳ.
Thứ hai: Là hình thức thanh toán theo giá trị khối lượng hoàn thành theo quy ước hoặc khối lượng thực hiện đến điểm dừng kỷ thuật.
Thứ ba: Là hình thức cấp phát vốn thanh toán theo sản phẩm hoàn thành.
Thứ tư: Là hình thức đấu thầu xây dựng
Thứ năm: Là hình thức khoán gọn
Hiện nay Xí nghiệp đang áp dụng hình thức thứ ba, tức là cấp phát vốn thanh toán theo sản phẩm hoàn thành. Trong xây dựng cơ bản, sản phẩm hoàn thành là toàn bộ công trình hoặc từng hạng mục công trình hoàn thành đưa vào sử dụng. Ưu điểm của hình thức cấp phát này là tạo ra mối quan hệ chặt chẽ giữa công tác cấp phát vốn với rút ngắn thời gian thi công để nhanh chóng đưa dự án vào sản xuất kinh doanh. Nhược điểm lớn nhất của hình thức này là chu kỳ thanh toán qúa dài, các đơn vị thi công cần phải có một lượng vốn lưu động rất lớn, để dự trữ vật tư trong suốt quá trình thi công cho đến khi hoàn thành sản phẩm, được nghiệm thu và đưa vào sử dụng mới cấp phát vốn thanh toán. Chính vì áp dụng theo phương thức này mà chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và các khoản phải thu của Xí nghiệp lớn đến như vậy.
Biểu15:
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
CPSXKDDD + KPT
40.239
45,770
37.348
39,684
42.635
61,592
45.733
50,072
Tổng nguồn vốn
87.915
100
94.144
100
69.292
100
91.334
100
Qua biểu 15 ta thấy chi phí sản xuất kinh doanh dở dang và khoản phải thu chiếm một tỷ lệ rất lớn trong nguồn vốn của Xí nghiệp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu vốn, vòng quay vốn chậm và cuối cùng là hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Từ thực trạng như vậy ta thấy việc lựa chọn hình thức quản lí tài chính cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản là rất cần thiết đối với Xí nghiệp.
Theo em trong năm hình thức cấp phát trên, hình thức hợp lý nhất hiện nay mà Xí nghiệp có thể áp dụng đó là hình thức đấu thầu xây dựng. Theo hình thức này, thì giá bán của sản phẩm xây dựng được khẳng định trước giữa bên A và bên B theo chất lượng sản phẩm đã được xác định. Sau khi kí xong hợp đồng thì bên A sẽ đặt trước cho bên B một khoản vốn để làm công tác chuẩn bị xây dựng ( chuẩn bị mặt bằng xây dựng, mua vật tư dữ trữ thi công), trong quá trình xây dựng khối lượng thực hiện được,được cấp vốn thanh toán và trừ dần vào số tạm ứng.
Với hình thức này nó giúp cho Xí nghiệp giải quyết được những khó khăn về vốn cho công tác tổ chức xây dựng của Xí nghiệp, đẩy nhanh tiến độ thi công công trình, từ đó nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp.
V. Định kỳ hàng năm tiến hành phân tích tài chính
Phân tích tài chính ngày càng có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp. Phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng, thông qua một hệ thống các phương pháp công cụ và kỹ thuật phân tích giúp người sử dụng thông tin vừa đánh giá tổng hợp, toàn diện, khái quát, lại vừa xem xét chi tiết hoạt động tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, phân tích, để đưa ra quyết định tài chính phù hợp.
Với việc không tiến hành phân tích tài chính sẽ làm cho doanh nghiệp rất khó khăn trong việc đánh giá hoạt động kinh doanh. Có thể lấy ví dụ, khi doanh thu và lợi nhuận đều tăng nếu không xét các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn ta có thể thấy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Nhưng nếu doanh thu và lợi nhuận không tăng cùng chiều với tốc độ đầu tư thì khi tính toán, các chỉ tiêu sẽ thể hiện sự không hiệu quả của đồng vốn.
ở Xí nghiệp Xây lắp Điện , sự mất cân đối trong nguồn vốn, mà hệ quả là chưa khai thác, chưa sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, một phần là kết quả của việc chưa chú trọng đến hoạt động phân tích tài chính.
Để có thể sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiến hành phân tích tài chính. Để phânh tích tài chính đảm bảo có hiệu quả cần chú ý đến một số điểm sau:
Trình tự phân tích tài chính.
+ Thu thập thông tin: Thu thập mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thức trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán. nó bao gồm cả thông tin nội bộ và bên ngoài, thông tin kế toán và thông tin quản lý khác... nhưng quan trọng nhất là những báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
+ Xử lý thông tin: Là quá trình sắp xếp thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của những kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định.
+ Dự đoán và quyết định: Từ các thông tin đã được xử lí, chủ doanh nghiệp sẽ đưa ra các quyết định liên quan đến mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển và tối đa hoá lợi nhuận trên cơ sở một nguồn vốn nhất định.
Đào tạo cán bộ: Cán bộ làm công tác tài chính đòi hỏi không những tính toán chính xác mà phải có được cái nhìn bao quát để đánh giá và đưa ra được những ý kiến đóng góp. Xí nghiệp hiện nay chưa có chuyên viên tài chính, trong thời gian này doanh nghiệp nên cử những cán bộ làm công tác kế toán học thêm một khoá về tài chính để đảm bảo chất lượng của công tác phân tích tài chính của mình.
Với một đội ngũ nắm chắc về nghiệp vụ phân tích tài chính và tuân thủ trình tự của việc phân tích sẽ đảm bảo nguồn vốn của Xí nghiệp sẽ được được sử dụng tốt hơn vào thời gian tới.
Hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp là cao hay thấp ngoài ảnh hưởng của lượng vốn sử dụng trong kỳ thì hai nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp là doanh thu và lợi nhuận. Do vậy, để tăng hiệu quả sử dụng vốn Xí nghiệp cần có giải pháp tăng doanh thu, giảm chi phí và từ đó làm cho lợi nhuận tăng lên.
VI. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện để thực hiện các giải pháp trên
1. Về phía Xí nghiệp
1.1. Phải đổi mới và hoàn thiện công tác tổ chức cán bộ công nhân viên
Xí nghiệp cần phải hoàn thiện bộ máy tổ chức của mình sao cho hợp lý, gọn nhẹ và có hiệu quả nhất. Bộ máy này phải thống nhất từ trên xuống dưới, có sự phối kết hợp giữa các phòng ban, tạo điều kiện giúp đỡ nhau làm việc đồng thời cũng phân công rõ trách nhiệm và quyền hạn để phát huy năng lực tối đa của người lao động.
Xí nghiệp phải thường xuyên quan tâm và đầu tư một cách thoã đáng cho công tác đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên, nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý.
Cùng với việc đổi mới, hiện đại hoá máy móc thiết bị thì việc nâng cao trình độ của người lao động là một vấn đề tất yếu. Xí nghiệp phải mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, kiến thức cho người lao động để họ làm việc với hiệu quả cao nhất.
1.2. Tổ chức tốt công tác hạch toán kế toán và phân tích hoạt động tài chính kinh doanh
Qua các số liệu, tài liệu kế toán, đặc biệt là các báo cáo kế toán tài chính. Xí nghiệp thường xuyên nắm được số vốn hiện có, cả về mặt giá trị và hiện vật, nguồn hình thành và các biến động tăng, giảm trong kỳ, mức độ đảm bảo vốn lưu động, tình hình và khả năng thanh toán...Nhờ đó, Xí nghiệp đề ra các giải pháp đúng đắn để xử lý kịp thời các vấn đề về tài chính, nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi theo các chương trình, kế hoạch đề ra, như huy động vốn bổ sung, xử lý số vốn thừa, thu hồi các khoản nợ phải thu, thanh toán các khoản nợ đến hạn trả...
1.3. Các biện pháp tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng
Đây là con đường tốt nhất để hạ giá thành sản phẩm.
Tiết kiệm chi phí sản xuất:
Xí nghiệp phải có định mức sản xuất cho các đội, các phân xưởng một cách hợp lý trên cơ sở thiết bị của từng đơn vị.
Tiết kiệm chi phí vật tư bằng cách tìm những đối tác cung cấp nguồn vật tư cho Xí nghiệp với giá cả cạnh tranh.
Tuyên truyền cho cán bộ công nhân viên tiết kiệm trong sản xuất để nâng cao ý thức tiết kiệm trong người lao động.
Có chính sách thưởng phạt nghiêm minh để khuyến khích những người tiết kiệm được chi phí sản xuất , hạn chế tối đa tình trạng lãng phí nguyên liệu.
Tiết kiệm trong tiêu dùng:
Xí nghiệp phải tiến hành rà soát lại chi phí cho quản lý như chi phí cho tiếp khách, chi phí cho hội nghị… Đối với một khoản như chi phí tiếp khách. Xí nghiệp cần phải có một định mức cụ thể để tránh tình trạng chi tiêu lãng phí.
2. Đối với Nhà nước
Để làm tốt công tác sử dụng vốn thì phải có sự kết hợp từ hai phía: Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi cho Xí nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả.
Sau đây là một số giải pháp từ phía Nhà nước để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Xí nghiệp.
2.1. Về nguồn vốn ngân sách Nhà nước
Là một doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước thành lập nhưng nguồn vốn ngân sách cấp và bổ sung là rất nhỏ bé chưa tương xứng với khả năng hiện hành của Xí nghiệp. Theo chế độ, mỗi doanh nghiệp được đảm bảo tối thiểu 30% vốn lưu động, nhưng do chưa có nguồn vốn để cung cấp nên không phải doanh nghiệp nào cũng được cung cấp đầy đủ, trong khi có các doanh nghiệp thừa vốn lại khó điều đến các doanh nghiệp thiếu vốn. Vì thế nhiều doanh nghiệp Nhà nước, mà trong đó có Xí nghiệp xây lắp điện đang phải đối phó với tình trạng thiếu vốn lưu động nghiêm trọng. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động hoàn toàn không chỉ do ngân sách không đảm bảo được mà cái chính là do các doanh nghiệp chiếm dụng vốn của nhau dẫn đến tình trạng lưu động vốn thanh toán trong các quay vòng luẩn quẩn nên đã làm cho tình trạng tài chính của các doanh nghiệp phức tạp, nợ nần dây dưa, thiếu vốn lưu động nghiêm trọng.
Theo Nghị định 22/HĐBT ngày 24/1/91 về chế độ thu sử dụng vốn NSNN với các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp có sử dụng ngân sách Nhà nước đều phải nộp một khoản thu sử dụng vốn từ 3,6% - 4,8%/ năm tuỳ theo ngành nghề kinh doanh, số tiền thu sử dụng vốn trên được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên, một một số ý kiến cho rằng trong điều kiện hiện nay một số các doanh nghiệp Nhà nước đang thiếu vốn kinh doanh trầm trọng, khả năng tích luỹ nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước chưa cao, lợi nhuận sau thuế còn ít, nhu cầu bổ sung vốn còn lớn, do vậy không nên thu khoản thu này và thực tế hiện nay tổng số tiền thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp Nhà nước vào ngân sách Nhà nước hàng năm không đáng kể, bỏ khoản thu này doanh nghiệp Nhà nước sẽ có thêm điều kiện tự tích luỹ và phát triển thêm vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Có thể nói từ những lí do này việc bỏ khoản thu sử dụng vốn ngân sách Nhà nước là hoàn toàn hợp lý và là một giải pháp cực kì quan trọng để tháo gỡ tình hình thiếu vốn kinh doanh đang diễn ra ở nhiều doanh nghiệp Nhà nước hiện nay.
2.2. Tổ chức phát hành trái phiếu công trình
Xét trên phương diện đầu tư phát triển trái phiếu công trình (TPCT) là một hình thức huy động vốn có hiệu quả nhất trong ba hình thức: trái phiếu kho bạc, trái phiếu ngân hàng đầu tư và trái phiếu công trình.
Thực tiễn đã chứng minh, giữa tiến độ thi công xây dựng cơ bản và khả năng nguồn vốn Nhà nước không đồng nhất tức là khối lượng xây dựng cơ bản trong kế hoạch bao giờ cũng lớn hơn nhiều so với khả năng ngân sách. Hầu hết ở các địa phương từ tháng 1 đến tháng 6 ngân sách rất khó khăn, chỉ đủ để chi lương duy trì bộ máy hoạt động cơ quan, chi đầu tư xây dựng cơ bản coi như không đáng kể. Từ tháng 7 đến tháng 10 tỷ lệ cấp phát ngân sách cho xây dựng khoảng 40% - 60%, phần lớn vốn thanh toán vào tháng 11 và tháng12, tập trung vào những ngày cuối năm trong khi đó tiến độ thi công xây dựng được thực hiện cả 12 tháng. Do đó các tổ chức xây dựng phải đi chiếm dụng vốn hoặc đi vay các ngân hàng với lãi suất cao. Như vậy, dẫn đến thời gian thi công dài, quá trình xây dựng cơ bản tăng so với dự án… Để khắc phục hiện tượng này, thì huy động vốn đầu tư phát triển theo hình thức trái phiếu công trình là một điều cần thiết. Trái phiếu công trình có thể phát hành nhiều loại: 1, 3 hoặc 5 năm. Có thể tăng nguồn tiền Việt Nam hay ngoại tệ mạnh và giá trị phải phù hợp với sức mua của người dân.
Sơ đồ huy động Trái phiếu công trình:
Cơ quan phát hành trái phiếu KBNNTW)
Đơn vị thi công
(Bên B)
Các chủ đầu tư công trình (bên A)
Các ngân hàng thương mại, quỹ bảo hiểm quỹ HTĐTQG (đơn vị cho chiết khấu)
Người mua TPCT
(1)
(2)
(3)
(4)
(1) Cơ quan phát hành trái phiếu là Bộ tài chính (Kho bạc Nhà nước trung ương). Các chủ đầu tư nhận nợ với Nhà nước đồng thời nhận TPCT từ cơ quan phát hành.
(2) Trên cơ sở phiếu giá xây dựng cơ bản (đối với công trình chỉ định thầu hoặc giao thầu) hoặc hợp đồng nhận thầu xây lắp, mua sắp thiết bị, tư vấn thiết kế(đối với công trình đấu thầu). Các chủ đầu tư thanh toán theo khối lượng(hoặc tạm ứng) cho đơn vị thi công bằng TPCT.
(3) Sau khi nhận được trái phiếu công trình, đơn vị thi công đến các ngân hàng thương mại, các quĩ HTĐTQG xin chiết khấu theo tỷ lệ phần trăm.
(4) Cơ quan cho chiết khấu tiến hành huy động vốn trong mọi tầng lớp dân cư trong, ngoài nước và các tổ chức kinh tế khác.
Thực hiện tốt huy động TPCT theo sơ đồ trên có ưu điểm: Từ chỗ công trình chưa có nguồn vốn, các chủ đầu tư đã đáp ứng ngay vốn cho công trình mà chưa cần phải có vốn ngân sách. Điều này khắc phục được hiện tượng thiếu hụt vốn trong xây dựng(Giữa khối lượng XDCB thực hiện và khả năng ngân sách cấp phát) trên cơ sở nguồn vốn đáp ứng kịp thời góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đảm bảo công trình có chất lượng cao và giá thành hạ, tạo cơ sở ban đầu để dần dần tiến tới lập thị trường vốn ổn định và thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thế nhưng theo sơ đồ trên, cũng như trái phiếu Kho bạc và trái phiếu Ngân hàng đầu tư. Trái phiếu công trình cho dù là phương tiện thế chấp, hình thức thuê mua bán, chuyển nhựơng nhưng hiện tại trái phiếu công trình chỉ dừng lại ở chức năng cất trữ. Để giải quyết vấn đề này, tạo điều kiện cho trái phiếu công trình và các loại trái phiếu khác thu hút được mạnh mẽ các nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế các tầng lớp dân cư trong nước, các đơn vị đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các loại trái phiếu này phải gắn liền với thị trường vốn ổn định trong nước.
Sơ đồ vòng chu chuyển của trái phiếu công trình:
Cơ quan phát hành TPCT
Các chủ đầu tư công trình (bên A)
Các đơn vị thi công (bên B)
Người mua TPCT
Các NHTM, quĩ BH, quĩ HTĐTQG(đơn vị cho chiết khấu )
Thị trường vốn ổn định trong nước
(1)
Các chủ đầu tư công trình (bên A)
(2)
(6)
(3)
(4)
(5)
Đây là sơ đồ khép kín, phản ánh vòng chu chuyển của TPCT trong thị trường vốn ổn định trong nước, trong đó thị trường vốn là khâu trung tâm mua bán, trao đổi trái phiếu. Nó quan hệ chặt chẽ với người mua và người bán trái phiếu. Từ đây, TPCT thực sự là công cụ huy động vốncó hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế.
2.3. Nhà nước phải đưa ra hệ thống các chỉ tiêu ngành
Để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp phải tính toán các chỉ tiêu tài chính. Chỉ tiêu là thước đo đánh giá kết quả những cố gắng của Xí nghiệp sau một chu kỳ hoạt động. Nhưng những chỉ tiêu này chỉ thực sự có ý nghĩa khi có một chuẩn mực để so sánh.
Trong thời gian qua, tuy đã có sự cố gắng trong việc tính toán một số chỉ tiêu, nhưng Xí nghiệp cũng đã gặp khó khăn trong việc đưa ra đánh giá, so sánh những chỉ tiêu này với các đơn vị khác cùng ngành và trong toàng xã hội. Xí nghiệp chưa biết được kết quả mình đatỵ là cao hay thấp, là phù hợp hay chưa phù hợp.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ở mỗi ngành là khác nhau và trong từng giai đoạn cũng có sự thay đổi. Nhà nước cần phải nghiên cứu để đưa ra một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp với từng ngành kinh tế. Với việc đưa ra được những con số chính xác sẽ giúp doanh nghiệp rất nhiều trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung.
Từ những chỉ tiêu đó doanh nghiệp sẽ tính toán và so sánh với những chỉ tiêu tại đơn vị mình. Nếu chỉ tiêu tại doanh nghiệp lớn hơn chỉ tiêu trung bình ngành thì đó sẽ là một động cơ khuyến khích doanh nghiệp làm tốt hơn. Còn nếu ngược lại, sẽ giúp doanh nghiệp thấy được sự yếu kém của mình và có giải pháp khắc phục.
2.4. Nhà nước nên cải cách thủ tục hành chính
Đây là nhân tố ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Những thủ tục tạm thời gây nhiều phiền toái, có khi cản trỏ hoạt động của doanh nghiệp. Do đó Nhà nước cần có cơ chế hành chính gọn nhẹ, đúng đắn để khuyến khích các doanh nghiệp tận dụng cơ hội làm ăn, tạo sự năng động cho doanh nghiệp đồng thời thu hút đầu tư từ nước ngoài.
2.5. Nhà nước cần điều chỉnh lãi suất ngân hàng cho phù hợp với tình hình biến động thị trường như hiện nay
Lãi suất ngân hàng được coi như một chi phí vốn mà việc thay đổi lãi suất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy, ngân hàng phải tính toán một cách hợp lý sao cho lãi suất tiền vay luôn nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp. Khung lãi suất do ngân hàng Nhà nước qui định, phải đảm bảo vừa khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có lãi, vừa hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh thuận lợi.
Các hoạt động giao dịch thanh toán qua ngân hàng ảnh hưởng không nhỏ tới nhu cầu vốn, nên Nhà nước cần ban hành qui chế chặt chẽ, tạo điều kiện thận lợi cho doanh nghiệp khi tham gia thanh toán, giao dịch với ngân hàng.
Các ngân hàng cần xem xét lại điều kiện cho vay và thanh toán, sao cho thuận lợi đối với các doanh nghiệp, đồng thời tránh được rủi ro. Ban hành qui chế cho vay, cầm cố, thế chấp... rõ ràng và thực hiện nghiêm túc. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp đón bắt cơ hội tốt nhất.
2.6. Hình thành và phát triển các tổ chức kinh doanh thuê mua tài chính để hỗ trợ cho doanh nghiệp xây dựng
Hầu hết các doanh nghiệp xây dựng hiện nay đều có nhu cầu đổi mới, tăng cường năng lực các trang thiết bị thi công, nhưng không phải doanh nghiệp nào cũng đủ năng lực tài chính, để mua sắm các trang thiết bị mới. Việc mở rộng hình thức này, cùng với việc Nhà nước tạo điều kiện nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, sẽ giúp các doanh nghiệp có điều kiện áp dụng công nghệ mới vào thi công, tránh được tình trạng doanh nghiệp mua máy móc về, không sử dụng hết công suất mà vẫn phải chịu lãi ngân hàng.
2.7. Hình thành các tổ chức tư vấn về kinh doanh xây dựng để hỗ trợ các doanh nghiệp
Nhà nước nên có những phương hướng hình thành các tổ chức, các hiệp hội trong xây dựng nhằm thu thập, quản lý và cung cấp thông tin, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh xây dựng như giá cả máy móc thiết bị, vật tư, lao động, những tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, các thành tựu mới...hay có thể hỗ trợ nhau về vốn, về quản lý để doanh nghiệp có điều kiện tham gia vào dự án lớn, lựa chọn được phương án kinh doanh, tránh những thua thiệt không đáng có.
Kết luận
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn giúp doanh nghiệp tiết kiệm được nguồn lực, quay nhanh vòng vốn và nhờ đó mà doanh nghiệp có thể tái đầu tư, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Do đó, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn luôn được đặt ra và rất bức xúc, nó là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như sự phát triển bền vững của cả nền kinh tế.
Trong những năm qua, Xí nghiệp Xây lắp Điện đã không ngừng có những chính sách , biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn. Xí nghiệp đã tự khẳng định mình, tìm cho mình một vị trí trên thị trường. Xí nghiệp đã góp phần không nhỏ vào ngân sách Nhà nước, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên Xí nghiệp. Tuy nhiên trong cơ chế hiện nay có sự biến động không ngừng, để thích ứng được với nó thì Xí nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế đòi sự nỗ lực không ngừng của toàn thể Xí nghiệp.
Kết hợp giữa tình hình thực tế qua thời gian thực tập tại Xí nghiệp với những kiến thức đã được học tại trường, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, hy vọng rằng một số ý kiến này sẽ có tác dụng thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp.
Một lần nữa, em xin thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Nguyễn Kế Tuấn và sự tạo điều kiện giúp đỡ của tập thể cô chú ở Xí nghiệp Xây lắp Điện để em hoàn thành tốt bài viết này.
Tài liệu tham khảo
Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp.
Chủ biên: PGS. PTS Phạm Hữu Huy
Giáo trình tài chính doanh nghiệp.
Chủ biên: TS Lưu Linh Hương
Giáo trình quản trị doanh nghiệp.
Chủ biên: PGS. PTS Lê Văn Tâm
Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh.
Chủ biên: PGS. PTS Phạm Thị Gái
Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính, dự đoán nhu cầu tài chính của doanh nghiệp.
Chủ biên: Đào Xuân Tiến
Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ số 18/99, 14/00.
Tạp chí tài chính số 5/97, 11/98, 9/99, 6/00, 17/00.
Tạp chí Công nghiệp số 20/00, 24/00, 25/00, 10/01.
Tạp chí Thương mại số 9/99.
Tạp chí Cộng sản số 2/97, 8/00.
Tạp chí Ngân hàng số 6/99.
Báo cáo tài chính và các tài liệu thực tế của Xí nghiệp xây lắp điện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29151.doc