Chuyên đề Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN

Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và cả những vận hội mới cho các quốc gia trong đó có Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế xã hội của mình. Do vậy con đường duy nhất để Việt Nam phát triển là phải tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với tư cách là trung gian tài chính bằng việc cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế ngày càng hoàn hảo sẽ góp phần đáng kể vào việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta đi đến thành công. Để đáp ứng được đòi hỏi đó của nền kinh tế, trong những năm qua các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I NHCTVN nói riêng đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm ngày càng hoàn thiện qui trình nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên trong những năm qua vẫn còn tồn tại những vướng mắc làm cản trở sự phát triển sự phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I NHCTVN. Với chuyên đề “Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN” em đã tập trung phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở cùng với lí luận và phương hướng hoạt động của Sở và của NHCTVN trong những năm tới để từ đó đề ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Trong quá trình nghiên cứu do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị tại phòng KDĐN Sở giao dịch I NHCTVN và các bạn nhằm bổ sung hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình.

doc84 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dầu thô xuất khẩu 14,7 nghìn tấn với giá trị khoảng 2 tỷ USD, Dệt may 1,7 tỷ USD, giày dép 1,4 tỷ USD, Gạo 1 tỷ USD.Có những mặt hàng mới tham gia xuất khẩu là mặt hàng điện tử, máy tính và các linh kiện đạt giá trị 590 triệu USD tăng 17,5 % đây là tín hiệu mới đóng góp phần chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam theo hướng phát triển tỷ trọng hàng công nghiệp có chất lượng cao. Bước sang năm 2001, kinh tế thế giới suy thoái đã tác động không nhỏ tới tình hình kinh tế nước ta. Lĩnh vực xuất nhập khẩu chịu nhiều ảnh hưởng của thị trường thế giới. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta tuy tăng về số lượng nhưng do giá trên thị trường sụt giảm nên giá trị cũng giảm theo. Nhưng với sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, sự nỗ lực của các ngành, các địa phương nên một số nhóm hàng vẫn đạt được tốc độ cao về giá trị. Vì vậy, tính chung kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng. Về kim ngạch nhập khẩu, trong những năm qua mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt nam là máy móc, thiết bị, xăng dầu, nguyên phụ liệu dệt, may, da phục vụ cho sản xuất, gia công hàng xuất khẩu do đó mặc dù Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm hạn chế nhập khẩu nhưng kim ngạch nhập khẩu vẫn tăng. Từ cuối năm 2001, với việc Quốc hội hai nước phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kì, và việc Việt Nam đang nỗ lực đẩy mạnh đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) sẽ giúp cho Việt Nam ngày càng hoà nhập hơn nữa vào thị trường thế giới, vào xu thế toàn cầu hoá thương mại và đầu tư, từ đó tạo điều kiện cho Việt Nam tham gia đầy đủ hơn vào cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, Việt Nam có điều kiện để cải thiện hơn nữa mạng lưới buôn bán của mình với các nước ASEAN, giúp cho Việt Nam theo kịp nhịp độ tự do buôn bán với các nước trong cùng khối, mở đường cho sự tham gia toàn diện của Việt Nam vào các hoạt động hợp tác kinh tế với các nước thành viên của khối. Như vậy hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam có rất nhiều thuận lợi để phát triển vào những năm tới, nó sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển hoạt động TTQT nói chung và phương thức tín dụng chứng từ nói riêng của các NHTM Việt nam cũng như của Sở giao dịch I NHCTVN. Thứ hai, công tác thanh toán quốc tế phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu của Sở giao dịch I NHCTVN được diễn ra trong bối cảnh kinh tế rất thuận lợi như vậy nhưng nó cũng gặp không ít khó khăn, đáng kể là sự cạnh tranh của các ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt là các chi nhánh ngân hàng nước ngoài bởi có bề dày kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực này cũng như nhận được sự giúp đỡ về vốn và thiết bị, công nghệ từ ngân hàng mẹ. Nhưng với mục tiêu phát triển hoạt động thanh toán L/C, Sở đã thực hiện nhiều biện pháp như: + Nâng cao ứng dụng công nghệ tin học vào lĩnh vực thanh toán, sẽ thực hiện nối mạng giao dịch với khách hàng, trước mắt là với các doanh nghiệp lớn. + Thực hiện chính sách kĩ quĩ linh hoạt. + Điều chỉnh mức phí cho phù hợp nhằm tăng tính hấp dẫn khách hàng chẳng hạn như không thu phí thanh toán L/C xuất khẩu... + Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng. + Luôn thanh toán đầy đủ đúng hạn với khách hàng và các ngân hàng đối tác nên đã góp phần củng cố và mở rộng quan hệ đại lí với các ngân hàng nước ngoài,.... Chính những điều đó đã góp phần quyết định vào việc tăng giá trị thanh toán L/C của Sở trong những năm qua. Năm 2001, trong bối cảnh kim ngạch xuất khẩu của cả nước vẫn tăng, kim ngạch nhập khẩu cũng tăng nhưng không nhiều, nhưng giá trị thanh toán L/C xuất khẩu của Sở giao dịch I NHCTVN lại sụt giảm so với năm 2000, trong khi đó giá trị thanh toán L/C nhập khẩu lại tăng mạnh so với năm 2000. Điều đó chứng tỏ rằng, tình hình xuất nhập khẩu của cả nước có góp phần quan trọng chứ không phải là yếu tố quyết định vào việc làm tăng hoặc giảm giá trị thanh toán L/C mà yếu tố đó chính là đặc điểm khách hàng cũng như các biện pháp nhằm thu hút khàch hàng mà Sở đang áp dụng. 2.2.2.2. Tác động của hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đối với Sở giao dịch I NHCTVN. Trong hệ thống NHCTVN, Sở giao dịch I tương đương với một chi nhánh loại một, nó được thực hiện tất cả các nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại. Việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đã đem lại những ảnh hưởng tốt đến hoạt động của Sở, ta có thể thấy rõ điều này trên một số mặt sau: Thứ nhất, góp phần củng cố và phát triển quan hệ đối ngoại Phát triển quan hệ đối ngoại là điều vô cùng quan trọng nhằm phát triển hoạt động TTQT nói chung và hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và ngược lại, hoạt động TTQT sẽ không chỉ góp phần củng cố quan hệ đối ngoại mà còn là tiền đề tạo đà cho việc thiết lập quan hệ đối ngoại của NHCTVN. Trong những năm qua, quan hệ quốc tế của NHCTVN đã có những điều kiện phát triển vượt bậc. Vào những năm đầu thành lập, NHCT hầu như không có quan hệ với ngân hàng đối tác nước ngoài, có chăng chỉ là những ngân hàng thuộc các nước XHCN, nhưng từ khi Nhà nước có chính sách mở cửa, với mục tiêu trở thành ngân hàng đa năng, đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng cả trong và ngoài nước, NHCTVN đã có điều kiện để phát triển và có quan hệ với nhiều ngân hàng và các tổ chức kinh tế trên thế giới. Với số ngân hàng mà NHCTVN có quan hệ đại lí, đến nay, Sở có thể tiến hành các giao dịch một cách nhanh chóng, chính xác, đáp ứng yêu cầu của khách hàng trong và ngoài nước. Hiện nay, NHCTVN đã có quan hệ đại lí với các ngân hàng trên hầu hết các thị trường xuất nhập khẩu quan trọng của Việt Nam, số ngân hàng và số nước mà NHCTVN có quan hệ đại lí được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4: Quan hệ đại lí với các ngân hàng nước ngoài của NHCTVN Năm Số ngân hàng quan hệ đại lí Số nước quan hệ đại lí 1995 415 40 1996 435 43 1997 435 43 1998 435 45 1999 560 52 (Theo báo cáo tổng kết năm 1995 – 1999 của NHCTVN) Thứ hai, nâng cao uy tín, củng cố và phát triển mối quan hệ với khách hàng, hỗ thợ đắc lực cho các mảng nghiệp vụ khác, mở rộng qui mô hoạt động và tăng khả năng cạnh tranh của Sở trên thị trường trong và ngoài nước. Hiện nay, Sở đã thu hút được khoảng 5880 khách hàng đến mở tài khoản giao dịch và một phần trong số này có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Nhằm theo kịp và hoà nhập với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, cũng như để đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu của công việc và nhu cầu của khách hàng, Sở đã mạnh dạn đổi mới thiết bị, triển khai những dự án mới về công nghệ. Do vậy, cho đến nay, Sở đã có công nghệ thanh toán tương đối hiện đại. Do phải thường xuyên làm việc, tiếp xúc với các ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động trong kinh tế thị trường, trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm, phong cách giao tiếp phục vụ khách hàng của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế cũng được cải thiện rõ rệt. Thứ ba, phí thu được từ hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng liên tục tăng đối đã góp phần đáng kể vào thu nhập của Sở trong những năm qua. Bảng 5: Kết quả thu phí hoạt động kinh doanh đối ngoại Đơn vị :Triệu đồng Năm Phí thu từ hoạt động KDĐN Tổng lợi nhuận Tỷ trọng trong tổng lợi nhuận 1999 6900 120210 5.74% 2000 3200 124685 2.57% 2001 4300 114708 3.75% (Báo cáo hoạt động nghiệp vụ NHQT của Sở giao dịch I NHCTVN) 2.2.3. Những tồn tại và nguyên nhân. Tốc độ tăng trưởng thanh toán L/C phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu trong những năm qua một lần nữa khẳng định những nỗ lực rất lớn của Sở giao dịch I NHCTVN trong hoạt động TTQT nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Với những nỗ lực rất lớn bằng việc thực hiện nhiều biện pháp khác nhau nhằm phát triển hoạt động TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ nhưng cho đến nay hoạt động này vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của Sở, sản phẩm còn đơn điệu, giá trị mỗi L/C mở nhỏ, một trong những biểu hiện của việc phát triển hoạt động này chưa tương xứng với tiềm năng là: hằng năm Sở giao dịch I phải điều chuyển nên Trung ương một lượng vốn rất lớn, hàng nghìn tỷ VND trong khi lượng vốn này có thể chuyển thành vốn ngoại tệ phục vụ cho hoạt động thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu. Tồn tại trên được bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu: vNguyên nhân chủ quan: Thứ nhất, đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I NHCTVN hiện nay có trình độ tương đối cao nhưng không đồng đều. Loại L/C được mở chủ yếu tại Sở là L/C không huỷ ngang, L/C chuyển nhượng nên khả năng thực hiện thanh toán bằng các loại L/C khác phức tạp hơn như L/C giáp lưng, L/C tuần hoàn,... còn nhiều hạn chế do thiếu kinh nghiệm. Lĩnh vực thanh toán quốc tế nói chung và thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng rất phức tạp, để có thể vận dụng hiệu quả, đòi hỏi các thanh toán viên không chỉ giỏi về qui trình nghiệp vụ mà phải có sự am hiểu về thị trường, về nghiệp vụ bảo hiểm, nghiệp vụ vận tải cũng như luật lệ, tập quán kinh doanh... của các nhà sản xuất và ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, đây cũng là một hạn chế của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế của Sở hiện nay. Thứ hai, mặc dù trang thiết bị đã được cải thiện nhiều trong thời gian gần đây nhưng rõ ràng công nghệ hiện tại của Sở vẫn còn nhiều hạn chế. Các chương trình máy tính là các chương trình mua của các nước Đông Nam á, hay bị hỏng hóc, lại thiếu cán bộ tin học giỏi nên việc khắc phục sự cố thường rất khó khăn. Việc bảo vệ các chương trình vi tính khỏi sự tấn công của vi rút máy tính cũng chưa được thực sự coi trọng, do đó có nhiều buổi làm việc bị trì hoãn rất lâu do hệ thống máy tính bị vi rút tấn công không hoạt động được. Thứ ba, công tác điều tra, theo dõi diễn biến của thị trường, nắm bắt xu hướng phát triển của nền kinh tế và nhu cầu, thị hiếu của khách hàng tuy đã được quan tâm phát triển nhưng không thường xuyên, việc chủ động xây dựng kế hoạch tiếp cận khách hàng đã có nhưng chưa mạnh để có thể đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng về vốn cũng như các dịch vụ thanh toán khác. Thêm vào đó việc theo dõi, phân tích đối thủ cạnh tranh còn diễn ra tự phát. Thứ tư , quy trình thanh toán là nhân tố tác động trực tiếp đến thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Bất kì một sai sót nhỏ nào trong quá trình thực hiện quy trình nghiệp vụ cũng có khả năng dẫn đến rủi ro trong thanh toán. Hơn nữa quy trình thanh toán đơn giản nhưng vẫn đảm bảo an toàn, chính xác trong thanh toán sẽ tạo được sự hấp dẫn khách hàng. Tuy nhiên quy trình nghiệp vụ thanh toán L/C xuất nhập khẩu đang được áp dụng tại Sở, theo em vẫn còn nhiều phức tạp và chưa hoàn thiện. -Hiện nay trong thanh toán L/C xuất khẩu, Sở chưa áp dụng hình thức chiết khấu miễn truy đòi. Việc này tuy rằng sẽ đem lại sự an toàn hơn cho ngân hàng nhưng sẽ không linh hoạt và ít kích thích khách hàng đến với ngân hàng. Khi tiến hành mở L/C, việc doanh nghiệp không có đủ tiền để kí quỹ là việc xảy ra thường xuyên bởi vốn của doanh nghiệp luôn được quay vòng để sản xuất, kinh doanh do đó doanh nghiệp phải làm thủ tục vay vốn để kí quỹ hoặc làm cam kết thanh toán. Trong cả hai trường hợp trên ngân hàng phải tiến hành thẩm định tình hình tài chính của doanh nghiệp xem doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán hay không. Và thời gian doanh nghiệp chờ đợi thủ tục thẩm định của ngân hàng nhiều khi rất lâu, có thể làm gián đoạn quá trình sản xuất, làm mất cơ hội kinh doanh của họ. Trong trường hợp tài khoản VND của khách hàng còn đủ để thanh toán cho L/C nhập khẩu, họ phải làm thủ tục uỷ nhiệm chi để trích tiền từ tài khoản tiền gửi VND sang tài khoản kí quỹ mở L/C và làm hợp đồng mua bán ngoại tệ để thanh toán cho L/C đó. Với quy trình như vậy, số chứng từ xuất trình nhiều thêm và thời gian chờ đợi cũng lâu hơn sẽ tạo cảm giác phức tạp trong quy trình nghiệp vụ đối với khách hàng. vNguyên nhân khách quan: - Nguyên nhân từ phía khách hàng: Thứ nhất, trong thanh toán quốc tế, phương thức tín dụng chứng từ là phương thức phổ biến nhưng rất phức tạp, do vậy nhiều doanh nghiệp là khách hàng của Sở còn gặp nhiều sai sót trong quá trình thực hiện thanh toán với nước ngoài bằng phương thức này. Chẳng hạn như khi doanh nghiệp tiến hành mở L/C,nhiều đại diện doanh nghiệp mắc phải những lỗi như điền mẫu sai quy cách, thậm chí còn không biết cần phải thực hiện những thủ tục gì khi mở L/C, hay như khi gặp chứng từ có sai sót họ cũng rất lúng túng trong việc giải quyết những sai sót đó sao cho có lợi nhất; L/C được lập căn cứ vào hợp đồng ngoại thương nhưng khi lập xong thì nó lại độc lập với hợp đồng ngoại thương và việc thanh toán chỉ dựa trên những quy định trong L/C do đó nhiều doanh nghiệp khi kí hợp đồng ngoại thương có những điều khoản không phù hợp với những quy định của L/C phải sửa chữa nhiều lần làm chậm quá trình thanh toán,... Chính những sự thiếu hiểu biết này là kẽ hở cho các đối tác nước ngoài lợi dụng khống chế, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam, ảnh hưởng xấu đối với Sở trong việc thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu. Thứ hai, mặc dù Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu để tạo hàng hoá đạt chất lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhưng thực tế cho thấy hàng hoá của Việt Nam có chất lượng chưa đáp ứng được đòi hỏi khắt khe của thị trường thé giới, giá cả lại cao, hàng xuất khẩu của VIệt Nam chủ yếu là các sản phẩm thô, chưa qua chế biến hoặc cũng chỉ ở mức sơ chế do vậy kim ngạch và giá trị hàng hoá xuất khẩu của nước ta rất thấp. Vấn đềlà ở chỗ công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đã quá cũ kĩ, lạc hậu. Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhận thức và cách làm táo bạo hơn để cải thiện công nghệ sản xuất của mình. Kim ngạch nhập khẩu máy móc, thiết bị luôn đứng đầu trong các mặt hàng nhập khẩu của nước ta. Tuy nhiên, trên 50% máy móc thiết bị nhập khẩu của ta trong những năm gần đây là từ các nước có nền công nghệ trung gian, thậm chí trình độ công nghệ không cao. Thực tế ta chưa tiếp nhận được sự chuyển giao công nghệ nguồn của những nước phát triển. Thứ ba, các doanh nghiệp còn thiếu sự chủ động trong việc thu thập thông tin tìm hiểu thị trường. Chẳng hạn, thị trường Liên bang Nga, một thị trường truyền thống, giàu tiềm năng, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này còn rất khiêm tốn do các doanh nghiệp Việt Nam thiếu thông tin chuẩn xác và cần thiết về thị trường, phương tiện, phương thức vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu, chất lượng hàng hoá buôn bán và đặc biệt là cơ chế thanh toán trong ngoại thương. Tuy rằng, đây là những vấn đề khó cần sự trợ giúp, tháo gỡ rất nhiều của Chính phủ nhưng nếu các doanh nghiệp thực sự mong muốn và chủ động trong việc thâm nhập thị trường này thì chính họ sẽ tự tháo gỡ phần nào những khó khăn của mình. Nguyên nhân từ phía Chính phủ: Hiện nay ở Việt Nam chưa có văn bản pháp luật nào quy định hướng dẫn các giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu để các NHTM áp dụng vào thực tế và cũng chưa có căn bản pháp luật nào đề cập mối quan hệ pháp lí giưã giao dịch hợp đồng ngoại thương của người mua và người bán với giao dịch tín dụng chứng từ của các ngân hàng. Các NHTM Việt Nam vẫn áp dụng UCP 500 (Qui tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, xuất bản năm 1993, do phòng thương mại quốc tế phát hành) vào giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu, tuy rằng UCP 500 được công nhận rộng rãi bởi nhiều quốc gia trên thế giới nhưng nó lại là các nguyên tắc tự nguyện, được xây dựng trên cơ sở thông lệ quốc tế chứ không dựa trên đặc thù nền kinh tế, tập quán hay luật pháp của bất cứ nước nào. Do vậy, đối với các NHTM Việt Nam mỗi khi xảy ra tranh chấp trong giao dịch tín dụng chứng từ thì thường rất khó giải quyết, gây cản trở đối với ngân hàng trong hoạt động này. Chính sách của Nhà nước và văn bản của các ngành chức năng chưa đồng bộ, chưa phù hợp với tình hình phát triển của công tác thanh toán. Nhiều chính sách ban hành chưa lâu đã bị sửa đổi ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như chính sách về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng... Luật các tổ chức tín dụng đã được ban hành nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành chưa đầy đủ gây ảnh hưởng không tốt tới hoạt động của các ngân hàng. Luật cho hoạt động thanh toán quốc tế như các luật về séc ngoại hối, thương phiếu... chưa được ban hành. Những thiếu sót về mặt pháp lí này đã bị lợi dụng tác động không nhỏ tới hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Từ năm 1998 đến nay, chính phủ đã thực hiện, mở rộng hơn nữa quyền tự chủ xuất nhập khẩu. Việc nhập khẩu được quản lí chặt chẽ hơn, một số mặt hàng được Nhà nước đảm bảo cân đối ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu. Hoạt động gia công nước ngoài được đơn giản hoá hơn và được qui định chi tiết hơn. Thủ tục xuất khẩu đã và đang được nghiên cứu và áp dụng ngày càng đa dạng hơn, có tác dụng mạnh mẽ như: thưởng xuất khẩu, hỗ trợ tín dụng xuất khẩu, ưu tiên về thuế... Tuy nhiên, cơ chế quản lí xuất nhập khẩu vẫn bộc lộ những hạn chế như: các thủ tục chi tiết, có nơi, có lúc vẫn phát sinh vướng mắc, chưa công bố những mặt hàng chuyên ngành do các Bộ, đơn vị có trách nhiệm giải quyết, việc phân biệt các loại nguyên liệu chưa cụ thể, gây khó khăn cho việc áp thuế. Các nguyên nhân khác: Việc Ngân hàng Nhà nước qui định: các doanh nghiệp chỉ được mở tài khoản ngoại tệ ở một ngân hàng đã gây ra những hạn chế cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Khách hàng sẽ phải cân nhắc và lựa chọn ngân hàng nào có đủ ngoại tệ cũng như có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu của họ, làm cho hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN nói chung và của Sở giao dịch I nói riêng gặp nhiều khó khăn bởi họ sẽ giao dịch với Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, ngân hàng đầu tiên có hoạt động kinh doanh đối ngoại tại Việt Nam và đã có uy tín trên thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới, và giao dịch với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Trong việc thiết lập quan hệ đại lí với các ngân hàng nước ngoài, với phương châm uy tín, hiệu quả, đảm bảo đôi bên cùng có lợi để duy trì mối quan hệ lâu dài, NHCTVN ngày càng có nhiều mối quan hệ tốt với các ngân hàng nươc ngoài. Tuy nhiên, đến nay NHCTVN vẫn chưa có hoặc có quan hệ ít với một số ngân hàng của các nước vùng Trung Đông, Nam Mĩ,... là những thị trường tiềm năng đối với hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam. Qua quá trình tìm hiểu thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ chúng ta có thể thấy được những nỗ lực và thành tựu mà Sở giao dịch I NHCTVN đã đạt được, bên cạnh đó là những tồn tại và nguyên nhân làm cản trở việc phát triển hoạt động này. Vấn đề đặt ra là cần phải tìm ra các giải pháp, các hướng đi phù hợp trong thời kì hiện nay và tương lai để khắc phục nguyên nhân tiếp tục phát triển hoạt động này theo kịp với xu hướng phát triển nền kinh tế và sự phát triển của công nghệ ngân hàng. Chương III Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN 3.1. Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN. Các định hướng chủ yếu của Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời gian tới là : Định hướng tiếp thị của NHCTVN là không ngừng mở rộng hoạt động, nâng cao uy tín của ngân hàng tại Việt Nam và trên thế giới, tranh thủ mọi thuận lợi, đồng thời hạn chế thấp nhất rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ và quan hệ với đối tác nước ngoài. Tổ chức triển khai có chất lượng theo đúng hiệp định đã kí kết với nước ngoài, các tổ chức quốc tế lớn như WB, ADB. Mở rộng quan hệ hợp tác đối ngoại để có thêm sản phẩm, dịch vụ mới, nâng cao được khối lượng và chất lượng công tác thanh toán xuất nhập khẩu, thu hút được các khách hàng lớn, nhất là các khách hàng xuất khẩu. đảm bảo cung ứng đủ nguồn ngoại tệ cho khách hàng thanh toán hàng nhập và trả nợ vay nước ngoài. Phát huy thế mạnh và kinh nghiệm sử dụng vốn trên thị trường tiền tệ, thị trường liên ngân hàng nội, ngoại tệ để sử dụng linh hoạt vốn khả dụng, vừa đảm bảo được khả năng thanh toán, vừa không vi phạm qui chế dự trữ bắt buộc của Ngân hàng Nhà nước, vừa đạt hiệu quả cao. Hiện đại hoá công nghệ và mạng tin học nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, giảm chi phí lao động, tăng sức cạnh tranh, phục vụ tốt yêu cầu quản lí và quan trọng hơn cả là đảm bảo tính an toàn, bảo mật trong thông tin ngân hàng, góp phần hỗ trợ cho công tác điều hành. 3.2. Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN. 3.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán Việc nâng cao năng lực của cán bộ không chỉ là nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ mà cần phải thực hiện đổi mới một cách triệt để về nhận thức của cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế về tác phong làm việc, phong cách giao tiếp phục vụ khách hàng. Người cán bộ ngân hàng không chỉ giỏi về nghiệp vụ mà còn phải là người nhiệt tình, niềm nở, giải quyết công việc nhanh chóng, chính xác, không gây phiền hà cho khách hàng, sẵn sàng hướng dẫn và giúp khách hàng làm thủ tục một cách nhanh gọn, tư vấn cho khách hàng thực hiện hoạt động của mình an toàn và hiệu quả nhất. Để thực hiện giải pháp này, Sở nên thực hiện: Tổ chức các lớp nghiệp vụ ngắn hạn để đào tạo chuyên sâu về chuyên môn thanh toán quốc tế, trang bị các kiến thức về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới, triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam, luật lệ, tập quán thương mại quốc tế và phổ biến các kĩ thuật thanh toán mới được áp dụng trên thế giới... Đặc biệt trong những lớp học này có thể mời các chuyên gia nước ngoài về thanh toán quốc tế gỉang dạy để các cán bộ và nhân viên ngân hàng trong các bộ phận liên quan đến thanh toán quốc tế có điều kiện trau dồi về nghiệp vụ cũng như ngoại ngữ. Cử cán bộ tham gia các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên môn về thanh toán quốc tế trong nước cũng như nước ngoài để tiếp cận với những kiến thức thanh toán quốc tế hiện đại Cử cán bộ đi du học nước ngoài chuyên về lĩnh vực thanh toán quốc tế, tìm hiểu những thông tin về thanh toán quốc tế mà trong kinh doanh thương mại quốc tế hiện nay đang được sử dụng và trong tương lai gần sẽ áp dụng tại các nước công nghiệp phát triển. Phát huy vai trò chủ động sáng tạo của các thanh toán viên, tích cực lắng nghe ý kiến của họ, khuyến khích họ nêu ra các sáng kiến mới, thường xuyên phân tích các nhược điểm, các vụ việc làm khách hàng phàn nàn, từ đó tìm ra cách khắc phục. 3.2.2.Thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng: Trước hết Sở nên đẩy mạnh công tác tiếp thị, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như: trên sóng phát thanh, truyền hình hay qua báo chí của trung ương cũng như các báo địa phương hay trên mạng internet bằng việc xây dựng các Website nhằm giới thiệu các sản phẩm của Sở như: các hình thức huy động vốn, các loại hình cho vay, các hình thức dịch vụ bằng ngoại tệ, các phương thức thanh toán trong nước cũng như quốc tế, cũng như qui trình thực hiện các sản phẩm này..., nhằm thu hút khách hàng. Ngoài việc đẩy mạnh tiếp thị quảng cáo thì việc đổi mới phong cách phục vụ, giao tiếp văn minh, lịch sự như trên vừa trình bày cũng là điều rất cần thiết. ấn tượng tốt đẹp khi tới ngân hàng được thể hiện qua phong cách, thái độ phục vụ văn minh, lịch sự của các cán bộ ngân hàng. Đồng thời đây cũng chính là nghệ thuật lôi kéo khách hàng và giữ khách hàng có hiệu quả nhất. Trên thực tế cho thấy sự quyết định lựa chọn của khách hàng trong giao dịch nhiều khi không phải do quảng cáo đem lại mà chính là do phong cách giao tiếp, thái độ phục vụ tận tình, lịch thiệp của nhân viên ngân hàng. Sở cũng nên thực hiện chính sách chủ động tìm kiếm khách hàng, chẳng hạn như xây dựng bộ phận chuyên làm công tác tiếp thị, quảng cáo hoặc từng phòng nghiệp vụ có thể phân chia khu vực hoạt động của Sở thành các khu vực nhỏ hơn và khuyến khích các cán bộ của phòng tích cực tìm kiếm khách hàng trong khu vực mà mình phụ trách. Việc tìm kiếm khách hàng ở đây chính là việc chủ động tiếp xúc với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu cụ thể của họ, như: các nhu cầu về tăng vòng quay bán hàng, giảm chậm trễ trong các khâu thanh toán tiền hàng, giảm chi phí trong các giao dịch thanh toán, loại bỏ rủi ro trong khâu thu tiền và giao hàng v.v... Việc tiến hành các biện nhằm thu hút khách hàng sẽ không mang lại hiệu quả nếu như Sở không tiếp tục chăm sóc, củng cố mối quan hệ với khách hàng. Do đó, Sở cũng cần nắm bắt được các thông tin từ phía khách hàng như: tình hình tài chính, năng lực sản xuất, kinh doanh, sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm cũng như các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v... Việc chủ động nắm bắt thông tin từ phía khách hàng sẽ tạo thuận lợi cho Sở trong việc phân loại khách hàng, từ đó xây dựng các chính sách khách hàng phù hợp với từng nhóm khách hàng, thực hiện lới lỏng các qui định trong qui trình nghiệp vụ mà vẫn đảm bảo an toàn trong thanh toán và tạo được sự thông thoáng, hấp dẫn khách hàng. Với những khách hàng mới, để tạo ấn tượng tốt đối với họ Sở có thể xem xét giảm phí giao dịch cho họ, hoặc các biện pháp khác như thăm hỏi, hay quà tặng là một ví dụ. Với những khách hàng truyền thống, những khách hàng có khối lượng giao dịch lớn, số lần giao dịch nhiều, hay những khách hàng tuy nhỏ nhưng có tình hình tài chính vững vàng Sở có thể xem sét giảm tỷ lệ kí quĩ mở L/C, rút ngắn thời gian thẩm định khả năng thanh toán của họ, dành sự ưu đãi về giá mua bán ngoại tệ phục vụ cho thanh toán quốc tế, ưu đãi về lãi suất tiền gửi áp dụng với các khoản kí quĩ có thời hạn dài hoặc thực hiện chính sách khuyến khích khác như: thưởng, v.v... Do chủ động nắm bắt thông tin từ phía khách hàng sẽ tạo thuận lợi hơn cho cả ngân hàng và khách hàng trong việc vay vốn để sản xuất hàng hoá xuất khẩu như có những ưu đãi về vốn vay và lãi suất vay, ưu đãi trong việc thế chấp tài sản, tiến hành trả tiền trước để doanh nghiệp có thể quay vòng vốn nhanh thông qua nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hay cung cấp những thông tin về thị trường, về các đối tác nước ngoài v.v..., cung cấp thông tin phục vụ cho doanh nghiệp nhập khẩu như những thông tin về đối thủ cạnh tranh, về chất lượng sản phẩm và khả năng tiêu thụ sản phẩm v.v... Sở cũng nên xây dựng ngân hàng dữ liệu lưu trữ các thông tin về khách hàng tạo thuận lợi trong việc tìm kiếm thông tin về khách hàng khi cần thiết được nhanh chóng, chính xác. Sở cũng tổ chức Hội nghị khách hàng, nếu không có điều kiện để mời tất cả các khách hàng thì nên tập trung vào các khách hàng truyền thống, các khách hàng có khối lượng giao dịch lớn, thường xuyên, để trao đổi tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, nắm bắt được nhu cầu và nguyện vọng của họ. Hội nghị khách hàng cũng là một dịp để ngân hàng khuếch chương thanh thế, thu hút thêm khách hàng mới. 3.2.3. Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng đối với hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ: Như đã trình bày ở chương II, một trong những nguyên nhân gây ra những hạn chế, tồn tại trong việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ là sự thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức này. Vì vậy, trong thời gian tới Sở nên đẩy mạnh hơn nữa công tác tư vấn khách hàng và việc tư vấn này phải được thể hiện bằng văn bản vì làm như vậy sẽ đảm bảo tính pháp lí trong giao dịch giữa các thanh toán viên của Sở với khách hàng, tăng cường độ tin cậy của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả của công tác tư vấn. *Đối với đơn vị nhập khẩu: Người nhập khẩu gây ra rủi ro cho ngân hàng mở khi họ mất khả năng thanh toán hoặc cố tình vi phạm cam kết của mình. Để có thể đem lại lợi ích chính đáng cho nhà xuất khẩu và bảo vệ quyền lợi của ngân hàng, các cán bộ cần tư vấn cho những vấn đề như: -Tư vấn cho đơn vị nhập khẩu nên mở loại L/C nào: Đối với những khách hàng là đơn vị nhập khẩu máy móc thiết bị giá trị lớn mà phía đối tác nước ngoài yêu cầu có tiền đặt cọc, thanh toán viên có thể khuyên họ sử dụng L/C dự phòng vì đây là hình thức mà người nhập khẩu được đảm bảo sẽ nhận được sản phẩm cung ứng từ nhà xuất khẩu, đồng thời người nhập khẩu còn được bồi hoàn toàn bộ số tiền đặt cọc cũng như chi phí liên quan nếu người xuất khẩu không thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo yêu cầu. Đối với đơn vị nhập khẩu hàng hoá với khối lượng lớn, giao hàng nhiều lần nên tư vấn cho họ sử dụng L/C tuần hoàn. Đây là phương thức giúp cho khách hàng trách được tình trạng ứ đọng vốn và giảm được chi phí cũng như các thủ tục có liên quan. Đối với khách hàng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về gia công sau đó xuất khẩu sang nước cung cấp nguyên liệu, thanh toán viên có thể tư vấn cho họ sử dụng loại L/C đối ứng, hình thức đảm bảo nhất cho các đơn vị gia công. Loại L/C này đảm bảo đồng thời thanh toán cho người xuất khẩu giá trị nguyên liệu nhập khẩu cũng như sản phẩm hàng hoá được sản xuất từ chính nguyên liệu đó. Trong trường hợp này việc sử dụng L/C đối ứng đem lại ưu việt hơn hẳn sử dụng L/C không huỷ ngang bởi lẽ sau khi nhập và thanh toán giá trị nguyên liệu, các sản phẩm sản xuất ra không được phía đối tác đồng ý nhập lại và người gia công sẽ gặp phải rủi ro lớn do hàng hoá mang tính đặc thù khó có thể bán được v.v... -Tư vấn cho đơn vị trong việc đưa các điều khoản vào L/C. Không nên đưa quá nhiều điều khoản vào vì dễ dẫn đến sai sót. -Tư vấn cho đơn vị trong việc chấp nhận các yêu cầu của bên bán khi mở L/C, khi sửa đổi L/C sao cho không làm tổn hại đến lợi ích của mình v.v... *Đối với các đơn vị xuất khẩu: Các đơn vị xuất khẩu thường gây rủi ro cho ngân hàng thông báo, ngân hàng chiết khấu khi họ lập bộ chứng từ không hoàn hảo và bị từ chối thanh toán. Để tránh rủi ro đó ngân hàng có thể tư vấn cho những vấn đề như: Tư vấn cho các doanh nghiệp xuất khẩu yêu cầu bên mua mở cho mình một L/C đảm bảo nhất. Hiện nay, loại L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi là có lợi nhất cho người bán. Tuy nhiên không nhất thiết trường hợp nào cũng phải mở L/C có xác nhận vì phí xác nhận cao và bên nhập khẩu phải kí quĩ tại ngân hàng mở, nếu có khó khăn đối với nhà nhập khẩu họ có thể không thực hiện hợp đồng thương mại. Cán bộ ngân hàng cần phải giúp cho đơn vị xuất khẩu tìm hiểu kĩ các điều khoản và điều kiện trong L/C, tránh những sai sót về chứng từ để có thể làm cho ngân hàng nước ngoài từ chối thanh toán. Các thanh toán viên nên tư vấn cho đơn vị cách thức đòi tiền bằng thư hay bằng điện. L/C cho phép đòi tiền bằng điện là cách thức có lợi hơn cả vì tiền được thu nhanh hơn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay của vốn. Tư vấn cho đơn vị trong việc chọn ngân hàng mở L/C và ngân hàng thanh toán. Những ngân hàng càng lớn, càng có uy tín, quan hệ tốt và thường xuyên thanh toán sòng phẳng thì việc thanh toán sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Tư vấn cho đơn vị các điều kiện bất lợi của L/C như thời hạn giao hàng muộn nhất, thời hạn hiệu lực của L/C...Khi thông báo cho doanh nghiệp xuất khẩu, Sở cũng đồng thời tư vấn cho doanh nghiệp tiến hàng kiểm tra chứng từ tín dụng để đơn vị có thể chấp nhận những điều khoản L/C có lợi nhất cho mình. Các cán bộ làm công tác thanh toán quốc tế cũng nên tư vấn cho khách hàng cách giải quyết khi bộ chứng từ có sai sót, xem xét kĩ những lí do từ chối mà ngân hàng mở đưa ra có hợp lí không. Tư vấn cho doanh nghiệp trong trường hợp giải quyết hàng hoá khi bị từ chối, hàng hoá đã chuyển ra nước ngoài, vì vậy doanh nghiệp phải có các biện pháp khẩn cấp để hạn chế tối đa thiệt hại. Trong trường đó, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp liên hệ với ngân hàng đại lí nước ngoài nhờ họ giữ hộ hàng hoá hoặc tìm cách tiêu thụ hộ. Ngoài ra, ngân hàng còn nên tư vấn cho doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp giữa họ với bên mua nước ngoài. 3.2.4. Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh: Hiểu biết đối thủ cạnh tranh là điều kiện quan trọng để hoạch định chính sách đối phó có hiệu quả, vì thế nên có các biện pháp phân tích đối thủ cạnh tranh, tránh việc thu thập thông tin về đối thủ cạnh tranh một cách tự phát. Bằng việc thường xuyên theo dõi và nắm bắt các thông tin về đối thủ cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như thị trường khu vực và thị trường quốc tế để có thể biết được những ngân hàng, những tổ chức tài chính nào mới ra đời, từ đó nghiên cứu phân tích chính sách kinh doanh, thực trạng tình hình khả năng tài chính của họ, tìm ra ưu nhược điểm của họ, nhằm có nhận định hay đánh giá kịp thời về đối thủ cạnh tranh đó. Việc thường xuyên có những phân tích đối thủ cạnh tranh sẽ giúp ngân hàng biết được những sản phẩm, những chính sách ưu đãi để thu hút khách hàng của họ, học hỏi được kinh nghiệm cũng như cách thức tiến hành công việc của họ..., từ đó đề ra những chính sách, chiến lược phát triển, có kế hoạch hoạt động kinh doanh phù hợp. 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị đối với NHCTVN. 3.3.1.1.Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ. Việc hoàn thiện quy trình nghiệp vụ cần theo hướng làm sao cho quy trình, thủ tục thực hiện quá trình thanh toán được đơn giản, nhanh gọn, chính xác, chặt chẽ và có tính hấp dẫn khách hàng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cán bộ làm công tác thanh toán, tăng khả năng cạnh tranh của các chi nhánh; đơn giản các khâu nghiệp vụ, chỉ tiến hành khi thật cần thiết, giảm tối đa các yêu cầu chứng từ, giấy tờ con dấu... đối với khách hàng, bởi càng nhiều giấy tờ việc kiểm tra càng mất thời gian. Đồng thời giảm được chi phí cho doanh nghiệp, đảm bảo cạnh tranh được với các ngân hàng thương mại khác. Do vậy, NHCTVN nên qui định lại, cho phép bỏ thủ tục doanh nghiệp phải làm đơn xin mua ngoại tệ khi có hợp đồng ngoại cần thanh toán mà chỉ cần viết uỷ nhiệm chi là đủ. Việc chiết khấu chứng từ thực ra là một hình thức cấp tín dụng cho khách hàng, giúp khách hàng nhanh chóng thu được tiền bán hàng, tránh đọng vốn trong khâu lưu thông. Và trong nghiệp vụ chiết khấu chứng từ hàng xuất nên bao gồm cả chiết khấu truy đòi và chiết khâú miễn truy đòi. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay việc không thực hiện nghiệp vụ chiết khấu hoặc thiếu hình thức chiết khấu miễn truy đòi có thể tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại khác kéo mất khách hàng. Và rủi ro với ngân hàng lúc này không chỉ là bộ chứng từ có được thanh toán hay không mà nguy hiểm hơn là đã để mất khách hàng. Để thực hiện tốt nghiệp vụ này, ngoài việc kiểm tra bộ chứng từ có hoàn hảo không, các chi nhánh cần phải chuẩn bị đầy đủ những thông tin về khách hàng như: hoạt động kinh doanh có tốt không, có khả năng hoàn trả tiền mà chi nhánh đã thanh toán khi ngân hàng mở hoặc ngân hàng xác nhận từ chối thanh toán,... Do vạy việc các chi nhánh tăng cường chính sách chăm sóc khách hàng như đã trình bày ở trên là ráat cần thiết. Bên cạnh đó, các chi nhánh cũng cần thiết lập hệ thống thông tin giữa các ngân hàng trong và ngoài hệ thống về tình hình tài chính, uy tín của doanh nghiệp, phát huy hiệu quả bộ máy thông tin giữa các ngân hàng đại lí để có những thông tin chính xác về ngân hàng mở L/C và nhà nhập khẩu. 3.3.1.2. Đổi mới công nghệ ngân hàng: Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của hệ thống NHCTVN là một đòi hỏi bức thiết. Công nghệ thanh toán là yếu tố quan trọng đẩy nhanh tốc độ thanh toán, nâng cao chất lượng thanh toán, giảm chi phí và góp phần vào việc xây dựng một hệ thống thanh toán tiên tiến, hội nập với cộng đồng ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, phát triển thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng và thanh toán quốc tế nói chung không thể không gắn liền với quá trình đổi mới công nghệ ngân hàng. Do vậy, trong thời gian tới kiến nghị NHCTVN : Xây dựng các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin làm nền tảng cho các ứng dụng và dịch vụ ngân hàng, trong đó có thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ, gồm: Phát triển các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu. Xây dựng kho dữ liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lí thông tin và ra các quyết định điều hành kinh doanh một cách nhanh chóng chính xác. Tiêu chuẩn hoá hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản trị điều hành: quản lí tài chính, quản lí rủi ro, quản lí quan hệ khách hàng, quản lí lợi nhuận, quản lí tài sản và nguồn vốn, quản lí nguồn nhân lực liên quan đến công tác thanh toán quốc tế. Chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác thanh toán quốc tế. Các chương trình này phải tạo ra các mẫu điện phù hợp với mỗi phương thức thanh toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các chi nhánh khác trong nước và các ngân hàng đại lí trên toàn thế giới. Đồng thời với việc chỉnh sửa, xây dựng các chương trình phần mềm là tăng cường đội ngũ làm công tác tin học nhằm thu hút các chuyên gia tin học giỏi về làm việc cho ngân hàng. Nhanh chóng triển khai dự án xây dựng ngân hàng điện tử, nối mạng giao dịch với các khách hàng, trước mắt là với các khách hàng lớn. 3.3.1.3. Tăng cường quan hệ đại lí quốc tế nhằm mở rộng mạng lưới thanh toán. Mở rộng quan hệ đại lí với các ngân hàng nước ngoài kể cả về số lượng và chất lượng cũng là một đòi hỏi rất quan trọng. Việc xây dựng mối quan hệ với nhiều ngân hàng sẽ giúp NHCTVN có thể tranh thủ được nguồn vốn, kĩ thuật và kinh nghiệm của các ngân hàng nước ngoài đồng thời đẩy nhanh tốc độ giao dịch. Xây dựng quan hệ đại lí phải với phương châm uy tín, hiệu quả, đảm bảo đôi bên cùng có lợi để duy trì mối quan hệ lâu dài, tránh tình trạng chỉ chạy theo số lượng mà không chú ý tới chất lượng, bởi có nhiều ngân hàng chưa thật sự có thiện chí trong việc hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau, mà họ thiên về bảo vệ quyền lợi của ngân hàng nước họ nên có trường hợp họ cố tình bắt lỗi chứng từ, có thể những trường hợp như vậy chưa xảy ra với NHCTVN nhưng theo em đó là một quan điểm rất đúng. Hiện nay, NHCTVN có quan hệ với khoảng 600 ngân hàng ở hơn 50 nước trên thế giới, tuy nhiên ở nhiều thị trường giàu tiềm năng mạng lưới ngân hàng có quan hệ đại lí rất mỏng nên các giao dịch diễn ra khó khăn và thường phải thông qua ngân hàng trung gian nên tốn kém nhiều chi phí. Trong thời gian tới NHCTVN cần chú trọng mở rộng và phát triển mối quan hệ với các ngân hàng, đặc biệt là ở nhũng thị trường xuất nhập khẩu quan trọng của Việt Nam như: thị trường Nhật Bản, EU, Liên bang Nga, Châu Mĩ bao gồm khối NAFTA ở Bắc Mĩ và khối MERCOSUR ơ Nam Mĩ, Trung Đông, Trung Quốc và thị trường ASEAN. 3.3.1.4. Có chính sách khuyến khích kịp thời. NHCTVN cần điều chỉnh các chính sách tiền lương, khen thưởng, trợ cấp hợp lí nhằm khuyến khích động viên những cá nhân, tập thể có thành tích tốt trong công tác nhằm khích lệ cán bộ cống hiến vì sự phát triển lớn mạnh của ngân hàng. 3.3.2. Kiến nghị đối với Nhà nước: 3.3.2.1. Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng: Nhà nước đóng vai trò quản lí vĩ mô trong nền kinh tế, các chính sách kinh tế của nhà nước tác động trực tiếp đến hoạt động kinh tế trên toàn bộ lãnh thổ quốc gia nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Trong thời gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, có nhiều văn bản phải sửa đổi bổ sung nhiều lần, không có tính ổn định nên việc thực thi và áp dụng trong thực tế rất khó. Hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành từ năm 1990, song tới nay có nhiều điểm không phù hợp, có nhiều vấn đề mới nảy sinh chưa được qui định cụ thể. Chính vì vậy luật ngân hàng đã được ban hành năm 1998 phần nào giải quyết được những vấn đè trên. Nhưng Nhà nước cần phải ban hành những văn bản qui định về nghiệp vụ thanh toán quốc tế để các ngân hàng thương mại có cơ sở để thực hiện. Từ khi UCP 500 có hiệu lực tại Việt Nam, tất cả các ngân hàng thương mại của Việt Nam đều áp dụng vào giao dịch thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ nhằm hoà nhập vào mạng lưới thanh toán quốc tế. Về lí thuyết, việc áp dụng UCP 500 ở nước ta là tuyệt đối, không chịu bất kì một sự điều chỉnh nào, nhưng những văn bản luật hoặc văn bản dưới luật qui định hướng dẫn việc thực hiện UCP 500 là điều rất cần thiết. Thực tế cho thấy tất cả các nước có hoạt động thanh toán quốc tế và đã áp dụng UCP 500 họ đều có những văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 500. Vì vậy đề nghị Nhà nước trong thời gian tới sớm xây dựng những văn bản pháp luật hướng dẫn để các ngân hàng có thể ổn định, phát triển, và nâng cao chất lượng hoạt động, đồng thời còn là cơ sở để giải quyết những tranh chấp xảy ra. Ngoài việc cần thiết xây dựng các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện UCP 500, Nhà nước cũng cần xây dựng các văn bản pháp luật phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế như: luật về séc, luật về hối phiếu,... hay như các văn bản luật để giải quyết các tranh chấp về thư tín dụng. Xét về bản chất thư tín dụng ra đời trên cơ sở hợp đồng thương mại nhưng khi lập song nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng thương mại. Khi có tranh chấp thương mại xảy ra, quan hệ giữa người mua và người bán được điều chỉnh bởi luật kinh tế nhưng còn tranh chấp thư tín dụng, thư tín dụng có phải là hợp đồng kinh tế hay không? Đây là vấn đề cần quan tâm khi xây dựng, bổ sung. 3.3.2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lí xuất nhập khẩu. Để đẩy mạnh xuất khẩu hoàn thiện nhập khẩu trong điều kiện mở cửa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế, tạo điều kiện khách quan thuận cho việc phát triển hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức đầu tư chứng từ nói riêng, Nhà nước cần hoàn thiện cơ chế quản lí hoạt động xuất nhập khẩu theo hướng như: Hoàn thiện chức năng quản lí nhà nước đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hoá các thủ tục hành chính và sử dụng rộng rãi các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích và quản lí tốt hoạt động xuất nhập khẩu. Muốn vậy phải giảm dần số lượng mặt hàng theo danh mục quản lí chuyên ngành và phải thông báo rõ ràng mặt hàng nào thuộc bộ, ngành nào quản lí. Tăng đối tượng được hưởng và số tiền thưởng xuất khẩu để lôi cuốn các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính phủ cần tiếp tục phát huy tính chủ động tích cực trong định hướng, giám sát và hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Thường xuyên tổ chức các cuộc tiếp xúc đối thoại trực tiếp giữa Chính phủ, các Bộ và các doanh nghiệp nhằm kịp thời giải quyết khó khăn vướng mắc trong hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước sớm xây dựng các chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh với nội dung cụ thể theo từng thời gian, từng nhóm nước. Nhà nước cần có những thông tin kịp thời, chính xác về thị trường thế giới. Nếu thiếu thông tin gía cả, nhu cầu thị trường các doanh nghiệp sẽ không dự đoán chính xác xu hướng thị trường, kinh doanh có thể thua lỗ.... Sớm hoàn thiện hệ thống luật pháp (trước hết là liên quan đến ngoại thương) theo hướng đầy đủ, đồng bộ, ổn định và nhất quán. Rà soát và xem xét lại các văn bản pháp luật, tránh chồng chéo. Kiện toàn bộ máy quản lí xuất nhập khẩu từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm đội ngũ quản lí nhà nước về xuất nhập khẩu, qui định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm cho từng loại cán bộ quản lí, có hình thức thưởng phạt thích đáng để góp phần xoá bỏ những tiêu cực trong hoạt động xuất nhập khẩu. Điều chỉnh cơ chế quản lí xuất nhập khẩu thông qua việc áp dụng đa dạng các công cụ và biện pháp trong ngoại thương theo hướng ngày càng lới lỏng, mềm dẻo và tạo điều kiện thúc đẩy kinh doanh xuất nhập khẩu phát triển. Song song với việc đa dạng hoá thị trường, sản phẩm, và đối tác, cần phải đa dạng hoá các công cụ điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế. Muốn thúc đẩy xuất khẩu thì việc nhập khẩu máy móc thiết bị nguyên, vật liệu... để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu cũng phải được coi trọng như: ưu tiên lãi suất theo cơ chế tỷ giá, trợ cấp trực tiếp, miễn thuế các chi phí đầu vào, giá cả các dịch vụ công cộng, cước phí vận tải, bảo hiểm, lãi suất ngân hàng, giá điện, nước, đội ngũ cán bộ, chuyên gia kĩ thuật phục vụ cho việc chuyển giao công nghệ. 3.3.2.3. Các kiến nghị khác Chính phủ hoặc các bộ ngành chủ quản cũng cần tăng cường đào tạo kiến thức về thanh toán quốc tế cho cán bộ của các đơn vị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu như tổ chức các lớp học tập trung hoặc phổ biến kiến thức thông qua các phương tiện khác như trên sóng đài truyền hình, trên mạng Internet. Tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích các đơn vị sản xuất hợp tác với các viện nghiên cứu để có thể đưa các công trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất, hỗ trợ cán bộ kĩ thuật kịp thời cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại hoá dây truyền công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Kết luận Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đang đặt ra những thách thức và cả những vận hội mới cho các quốc gia trong đó có Việt Nam trên con đường phát triển kinh tế xã hội của mình. Do vậy con đường duy nhất để Việt Nam phát triển là phải tăng cường các quan hệ kinh tế đối ngoại, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với tư cách là trung gian tài chính bằng việc cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế ngày càng hoàn hảo sẽ góp phần đáng kể vào việc đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế của nước ta đi đến thành công. Để đáp ứng được đòi hỏi đó của nền kinh tế, trong những năm qua các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung và Sở giao dịch I NHCTVN nói riêng đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ nhằm ngày càng hoàn thiện qui trình nghiệp vụ của mình. Tuy nhiên trong những năm qua vẫn còn tồn tại những vướng mắc làm cản trở sự phát triển sự phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở giao dịch I NHCTVN. Với chuyên đề “Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN” em đã tập trung phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở cùng với lí luận và phương hướng hoạt động của Sở và của NHCTVN trong những năm tới để từ đó đề ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Trong quá trình nghiên cứu do hiểu biết còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi sai sót, em rất mong nhận được những ý kiến, đóng góp của các thầy cô giáo, các cô chú, anh chị tại phòng KDĐN Sở giao dịch I NHCTVN và các bạn nhằm bổ sung hoàn thiện luận văn tốt nghiệp của mình. Tài liệu tham khảo Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế- Lê Văn Tề- Hồ Chí Minh- 1994. Nghiệp vụ hối đoái và thanh toán quốc tế – Lê Văn Tề – NXB: Thống kê - 1999. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ- Lê Văn Tư, Lê Tùng Vân- NXB: Thống Kê- 2000. Thanh toán và tín dụng quốc tế- Hà Nội- Trường cán bộ cao cấp ngân hàng- 1993. Thanh toán quốc tế trong ngoại thương- Đinh Xuân Trình- Trường Đại Học Ngoại Thương- 1998. Tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán quốc tế của NHCTVN. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của phòng KDĐN và của Sở giao dịch I NHCTVN. Qui tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, số 500, xuất bản năm 1993 của ICC. Tạp chí Ngân hàng, Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ, Tạp chí Công nghiệp, Tạp chí Con số và Sự kiện các năm 1999, 2000, 2001. Mục lục Chương I: Một số vấn đề lí luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. 1.1.Khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế 3 1.1.1.Khái niệm 3 1.1.2.Vai trò của hoạt động thanh toán quốc tế đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng 5 1.1.3.Các phương tiện thanh toán quốc tế phổ biến 6 1.1.3.1.Hối phiếu 6 1.1.3.2.Séc 16 1.1.4.Điều kiện trong thanh toán quốc tế 19 1.1.4.1.Điều kiện về tiền tệ 19 1.1.4.2.Điều kiện địa điểm thanh toán 22 1.1.4.3.Điều kiện thời gian thanh toán 22 1.1.4.4.Điều kiện phương thức thanh toán 23 a)Phương thức chuyển tiền 23 b)Phương thức ghi sổ 24 c)Phương thức nhờ thu 24 d)Phương thức tín dụng chứng từ 24 1.2.Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 25 1.2.1.Khái niệm chung về phương thức tín dụng chứng từ 25 1.2.2.Trình tự chung tiến hành nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ 26 1.2.3.Thư tín dụng thương mại là một công cụ quan trọng của phương thức tín dụng chứng từ 27 1.2.3.1.Khái niệm 27 1.2.3.2.Những nội dung chủ yếu của một thư tín dụng thương mại 27 1.2.3.3.Phân loại thư tín dụng thương mại 34 chương II: Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN 2.1.Khái quát về Sở giao dịch I NHCTVN 38 2.1.1.Quá trình hình thành và phát triển 38 2.1.2.Cơ cấu tổ chức 39 2.1.3.Kết quả một số mặt hoạt động của Sở giao dịch I trong một vài năm qua 43 2.1.3.1.Huy động vốn 43 2.1.3.2.Đầu tư tín dụng 44 2.1.3.3.Hoạt động kinh doanh đối ngoại 45 2.1.3.4.Công tác kế toán – thông tin điện toán 45 2.1.3.5.Kết quả kinh doanh 46 2.2.Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch I NHCTVN 46 2.2.1.Quá trình tiến hành nghiệp vụ 46 2.2.1.1.Quá trình thanh toán L/C nhập khẩu 46 2.2.1.2. Quá trình thanh toán L/C xuất khẩu 52 2.2.2.Đánh giá kết quả đạt được trong thanh toán L/C phục vụ cho xuất nhập khẩu hàng hoá 57 2.2.2.1.Nhận xét chung 57 2.2.2.2.Tác động của hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đối với Sở giao dịch I NHCTVN 61 2.2.3.Những tồn tại và nguyên nhân 63 - Nguyên nhân chủ quan 63 - Nguyên nhân khách quan 65 +Nguyên nhân từ phía khách hàng 65 +Nguyên nhân từ phía Chính Phủ 66 +Các nguyên nhân khác 67 Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch INHCTVN 3.1.Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của NHCTVN 69 3.2.Giải pháp 70 3.2.1.Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thanh toán 70 3.2.2.Thực hiện chính sách chăm sóc khách hàng 71 3.2.3.Đẩy mạnh công tác tư vấn khách hàng 73 3.2.4.Tăng cường công tác phân tích đối thủ cạnh tranh 75 3.3.Kiến nghị 76 3.3.1.Kiến nghị đối với NHCTVN 76 3.3.1.1.Hoàn thiện quy trình nghiệp vụ 76 3.3.1.2.Đổi mới công nghệ ngân hàng 77 3.3.1.3.Tăng cường quan hệ đại lí quốc tế 78 3.3.1.4.Có chính sách khuyến khích kịp thời 78 3.3.2.Kiến nghị đối vớ Nhà Nước 79 3.3.2.1.Hoàn thiện môi trường pháp lí cho hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng 79 3.3.2.2.Hoàn thiện cơ chế quản lí xuất nhập khẩu ..........................80 3.3.2.3.Kiến nghị khác 81 Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0118.doc
Tài liệu liên quan