Chuyên đề Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại SGD Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam

Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và quá trình đi sâu nghiên cứu tìm hiểu, ta có thể thấy được bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh, đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong công tác tiến hành nghiệp vụ này tại Ngân hàng. Để từ đó đưa ra những giải pháp cùng những kiến nghị nhằm hoàn thiện, phát triển nghiệp vụ sánh ngang với những đòi hỏi của thực tế nền kinh tế-xã hội và nhu cầu phát triển của bản thân Ngân hàng. Cùng với thời gian, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng thể hiện vị thế quan trọng trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Bảo lãnh không những mang lại nguồn thu nhập từ phí dịch vụ cho ngân hàng, mà hơn thế nữa còn góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng không phải xuất vốn ra ngay, cũng không phải sử dụng vốn của mình mà đôi khi ngân hàng còn có thể sử dụng vốn của khách hàng qua những khoản ký quỹ trong các tài khoản phong toả thường không phải trả lãi. Có thể nói Ngân hàng có rất nhiều lợi thế khi thực hiện nghiệp vụ này nhưng đi cùng với đó là những rủi ro như một tất yếu khách quan mà ngân hàng phải gánh chịu. Trước những thách thức của nền kinh tế thị trường, trước những yêu cầu phát triển và khai thác triệt để những lợi thế của nghiệp vụ bảo lãnh mang lại, việc không ngừng hoàn thiện phát triển nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như toàn hệ thống ngân hàng nói chung có ý nghĩa vô cùng to lớn.

doc42 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1537 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh tại SGD Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thành lập ngày 01/04/1963 theo quyết định số 115/CP do Hội Đồng chính phủ ban hành trên cơ sở tách ra từ Cục quản lý ngoại hối trực thuộc Ngân Hàng Trung ương ( nay là NHNN ). Ngày 14/11/1990, NHNT chính thức chuyển từ một ngân hàng chuyên doanh, độc quyền sang hoạt động kinh tế ngoại sang NHTM NN hoạt động đa năng theo Quyết định số 403- CT của Chủ tịch hội đồng Bộ Trưởng. Năm 1991, SGD NHNT TW được thành lập. Ngày 20/01/2001 NHNT VN khai trường toà VCB Tower tại địa chỉ 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. VCB HO và SGD NHNT TW được đặt tại trụ sở này. Ngày 28/12/2005 theo quyết định số 1215/QĐ-NHNT. TCCB&ĐT của Hội đồng quản trị NHNT VN và tới ngày 01/01/2006 SGD được chính thức tách khỏi Hội Sở chính, hoạt động như 1 chi nhánh, có tư cách pháp nhân, có con giấu, có tài khoản riêng. Kể từ đây, toàn bộ giao dịch của các tổng công ty sẽ do HSC quản lý, còn giao dịch của tất cả đối tượng khách hàng khác : doanh nghiệp, cá nhân sẽ do SGD thực hiện. Ngày 30/10/2008, SGD NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam đã chính thức khai trương trụ sở hoạt động mới tại 31- 33 Ngô Quyền , Phường Hàng Bài, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Với trụ sở làm việc mới, SGĐ đã thêm 1 bước khẳng định sự độc lập, tự chủ trong hoạt động của mình. Bên cạnh hoạt động như 1 chi nhánh VCB với thị phần lớn trong nhiều lĩnh vực tại Hà Nội, SGD còn là nơi tiên phong thực hiện các chủ trương chinh sách của VCB, đi đầu trong việc thử nghiệm và triển khai các sản phẩm mới cũng như thực hiện 1 số nghiệp vụ đặc thù khác. 2.1.1.2 Cơ cấu tổ chức của SGD : S¬ ®å m« h×nh tæ chøc cña Së GD NHTMCP NTVNSGD 15 PGD Nhóm hỗ trợ Nhóm kinh doanh dịch vụ Nhóm tín dụng Nhóm thanh toán Phòng thanh toán thẻ Phòng thanh toán quốc tế Phòng quan hệ khách hàng Phòng quản lí nhân sự Phòng kinh doanh dịch vụ Phòng bảo lãnh Phòng quản lí nợ Phòng kế toán tài chính Phòng vay viện trợ Phòng ngân quỹ SGD Khách hàng thể nhân Phòng kiểm tra nội bộ Phòng vốn và kinh doanh ngoại tệ Phòng đầu tư dự án Phòng hành chính quản trị . Phòng khách hàng đặc biệt Phòng TD cho DN nhỏ và vừa Phòng tin học Phòng kế toán giao dịch Tổ quản lí quỹ ATM * Cơ cấu chức năng các phòng ban bao gồm 5 nhóm a) Nhóm hỗ trợ : - Phòng quản lí nhân sự - Phòng kế toán tài chính - Phòng kiểm tra nội bộ - Phòng hành chính quản trị - Phòng tin học b) Nhóm tín dụng : - Phòng quan hệ khách hàng - Phòng quản lí nợ - Phòng tín dụng trả góp và tiêu dùng - Phòng đầu tư dự án - Phòng tín dụng cho DN nhỏ và vừa c) Nhóm thanh toán : - Phòng thanh toán quốc tế - Phòng bảo lãnh - Phòng vay nợ viện trợ d) Nhóm kinh doanh dịch vụ : - Phòng thanh toán thẻ - Phòng hối đoái - Phòng tiết kiệm - Phòng ngân quỹ - Phòng vốn và kinh doanh ngoại tệ - Phòng khách hàng đặc biệt - Phòng kế toán giao dịch - Tổ quản lí quỹ ATM - Tổ phát triển nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ e) Các phòng giao dịch(PGD) 2.1.2. Hoạt động cơ bản của SGD : 2.1.2.1. Hoạt động cơ bản của SGD : Với hoạt động kinh doanh đa dạng, SGD VCB hiệ cung ứng tất cả các dịch vụ liên quan đến tiền tệ, ngân hàng và nhiều hoạt động khác theo Luật các TCTD, bao gồm: - Hoạt động huy động vốn: + Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế (không kì hạn và có kì hạn). + Nhận tiền gửi tiết kiệm từ dân cư. + Nhận tiền gửi từ các TCTD. + Phát hành kì phiếu, trái phiếu. - Hoạt động sử dụng vốn: + Cho vay trực tiếp các tổ chức kinh tế cà cá nhân, cho vay triết khấu. - Hoạt động dịch vụ: + Hoạt động vay nợ, viện trợ, chuyển tiền + Hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu. + Hoạt động nghiệp vụ hối đoái, đổi séc du lịch, nhờ thu trơn... + Hoạt động kinh doanh ngoại tệ. + Hoạt động kinh doanh thr tín dụng , thẻ ATM, thẻ ghi nợ... + Hoạt động bảo lãnh. 2.1.2.2. Kết quả kinh doanh : Trong những năm qua, tình hình thế giới có nhiều biến động và sự tác động của nó đến nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động của các Ngân hàng nói riêng là điều không thể tránh khỏi. Hoạt động trong bối cảnh như vậy, SGD NHTMCP NTVN chắc chắn sẽ gặp phải những khó khăn nhất định. Ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng số liệu sau Bảng 1.2 Kết quả công tác tài chính : Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh 07/08 So sánh 08/09 Số tiền (+/-) Tỷ lệ % (+/-) Số tiền (+/-) Tỷ lệ % (+/-) Tổng thu 2.135 2.657 2.453 522 24,4 -204 -7,7 - Trong đó: Thu lãi cho vay 1.780 2.487 2.239 707 39,7 -248 -9,9 Tổng chi 1.878 2.221 2.165 343 18,3 -56 -2,5 - Trong đó: Chi lãi TG, TV 1.374 1.668 1.524 294 21,4 -144 -8,6 Lợi nhuận TT 257 436 288 179 69,6 -148 -34 Đơn vị: tỷ đồng (Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2007, 2008, 2009) Tổng thu năm 2008 đạt 2.657 tỷ, tăng 522 tỷ so với năm 2007, tương đương với mức tăng là 24,4%. Trong đó nguồn thu chủ yếu là từ thu lãi cho vay đạt 2.487 tỷ, chiếm 93,6 % trong tổng thu nội bảng. Nó cho thấy khối lượng tín dụng tăng, chất lượng tín dụng được nâng cao, các đơn vị tổ chức thu lãi khá tốt. Về các khoản chi, chiếm tỷ trọng lớn là chi lãi tiền gửi, tiền vay 1.668 tỷ đồng, tăng so với năm 2007 là 294 tỷ đồng, tương đương tăng 21,4%. Khoản chi này tăng do nguồn vốn huy động trong năm tăng, lãi suất huy động tiền gửi tăng, mở rộng dư nợ. Tuy nhiên lợi nhuận đạt được là 436 tỷ đồng là một mức tương đối cao, tăng 69,6% so với năm ngoái. Năm 2009, lợi nhuận đạt 288 tỷ đồng, giảm 148 tỷ so với 2008. Tổng thu đạt 2.453 tỷ đồng, giảm 204 tỷ so với năm trước, tương ứng giảm 7,7%. Trong đó, thu lãi cho vay đạt 2.239 tỷ giảm so với năm trước 248 tỷ hay giảm 9,9%. Trong năm do suy giảm kinh tế nên dịch vụ chuyển tiền kiều hối có phần hạn chế, ảnh hưởng đến doanh thu của SGD. Về các khoản chi, chi lãi tiền gửi tiền vay là 1.524 tỷ, giảm so với 2008 là 144 tỷ đồng. Khoản chi này giảm do việc điều chỉnh giảm lãi suất huy động vốn nhằm hạ thấp lãi suất đầu vào. * Nguồn vốn : Trong suốt quá trình đổi mới và phát triển, NHNT VN đã trải qua nhiều thăng trầm theo cơ chế thị trường. Với chiến lược phát triển và mở rộng thành một tập đoàn tài chính lớn của cả nước cũng như quốc tế, NHNT rất chú trọng tới chỉ tiêu nguồn vốn. Tổng nguồn vốn của NHNT đều tăng trưởng hàng năm để cho phù hợp với mức độ phát triển và mở rộng. Đi cùng với chính sách chung của cả hệ thống, SGD cũng tiến hành những hoạt động nhằm làm tăng trưởng nguồn vốn đều đặn hàng năm. Tổng nguồn vốn huy động được từ nền kinh tế của SGD tại thời điểm cuối năm 2008 đạt xấp xỉ 37.986 tỷ đồng, tổng dư nợ khoảng 3.605 tỷ đồng. Bảng 2.2 : Cơ cấu huy động vốn của Sở Giao dịch (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 So sánh 08/07(%) So sánh 09/08(%) Tổng nguồn vốn huy động 35.701 37.986 44.785 6,4 17,8 VNĐ 17.917 21.538 23.605 20,2 9,5 Không KH 3.934 3.631 103,833 -7,7 -97,1 Có KH dưới 12 tháng 3.606 8.594 594,582 138,3 -93 Có KH trên 12 tháng 4.771 7.156 576,174 50 -92 Tiền gửi đảm bảo thanh toán 5.606 2.158 4,441 -61,5 -99 Ngoại tệ 17.784 16.448 21.180 -7,5 28,7 Không KH 7.534 7.592 11.556 0,77 52,2 Có KH dưới 12 tháng 2.304 1.267 3.320 -45 162 Có KH trên 12 tháng 3.670 4.812 5.201 31,1 8,1 Tiền gửi đảm bảo thanh toán 1.560 2.777 1.103 78 -60,3 (Nguồn: phòng Kế toán Tài chính) Ta có thể thấy rằng cơ cấu nguồn vốn huy động của SGD có sự thay đổi theo hướng bền vững hơn qua các năm, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 25%, tỷ lệ huy động giữa USD/VND bình quân là 46/54 khá ổn định. Trong năm 2009, tiền gửi của doanh nghiệp và vay các TCTD dưới hình thức nguồn huy động VNĐ có tăng nhẹ hơn so với mức tăng của USD vào năm 2009 do tình hình kinh tế thế giới đang trong thời kỳ suy thoái hết sức khó khăn. Với nhiều hình thức thông qua nhiều kênh huy động vốn VNĐ và ngoại tệ, nguồn vốn của SGD đã tăng trưởng liên tục trong những năm qua, đặc biệt năm 2009, nguồn vốn ngoại tệ nhảy vọt (tăng 4.732 tỷ VNĐ). Có được kết quả khả quan đó là nhờ SGD đã thực hiện nghiêm chỉnh hàng loạt các chủ trương và chính sách mới dưới sự chỉ đạo của Hội sở chính. Tình hình huy động vốn của các chi nhánh trong hệ thống NHNT VN năm 2009 : số lượng chi nhánh hoàn thành kế hoạch được giao đầu năm là 43/60 chi nhánh (không tính đến 04 chi nhánh mới thành lập). Các chi nhánh lớn có mức tăng trưởng huy động vốn lớn trên 1.000 tỷ đồng là: Sở Giao dịch, Vũng Tàu, Nam Sài Gòn, Thành Công. 2.2. Thực trạng chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Sở GD Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam : 2.2.1.Tình hình nghiệp vụ bảo lãnh tại Sở GD Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam : * Dư nợ phát hành bảo lãnh trong những năm gần đây có dấu hiệu tăng trưởng rõ ràng Biểu 2: Dư nợ bảo lãnh của Sở GD NHNT từ năm 2006 - 2009 Đơn vị: triệu USD Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Dư nợ bảo lãnh đầu năm 90,7 101,0 114,1 185,9 Dư nợ BL phát sinh trong năm 70,9 94,3 170,6 321,4 Dư nợ BL thanh toán trong năm 60.6 81,2 98,8 123,5 Dư bảo lãnh cuối năm 101,0 114,1 185,9 383,8 +/-Dư nợ BL phát sinh so với năm trước 15,2 23,4 76,3 150,8 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT Dư nợ bảo lãnh ở thời điểm cuối mỗi năm được tính như sau: Tổng dư nợ bảo lãnh cuối kỳ= Tổng dư nợ bảo lãnh đầu kỳ + Doanh số bảo lãnh phát sinh - Doanh số bảo lãnh giải toả trong kỳ Doanh số bảo lãnh (dư nợ bảo lãnh phát sinh trong năm) từ năm 2006 bắt đầu tăng. Doanh số bảo lãnh năm 2006 đạt khoảng 71 triệu USD tăng 27% so với năm 2005. Năm 2007 đạt 94 triệu USD (tăng 33%), đặc biệt năm 2008, tốc độ tăng trưởng của bảo lãnh tăng cao nhất trong 5 năm gần đây (80,9%). Chính trong giai đoạn lợi nhuận Ngân hàng thu được từ hoạt động bảo lãnh khoảng 2 triệu mỗi năm đã góp phần làm tăng tổng thu nhập của Ngân hàng. * Về cơ cấu tổng dư nợ bảo lãnh : Biểu 3: Cơ cấu tổng dư nợ bảo lãnh của NHNT Đơn vị: triệu USD Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 +/- 09/08 (%) Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Tổng dư bảo lãnh - Dưới 1 năm - Trên 1 năm 90,7 39,9 50,8 100 43,9 56,1 101,0 41,2 59,8 100 40,8 59,2 114,1 50,9 63,2 100 36,2 63,8 185,9 87,3 98,6 100 47,0 53,0 +62,9 +71,5 +56,0 L/C trả chậm - Dưới 1 năm - Trên 1 năm 47,6 17,3 30,3 52,5 19,1 33,4 57,3 21,1 36,2 56,8 20,9 35,9 67,6 29,7 37,9 59,2 26,0 33,2 120,8 52,2 68,6 65 28,1 36,9 +78,7 +75,7 + 81 Bảo lãnh khác - Dưới 1 năm - Trên 1 năm 43,1 22,6 20,5 47,5 24,9 22,6 43,7 20,1 23,6 43,3 19,9 23,4 46,5 21,2 25,3 40,8 18,6 22,2 65,1 35,1 30 35 18,9 16,1 + 40 +65,6 +18,6 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT Nhìn chung trên bảng ta thấy, loại hình bảo lãnh L/C trả chậm chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng dư nợ bảo lãnh của NHNT. Năm 2007 chiếm 56,8%, năm 2008 chiếm 59,2%, năm 2009 chiếm 65%. Loại hình bảo lãnh này chứa đựng rất nhiều rủi ro do những khác biệt trong tập quán thương mại giữa các quốc gia do sự khác biệt về địa lý và đôi khi cả những bất trắc của điều kiện tự nhiên trong vận chuyển hàng theo đường biển. Nhưng bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm cùng với bảo lãnh vay vốn nước ngoài đem lại phần lớn thu nhập từ hoạt động bảo lãnh cho Ngân hàng. Trên tổng dư nợ bảo lãnh, cơ cấu bảo lãnh biến động theo hướng tích cực qua các năm: bảo lãnh trung và dài hạn chiếm tỷ trọng cao và tỷ trọng bảo lãnh ngắn hạn có xu hướng giảm đi. Cơ cấu này tạo ra những rủi ro không nhỏ cho ngân hàng những cũng tương ứng với đó là những nguồn lợi đầy hứa hẹn. Năm 2008, trong khi tỷ trọng của bảo lãnh trung và dài hạn chiếm 63,8% trong tổng dư bảo lãnh thì tỷ trọng bảo lãnh ngắn hạn là 36,2%, nhưng đến năm 2009 cơ cấu này đã có xu hướng cân đối hơn. Tuy nhiên, số tuyệt đối về tỷ lệ bảo lãnh ngắn, trung và dài hạn đều tăng qua các năm. * Dư nợ bảo lãnh quá hạn đang có xu hướng giảm dần Biểu 4: Dư nợ bảo lãnh quá hạn của NHNT Đơn vị: triệu USD Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 +/- % 09/08 Tổng dư nợ bảo lãnh Dư nợ bảo lãnh quá hạn 90,7 29,90 101,0 20,80 114,1 19,20 185,9 18,3 + 62,9% - 4,7% Cơ cấu nợ bảo lãnh quá hạn: Phân theo loại hình bảo lãnh: L/C trả chậm Bảo lãnh khác Phân theo thời hạn bảo lãnh: Dưới 1 năm Trên 1 năm 19,70 10,20 19,80 10,10 15,24 4,76 16,3 4,70 15,95 3,25 13,71 5,49 15,82 2,48 12,69 5,61 -0,82 % - 23,69% - 7,44% +2,19% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNT Từ năm 2006 - 2008, dư nợ bảo lãnh quá hạn của NHNT giảm đáng kể, năm 2008 dư nợ bảo lãnh quá hạn của NHNT là 19,20 triệu USD chiếm 16,82% tổng dư nợ bảo lãnh, giảm 7,69% so với năm 2007 và năm 2009 tiếp tục giảm 4,7%, trong đó: Nợ quá hạn của dư nợ bảo lãnh mở L/C trả chậm là 15,95 triệu USD, tăng 4,7% so với năm 2007 nhưng lại có xu hướng giảm xuống trong năm 2009 giảm 0,82% . Qua biểu bảng trên, ta thấy nợ bảo lãnh quá hạn của NHNT chủ yếu phát sinh từ năm 2005 trở về trước. Trong những năm gần đây, chất lượng bảo lãnh tại NHNT đã được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn chưa thanh toán tồn đọng từ các năm trước không thấp và Ngân hàng đang cố gắng tìm mọi biện pháp hữu hiệu để giải quyết những khoản nợ đó. Đồng thời với chất lượng về thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng có tiến bộ là tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn vẫn ở mức cao: năm 2008, nợ quá hạn của bảo lãnh ngắn hạn là 13,71 triệu USD, giảm 15,9% so với năm 2007, nợ quá hạn của bảo lãnh trung - dài hạn là 5,49 triệu USD, tăng 16,8% so với năm 2007; đến năm 2009 con số này là tăng 2,19% so với năm 2008 . 2.2.2.Phân tích chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT : Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng thể hiện trên dư nợ bảo lãnh phát sinh đang không ngừng tăng trưởng Biểu 5: Dư nợ bảo lãnh phát sinh trong năm 2006-2009 Đơn vị: triệu USD Khoản mục Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Dư nợ bảo lãnh phát sinh trong năm 70,9 94,3 170,6 321,4 +/- Doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm so với năm trước 15,2 23,4 76,3 150,8 +/-(%) Doanh số bảo lãnh phát sinh trong năm so với năm trước 27,3% 33% 80,91% 88,39% Nguồn: Dẫn xuất từ biểu 2 Trong chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh phát sinh trong năm, qua cả con số tuyệt đối và con số tương đối, ta thấy hoạt động bảo lãnh của ngân hàng đang có những bước tiến không ngờ. Từ năm 2007-2008, dư nợ bảo lãnh tăng 76,3 triệu (tương đương tăng 80,91%), con số tăng đã thể hiện thành quả không nhỏ của NHNT Việt Nam. Điều này cũng là một minh chứng rõ ràng cho định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh mang tính đúng đắn, chiến lược sản phẩm và mức phí bảo lãnh mang tính cạnh tranh cũng như trình độ tiến hành nghiệp vụ của các cán bộ thuộc các phòng ban khác nhau tham gia trong quy trình nghiệp vụ bảo lãnh nói chung và của các cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh của Phòng bảo lãnh thuộc Sở giao dịch NHNT Việt Nam nói riêng. Mặc dù nghiệp vụ bảo lãnh là hoạt động mới còn gặp nhiều khó khăn trở ngại trong những bước đi đầu tiên, song cho đến nay đã tỏ rõ tính tích cực và phát huy hiệu quả rõ rệt. Tính đến cuối năm 2007 số dư bảo lãnh phát sinh đạt 70,9 triệu USD, tăng 33%so với năm 2006 (70,9 triệu USD). Thu phí từ nghiệp vụ bảo lãnh gia tăng đáng kể, năm 2007 là 14.001 triệu VND sang đến năm 2008 thì đạt 14.845 triệu VND và năm 2009 là 19.767 triệu VND. Biểu 6: Doanh thu hoạt động bảo lãnh Đơn vị: triệu VND Các chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Thu phí nghiệp vụ bảo lãnh 14.001 14.845 19.767 Tổng thu dịch vụ 472.100 405.373 522.931 Chỉ tiêu lợi nhuận (%) Tỷ lệ doanh thu của nghiệp vụ bảo lãnh =Tổng thu phí bảo lãnh / Tổng thu dịch vụ 2,97% 3,66% 3,78 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT Số doanh nghiệp và cá nhân liên hệ mở bảo lãnh tăng dần nhưng cho đến nay với bảo lãnh trong nước chưa có trường hợp nào ngân hàng phải áp dụng cho vay bắt buộc hoặc trả thay cho doanh nghiệp. Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đã góp phần thúc đẩy nghiệp vụ cho vay,thanh toán, tạo điều kiện cho nền kinh tế hàng hoía phát triển, tạo nguồn vốn cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Giúp cho các nhà thầu có cơ hội yên tâm đầu tư vào Việt Nam và tạo điều kiện cho các doang nghiẹep Việt Nam vay vốn để cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, khai thác tài nguyên cho đất nước, đặc biệt tạo công ăn việc làm cho người lao động. Cơ cấu bảo lãnh phát triển vững chắc theo chiều hướng đa dạng hoá nghiệp vụ và sản phẩm dịch vụ Ngân hàng: Với mục tiêu đa dạng hoá mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, mở rộng và phát triển các hoạt động khác, giúp Ngân hàng hoà nhập vào nền kinh tế thị trường nhằm thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Ban đầu chỉ là với những hình thức bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thanh toán, đến nay NHNT đã phát triển thêm các hình thức mới như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thực hiện hợp, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán, bảo lãnh bảo hành Để đáp ứng tốt nhất cho mọi khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng của mình thực hiện tốt chiến lược sản xuất kinh doanh, NHNT đẩy mạnh hình thức bảo lãnh trung, dài hạn song song với việc cân đối và tăng cường loại bảo lãnh ngắn hạn. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ vay vốn nước ngoài, bảo lãnh trong nước cũng phát triển mạnh mẽ. Tính đến cuối năm 2009, doanh số phát hành bảo lãnh đạt 321,4triệu USD với tất cả các loại bảo lãnh. Bên cạnh đó, Ngân hàng luôn quan tâm, chú trọng đến việc gia tăng tỷ trọng bảo lãnh cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đi đúng theo định hướng về cơ cấu phát triển nghiệp vụ bảo lãnh, đa dạng hoá các loại dịch vụ và đa dạng hoá các thành phần khách hàng. Hoạt động bảo lãnh góp phần nâng cao lợi nhuận, uy tín cũng như vị thế cạnh tranh của NHNT Việt Nam trên thị trường trong nước và ngoài nước. Trong quá trình bảo lãnh mà không xảy ra rủi ro (tức là phải thanh toán thay cho doanh nghiệp được bảo lãnh hay không thu hồi được khoản nợ cho vay bắt buộc dẫn đến phát mại tài sản...) thì với khoản phí thu được tính trên số tiền được bảo lãnh (hiện nay NHNT Việt Nam quy định không quá 2%/năm) là một khoản lợi nhuận tương đối lớn. Khác với tín dụng, chi phí đầu vào cho khoản bảo lãnh là không phát sinh, hay nếu đứng trên quan điểm của tín dụng và coi chi phí bảo lãnh là lãi suất đầu vào thì ngân hàng thu được một khoản lãi suất chênh lệch là gần 2%/năm. Ngoài ra, ngay cả khoản trích lập quỹ bảo lãnh của ngân hàng cũng được gián tiếp thực hiện thông qua việc ký quỹ của khách hàng (tối thiểu bằng 5% giá trị món bảo lãnh). Chính vì vậy, hoạt động bảo lãnh trong thời gian qua đã đóng góp không nhỏ đối với toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh của NHNT Việt Nam thông qua khoản thu nhập từ hoạt động bảo lãnh (Phí bảo lãnh ngân hàng thu được qua mỗi năm là gần 12 tỷ VND). Tình trạng cho vay bắt buộc do nghĩa vụ bảo lãnh phát sinh đang ngày càng được hạn chế một cách tối đa. Biểu 7 : Các chỉ tiêu dư nợ bảo lãnh quá hạn Đơn vị : Triệu USD Các chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Tổng dư nợ bảo lãnh 90,7 101 114,1 185,9 Dư nợ bảo lãnh quá hạn 29,9 20,8 19,2 18,3 Dư nợ bảo lãnh quá hạn theo thời gian - Dưới 1 năm 19,8 16,3 13,71 12,69 - Trên 1 năm 10,1 4,5 5,49 5,61 Tỷ lệ bảo lãnh quá hạn (%) =Dư nợ bảo lãnh quá hạn/Tổng dư nợ bảo lãnh 32,97 20,59 16,83 9,84 Tỷ lệ nợ quá hạn khê đọng(%) =Nợ quá hạn dưới 1 năm/Tổng dư nợ bảo lãnh 21,83 16,14 12,02 6,83 Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi(%) =Tỷ lệ nợ quá hạn trên 1 năm/Tổng dư nợ bảo lãnh 11,14 4,45 4,81 3,01 Nguồn: Dẫn xuất từ biểu 4 Tỷ lệ những khoản dư nợ bảo lãnh có xu hướng giảm hẳn điều này thể hiện những bước tiến về trình độ cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh trong thẩm định khách hàng để đi đến ký kết hợp đồng bảo lãnh. Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi thấp hơn hẳn sao với tỷ lệ nợ quá hạn bảo lãnh khê đọng và có khuynh hướng giảm sút rất nhanh qua các năm : năm 2006 chiếm 11,14% đến năm 2007 đã giảm xuống còn 4,45% và duy trì ở mức ổn định sang năm 2008. Năm 2009, đánh dấu sự giảm sút mạnh mẽ của dư nợ bảo lãnh quá hạn chỉ chiếm tỷ trọng 13% trên tổng dư nợ bảo lãnh. Chất lượng thẩm định khách hàng đang ngày càng được cải thiện Ngân hàng đã tiến hành vận dụng các phương pháp mang tính khoa học với cách nhìn sâu và toàn diện hơn trong công tác thẩm định để ra quyết định trước khi phát hành bảo lãnh. Tuân thủ đúng quy trình thực hiện của nghiệp vụ bảo lãnh và kỹ thuật thẩm định của cán bộ thẩm định ngày càng được nâng cao. Thu thập thông tin về khách hàng, về các vấn đề kinh tế - xã hội có liên quan đến quá trình thẩm định để ra quyết định bảo lãnh cho khách hàng được thu thập và đánh giá một cách chính xác hơn. Sử dụng các nguồn thu thập thông tin phong phú và đa dạng. Trong khoảng 1 năm trở lại đây, nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT đã áp dụng chương trình phần mềm quản lý dữ liệu và quản lý khách hàng mới. Việc áp dụng này đã giúp cán bộ nghiệp vụ ngân hàng làm việc hiệu quả, tìm kiếm thông tin về khách hàng hết sức nhanh gọn thuận tiện, tiết kiệm thời gian và công sức cho cán bộ nghiệp vụ cũng như của khách hàng. 2.3.Đánh giá chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Sở GD NHNT : 2.3.1.Kết quả NHNT được xem là một trong những ngân hàng đi đầu trong phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Với bề dày hơn 40 năm xây dựng và phát triển, NHNT là một trong những ngân hàng uy tín và có trình độ công nghệ hiện đại bậc nhất ở Việt Nam . Đó chính là nền tảng vững chắc cho nghiệp vụ bảo lãnh không ngừng tăng trưởng và phát triển. Dư nợ bảo lãnh phát hành trong năm không ngừng tăng trưởng với tốc độ rất cao. Chất lượng nghiệp vụ đáp ứng mục tiêu do Ngân hàng đặt ra và nhu cầu của thị trường. Đa phần những khoản bảo lãnh của Ngân hàng đều đạt hiệu quả cao. Các khoản bảo lãnh ngắn hạn hầu như không xảy ra tình trạng cho vay bắt buộc. Loại hình bảo lãnh L/C cho xuất và nhập khẩu hàng hoá góp phần nâng cao tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước, mang lại nguồn thu ngoại tệ và kích thích sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước. Dư nợ bảo lãnh quá hạn đang có dấu hiệu giảm rõ rệt. Tình trạng dư nợ bảo lãnh quá hạn ở Ngân hàng là hậu quả của lịch sử để lại, khi ngân hàng phát hành những khoản bảo lãnh cho Nhà nước để trả nợ. Hiệu quả thẩm định khách hàng ngày càng cao. Qua đề án tái cơ cấu, NHNT hiện nay là Ngân hàng hiện đại bậc nhất tại Việt Nam. Với sự trợ giúp của khoa học công nghệ tiên tiến, việc thu thập thông tin cùng các phương pháp trong phân tích đánh giá khách hàng ngày càng có những bước tiến rõ rệt. Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh trưởng thành dần trong thực tế với trình độ chuyên môn ngày càng vững vàng là nhân tố nền tảng đảm bảo khâu thẩm định khách hàng đạt chất lượng cao. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế: Chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT Việt Nam trong những năm qua còn chưa cao đó là do Tình trạng cho vay bắt buộc phát sinh do thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thể hiện qua tỷ lệ Dư nợ bảo lãnh quá hạn/Tổng dư nợ bảo lãnh có giảm nhưng tỷ lệ nợ bảo lãnh quá hạn chưa phản ánh thực chất chất lượng bảo lãnh của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Một số khoản bảo lãnh cũng có chất lượng kém như các khoản bảo lãnh bắt buộc, nợ bảo lãnh chờ xử lý vẫn còn có số dư tương đối lớn, khả năng thu hồi thấp. Những yếu kém trong khẩu thẩm định khả năng tài chính cũng như khả năng thực hiện hợp đồng được bảo lãnh của khách hàng. Việc thẩm định và đưa ra quyết định chủ yếu vẫn căn cứ trên kinh nghiệm của cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh mà chưa hề có mô hình mang tính chuẩn hoá chung. Việc xác định hạn mức cho khách hàng chưa có những chuẩn mực để đánh giá mà chủ yếu mang tính kinh nghiệm. Việc này thể hiện những yếu kém trong việc lượng hoá những chỉ tiêu quan trọng liên quan đến khách hàng. Việc căn cứ vào những hạn mức mang tính lịch sử những thời kỳ trước nhân lên với sự mở rộng và tăng trưởng trong tương lai của khách hàng đôi khi không chính xác và đã để lại những bài học không nhỏ. Cơ cấu bảo lãnh còn có sự mất cân đối. Số lượng hợp đồng được bảo lãnh/ Số lượng hợp đồng xin bảo lãnh chiếm tỷ trọng cao (70-75%) nhưng hầu hết lại là các hợp đồng nhỏ, có ký quỹ 100% nên không phản ánh đúng chất lượng bảo lãnh. Bảo lãnh cho đến hiện nay do là ngân hàng thương mại Quốc doanh nên vẫn tập trung vào các doanh nghiệp thuộc thành phần quốc doanh (chiếm 70%). Lượng khách hàng quan hệ bảo lãnh với ngân hàng chủ yếu vẫn là những khách hàng lớn, đã quen biết lâu năm nên mặc dù đáp ứng được mục tiêu an toàn nhưng lại chưa đạt mục tiêu mở rộng và phát triển. Nghiệp vụ bảo lãnh với phạm vi trong nước vẫn chưa thể đáp ứng tối đa nhu cầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Sở dĩ có vấn đề tồn tại này là vì nghiệp vụ này chưa có hệ thống quy phạm pháp luật hoàn chỉnh, quy định về việc cầm cố, thế chấp hạn mức bảo lãnh... làm cho việc thực hiện nghiệp vụ này gặp ít nhiều khó khăn. Trong khi đó, nhu cầu về bảo lãnh của các doanh nghiệp là rất lớn và đa dạng. Nguyên nhân: * Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất : Chiến lược kinh doanh, cụ thể chính là chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh và phòng ngừa rủi ro của ngân hàng còn quá chung chung mang tính lý thuyết. Ngay với chiến lược chăm sóc khách hàng cũng chỉ mới dừng lại ở mục tiêu mà chưa có những biện pháp cụ thể. Công tác quản trị thông tin như các thông tin về khách hàng, cùng những biện pháp phòng ngừa rủi ro chưa được chú trọng đúng mức dẫn tới thông tin số liệu làm căn cứ tính toán thẩm định chưa đầy đủ, thiếu tính chính xác gây khó khăn trong đánh giá hoặc làm đánh giá sai lệch về khách hàng, về hiệu quả kinh tế - xã hội và tính khả thi của dự án. Thứ hai : Về công tác tổ chức ngân hàng vẫn còn thiếu sự phối hợp ăn ý giữa các phòng ban như giữa Phòng bảo lãnh với những Phòng kiểm toán hay Phòng quan hệ khách hàng nơi có những cán bộ chuyên môn, có thể kiểm tra tính chính xác của những thông tin do khách hàng cung cấp. Rồi những nguyên tắc cứng nhắc về người có thẩm quyền ra quyết định bảo lãnh dẫn đến những chậm trễ trong tiến hành nghiệp vụ bảo lãnh và đôi khi lỡ thời cơ của khách hàng đồng thời gây ra những thiệt hại cho ngân hàng. Thứ ba, quy trình cụ thể cho nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng đến nay vẫn chưa có mà phần lớn vẫn dựa trên quy trình của nghiệp vụ tín dụng. Đây là vấn đề khó khăn không nhỏ cho cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh. Thứ tư : Việc tính toán định phí đi liền với xác định thời hạn của hợp đồng bảo lãnh chưa phù hợp với khả năng thu hồi vốn của người được bảo lãnh, đôi khi còn quá gò ép dẫn đến khó khăn cho người được bảo lãnh trong việc thực hiện cam kết với người thụ hưởng bảo lãnh và dẫn đến khả năng ngân hàng phải trả nợ thay. Theo biểu phí của NHNT mọi sửa chữa thư bảo lãnh đều mất mức phí là 10 USD, mà không tính đến mức độ sửa chữa hay đối tượng khách hàng xin sửa chữa là khách hàng truyền thống lâu dài của ngân hàng hay không. Thứ năm : Một số cán bộ thẩm định cấp chi nhánh còn bất cấp về trình độ, kiến thức trong nhiều lĩnh vực liên quan, chưa được huấn luyện tốt về kỹ năng thẩm định. * Nguyên nhân khách quan Thứ nhất: Xét trên giác độ khách hàng của ngân hàng, sự yếu kém về khả năng thâm nhập thị trường cũng như năng lực tài chính của một số doanh nghiệp trong cũng như ngoài quốc doanh gây những khó khăn cho ngân hàng trong việc mở rộng đối tượng khách hàng của nghiệp vụ bảo lãnh. Thứ hai : Về môi trường kinh tế còn nhiều biến động chính sách và cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước chưa phù hợp, đang trong quá trình điều chỉnh, đổi mới. Chưa có định hướng cụ thể quy hoạch phát triển kinh tế chiến lược theo từng ngành, từng vùng, từng địa phương, từng nhóm doanh nghiệp,... hoặc do chủ trương của các ngành hữu quan chưa thống nhất dẫn đến khó khăn trong công tác thẩm định và quyết định bảo lãnh của Ngân hàng. Thứ ba: Xét về môi trường pháp lý, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật cho nghiệp vụ bảo lãnh chưa hoàn chỉnh. Việt Nam chưa có bộ luật riêng cho nghiệp vụ bảo lãnh, vì thế nghiệp vụ bảo lãnh chịu sự điều chỉnh của các văn bản dưới luật mà các văn bản này lại không đồng bộ và thường xuyên thay đổi, dẫn đến nhiều bất cập trong việc thực thi. Thứ tư : Về môi trường chính trị xã hội, có sự chồng chéo về chức năng của các cơ quan ban ngành chức năng trong khi lại thiếu hệ thống các cơ quan, công ty tư vấn, chuyên gia về thẩm định dự án trên các lĩnh vực nhất định đủ trình độ chuyên môn theo yêu cầu của Ngân hàng. Trong khi đó số cán bộ thẩm định của Ngân hàng có hiểu biết sâu rộng về kỹ thuật của các ngành khác thì chưa nhiều - điều này sẽ dẫn đến những sai lầm hoặc không chuẩn xác trong quá trình thẩm định. Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH TẠI SỞ GD NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM 3.1.Định hướng phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Sở GD Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian tới : Trong mục tiêu chung đảm bảo phát triển bền vững, nâng cao hiệu quả hoạt động, NHTMCP Ngoại Thương Việt Nam có đưa ra một số định hướng cơ bản cho hoạt động bảo lãnh : *Duy trì và nâng cao hơn nữa uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế nhằm phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng. Việc giữ chữ “Tín” trong kinh doanh là rất quan trọng, đặc biệt đối với các ngân hàng. NHNT là một trong những ngân hàng thương mại uy tín nhất Việt Nam, vì vậy cần phải nâng cao hơn nữa sự tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng để thu hút khách hàng đến xin được bảo lãnh. Điều này là có lợi cho cả ngân hàng lẫn khách hàng và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. * Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh và mở rộng đối tương khách hàng Ngân hàng, phát triển thêm một số hình thức bảo lãnh mới. Tiếp tục đẩy mạnh các loại hình bảo lãnh trong nước như : Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền ứng trước, bảo lãnh bảo hành... phục vụ nhu cầu tăng trưởng với nền kinh tế mở, theo định hướng chung và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước. Thể hiện chủ trương về phát huy và sử dụng nguồn lực của đất nước, chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài, xuất khẩu hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn... từ nghiệp vụ bảo lãnh thúc đẩy nghiệp vụ cho vay, thanh toán tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam vươn lên trong cơ chế thị trường. Cần tiếp tục mở rộng áp dụng thêm nhiều hình thức bảo lãnh khác trong nghiệp vụ bảo lãnh của Ngân hàng để mở rộng đối tượng khách hàng muốn tham gia bảo lãnh. * Nâng cao hiệu quả thẩm định khách hàng yêu cầu bảo lãnh Tiến hành chặt chẽ khâu thẩm định dự án xin bảo lãnh nhằm đưa ra những đánh giá, quyết định chính xác, từ đó đảm bảo cho việc giảm thiểu những rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh, giảm tỷ lệ nợ quá hạn bảo lãnh xuống mức thấp nhất, tránh tình trạng ngân hàng phải thanh toán thay cho người được bảo lãnh. Đồng thời, tiến hành xử lý các nợ bảo lãnh quá hạn, theo dõi và quản lý chặt chẽ việc thực hiện trả nợ của các khoản bảo lãnh trung và dài hạn. * Nâng cao tỷ trọng bảo lãnh trung và dài hạn trong tổng dư bảo lãnh (khoảng 75%) Các dự án bảo lãnh trung và dài hạn thường có giá trị lớn vì vậy lợi nhuận mà ngân hàng kỳ vọng được từ các dự án này là khá lớn tuy nhiên rủi ro đi cùng cũng sẽ rât cao. Chính vì vậy trong những khoản bảo lãnh này, càng đòi hỏi ngân hàng phải chú trọng khâu thẩm định khách hàng. Phát triển có trọng điểm bảo lãnh mở L/C dài hạn, nhập dây chuyền sản xuất máy móc thiết bị phục vụ cho nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế khi nguồn vốn huy động ngoại tệ trong và ngoài nước và nguồn vốn còn dài hạn còn hạn chế. Lựa chọn những khách hàng lớn, tiềm lực tài chính mạnh có phương án sản xuất kinh doanh ổn định, sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường. Tập trung bảo lãnh cho các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu, các đơn vị kinh doanh có hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước thuộc các nghành xây dựng, giao thông vận tải... * Thực hiện tốt chính sách khách hàng, chiến lược Marketing ngân hàng nhằm tạo mối quan hệ bền vững với khách hàng truyền thông và thu hút thêm khách hàng mới, chú trọng đến kinh doanh ngoài quốc doanh nhằm giảm bớt sự mất cân đối giữa các thành phần kinh tế. Ngân hàng hướng tới một mức phí rẻ hơn mang tính cạnh tranh, đưa ra ngày càng nhiều những dịch vụ tiện ích và hỗ trợ khách hàng. Du nhập công nghệ hiện đại, thay đổi quy trình nghiệp vụ theo hướng “một cửa” để đạt mục tiêu nhanh chóng, chính xác và an toàn cho khách hàng. NHNT cùng các bạn hàng tồn tại phát triển không phủ nhận nhau. * Tuyển dụng, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ bảo lãnh cho đội ngũ cán bộ chuyên môn. Vấn đề nhân sự luôn là yếu tố có thể nói quyết định mọi thành công trong hoạt động của một doanh nghiệp cũng như của ngân hàng. Cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh có thể nói chính là chủ thể đứng ra tiến hành và bảo đảm cho sự thành công của nghiệp vụ. Trình độ chuyên môn trong thao tác và xử lý nghiệp vụ cùng thái độ của cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh quyết định không nhỏ sự thành công của nghiệp vụ này. Chính vì vậy việc không ngừng nâng cao và cải thiện trình độ đội ngũ cán bộ là vấn đề có tính sống còn cho sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh và có ý nghĩa quyết định sự thành công cũng như vị thế của ngân hàng. Để khắc phục những khó khăn và đạt được các mục tiêu đề ra ngân hàng cần có những giải pháp phù hợp xuất phát từ những yếu tố nội lực của ngân hàng vì mục tiêu phát triển chung của toàn hệ thống. 3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam : Với xu thế phát triển ngày càng cao nhu cầu bảo lãnh, NHNT Việt Nam đã tạo được chữ “Tín” trong và ngoài nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng vẫn mang nhiều rủi ro, chưa ổn định, mang lại lợi nhuận chưa cao. Dưới góc độ nghiên cứu hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng thương mại quốc doanh, ta có thể xem xét một số giải pháp nhằm phát triển và nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại NHNT Việt Nam. 3.2.1.Tăng cường hoạt động quản lý nghiệp vụ bảo Lãnh qua việc cụ thể hoá chiến lược kinh doanh. Hoạt động bảo lãnh của ngân hàng luôn mang tính rủi ro cao. Vì vậy, NHNT cần phải có các biện pháp thực hiện việc phân tán rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động bảo lãnh. Bằng cách quản lý, chỉ đạo, giám sát chặt chẽ khâu thẩm định khách hàng hay dự án được yêu cầu bảo lãnh đi đôi với đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, thực hiện các nghiệp vụ của thị trường mở góp phần phân tán rủi ro cho Ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Cần đề ra các chiến lược, các định hướng về hoạt động bảo lãnh phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường, của nền kinh tế. Ban lãnh đạo NHNT cần điều hành, chỉ đạo, giám sát công tác quản lý các khoản bảo lãnh một cách sâu sát, cần nắm bắt được các tình hình liên quan đến khoản bảo lãnh đó để có thể giải quyết kịp thời những rủi ro phát sinh trong quá trình bảo lãnh. Thực hiện nghiêm túc quy trình thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh gồm : thẩm định, kiểm soát trước, giám sát sau khi bảo lãnh khi cần thiết. Tổ chức kiểm tra lại tất cả các món bảo lãnh hiện hành, hoàn chỉnh lại hồ sơ, đánh giá tiến độ thực hiện, tăng cường biện pháp đảm bảo, hoàn chỉnh lại hồ sơ thế chấp qua tổng cục quản lý vốn xác nhận ký lại hợp đồng thế chấp cầm cố đảm bảo tính pháp lý Xây dựng chiến lược phát triển riêng cho nghiệp vụ bảo lãnh Theo quan điểm Marketing Ngân hàng, chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh cũng như chiến lược phát triển một nghiệp vụ bất kỳ phải thoả mãn : lấy nhu cầu của khách hàng làm khởi điểm xây dựng nghiệp vụ, tập trung vào hệ thống tổ chức điều hành và phát triển nhân sự, đạt mục tiêu cuối cùng tối đa hoá hiệu quả hoạt động kinh doanh. Đồng thời chiến lược phát triển nghiệp vụ bảo lãnh phải đảm bảo thực hiện hai nhiệm vụ: Nắm bắt kịp thời sự thay đổi của môi trường cũng như nhu cầu của khách hàng với các loại hình bảo lãnh phù hợp. Đưa ra các chính sách giải pháp thích hợp để thắng đối thủ cạnh tranh với chiến lược về giá, về sản phẩm, về trình độ khoa học công nghệ cũng như trình độ của cán bộ bảo lãnh. 3.2.2.Nâng cao hiệu quả thẩm định khách hàng : Nghiệp vụ bảo lãnh cũng mang những đặc điểm giống nghiệp vụ tín dụng. Thẩm định tốt chính là ngân hàng tạo ra cho mình sự an toàn trong kinh doanh và giảm thiểu rủi ro. Với những lý do đó, không ngân hàng nào có thể xem nhẹ việc thẩm định trước khi phát hành bảo lãnh, tất nhiên với trường hợp ký quỹ 100% ngân hàng có thể bỏ qua các thủ tục thẩm định thông thường. Doanh nghiệp tìm đến ngân hàng yêu cầu bảo lãnh sẽ phải xuất trình các báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh, các hợp đồng kinh tế hay các dự án có liên quan. Về quá trình thẩm định, năm điều kiện quan trọng về doanh nghiệp mà cán bộ ngân hàng phải xem xét và kiểm tra đánh giá đúng đó là : + Tư cách pháp nhân + Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh chính + Khả năng quản lý điều hành kinh doanh của chủ doanh nghiệp + Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp + Hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu hợp đồng Trên cơ sở đó cán bộ thẩm định có thể đặt ra và lường trước được các yếu tố rủi ro có thể xảy ra trong suốt thời gian bảo lãnh nhằm đưa ra giải pháp kịp thời để có thể hạn chế được tối đa thiệt hại cho các bên. Bên cạnh đó, cán bộ ngân hàng cần phải thường xuyên phối hợp với các cơ quan chuyên môn, cơ quan hữu quan và đặc biệt trong từng lĩnh vực cụ thể để nâng cao chất lượng, đảm bảo tính kinh tế cũng như tính pháp lý của quá trình thẩm định. 3.2.3.Nâng cao tính cạnh tranh của nghiệp vụ bảo lãnh Nhằm nâng cao tính cạnh tranh của nghiệp vụ bảo lãnh đảm bảo sự phát triển mang tính ổn định và lâu dài, NHNT cần phải xây dựng một chiến lược phát triển mang tính toàn diện và thống nhất. Xây dựng chiến lược Marketing cho nghiệp vụ bảo lãnh Thực hiện chiến lược marketing cho nghiệp vụ bảo lãnh nên tập trung theo những hướng: Ap dụng mức phí bảo lãnh linh hoạt: Hiện nay mức phí bảo lãnh theo quy định của Ngân hàng Nhà nước cho mọi khoản bảo lãnh là dưới mức 2%/1năm. Phí bảo lãnh có tính chất vô cùng quan trọng, thể hiện được chính sách ưu đãi và linh hoạt của các ngân hàng đối với những khách hàng có uy tín, có quan hệ tín dụng tốt với ngân hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thực hiện từng khoản bảo lãnh, cũng như nó chỉ ra được sự khác biệt về mức độ rủi ro của từng loại bảo lãnh. Áp dụng mức phí bảo lãnh linh hoạt đối với từng loại bảo lãnh, loại khách hàng và chia khách hàng ra thành từng nhóm để áp dụng mức phí bảo lãnh phù hợp: Xác định hạn mức bảo lãnh hợp lý: Tại NHNT, hạn mức bảo lãnh thường áp dụng là không vượt quá 20 lần quỹ dự phòng bảo lãnh của ngân hàng, hạn mức bảo lãnh cho một khách hàng không vượt quá 10% hạn mức bảo lãnh của Ngân hàng, hạn mức bảo lãnh cho 10 khách hàng lớn nhất không vượt quá 30% hạn mức bảo lãnh của Ngân hàng. Mức bảo lãnh như vậy là chưa chặt chẽ, cứng nhắc và thiếu cơ sở khoa học. Việc xác định hạn mức cho một khách hàng cũng nên điều chỉnh theo mức tăng huy động vốn hoặc thu hẹp hoạt động cho vay đầu tư hoặc dự tính khả năng chuyển đổi từ tài sản hấp dẫn để bù đắp thanh khoản của Ngân hàng khi xảy ra rủi ro. . Xác định mức kí quỹ của khách hàng phù hợp Thực tế tại NHNT, các khoản bảo lãnh như: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng ... thì Ngân hàng đều yêu cầu khách hàng ký quỹ 100% giá trị khoản bảo lãnh. Việc ký quỹ này sẽ làm giảm tỷ lệ rủi ro cho các khoản bảo lãnh của ngân hàng xuống mức thấp nhất nhưng rõ ràng là việc này khiến khách hàng mất quyền tự chủ trong sử dụng vốn. Vốn của khách hàng bị chiếm dụng trong khi đúng ra khách hàng có thể sử dụng để đầu tư sinh lời. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu bảo lãnh tại Ngân hàng. NHNT cần nhanh chóng xem xét lại vấn đề này, Ngân hàng nên giảm yêu cầu ký quỹ của khách hàng xuống đặc biệt với những khách hàng tiềm năng có quan hệ tốt với Ngân hàng hoặc trong một số trường hợp Ngân hàng chỉ yêu cầu thế chấp mà không cần ký quỹ. Chính sách mở rộng giao tiếp khuyếch trương: Ngân hàng cần quan tâm củng cố cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao hình ảnh của ngân hàng. Xây dựng những chính sách chăm sóc khách hàng, tăng những tiện ích, Ngân hàng có thể đưa ra những chiến lược khách hàng phục vụ mục tiêu duy trì phát triển những khách hàng truyền thống, thu hút những khách hàng mới. Xây dựng những chương trình nghiên cứu khách hàng tìm ra sự thay đổi trong nhu cầu đa dạng và phong phú của khách hàng và tìm cách đáp ứng tối đa những nhu cầu đó. Thường xuyên thu thập thông tin phản hồi của khách hàng về mọi nhân tố liên quan trong quá trình tiến hàng nghiệp vụ bảo lãnh. 3.2.4.Các giải pháp đối với nhân tố con người : Thứ nhất, phát huy mạnh mẽ năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng. Năng lực của các nhà lãnh đạo là yếu tố vô cùng quan trọng. Bản thân các nhà lãnh đạo phải là những cá nhân tài giỏi vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, nhanh nhạy nắm bắt mọi biến động của thị trường, sáng suốt trong việc quyết định, nắm bắt thời cơ, tỉnh táo linh hoạt trước các thách thức. Để làm được điều này, các cán bộ lãnh đạo cũng phải không ngừng tích luỹ kiến thức, bồi dưỡng thêm kiến thức. Thứ hai, đối với đội ngũ cãn bộ nghiệp vụ cần tiến hành tiếp tục đào tạo, đào tạo lại hoặc củng cố tăng cướng nghiệp vụ chuyên môn dưới nhiều hình thức. Tổ chức đào tạo tập trung, chất lượng (không nặng về số lượng) cho đội ngũ cán bộ nhân viên qua các lớp đào tạo ngắn hạn trong và ngoài nước. Khuyến khích học tập, nghiên cứu sáng tạo qua các hội thi phong trào thi đua cán bộ giỏi. Đồng thời cần có những chính sách đãi ngộ, phúc lợi xã hội tốt nhằm tăng thêm lòng nhiệt tình và sự tận tuỵ của cán bộ công nhân viên với ngân hàng. Cập nhật thường xuyên cho các cán bộ nghiệp vụ những thay đổi trong các văn bản quy phạm pháp luật để có những điều chỉnh phù hợp trong việc thực hiện quy trình nghiệp vụ bảo lãnh. Các cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ nghiệp vụ bảo lãnh nói riêng phải sử dụng thành thạo ngoại ngữ và tin học, coi đó là vũ khí sắc bén để tiến hành thực hiện các nghiệp vụ được chính xác và hiệu quả hơn. Các cán bộ ngân hàng trong thời đại mới cũng cần có những kiến thức xã hội tổng hợp ngoài kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời phải có khả năng giáo tiếp tốt, có tinh thần trách nhiệm cao, có thái độ phục vụ khách hàng nhiệt tình chu đáo, tạo phong cách làm việc văn minh lịch sự, hiệu quả cao và luôn hướng tới khách hàng. Công tác bố trí sắp xếp cán bộ nhân viên phải khoa học hợp lý và hiệu quả. Công việc phải được tiến hành một cách khách quan, không dựa trên những mối quan hệ bản thân sẵn có mà phải căn cứ trên năng lực, trình độ và phẩm chất của cán bộ. Cần thực hiện luân chuyển cán bộ qua các phòng ban nhằm trang bị cho cán bộ ngân hàng những kiến thức nghiệp vụ tổng hợp và tránh tâm lý nhàm chán khi làm một công việc trong thời gian dài. Công tác tuyển dụng cần được tiến hành công bằng, khách quan và chất lượng. Thu hút nhân tài qua các hình thức tuyển dụng công khai, trung thực. Chỉ tuyển những nhân viên đáp ứng đủ những tiêu chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ, về ngoại ngữ, vi tính không vì những lý khác mà tiếp nhận một cách thiếu công bằng. 3.3.Một số kiến nghị : 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà nước 3.3.1.1 Hỗ trợ các NHTM trong quá trình thẩm định dự án và quản lý các khoản bảo lãnh : Trước hết, NHNN có thể hỗ trợ cho các NHTM về thông tin. Để đạt được điều nay, cần thực hiện những việc sau: Thực hiện chế độ kiểm tra tài chính bắt buộc hàng năm đối với mọi doanh nghiệp. Củng cố và phát huy hơn nữa vai trò của các công ty tư vấn hiện có của NHNN, đảm bảo cung cấp số liệu kịp thời chính xác, nhằm giúp đỡ hiệu quả các cán bộ thẩm định ngân hàng. Quy định hạn mức bảo lãnh và vay nợ tối đa cho một khách hàng theo số vốn sở hữu của khách hàng đó, không cho phép khách hàng được bảo lãnh ở nhiều chi nhánh trong cùng hệ thống. - NHNN quy định tổng số tiền bảo lãnh tối đa cho một khách hàng không vượt qúa 15% vốn tự có và cho 10 khách hàng lớn nhất không quá 30% vốn tự có của NHNT. Trong trường hợp vượt quá mức trên thì phải được sự chấp thuận của NHNN. Điều này thì nên để cho các ngân hàng tự giải quyết không nên trình từng trường hợp cho NHNN để xin ý kiến, như vậy sẽ thêm phiền hà cho khách hàng và bản thân Ngân hàng. Trong trường hợp, NHNN nên đưa ra quy định về tiến hành báo cáo theo định kỳ. - Trong các quy chế hiện hành về bảo lãnh của NHNN không nên quy định quá cụ thể về tài sản thế chấp và tỷ lệ thu phí... Những vấn đề cụ thể các ngân hàng thương mại có thể tự giả quyết, có như vậy các ngân hàng mới chủ động và linh hoạt để có những chính sách phù hợp cho từng đối tượng khách hàng. - NHNN chỉ đạo các NHTM trong việc xét duyệt các khoản bảo lãnh. Các NHTM cần báo cáo lên NHNN sau khi chấp nhận, từ đó NHNN có thể quản lý từ xa tình hình bảo lãnh trong hệ thống và khi cần có thể đưa ra những quyết định kịp thời, giúp giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng đứng ra bảo lãnh. 3.3.1.2 Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, thanh tra và vai trò quản lý vĩ mô của NHNN đối với hoạt động bảo lãnh ngân hàng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động phức tạp, có ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế và mang tính chất dây chuyền. Do vây công tác thanh tra, giám sát và quản lý từ cấp cao (NHNN) là cần thiết, đặc biệt đối với nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ liên quan nhiều đến thương mại quốc tế. NHNN cần nâng cao công tác kiểm tra một cách khách quan, trung thục từ đó kịp thời phát triển những sai sót để chấn chỉnh và xử lý kịp thời. Do vậy, trình độ của cán bộ làm công tác thanh tra cần được cải thiện thường xuyên cũng như đạo đức nghề nghiệp phải luôn được đề cao. Các hoạt động thanh tra phải đảm bảo không gây cản trở hoạt động kinh doanh của các NHTM, kết hợp hài hoà giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ. Khi có bất cứ vấn đề tồn tại gì từ phía các NHTM cần giải quyết triệt để nhằm hướng tới hiệu quả cao, không nên để lâu khó khắc phục. NHNN cần đưa ra quy chế thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh chặt chẽ, thống nhất trong toàn hệ thống với những quy định cụ thể về các yếu tố liên quan đến bảo lãnh nhằm hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động kinh doanh của ngân hàng. NHNH kết hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp ban hành những thông tư liên bộ hướng dẫn thủ tục thế chấp cầm cố đối với doanh nghiệp Nhà nước, công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Hoàn thiện phát triển thêm những loại bảo lãnh mới, có những quy chế thích hợp tạo điều kiện cho các NHTM có thể thực hiện được những loại bảo lãnh đó một cách hiệu quả và an toàn đồng thời vẫn đảm bảo vai trò quản lý của NHNN. 3.3.2.Kiến nghị đối với chính phủ và cơ quan chức năng : Hiện nay hoạt động của bảo lãnh còn chịu sự chi phối của nhiều bộ luật, văn bản của chính phủ và các cơ quan quản lý nhà nước như Luật tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp, Luật thừa kế, các nghị đính và thông tư hướng dẫn. Điều này gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trọng quá trình nghiên cứu và thực hiện. Hơn nữa các văn bản quy định này lại thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi và nhiều khi không thống nhất với nhau. Chính vì vậy trong thời gian tới Chính phủ cùng các ban ngành liên quan phải từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật chung trên các tiêu chí sau : Các văn bản phải đồng bộ và nhất quán với nhau. Cần có tính ổn định, tránh sự thay đổi thường xuyên. Các văn bản luật phải có hiệu quả và khả thi, tức là luật phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng của các bên tham gia bảo lảnh, khuyến khích hoạt động bảo lãnh phát triển. Các văn bản luật cần phù hợp với thông lệ quốc tế để đảm bảo quá trình hội nhập. Các giao dịch thương mại quốc tế trong thời gian tới sẽ rất phát triển và đồng hành với nó là hoạt động bảo lãnh trên phạm vị quốc tế ngày càng tăng vì vậy việc đưa ra một hệ thống các văn bản luật phù hợp với thông lệ, điều ước quốc tế là rất cần thiết. Bên cạnh hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ cần duy trì môi trường kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới. Năm 2010 Chính phủ cần tập trung cao độ mọi nỗ lực ngăn chăn suy giảm kinh tế, phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, chủ động phòng ngừa lạm phát … Bên cạnh đó Chính Phủ cũng cần đưa ra những biện pháp, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh, tạo điều kiện phát triển cho hoạt động bảo lãnh. Kết luận Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và quá trình đi sâu nghiên cứu tìm hiểu, ta có thể thấy được bản chất của nghiệp vụ bảo lãnh, đánh giá những thành tựu và những hạn chế trong công tác tiến hành nghiệp vụ này tại Ngân hàng. Để từ đó đưa ra những giải pháp cùng những kiến nghị nhằm hoàn thiện, phát triển nghiệp vụ sánh ngang với những đòi hỏi của thực tế nền kinh tế-xã hội và nhu cầu phát triển của bản thân Ngân hàng. Cùng với thời gian, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng thể hiện vị thế quan trọng trong các nghiệp vụ của ngân hàng. Bảo lãnh không những mang lại nguồn thu nhập từ phí dịch vụ cho ngân hàng, mà hơn thế nữa còn góp phần nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Trong nghiệp vụ bảo lãnh, ngân hàng không phải xuất vốn ra ngay, cũng không phải sử dụng vốn của mình mà đôi khi ngân hàng còn có thể sử dụng vốn của khách hàng qua những khoản ký quỹ trong các tài khoản phong toả thường không phải trả lãi. Có thể nói Ngân hàng có rất nhiều lợi thế khi thực hiện nghiệp vụ này nhưng đi cùng với đó là những rủi ro như một tất yếu khách quan mà ngân hàng phải gánh chịu. Trước những thách thức của nền kinh tế thị trường, trước những yêu cầu phát triển và khai thác triệt để những lợi thế của nghiệp vụ bảo lãnh mang lại, việc không ngừng hoàn thiện phát triển nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng cũng như toàn hệ thống ngân hàng nói chung có ý nghĩa vô cùng to lớn. Trong phạm vi kiến thức còn nhiều hạn chế và thời gian nghiên cứu có giới hạn, em hy vọng chuyên đề của mình cũng đã góp phần tái hiện lại những khái niệm cơ bản về nghiệp vụ bảo lãnh cùng bức tranh về hiện trạng chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và đưa ra những giải pháp cùng những kiến nghị để không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng nghiệp vụ này trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26086.doc
Tài liệu liên quan