NHNN có chức năng quản lý và điều hành hệ thống NHTM và là ngân hàng của các NHTM, NHNN có tầm quan trọng rất lớn đối với chiến lược huy động vốn của ngân hàng, đồng thời cũng định hướng cho các NHTM hoạt động kinh doanh. NHNN với chính sách hợp lý và cách thức điều hành đúng đắn sẽ là tiền đề tốt tác động tích cực đến công tác huy động vốn của NHTM.
Sau đây là một số kiến nghị đối với NHNN:
Thứ nhất là: Cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật, đặc biệt chú ý tính đồng bộ, tính đầy đủ, tính thống nhất các hệ thống văn bản hướng dẫn luật, nhất là các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đồng thời chú trọng tới chất lượng thực hiện của các cơ quan thi hành pháp luật các cấp để xây dựng được môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh hơn và qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ hai là: NHNN cần trực tiếp thực hiện đồng bộ các giải pháp khả thi để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Việc làm đó một phần giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông khi thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, mặt khác nó làm phát triển khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM, tăng tốc độ tăng trưởng vốn.
Thứ ba là: NHNN cần cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng, của các tổ chức tài chính trung gian trong việc tạo vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các ngân hàng phải tạo lập được mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau và với các tổ chức tài chính khác.
Thứ tư là: NHTM cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân hiểu và thấy được lợi ích của việc thanh toán qua ngân hàng.
Thứ năm là: NHNN cần tiếp tục kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho nền kinh tế tăng trưởng cao trong thế ổn định, tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong mức cho phép đối với các NHTM để các NHTM có nhiều vốn hơn trong hoạt động cho vay và đầu tư.
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1608 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HNo&PTNT thường có kỳ hạn là 12 tháng hoặc 13 tháng với lãi suất thay đổi tuỳ từng thời kỳ nhưng lãi suất thường cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm và có thể được trả trước.
Để tăng nguồn vốn này thì NHNo&PTNT Hà nội đã mở từng đợt phát hành kỳ phiếu, khi đó ngân hàng sẽ chủ động hơn về số lượng huy động, thời hạn, lãi suất... và đây cũng là một ưu điểm nổi bật của kỳ phiếu NHTM. Chính vì thế mà trong năm 2005 và 2006 đã có sự thay đổi rõ rệt, cụ thề là: năm 2005 nguồn vốn này chỉ huy động được 298 tỷ đồng và chiếmn 2,5% so với tổng nguồn vốn, nhưng tời năm 2006 lượng vốn này đã tăng lên đáng kể đạt 768 tỷ đồng chiếm 5,9% so với tổng nguồn vốn.
Một ưu điểm nữa của việc huy động vốn theo hình thức này là: việc hạch toán đối với kỳ phiếu rất đơn giản, thủ tục hành chính trong việc gửi tiền và lĩnh tiền dễ dàng, ngân hàng rất thuận lợi trong việc tổ chức mạng lưới huy động và chi trả kỳ phiếu.
Như vậy, ngân hàng có thể sử dụng hình thức này để huy động vốn thường xuyên, liên tục với phương thức trả lãi, thanh toán, kỳ hạn... linh hoạt phù hợp với xu hướng phát triền của thị trường.
Tuy nhiên, việc phát hành kỳ phiếu của NHNo&PTNT Hà nội có chi phí huy động thường cao hơn so với các loại tiền gửi khác, hơn nữa người mua kỳ phiếu không thể sử dụng các dịch vụ, các giao dịch của ngân hàng. Ngoài ra, các giao dịch liên quan đến kỳ phiếu phải được thực hiện tại trụ sở ngân hàng đã làm cho chi phí về thời gian là rất lớn. Đây cũng là nguyên nhân làm lượng tiền vốn huy động theo hình thức này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng.
Trong thời gian qua đã có nhiều ngân hàng khác cũng liên tục phát hành kỳ phiếu trái phiếu để huy động vốn, nhưng do sự cố gắng của NHNo&PTNT Hà nội, uy tín của ngân hàng trên địa bàn được nâng cao cho nên ngân hàng đã thực hiện tốt công tác huy động vốn này góp phần thu hút được một lượng tiền mặt từ lưu thông về góp phần đẩy lùi tỷ lệ lạm phát và hạn chế các cơn sốt vàng và ngoại tệ…
Huy động vốn phân theo đối tượng
Mỗi thành viên trong nền kinh tế đếu có thể cung cấp nguồn vốn cho ngân hàng, tuy nhiên mối đối tượng có lượng vốn là không giống nhau. Để thấy rõ được sự khác biệt trong việc cung ứng vốn của các đối tượng cho ngân hàng chúng ta qua sát bảng số liệu sau
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn huy động theo đối tượng của NHNo & PTNT
Hà Nội giai đoạn 2004- 2006
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số tiền
04/03 (±%)
Số tiền
05/04 (±%)
Số tiền
06/05 (±%)
TCKT,TCTD
7312
+38
9294
+20
8480
-8,8
Tỷ trọng(%)
78.83
80,1
66,02
Dân cư
1332
-67
1957
+50
3633
+85,65
Tỷ trọng(%)
14.36
16.87
28,28
Vốn huy động khác
632
45
350
-44.6
732
+109,1
Tỷ trọng(%)
6.81
3.03
5,7
Tổng số
9276
11601
12845
( nguồn báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2004- 2006)
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu huy động vốn theo đối tượng của NHNo & PTNT Hà Nội
Tiền gửi của dân cư
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Hà nội. Ngân hàng luôn coi đây là nguồn tài trợ chủ yếu cho các dự án đầu tư dài hạn.
Có thể nói chi nhánh NHNo&PTNT Hà nội là một trong những ngân hàng có thế mạnh về nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn huy động từ dân cư. Trong thời qua, ngân hàng đã vận dụng nhiều biện pháp khai thác vốn theo hướng ổn định và có lợi trong kinh doanh. Ngân hàng đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ. Năm 2004 lượng tiền tiết kiệm của dân đạt 1332 tỷ đồng chiếm 14,36% so với tồng nguồn vốn.Nhưng đến năm 2005 lượng vốn này tăng lên và đạt 1957 tỷ đồng chiếm 16,87% so với tổng nguồn vốn. Đến năm 2006 thì đã đạt được 3633 tỷ đồng chiếm 28,28%. Lượng vốn này không ngừng gia tăng trong các năm gần đây do ngân hàng đã có nhiều thay đổi trong chính sách lãi suất, tạo thêm nhiều kỳ hạn để cho dân cư có thể lựa chọn.
Đây không phải là nguồn vốn mang tính ổn định cao bởi nó phụ thuộc nhiều vào quyết định của người gửi. Vì đây là khoản tiền mà mục đích của người gửi là hưởng lãi suất, nếu người dân tính được lãi suất mà ngân hàng trả cho khoản tiền mà họ hi sinh thời gian sử dụng không bằng với việc mua đô la hay vàng thì họ sẽ không sử dụng dịch vụ của ngân hàng, không đưa tiền đến gửi vào ngân hàng. Vì vậy khoản tiền này phụ thuộc lớn vào khả năng phân tích và đưa ra quyết định của khách hàng.
Qua những thành tựu đã đạt được, NHNo&PTNT Hà nội đã tạo được lòng tin đối với khách hàng, khách hàng đã thực sự tin tưởng và gửi tiền của mình vào ngân hàng. Điều đó làm cho nguồn vốn huy động theo hình thức này không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng.
Tiền gửi của các TCKT, TCTD, đây là nguồn vốn mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng, chi phí đầu vào của nó thấp hơn nhiều so với các nguồn vốn khác. Bởi vậy các ngân hàng đang tìm cách thu hút được số lượng lớn nguồn vốn này. Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn từ dân cư, ngân hàng còn tìm mọi biện pháp tiếp cận với các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng hay tổ chức kinh tế khác có nguồn vốn nhàn rỗi nhằm gia tăng thêm vốn hoạt động của mình.
NHNo&PTNT Hà nội luôn giữ được mối quan hệ tốt với các tổ chức kinh tế có nguồn vốn lớn như: công ty bia Hà nội, Kho bạc,...Bởi vậy nguồn tiền gửi của các TCKT, TCTD luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Và có xu hướng tăng mạnh qua các năm, cụ thể là: năm 2004 nguồn vốn này đạt 7312 tỷ đồng chiếm 78,83% so với tổng nguồn vốn, đến năm 2005 đạt 9294 tỷ đồng chiếm 80,1 so với tổng nguồn vốn và đã tăng 1928 tỷ đồng, tức tăng 27,11% so với năm 2004.
Nguồn vốn tuy tăng trưởng nhanh nhưng không vững chắc. Các khách hàng truyền thống của ngân hàng như: TCKT chiếm gần 26% tổng lượng vốn, Kho bạc chiếm 28%, TCTD chiếm 3,5% tồng nguồn vốn này. Mỗi khách hàng lớn như vậy khi rút tiền đột ngột sẽ làm ngân hàng mất tính ổn định của ngồn vốn. Nguồn vốn này có chi phí đầu vào thấp, có khả năng huy động được khá lớn vì vậy NHNo&PTNT Hà nội đã tìm mọi cách để gia tăng nguồn vốn này. Để có thể huy động tốt nguồn vốn này thì ngân hàng phải xác định cho đúng khách hàng trọng tâm, sử dụng các chính sách khách hàng linh hoạt, đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn và có nhiều biện pháp thu thêm khách hàng mới.
NHNo&PTNT Hà nôi luôn hoạt động trong hệ thống liên ngân hàng. Do đó để đáp ứng nhu cầu chi trả và quan hệ với các khách hàng thì không những NHNo&PTNT Hà nội phải đạt quan hệ với các ngân hàng khác mà còn phải quan hệ tốt với các tổ chức tín dụng khác.
Vốn huy động khác
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động được của NHNo&PTNT Hà nội. Nhưng nó là khoản mục không thể bỏ qua trong nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
Nguồn vốn này năm 2005 đã giảm xuống nhưng đến năm 2006 thì lại tăng lên. Cụ thể là: năm 2004 đạt 632 ty đồng chiếm 6,81% so với tổng nguồn vốn huy động, nhưng tới năm 2005 thì chỉ đạt 350 tỷ đồng chiếm 3,03% so với tổng nguồn vốn. Như vậy năm 2005 lượng vốn huy động khác này giảm 282 tỷ đồng. Đến năm 2006 thì ngược lại, nguồn vốn huy động theo hình thức này tăng lên và đạt 732 tỷ đồng chiếm 5,7% so với tổng nguồn vốn và tăng lên so với năm 2005 là 382 tỷ đồng.
Nguồn vốn này tuy nhỏ nhưng nó là các khoản vốn nhận uỷ thác đầu tư của các tổ chức tài trợ (chủ yếu ở đây là vốn của Quỹ hỗ trợ phát triển) hay các khoản vay của NHNN.
Đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế trong công tác huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội
Kết quả chung đạt được
Trong quá trình hoạt động của mình NHNo&PTNT Hà nội đã sử dụng nhiều hình thức để tạo lập nguồn vốn như nhận gửi, đi vay hay uỷ thác đầu tư. Qua phân tích thực trạng nguồn vốn, ta thấy NHNo&PTNT Hà nội luôn xác định tăng cường huy động vốn là nhiệm vụ hàng đầu và là mục đích cần phải hướng tới của mình. Ngoài việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, mở rộng nhiều dịch vụ tiện ích để phục vụ khách hàng thì ngân hàng còn sử dụng nhiều chính sách phục vụ khách hàng, áp dụng lãi suất huy động một cách linh hoạt phù hợp với sự biến động giá cả theo từng thời kỳ. Ngân hàng đã tăng cường hoạt động huy động vốn về quy mô, cơ cấu ngày càng bám sát yêu cầu sử dụng vốn.
NHNo&PTNT Hà nội đã đạt được kết quả đáng khích lệ như:
- Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng tăng liên tục qua các năm, năm sau cao hơn năm trước đảm bảo nhanh, vững chắc. Đặc biệt là nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và các tổ chức khác.
- Các sản phẩm huy động vốn ngày càng nâng cao về mặt số lượng và chất lượng.
Đánh giá các hình thức huy động vốn
Qua phân tích thực trạng ta thấy nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT Hà nội là loại nguồn vốn cần được khai thác để sử dụng vì nó có chi phí thấp. Nếu khai thác tốt nguồn vốn này sẽ đồng thời mang lại lợi ích cho bản thân ngân hàng trong việc gia tăng chênh lệch lãi suất hai đầu đồng thời góp phần hết sức quan trọng trong việc thực hiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ quốc gia. Do đó yêu cầu tăng cường huy động vốn với quy mô cơ cấu thích hợp đảm bảo sự ổn định, có chi phí thấp và phù hợp với sử dụng vốn được đạt ra hết sức cấp thiết. Tuy nhiên việc huy động vốn đạt hiệu quả cao khi áp dụng những hình thức huy động vốn phù hợp với mỗi nguồn vốn, đối tượng khách hàng. Dưới đây là một số đánh giá của các hình thức huy động vốn:
Huy động tiền gửi giao dịch
Trong những năm qua số lượng khách hàng mở tài khoản cũng như số dư tiền gửi giao dịch tăng khá mạnh, Kho bạc nhà nước là một khách hàng thường xuyên có số dư lớn và tương đối ổn định, Ngân hàng luôn giữ và thu hút thêm nhiều khách hàng lớn thông qua việc thực hiện nghiêm túc những cam kết đáp ứng nhu cầu sử dụng tiền của khách hàng và áp dụng những chính sách giá ưu đãi. Bên cạnh đó ngân hàng còn thu hút những khoản tiền nhỏ từ tầng lớp dân cư.
Ưu điểm: Tạo ra nguồn tiền gửi có chi phí thấp góp phần đáng kể trong giảm chi phí đầu vào.
Hạn chế: nguồn vốn huy động này mang tính ổn định thấp,đòi hỏi thường xuyên đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ và áp dụng chính sách giá cả linh hoạt.
Huy động tiền gửi phi giao dịch
Huy động tiền gửi phi giao dịch gồm:
- Việc huy động tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn cũng giống như tiền gửi trên tài khoản cá nhân chỉ khác về tính chất, tài khoản tiền gửi này không được phát hành séc. Đây là hình thức huy động vốn quen thuộc ăn sâu vào tiềm thức của dân. Những năm qua hình thức này đã đem lại cho ngân hàng nguồn vốn tăng trưởng khá ổn định.
Hạn chế đáng chú ý nhất của hình thức này là xuất phát từ việc thiếu quy định cho phép NHNo&PTNT Hà nội vận dụng kỳ hạn một cách linh hoạt, khi kỳ hạn đầu tiên kết thúc mà khách hàng không đến ngân hàng để chuyển đổi kỳ hạn kế tiếp. Ví dụ như: khi đến hạn sổ tiết kiệm kỳ hạn 6 tháng thông thường ngân hàng sẽ chuyển sang kỳ hạn 6 tháng cho cuốn sổ mà không cần biết sự lựa chọn của khách hàng. Nếu sau 3 tháng họ đến rút thì chỉ được tính lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cho số ngày vượt quá mà chưa được vận dụng kỳ hạn ngắn hạn, điều này sẽ gây không ít thác mắc từ phía khách hàng.
- Huy động tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế xã hội: hình thức này đã được ngân hàng chú ý mở rộng, tuy nhiên cần mở rộng hơn nữa đối với các tổ chức công đoàn của các doanh nghiệp, các tổ chức hành chính sự nghiệp. Trong thực tế nguồn vốn này có thể khai thác từ các quỹ chưa đến thời kỳ phân phối cho các thành viên.
Hình thức phát hành các giấy tờ có giá
Nhu cầu về vốn của nền kinh tế ngày càng gia tăng manh, để đáp ứng vốn cho sự phát triển đó NHNo&PTNT Hà nội đã phát hành các chứng chỉ tiền gửi có giá trị để huy động vốn. Mặc dù phải trả lãi cao hơn các hình thức tiền gửi khác song vẫn thấp hơn lãi suất đi vay các TCTD hoặc nguồn vốn uỷ thác đầu tư.
Ưu điểm: hình thức này có thể đáp ứng nhanh chóng nguồn vốn thiếu hụt, tạo sự gia tăng nguồn vốn của ngân hàng trong thời gian ngắn.
Nhược điểm: chi phí của hình thức này còn quá cao.
Như vậy để tăng cường hoạt động huy động vốn có quy mô lớn với cơ cấu và chi phí hợp lý trước hết cần tập trung khai thác các nguồn vốn tiền gửi, tiền gửi giao dịch đặc biệt đáp ứng đủ lượng tiền mặt. Khi cần thiết thì thu hút tiền gửi bằng cách phát hành giấy tờ có giá.
Đánh giá quy mô và cơ cấu
Qua phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội chúng ta thấy hoạt động này những năm qua đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tăng trưởng tài sản cả về quy mô, cơ cấu từ đó đem lại những kết quả khả quan.
Các sản phẩm huy động vốn ngày càng được nâng cao về chất lượng và số lượng. NHNo&PTNT Hà nội đã bổ sung nhiều hình thức huy động vốn tiền gửi hưởng lãi suất bậc thang theo thời gian gửi, tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 0 đến 60 tháng với nhiều hình thức trả lãi: lãi tháng, lãi quý, lãi trước, lãi sau, tiết kiệm 12 tháng có khuyến mại bảo hiểm con người…
Về quy mô, cơ cấu và sự ổn định của vốn huy động cũng đã đạt được nhiều thành tích như:
- Cơ cấu nguồn vốn tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực. Nguồn vốn huy động trong những năm qua của NHNo&PTNT Hà nội đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tăng trưởng tài sản cả về quy mô kết cấu.
- Tổng nguồn vốn tăng trưởng cao, hầu hết các loại nguồn vốn huy động đều tăng ổn định qua các năm. Trong hoạt động kinh doanh, Ngân hàng đã chú trọng đến hình thức huy động vốn trong thanh toán nên vốn tiền gửi không kỳ hạn vì thế cũng tăng nhanh. Sự tăng lên của quy mô tiền gửi không kỳ hạn cũng tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện chiến lược hướng sang lĩnh vực dịch vụ. Hầu hết các khách hàng gửi tiền không kỳ hạn đều sử dụng nhiều dịch vụ ngoại vi mà ngân hàng cung cấp như: chuyển tiền, thu chi hộ, thanh toán quốc tế… đem lại khoản thu nhập đáng kể cho ngân hàng từ hoa hồng lệ phí và kinh doanh ngoại tệ.
- Trong bối cảnh cạnh tranh ngày nay, NHNo&PTNT Hà nội có rất nhiều đối thủ mạnh trong công tác huy động vốn. Lãnh đạo ngân hàng đã nhanh chóng nhìn nhận một chân lý là muốn tồn tại và phát triển thì không còn con đường nào khác là phải cải tổ và hoàn thiện công tác khách hàng một cách toàn diện và sâu sắc. Chính sách khách hàng với nội dung tạo được nhiều tiện ích nhất cho khách hàng và chính sách này bao gồm:
+ Luôn hướng tới các dịch vụ ngoại vi hoàn hảo với mức chi phí rẻ nhất
+ Có chính sách mức lãi suất tiền gửi cạnh tranh hấp dẫn.
+ Du nhập công nghệ hiện đại, tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng
+ Hợp tác với bạn hàng cùng tồn tại và phát triển.
Một tiêu chí vô cùng quan trọng trong chính sách khách hàng là làm cho mọi nhân viên ngân hàng có thái độ giao tiếp lịch sự, văn hóa, văn minh.
Những hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình để đáp ứng nhu cầu về vốn đặc biệt là vốn trung và dài hạn, NHNo&PTNT Hà nội đã đạt được nhiều thành công đáng kể góp phần to lớn cho công cuộc đổi mới kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại những hạn chế sau:
- Cơ cấu nguồn vốn chưa hợp lý vì khó khăn trong mở rộng quy mô tác động lớn đến kết cấu nguồn vốn do ngân hàng phải áp dụng các biện pháp huy động với lãi suất cao hơn. Cơ cấu vốn thể hiện sự mất cân bằng về kỳ hạn.
- Việc đa dạng hoá các loại hình tiền gửi của ngân hàng chưa có biện pháp thực hiện đồng bộ.
- Sản phẩm huy động vốn tuy đã được triển khai nhiều loại hình, nhiều phương thức trả lãi song vẫn chưa đáp ứng được thị hiếu của người gửi.
- Nguồn vốn mang tính chất không ổn định. Do nguồn vốn chủ yếu huy động từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tiền gửi giao dịch gây lên tình trạng mất ổn định cho ngân hàng, gây khó khăn cho hoạt động cho vay và đầu tư của NHNo&PTNT Hà nội.
- Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hoạt động chưa mang lại hiệu quả cao, do người dân vẫn chưa hiểu và chưa quen dùng, mặt khác do tâm lý thích tiền mặt còn lớn và các khách hàng truyền thống của ngân hàng vẫn còn nhiều doanh nghiệp không muốn sử dụng lại dịch vụ này.
- Chính sách lãi suất chưa thực sự mềm dẻo để có thể cạnh tranh.
- Sự phối hợp giữa các bộ phận nghiệp vụ chưa chặt chẽ nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung không cao.
Nguyên nhân
*Nguyên nhân khách quan
Sau đây là một số nguyên nhân:
- Hoạt động của ngân hàng phụ thuộc sâu sắc vào những đặc điểm tình hình kinh tế xã hội. Nếu môi trường thuận lợi thì việc kinh doanh của ngân hàng sẽ phát triển tốt.
- Người dân chưa được ngân hàng hướng dẫn cặn kẽ việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, nên việc ưa chuộng tiền mặt, thích cầm tiền mặt trong tay để phòng thân còn diễn ra ở hết dân cư trên địa bàn Hà nội. Bên cạnh đó, các thủ tục, chứng từ thanh toán qua ngân hàng vẫn rất phức tạp, gây cho người dân tâm lý e ngại khi đến với ngân hàng.
- Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin hỗ trợ cho các ngân hàng chưa đồng bộ. Mức độ tự động hoá các dịch vụ còn thấp, các chương trình hiện đại hoá ngân hàng chưa hoàn thiện và ổn định.
- NHNo&PTNT Hà nội đã và đang hoạt động trong môi trường canh tranh, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường đã làm thị phần huy động vốn của ngân hàng bị thu hẹp.
* Nguyên nhân chủ quan
- Việc tuyên truyền quảng bá các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng tuy đã có nhiều cố gắng, đạt được nhiều hiệu quả song vấn còn hạn chế về chất lượng, mẫu mã, phương thức quảng bá,…và ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của ngân hàng.
- Huy động vốn từ các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế vẫn mang tính thụ động, các doanh nghiệp có nhu cầu thì ngân hàng đáp ứng. NHNo&PTNT Hà nội chưa có nhiều biện pháp khai thác chủ động nguồn vốn này.
- So với mặt bằng chung trên thế giới thì công nghệ của NHNo&PTNT Hà nội còn rất lạc hậu, hệ thống thông tin chưa phát triển đồng bộ, chưa thiết lập được hệ thống quản lý rủi ro hợp lý, chưa có chiến lược kinh doanh hiệu quả và bền vững.
- Thời gian giao dịch của ngân hàng còn bó hẹp trong giờ hành chính, nên việc huy động vốn từ dân cư gặp nhiều khó khăn.
- Cơ sở hạ tầng chưa được tập trung xây dựng gây khó khăn cho khách hàng khi đến giao dịch.
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNo&PTNT HÀ NỘI
Định hướng đối trong công tác huy động vốn
Công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi sự nỗ lực vươn lên của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế. Đất nước ta còn nghèo, mức thu nhập đầu người mới chỉ gần 800USD/đầu người/năm, do đó tỷ lệ tích luỹ vốn còn thấp. Mặt khác để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế đòi hỏi một lượng vốn đầu tư rất lớn. Vì vậy công tác huy động vốn, đặc biệt là vốn trung - dài hạn luôn được nhấn mạnh là mục tiêu hàng đầu của ngành ngân hàng.
Trên cơ sở tình hình hiện nay cũng như xu hướng phát triển của nền kinh tế, ngân hàng đã đặt ra một số định hướng huy động vốn trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất là: Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn trong kinh doanh, tăng cường các biện pháp để huy động vốn từ các tổ chức kinh tế, tranh thủ nguồn vốn với lãi suất và thời hạn hợp lý phù hợp với xu hường biến động của thị trường trong nước và khu vực để đa dạng hóa các hình thức đầu tư, kinh doanh.
Thứ hai là: Không ngừng củng cố nâng cao hiệu quả hoạt động mạng lưới hoạt động kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tạo động lực cho hoạt động huy động vốn.
Thứ ba là: Từng bước hiện đại hóa công nghệ để cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính có chất lượng cao để nâng cao uy tín đối với khách hàng, góp phần tạo lập nguồn vốn ổn định với quy mô, cơ cấu phù hợp với yêu cầu phát triển.
Thứ tư là: Điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn huy động theo thời gian, đặc biệt nguồn vốn trung và dài hạn đáp ứng nhu cầu tăng trưởng tài sản có thời hạn dài, ngăn ngừa và phòng chống rủi ro. Thiết lập và áp dụng hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn và an toàn trong kinh doanh.
Thứ năm là: Song song với việc đổi mới công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ phải tổ chức thực hiện các dịch vụ ngân hang cho vay nội, ngoại tệ, thanh toán trong nước và quốc tế để nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút khách hàng giao dịch.
Thứ sáu là: Có chiến lược huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội với từng địa bàn hoạt động để tăng cường nguồn vốn với chi phí vốn hợp lý.
Thứ bẩy là: Nâng cao hiệu quả kinh doanh nguồn vốn trên cơ sở tập trung các lĩnh vực sinh lời, hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro, ban hành và thực thi chinh sách quản trị tài sản Nợ và tài sản Có.
Để thực hiện các mục tiêu trên ngân hàng phải quán triệt các quan điểm chỉ đạo, phát huy nội lực trong nước là chủ yếu, bên cạnh đó kết hợp tiềm lực bên ngoài, đảm bảo sự thống nhất giữa các công tác huy động vốn và các mặt hoạt động khác, thực hiện tiết kiệm có hiệu quả phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam.
Giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội
Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn
Như ta đã biết, NHNo&PTNT Hà nội đã áp dụng nhiều hình thức huy động vốn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trên thực tế còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn là một trong những biện pháp để có thể huy động vốn với khối lượng lớn. NHNo&PTNT đã tiến hành đa dạng hóa theo một số quan điểm sau:
- Ngân hàng tiếp tục phát huy các hình thức huy động truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, các hình thức kỳ phiếu, trái phiếu..., đa dạng hóa thời hạn gửi cụ thể là ngoài loại 3, 6, 9, 12, 13 tháng nên thêm loại dài hạn như 2, 3, 5 năm cùng với việc đưa thêm các yếu tố chuyển nhượng để thuận tiện cho việc bán lại của các cá nhân, doanh nghiệp hay các NHTM trước ngày đến hạn.
- Ngoài ra, ngân hàng có thể đưa ra nhiều hình thức huy động vốn mới như tiền gửi tiết kiệm có thưởng, lãi suất bậc thang, ...
- Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa việc đa dạng hóa nghiệp vụ huy động ngoại tệ trong xu thế hội nhập toàn cầu như ngày nay. Khi nền kinh tế nước ta mở cửa, sẽ có nhiều cơ hội giao lưu làm ăn buôn bán giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài nên nhu cầu ngoại tệ ngày càng tăng. NHNo&PTNT Hà nội cần đưa ra những hình thức huy động hấp dẫn và thuận lợi để không những huy động vốn của các tổ chức kinh tế dân cư trong nước mà còn thu hút được vốn của các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nước ngoài đang ở Việt Nam. Ngân hàng cũng có thể tìm các nguồn vốn ngoại tệ bằng cách thông qua các hợp đồng vay vốn của các tổ chức tín dụng nước ngoài để đầu tư vào các dự án kinh tế.
- Ngân hàng cần có các biện pháp khuyến khích dân cư làm quen với việc mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Để thực hiện tốt được công tác này, cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng tạo điều kiện cho ngân hàng sử dụng khối lượng tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các đơn vị này vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
- Ngân hàng tiến hành mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương cho các cán bộ công nhân viên, đây là hình thức đang được sử dụng phổ biến ở các nước phát triển nhưng ở Việt Nam thì còn rất mới mẻ do thu nhập của người dân chưa cao. Khi ngân hàng áp dụng hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để trả lương đối với cán bộ công nhân viên sẽ huy động thêm nguồn vốn kinh doanh trên cơ sở số dư tài khoản tiền gửi cá nhân và doanh nghiệp. Đến kỳ hạn phát lương, doanh nghiệp hoặc các tổ chức kinh tế sẽ gửi một bảng lương cho ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ trích tiền từ tài khoản của doanh nghiệp chuyển sang tài khoản của các nhân viên mà họ đã mở tài khoản ở ngân hàng. Trong trường hợp nhân viên chưa mở tài khoản, ngân hàng có thể tuyên truyền, khuyến khích họ mở tài khoản vừa có lợi cho doanh nghiệp là không phải đến ngân hàng rút tiền về phát lượng, vừa có lợi cho nhân viên của doanh nghiệp là an toàn và được hưởng thêm một phần lãi suất đối với sổ tiền chưa sử dụng đến tất nhiên ngân hàng phải đảm bảo bí mật số dư tài khoản của người gửi tiền.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể đưa ra các hình thức dịch vụ nhận và trả tiền ngoài giờ (ngoài giờ hành chính, các ngày nghỉ, ngày lễ tết...)
Mở rộng mạng lưới giao dịch và nâng cao chất lượng phục vụ
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh như ngày nay đó là trình độ dân trí cao hơn, đời sống dân cư cũng ngày càng được cải thiện. Như vậy xã hội sẽ có ngày càng nhiều nguồn tiền nhàn rỗi tạm thời, người sở hữu những khoản tiền ấy cũng muốn có thêm thu nhập nên họ đã gửi số tiền tích lũy đó vào ngân hàng. Để khai thác triệt để nguồn vốn này ngân hàng cần mở rộng mạng lưới giao dịch đến từng cơ sở, địa điểm nơi tập trung nhiều dân cư, các trung tâm thương mại theo hướng gần dân để đảm bảo giao dịch kịp thời cho người gửi tiền và lĩnh tiền.
Ngân hàng cần tiếp tục tìm địa điểm mở rộng mạng lưới, đồng thời thường xuyên kiểm tra nâng cao và thay đổi địa điểm các phòng giao dịch hoạt động kém hiệu quả, phân tích, tìm nguyên nhân và có giải pháp thích hợp, kịp thời để có thể rút kinh nghiệm cho các phòng giao dịch ở các nơi khác.
NHNo&PTNT Hà nội ngoài việc mở thêm nhiều mạng lưới giao dịch thì cũng đã kết hợp với trang bị kỹ thuật hiện đại để nâng cao chất lượng phục vụ. Ngân hàng cần sử dụng vốn để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, mở rộng các loại dịch vụ khác của ngân hàng. Đây là biện pháp quan trọng để phát triển môi trường cạnh tranh phức tạp như ngày nay. Đối với khách hàng thì nơi nào có khả năng phục vụ tốt nhu cầu họ, đảm bảo an toàn cho đồng tiền của họ thì họ sẽ đến với ngân hàng đó. Nếu mức lãi suất hoạt động như nhau thì ngân hàng nào cho khách hàng hưởng nhiều dịch vụ tốt hơn thì tất nhiên khách hàng sẽ đến với ngân hàng đó.
NHNo&PTNT cần đầu tư ứng dụng các công nghệ tin học, khuyến khích sử dụng tài khoản séc đối với nhiều đối tượng đặc biệt là những đối tượng có thu nhập ổn định. Tăng cường lắp đặt các máy rút tiền tự động, tất nhiên chi phí lắp đặt máy ATM là rất lớn, bởi vậy muốn đạt hiệu quả cao trong hình thức huy động vốn này NHNo&PTNT cần phải tính toán hợp lý để đồng vốn được quay vòng nhanh nhất.
Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Chính sách lãi suất là một trong những chính sách quan trọng của ngân hàng. Vì thế các ngân hàng luôn phải tìm cách duy trì mức lãi suất cạnh tranh. Đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ, cho dù chỉ có một sự khác biệt tương đối nhỏ về lãi suất cũng khiến người gửi tiền tiết kiệm và nhà đầu tư chuyển vốn mà họ đang có từ một tổ chức tiết kiệm này sang một tổ chức khác.
Lãi suất là một trong các công cụ kinh tế có tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Ta thầy rằng, người dân khi có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng với thời hạn dài thường đặt mục tiêu lãi suất lên hàng đầu. Lãi suất ngân hàng là yếu tố “giá” cần phải thỏa mãn: có lợi cho người gửi, có lợi cho người vay, có lợi cho ngân hàng, cụ thể là:
+ Lãi suất danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến để đảm bảo quyền lợi cho người gửi
+ Lãi suất cho vay phải đảm bảo lợi nhuận cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường.
Lãi suất được xác định theo nguyên tắc thị trường và trong mối quan hệ về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, lãi suất thực dương tạo lợi nhuận cho ngân hàng. Lãi suất được xác định trong “khung giá”, lãi suất phải nằm trong mặt bằng chung trong hệ thống ngân hàng, phải có tính cạnh tranh, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài phải cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn ngắn hơn. Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng lãi suất huy động bằng tỷ lệ lạm phát bình quân hoặc lãi suất gốc cộng với tỷ lệ thu nhập dự tính của người gửi tiền.
Cần phải lựa chọn cơ cấu lãi suất sao cho vừa đảm bảo gia tăng quy mô tổng nguồn vốn, tiết kiệm chi phí lại vừa tăng tính ổn định của nguồn vốn, dự báo được xu hướng biến động của lãi suất thị trường để chủ động tạo ra các khe hở nhạy cảm với lãi suất thích hợp, từ đó hạn chế rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán, điều chỉnh kết quả kinh doanh theo hướng tích cực.
Hiện nay mức lãi suất huy động nói chung của các ngân hàng còn nhiều bất cập, lãi suất huy động vốn (VNĐ) có chiều hướng tăng trong khi lãi suất cho vay lại hạ do cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Để tăng cường vốn huy động, ngân hàng cần tăng lãi suất tiền gửi, nhưng điều này gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp sử dụng vốn vay. Vì vậy, ngân hàng cần có chính sách lãi suất vừa hấp dẫn người gửi lại vừa hạn chế gia tăng lãi suất đầu ra.
Đây là vấn đề khó khăn đặt ra mà ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau:
- Nâng cao lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để bảo đảm lãi suất trung bình không bị tăng lên đối với toàn bộ vốn huy động. Việc nâng cao lãi suất và dài hạn phải nằm trong khung giá, phải có tính cạnh tranh, ngân hàng có thể dựa vào khung lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các ngân hàng lớn để đưa ra mức lãi suất vừa hấp dẫn lại mang tính cạnh tranh.
- Mở rộng các hình thức trả lãi: bên cạnh việc áp dụng hình thức trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi hàng tháng, NHNo&PTNT Hà nội có thể áp dụng hình thức lãi xuất lũy tiến theo số lượng gửi tiền. Cùng với một kỳ hạn như nhau, ngân hàng có thể thay đổi mức lãi suất với những khoản tiền lớn. Với chính sách lãi suất nhạy cảm như vậy ngân hàng có thể thu hút được nhiều khoản tiền lớn.
- Khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua ngân hàng được hiện đại hóa, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối với các khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã làm hiện này.
- Các khoản tiền gửi trung và dài hạn thì mục đích chính của người gửi tiền là hưởng lãi suất hoặc tích lũy cho các mục đích khác như mua sắm. Do đó, ngân hàng có thể tăng lãi suất loại tiền gửi này để khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
Thường xuyên đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Con người là yếu tố trung tâm quyết định đến sự thành bại của mọi tổ chức. Đối với NHTM thì yếu tố con người là quan trọng hơn cả. Muốn cho sự nghiệp kinh doanh của ngân hàng ngày càng phát triển, hoạt động quản lý kinh doanh và chiến lược khách hàng được tiến hành thuận lợi đòi hỏi ngân hàng phải thường xuyên quan tâm và đưa ra chiến lược con người phù hợp. Phải chú ý ngay từ khâu tuyển dụng, bố trí công tác, thực hiện đào tạo và đào tạo lại cán bộ để có thể theo kịp với những thay đổi.
Các cán bộ ngân hàng cần quán triệt sâu sắc tinh thần tận tụy, chu đáo với sự nghiệp của toàn đơn vị. Cán bộ ngân hàng được coi như tấm gương phản chiếu về ngân hàng, là một yếu tố củng cố uy tín của ngân hàng. Do vậy phải tạo cho cán bộ ngân hàng một phong cách đĩnh đạc, tác phong phục vụ khách hàng lịch sự, văn minh và có trách nhiệm cần hiểu nhu cầu và mong muốn của họ để từ đó mới thực hiện thành công chiến lược khách hàng vì chiến lược này phải được duy trì thường xuyên lâu dài.
Với thực trạng trình độ cán bộ so sánh với yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo NHNo&PTNT Hà nội nên tổ chức đào tạo theo các nội dung sau:
- Đào tạo nâng cao: Mục đích của việc này là bổ túc kiến thức thị trường, các lĩnh vực KH - KTXH, phương pháp nghiên cứu, phân tích tài chính các dự án, hoạt động kinh doanh của một số ngành kinh tế liên quan từ đó nâng tầm nhận thức để có thể hoạch định các chiến lược kinh doanh cho từng thời kỳ đồng thời có khả năng tư vấn cho khách hàng.
- Đào tạo chuyên sâu về công nghệ, nghiệp vụ ngân hàng để mỗi cán bộ nhân viên giỏi về chuyên môn, thành thạo về nghiệp vụ.
- Trang bị kiến thức Marketing cho các nhân viên trong ngân hàng, tạo điều kiện cho họ trở thành những mắt xích trong thu thập thông tin, xử lý thông tin kịp thời để góp phần đáp ứng nhu cầu của khách hàng và nâng cao kỹ năng giao tiếp.
Nói tóm lại, cán bộ ngân hàng cần phải tích cực hoạt bát, lịch sự khi giao tiếp, trên cơ sở đó tăng cường tín nhiệm, thắt chặt mối quan hệ bạn hàng lâu dài. Như thế, ngân hàng đã có một chính sách cán bộ đúng đắn, phù hợp với nhu cầu kinh doanh, tạo được niềm tin với khách hàng, giúp ngân hàng tăng nguồn vốn để đầu tư và sử dụng vốn cho nền kinh tế.
Tăng cường hoạt động Marketing Ngân hàng
Trong cơ chế thị trường các ngân hàng phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển, các ngân hàng phải tạo ra sự khác biệt, vượt trội hơn hẳn so với các đối thủ cạnh tranh. Thông qua công tác marketing ngân hàng cần phải đưa ra các hình thức huy động vốn với thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu, mong muốn của khách hàng về chất lượng, chủng loại các sản phẩm của ngân hàng. Không những thế, công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng nhằm lôi kéo khác hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
Trong môi trường cạnh tranh như ngày này, NHNo&PTNT Hà nội phải tìm cách tạo nên sự khác biệt so với các ngân hàng khác thì mới có thể tồn tại và phát triển hơn nữa.
Hoạt động Marketing đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng cũng như trong hoạt động huy động vốn. Hoạt động Marketing trước hết phải được thực hiện ở bộ mặt của ngân hàng. Khách hàng nào cũng rất coi trọng bộ mặt bề ngoài của các nơi mà họ đến và thực hiện giao dịch. Do đó NHTM Hà nội cần tạo thêm một môi trường hoạt động gây được thiện cảm của khách hàng với các trang bị cơ sở vật chất hiện đại cùng với sự nhiệt tình niềm nở của nhân viên nghiệp vụ sẽ tạo nên thế mạnh cho bản thân ngân hàng.
Khi ngân hàng đã tạo được sự tín nhiệm cho khách hàng nhưng không tìm được biện pháp quảng cáo để mở rộng mạng lưới khách hàng thì ngân hàng cũng rất khó khăn để mở rộng quy mô hoạt động đặc biệt khi các sản phẩm hay dịch vụ mới ra đời nếu ngân hàng không sử dụng phương tiện quảng cáo thì khách hàng không thể biết mà tìm đến với ngân hàng được hoặc khi ngân hàng muốn thay đổi điều gì đó thì cũng cần phải có phương tiện để thông báo cho mọi người cùng biết. Do đó, ngoài việc sử dụng các hình ảnh về ngân hàng qua bộ mặt của trụ sở, thái độ và trình độ của cán bộ công nhân viên hoặc qua các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng thì ngân hàng còn phải sử dụng tích cực hơn nữa các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là quảng cáo.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin về môi trường kinh doanh, về khách hàng, đồng thời xây dựng chiến lược marketing. Các ngân hàng sẽ sử dụng một cách linh hoạt, mềm dẻo các công cụ kỹ thuật của marketing ứng dụng trong hoạt động của ngân hàng để thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Các công cụ kỹ thuật marketing được tập trung vào 4 chính sách lớn:
- Chính sách thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu điều tra: từ các thông tin có được qua quan sát, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các lĩnh vực có liên quan đến thị trường ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ đưa ra các chính sách kinh doanh nói chung và chính sách huy động vốn nói riêng phù hợp với nhu cầu của khách hàng và nhu cầu sử dụng vốn của thị trường
- Chính sách sản phẩm giá cả: Các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng bao gồm các dịch vụ cơ bản của nghề ngân hàng là nghiệp vụ huy động vốn, nguồn vốn sử dụng vốn, nghiệp vụ thanh toán và các nghiệp vụ ngoại vi mang tính chất hỗ trợ như dịch vụ tư vấn khách hàng, nghiệp vụ thông tin theo nhu cầu, dịch vụ két… có những nghiệp vụ ngoại vi không mạng lại lợi nhuận trực tiếp cho ngân hàng, song có tác dụng kích thích sự chú ý, thu hút khách hàng và làm tăng giá trị cung ứng sự thỏa mãn của khách hàng đối với các dịch vụ cơ bản. Đặc biệt với sự đa dạng hóa các sản phẩm của nghiệp vụ huy động vốn sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng khả năng huy động vốn.
- Chính sách phân phối: Chính sách phân phối là tập hợp toàn bộ những phương tiện vật chất đưa ra sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng. Một ngân hàng có càng nhiều kênh phân phối, nhiều quầy giao dịch thì cơ hội tiếp xúc với khác hàng càng nhiều, từ đó khả năng huy động vốn sẽ tăng lên
- Chính sách giao tiếp, khuyếch chương. Giao tiếp tốt sẽ bảo vệ lợi ích của ngân hàng. Bên cạnh đó, quảng cáo cũng là một phương tiện rất quan trọng để nâng cao vị thế của ngân hàng, thu hút thêm khách hàng cho ngân hàng, tạo lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng
Đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng
Đây là vấn đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Do vậy, NHNo&PTNT Hà nội cần tập trung phát triển và đổi mới công nghệ để phát triển hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Trong cạnh tranh các ngân hàng phải không ngừng đổi mới công nghệ áp dụng những công nghệ ngân hàng tiên tiến. Đối với một ngân hàng có công nghệ tiên tiến thì chất lượng phục vụ thoả mãn nhu cầu của khách hàng sẽ tốt hơn, sẽ huy động được nhiều vốn hơn.
NHNo&PTNT Hà nội trong thời gian qua đã tích cực đổi mới công nghệ ngân hàng như là:
- Tổ chức thực hiện các nghiệp vụ huy động tiền gửi một cách đồng bộ khoa học, phát triển công nghệ ngân hàng với hệ thống vi tính dàn trải khắp các phòng, trang bị các máy rút tiền tự động phục vụ yêu cầu rút tiền của khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác, cắt bỏ những khâu không cần thiết.
- Đầu tư vào việc xây dựng hệ thống đường truyền để đảm bảo khả năng liên lạc thông suốt giữa hội sở chính với các chi nhánh.
Như vậy với việc đổi mới công nghệ NHNo&PTNT Hà nội sẽ đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, tạo được uy tín với khách hàng và thu hút thêm được nhiều khách hàng gửi tiền.
Nâng cao hiệu quả chính sách khách hàng
Khác với những hoạt động sản xuất kinh doanh khác, trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng mang tính thường xuyên và lâu dài. Khả năng tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc chủ yếu vào chữ tín của khách hàng kể cả khách hàng gửi tiền và khách hàng vay tiền. Điều đó khẳng định chính sách khách hàng là một biện pháp quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thực hiện chính sách khách hàng đã được các NHTM rất quan tâm trong những năm gần đây, nhưng chủ yếu chỉ hướng tới những khách hàng vay vốn ngân hàng hoặc các tổ chức, các doanh nghiệp có số dư nợ trên tài khoản tiền gửi lớn và thường lớn. Trong khi đó nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư là lớn, đặc biệt ở Hà nội. Nhận thức được điều ấy, NHNo&PTNT đã cố gắng mở rộng nguồn vốn huy động từ dân cư:
- Phải tăng cường công tác phổ cập và hướng dẫn người dân nhất là những người có thu nhập cao và ổn định ở các khu vực dân cư có đời sống cao, đặc biệt ngân hàng cần phải tiếp cận nhiều hơn nữa đối tượng làm công ăn lương. Thông qua việc trả lương bằng thanh toán thẻ ATM, thẻ điện tử, dịch vụ thanh toán công cộng…NHNo&PTNT Hà nội sẽ gia tăng được lượng vồn trong thanh toán phục vụ hoạt động của mình.
- Cần mở rộng nhiều thành phần khách hàng, thu hút mọi tầng lớp dân cư, ngân hàng cần có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích bằng vật chất đối với khách hàng, đặc biệt là chính sách ưu đãi dành cho các khách hàng lớn và thường xuyên cung cấp thông tin cho khách hàng về thị trường tài chính, các dịch vụ ngân hàng.
- Để thu hút tiền gửi tiết kiệm của dân cư, ngân hàng có thể phát hành thẻ tiết kiệm, quay sổ số có thưởng bằng tiền, ô tô hay nhà cửa hoặc thực hiện các chính sách khác đối với khách hàng….
Ngoài ra NHNo&PTNT Hà nội cần thực hiện chính sách để gia tăng nguồn vốn từ các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội có nhiều tiềm năng. Hà nội là một trong những địa điểm có nhiều tổ chức hoạt động có hiệu quả cao trong cả nước. Vì vậy ngân hàng cần thực hiện nhiều chính sách hơn nữa để tận dụng được nguồn vốn tiềm năng này. Cụ thể là:
- Ngân hàng thường xuyên theo dõi số dư trên tài khoản của các tổ chức này để kịp thời trả lãi tiền gửi thanh toán, giao nộp tiền tại trụ sở của các tổ chức đó.
- Cung cấp và mở rộng các dịch vụ phục vụ nhu cầu của tổ chức như: nhu cầu thanh toán, nhu cầu chi trả lương,….Đặc biệt ngân hàng cần sử dụng công cụ lãi xuất một cách linh hoạt, phù hợp nhằm khuyến khích được mọi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng.
- Đặc biệt tập trung vào kinh tế ngoài quốc doanh, đây là thị trường có nhiều tiềm năng và nguồn vốn hấp dẫn của các ngân hàng. Do đó, NHNo&PTNT Hà nội cần tìm ra nhiều biện pháp khả thi để tiếp cận có hiệu các doanh nghiệp này.
- Tăng cường thức đẩy quan hệ với các tổ chức tài chính, tín dụng quốc tế để hợp tác đầu tư thông qua các dự án, chương trình phát triển kinh tế của đất nước, và các chương trình dự án này phải phù hợp với mục tiêu cơ cấu trong quá trình CNH – HĐH, đảm bảo khả năng khả thi dự án.
Phát triển các hoạt động dịch vụ của ngân hàng
Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như ngày nay, nhiều ngân hàng trên Hà Nội đã thực hiện phát triển nhiều dịch vụ tiện ích phục vụ cho nhu cầu của khách hàng. NHNo&PTNT Hà Nội tuy đã triển khai song vẫn còn nhiều hạn chế. Ngân hàng đã thực hiện nhiều hình thức như: chuyển tiền nhanh, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ bảo lãnh, ATM, thẻ tín dụng nội địa, dịch thanh toán biên mậu... song số lượng và chất lượng vẫn còn nhiều bất cập.
NHNo&PTNT Hà Nội đặc biệt chú ý đến dịch vụ thẻ ATM, ngân hàng đã triển khai chậm hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn nhưng vẫn chưa thực sự có được những biện pháp hiệu quả để mở rộng hình thức huy động vốn này. Ngân hàng ngoài việc tuyên truyền quảng cáo sản phẩm thẻ đến với đông đảo người dân thì cũng cần phát hành thẻ miễn phí và hướng dẫn tận tình cách sử dụng đối với khách hàng. Thực hiện phương châm đưa ngân hàng đến từng cơ sở, từng địa điểm tập trung đông dân cư ngân hàng cần đặt thêm nhiều máy ATM hơn nữa. Hiện nay ngân hàng cũng đã sử dụng thẻ ATM trả lương cho cán bộ công nhân viên nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa các hợp đồng thẻ ATM thanh toán lương cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng đã thực hiện dịch vụ thanh toán thẻ liên ngân hàng ví dụ như: thực hiện thanh toán thẻ ACB, Master Card, Visa Card, American Express, thanh toán séc du lịch. Mặc dù vậy số lượng vẫn còn hạn chế do người dùng thẻ thanh toán còn chưa nhiều chủ yếu là người nước ngoài. Bởi vậy ngoài việc tuyên truyền quảng cáo dịch vụ này thì ngân hàng còn phải cho người dân làm quen dần với hình thức sử dụng séc để thanh toán.
NHNo&PTNT Hà nội cần có một đội ngũ cán bộ đủ khả năng để thực hiện các dịch vụ ngân hàng tại doanh nghiệp.
Ngoài ra NHNo&PTNT Hà nội còn cần phải mở rộng nhiều hình thức dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu của khách hàng như dịch vụ tư vấn thông tin, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ bảo hiểm ….
Kiến nghị
Kiến nghị với Ngân hàng nhà nước
NHNN có chức năng quản lý và điều hành hệ thống NHTM và là ngân hàng của các NHTM, NHNN có tầm quan trọng rất lớn đối với chiến lược huy động vốn của ngân hàng, đồng thời cũng định hướng cho các NHTM hoạt động kinh doanh. NHNN với chính sách hợp lý và cách thức điều hành đúng đắn sẽ là tiền đề tốt tác động tích cực đến công tác huy động vốn của NHTM.
Sau đây là một số kiến nghị đối với NHNN:
Thứ nhất là: Cần tiếp tục hoàn thiện hơn nữa khuôn khổ pháp luật, đặc biệt chú ý tính đồng bộ, tính đầy đủ, tính thống nhất các hệ thống văn bản hướng dẫn luật, nhất là các luật liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Đồng thời chú trọng tới chất lượng thực hiện của các cơ quan thi hành pháp luật các cấp để xây dựng được môi trường kinh doanh thông thoáng, lành mạnh hơn và qua đó tạo điều kiện cho các ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
Thứ hai là: NHNN cần trực tiếp thực hiện đồng bộ các giải pháp khả thi để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt. Việc làm đó một phần giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông khi thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, mặt khác nó làm phát triển khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM, tăng tốc độ tăng trưởng vốn.
Thứ ba là: NHNN cần cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động ngân hàng, của các tổ chức tài chính trung gian trong việc tạo vốn và cung ứng vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì các ngân hàng phải tạo lập được mối quan hệ liên kết chặt chẽ với nhau và với các tổ chức tài chính khác.
Thứ tư là: NHTM cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến về lợi ích của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân hiểu và thấy được lợi ích của việc thanh toán qua ngân hàng.
Thứ năm là: NHNN cần tiếp tục kiểm soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho nền kinh tế tăng trưởng cao trong thế ổn định, tiếp tục giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong mức cho phép đối với các NHTM để các NHTM có nhiều vốn hơn trong hoạt động cho vay và đầu tư.
Kiến nghị với Nhà nước
Thứ nhất là: Nhà nước cần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Sự ổn định của môi trường vĩ mô gắn liền với ba mục tiêu là, ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng bền vững. Trong đó quan trọng nhất là kiềm chế lạm phát ở mức hợp lý để không làm ảnh hưởng đến khả năng hoạt động của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế cũng như khả năng kiểm soát của nhà nướcđối với hoạt động của ngân hàng.
Thứ hai là: Nhà nước cần ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng. Điều này không chỉ tạo niềm tin đối với công chúng mà với những quy định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp đến việc điều chỉnh quan hệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chuyển dần tài sản tích trữ dưới dạng vàng hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh hoặc gửi vốn vào ngân hàng.
Thứ ba là: Nhà nước cần hoàn thiện và phát triển thị trường chứng khoán.
Như ta đã biết, thị trường chứng khoán bao gồm hai bộ phận là thị trường vốn và thị trường tiền tệ, hai thị trường này cùng thực hiện chức năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Hệ thống NHTM hoạt động trên thị trường tiền tệ, việc thị trường chứng khoán chưa phát triển buộc gánh nặng cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế đè nặng lên vai hệ thống các NHTM, kết quả các NHTM phải đối đầu với nhiều rủi ro.
Thị trường chứng khoán được hoàn thiện và phát triển thực sự sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán. Mặt khác đây là nơi tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của mình thành tiền mặt một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thông qua thị trường chứng khoán sẽ tạo ra các kênh làm cho nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội chảy đến nơi có nhu cầu đầu tư và sử dụng có hiệu quả nhất với giá rẻ nhất, nhằm thúc đẩy sự phát triển sản xuất cũng như các hoạt động dịch vụ khác, ngoài ra tạo ra một kênh tiềm năng để NHTM thu hút vốn trung và dài hạn có tính thanh khoản cao.
Thứ tư là: Nhà nước cần hoàn thiện hơn nữa chính sách thuế thật chặt chẽ để vừa đem lại thu nhập cho Nhà nước và cũng tạo nên sự công bằng thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Bởi vì sự tồn tại của ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào sự hưng thịnh của nền kinh tế. Khi mà các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả với chính sách thuế hợp lý thì sẽ tăng nguồn thu cho chính phủ và từ đó sẽ có nhiều dự án được triển khai, ngành ngân hàng cũng gia tăng nguồn vốn của mình do các dự án thường không sử dụng hết vốn một lần mà thường chia nhỏ ra nhiều giai đoạn. Ngân hàng chiếm dụng được nguồn vốn này để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Muốn vậy chính sách thuế cần được xây dựng dựa trên quan điểm thúc đẩy sản xuất trong nước, thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, khuyến khích xuất khẩu tăng nguồn tích lũy.
Thứ năm là: nhà nước cần giải tỏa vốn bị đóng băng trong các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả để giảm bớt rủi ro cho các NHTM. Và thường xuyên kiểm tra giám sát để kịp thời rút vốn đầu tư ra khỏi doanh nghiệp không thuộc các lĩnh vực xương cốt của nền kinh tế. Đây cũng là biện pháp tạo vốn quan trọng đối với nhà nước và cũng là một trong những điều kiện để hoạt động huy động vốn của ngân hàng mang lại hiệu quả cao hơn.
Trong hoàn cảnh như hiện nay thì khách hàng truyền thống của NHNo&PTNT Hà nội chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp nhà nước với mức chiếm dụng vốn rất lớn. Trong khi đó các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu quả, nhiều năm không trả được nợ cho ngân hàng do đó NHNo&PTNT Hà nội đã làm giảm sự quay vòng vốn của đồng vốn ngân hàng.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của các NHTM vốn luôn đóng vai trò quan trọng, nó quy định quy mô, các hoạt động của ngân hàng. NHTM là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng, cho nên việc tăng cường huy động vốn của các NHTM nói chung và NHNo&PTNT Hà nội nói riêng là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Với đề tài “Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội” , em đã cố gắng nghiên cứu về vốn, các hình thức huy động vốn của NHTM nói chung và của NHNo&PTNT Hà nội nói riêng. Từ đó em đã đưa một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội.
Trong quá trình hoạt động, NHNo&PTNT Hà nội đã đạt được nhiều thành công trong công tác huy động vốn, nhưng bản thân ngân hàng còn nhiều hạn chế, chính vì thế, ngoài sự nỗ lực của bản thân ngân hàng cần phải có sự trợ giúp của NHNN với các chính sách, biện pháp hỗ trợ cho hoạt động huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn ngày càng gia tăng của khách hàng.
Đây là một đề tài liên quan đến mọi mặt hoạt động của một NHTM gắn với môi trường kinh doanh của nó. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo của thầy hướng dẫn PSG.TS Mai Văn Bưu cùng các cán bộ của NHNo&PTNT Hà nội, dù đã có nhiều cố gắng nhưng với sự hiểu biết và khả năng còn hạn chế nên bài viết của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Giáo trình Khoa học quản lý – TS Đoàn Thị Thu Hà, TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội 2002.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân – Giáo trình Chính sách kinh tế xã hội - PGS.TS Đoàn Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền – NXB Khoa học và Kỹ thuật – Hà Nội 2006.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân - Tiền tệ ngân hàng – TS. Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê - Hà nội 2006.
Nguyễn Bá Nha – Lãi xuất trong nền kinh tế thị trường - NXB Thống Kê - Hà Nội 1997.
Viện Khoa học ngân hàng – Marketting trong ngân hàng – NXB Thống Kê - Hà nội 1996.s
Nguyễn Công Nghiệp – Công nghệ ngân hàng và thị trường tiền tệ - NXB Thống Kê - Hà nội 1993.
Học viện ngân hàng - Quản trị ngân hàng – NXB Thống Kê 2001.
GS.TS. Lê Văn Tư – Ngân hàng thương mại – NXB Tài Chính 2004.
PTS. Nguyễn Đức Thảo – Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường – NXB Mũi Cà Mau 1995.
Trần Bá Tước - Những điều cần biết về hoạt động ngân hàng – NXB Tre 1996.
PTS.Nguyễn Quốc Việt – Ngân hàng với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam – NXB Chính Trị Quốc Gia 1995.
Tạp chí ngân hàng số 7 tháng 4 năm 2008 - Một số ý kiến về đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Đức Hải.
Internet.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12258.doc