Nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi Ngân hàng cần hoàn thiện các hoạt động kinh doanh của mình trong đó hoạt động đầu tiên là huy động vốn. Huy động vốn của NHTM trong thời gian qua đã tạo ra lượng vốn cần thiết để cho vay, giúp các Doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá cộng nghệ, từ đó góp phần tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tặng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng huy động vốn trung dài hạn đòi hỏi mạng tính cấp thiết cuả cả Ngân hàng và cho nền kinh tế, vì nó hông những mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng mà còn phục vụ trực tiếp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, để giải quyết một cách hoàn chỉnh các vấn đề có liên quan đến hiệu quả huy động vốn, đòi hỏi không chỉ nỗ lực của bản thân Ngân hàng mà cần có sự giúp đỡ của các cơ quan khác trong nền kinh tế. Có như vậy, huy động vốn mới có thể phát huy được vai trò tích cực mà nó có để phục vụ lợi ích của đất nước.
Những vấn đề đã đề cập trong bài đề án này chỉ là một khía cạnh của hoạt động Ngân hàng. Và bài đề án vẫn còn nhiều thiếu sót, qua đây em cũng mong được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn thầy giáo Nguyễn Hữu Tài cùng các cô chú tại phòng thư viện đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
51 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1124 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn của NHTM cho sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ãi suất phải góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế.
Do đó cần thiết phải sử dụng một chính sách lãi suất hợp lý để vừa đẩy mạnh thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, vừa kích thích các đơn vị tổ chức kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh.
Để cho công cụ lãi suất phát huy được vai trò tác dụng của mình trong cơ chế thị trường, chính sách lãi suất cần được tiếp tục xử lý theo hướng sau:
-Chỉ đạo lãi suất theo nguyên tắc kinh tế thị trường và mối quan hệ cung - cầu về vốn. Lãi suất đầu ra quyết định lãi suất đầu vào, căn cứ vào lãi suất sử dụng vốn để quyết định lãi suất huy động vốn, đảm bảo NHTM kinh doanh có lãi ( lãi suất dương).
-Lãi suất danh nghĩa phải bằng lãi suất thực cộng với tỷ lệ lạm phát dự kiến ( lãi suất dương), nghĩa là phải theo dõi lãi suất trên thị trường vốn và tỷ lệ trượt giá để điều chỉnh kịp thời và linh hoạt.
-Lãi suất huy động danh nghĩa phải cao hơn tỷ lệ lạm phát dự kiến (dương) để khuyến khích tiết kiệm, tránh tích luỹ vàng và ngoại tệ.
-Lãi suất cho vay trụng bình, khoản chênh lệch chính là “ lãi gộp” của ngân hàng để bù đắp chi phí, thuế, chi phí dự trữ bắt buộc, đề phòng rủi ro và có lãi. Do đó người vay buộc phải sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả.
-Lãi suất tiền gửi có kỳ hạn phải cao hơn lãi suất loại tiền gửi không có kỳ hạn.
-Lãi suất ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất dài hạn.
-Cần thực hiện lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay đồng đều, bình đẳng giữa các tổ chức, thành phần, ngành kinh tế.
Một số kiến nghị trong vấn đề xử lý lãi suất nhằm đẩy mạnh việc thu hút các nguồn nhàn rỗi trong xã hội:
-Hiện nay, các Ngân hàng thương mại thực hiện việc huy động và cho vay vốn giới hạn theo lãi suất cho vay trần tối đa và chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân là 0,35% do Ngân hàng NHà nước Việt Nam quy định. Việc quy định như vậy đã làm cho một số NHTM hoạt động khó khăn, chi phí lớn sẽ không đẩy mạnh việc huy động vốn. Do đó trong điều kiện hiện nay kiến nghị cho phép NHTM thực hiện mức chênh lệch có lãi suất phân biệt giữa các Ngân hàng theo nguyên tắc: Ngân hàng hoạt động có khó khăn, địa bàn hoạt động rộng, chi phí hoạt động lớn thì cho phép mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân lớn hơn mức quy định hiện nay.
Khi Ngân hàng đi vào hạt động tốt hơn, kiến nghị bỏ mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất huy động bình quân.
Về lâu dài khi thị trường phát triển mạnh sẽ tự do hoá lãi suất huy động và cho vay.
-Thông thường ở các nước, các loại tiền gửi Ngân hàng dùng để thanh toán , nhất là loại gửi không kỳ hạn đều không được Ngân hàng trả lãi và Ngân hàng cũng không yêu cầu khách hàng trả lệ phí dịch vụ các khoản thanh toán này.
Cùng với việc đẩy mạnh pját triển kinh tế hàng hoá, việc cải tiến nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ Ngân hàng, tạo điều kiện cho mọi người dân có đủ năng lực pháp lý thuộc mọi thành phần kinh tế được mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng, chính đó là điều kiện để mở rộng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào Ngân hàng.
Thực tế ở nước ta hiện nay phần lớn dân chúng chưa quen với các dịch vụ và thanh toán qua Ngân hàng, mặt khác công tác thanh toán qua Ngân hàng hiện nay đang từng bước được hiện đại hoá và chưa thực sự hấp dẫn lôi cuốn khách hàng. Cho nên trước mắt vẫn giữ ở mức lãi suất như hiện nay để khuyến khích dân chúng gửi tiền vào Ngân hnàg đồng thời tạo lập thói quen sử dụng các dịch vụ Ngân hàng trong hoạt động giao dịch, mua bán và thanh toán.
Trong các năm tới khi dịch vụ Ngân hàng phát triển, công tác thanh toán qua Ngân hàng được hiện đạI hoá, Ngân hàng sẽ không trả lãi đối với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn nhưng đồng thời Ngân hàng làm dịch vụ không thu tiền trên các tài khoản này.
-Đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn của dân cư hiện nay còn chênh lệch, không những thể hiện sự không bình đẵng giữa các tổ chức kinh tế và dân cư, không phù hợp cới yêu cầu của kinh tế thị trường, mà còn chưa động viên khuyến khích các tổ chức kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng.
Do đó đối với NHTM trong công tác huy động tiền gửi, chỉ cần quan tâm đến kỳ hạn của tiền gửi, ứng với mỗi kỳ hạn có một mức lãi suất, thời hạn càng dài, lãi suất càng cao, không phân biệt các thành phần kinh tế và dân cư trong xã hội.
-Về lãi suất tiền gửi tiết kiệm giữa nội tệ và ngoại tệ còn chênh lệch nhau. Do đó, cần kéo dần lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ trong điều kiện có tính đến chỉ số lạm phát của hai loại đồng tiền ngoại tệ và nội tệ.
2.Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn
2.1.1.Nhân dân mong đợi điều gì khi đem tiền nhàn rỗi của mình gửi Ngân hàng
Mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình khi mang tiền tích luỹ của mình gửi vào Ngân hàng, thường mong muốn đạt tới một hay đồng thời nhiều mục tiêu sau:
-Làm cho chúng sinh lời, tăng thêm thu nhập cho bản thân và/hoặc cho gia đình;
-Đảm bảo sự toàn vẹn cho số tiền đó, an ninh cho gia đình (khỏi bị trộm cắp, cướp bóc...);
-Giữ được sự kín đáo riêng tư về thu nhập và tích luỹ của bản thân hay của gia đình.
Như thế, số lượng khách hàng đến với Ngân hàng nhiều hay ít là tuỳ thuộc váo khả năng, mức độ thoả mãn của mỗi Ngân hàng đối với các yêu cầu trên, song yếu tố quyết định vẫn là uy tín, lòng tin của đông đảo dân cư đặt vào Ngân hàng, nó được coi như “vốn liếng thương mại”, nền tảng kinh doanh mà từng Ngân hàng phải giữ gìn bảo vệ như con ngươi của mắt mình.
Các biện pháp mang tính kinh tế của Ngân hàng trong việc thu hút khách hàng đến gửi tiền luôn là mối quan tâm thường xuyên của nhà Ngân hàng. Để đông đảo dân cư dễ dàng hưởng ứng, chấp nhận các sản phẩm, dịch vụ do Ngân hàng đưa ra thí các công cụ huy động ấy phải thoả mãn đồng thời những đòi hỏi nghiêm ngặt sau:
*Đối với vác công cụ có vòng đời trung và dài hạn:
-Bảo toàn được giá trị vốn gốc tiền gửi (không bị suy giảm do trượt giá làm giảm sức mua của đồng tiền).
-Mang lại khả năng thu nhập tương xứng với số lượng vốn, thời gian và mức độ rủi ro của môi trường tài chính-tiền tệ (về lãi suất, tính linh hoạt, chi phí cơ hội...).
*Đối với các công cụ huy động tiền gửi ngắn hạn, chủ yếu đòi hỏi đảm bảo tính linh hoạt (khả dụng) cao, cho phép khách hnàg có thể rút vốn thuận lợi, dễ dàng mà không phải mất thêm chi phí (ngoài phần lãi suất đã bị khấu trừ theo thoả thuận với Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp.
Việc tạo ra phương tiện gửi tiền, rút tiền và thanh toán đa dạng, nhanh chóng, an toàn đồng thời bảo đảm giá trị đồng vốn tích luỹ cho dân là thách thức lớn đối với hệ thống Ngân hàng trong việc chinh phục lòng tin của dân cư.
2.1.2.Đa dạng hoá các hình thức tiền gửi:
Hiện nay các Ngân hàng đang sử dụng các phương thức huy động vốn còn nghèo nàn chủ yếu là tiền gửi định kỳ ngắn hạn. Trong đa dạng hoá các hình thức tiền gửi hiện nay cần chú ý quan tâm các hình thức tiền gửi sau đây:
*Tiền gửi thanh toán:
Loại tiền này chủ yếu là các doanh nghiệp gửi vào để thanh toàn qua Ngân hàng và một số ít người có tiền nhiều gửi vào để chi trả bằng séc. Cần phải đặt huy động tiền gửi qua tài khoản thanh toán lên hàng đầu. Trước hết cần phải nâng cao hiệu quả nhanh chóng, an toàn cho các công cụ thanh toán để hấp dẫn việc thanh toán qua Ngân hàng đối với khách hàng. Điều quan trọng hơn trong điều kieenj của Việt Nam hiện nay là phải cải tiến công cụ thanh toán , trong đó cần chấm dứt thanh toán bằng ngân phiếu: vì rằng việc thanh toán bằng ngân phiếu đã làm cho các Ngân hàng không sử dụng đượpc khoản tiền mà các doanh nghiệp nộp vào để mua ngân phiếu thanh toán trong thời gian họ chưa thanh toán. Vận động các khách hàng sử dụng ngân phiêú thanh toán chuyển qua hình thức thanh toán bằng séc cầm tay hoặc thẻ thanh toán.Tạo điều kiện thuận lợi cho người cầm séc nộp vào ngân hàng có thể nhận tiền mặt ra được ngay hoặc chuyển vào tài khoản của họ ở ngân hàng được ngay. Phương thức thanh toán qua ngân hàng là cách huy động tiền gửi tốt nhất của các NHTM. Tuy nhiên thanh toán qua ngân hàng chỉ thích hợp với một só người ở thành thị , các doanh nghiệp, còn với đa số đông dảo dân cư hình thức này còn khó thực hiện do hai lý do: thu nhập của dân cư còn thấp, sự phát triển của hệ thống thương nghiệp hiện nay chưa tạo điều kiện để thanh toán qua ngân hàng. Trong điều kiện hiện naycủa Việt Nam, cần quy định các tổ chức hành chính sự nghiệp mở tài khoản ở ngân hàng, kể cả kho bạc nhà nước thanh toán với nhau bằng thể thức thanh toán không dùng tiền mặt để tạo điều kiện cho các ngân hàng sử dụng khối tiền mặt tạm thời nhàn rỗi của các cơ quan hành chính sự vào quá trình tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
Sự tách bạch về thanh toán và mở tài khoản của hệ thống các cơ quan vốn thuộc ngân sách nhà nước và thanh toán qua kho bạc đã làm cho một nền kinh tế thiếu vốn lại càng thiếu vốn, trong lúc đó tiền tạm thời nhàn rỗi trong hệ thống ngân sách lại không được tận dụng. Vì vậy việc quy định để các cơ quan hành chính sự nghiệpmở tài khoản và thanh toán qua hệ thống các NHTM là một yêu cầu bức bách để tạo ra nguồn tín dụng có giá rẻ trong hệ thống các NHTM. Một điều quan trong khác là việc phát hành trái phiếu kho bạc, nếu được thực hiện thông qua các NHTM với tư cách là đại lý sẽ vừa tiết kiệm chi phí phát hành vừa tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều hoà lưu thông tiền tệ được dễ dàng, vừa tạo điều kiện cho các NHTM huy động vốn một cách dễ dàng trong đó việc NHTM có thể sử dụng các nguồn tiền dư trên tài khoản của kho bạc khi kho bạc chưa sử dụng đến. Tất nhiên các ngân hàng phải đảm bảo nguồn tiền cho chi tiêu của ngân sách theo yêu cầu của kho bạc.
Hiện nay còn nhièu cơ quan nhà nước có nguồn tiền lớn như bưu điện, điện lực, cấp nước có số thu rất lớn. Nừu việc tổ chức thu qua hệ thống ngân hàng bằng cách yêu cầu người thanh toàn nộp tiền thanh toán vào một ngân hàng nào đó thuận tiện nhất. Điều này vừa tạo điều kiện cho người nộp tiền không phải đến cơ quan thu tiền của các tổ chức nói trên để nộp tiền hay phải trực nhật ở nhà để trả nợ tiền trực tiếp qua người đi thu. Cơ quan thụ hưởng cũng tiết kiệm được chi phí phải đI thu tiền đến từng hộ gia đình, từng cơ quan. Các ngân hàng quản lý tài khoản của các cơ quan nói trên có thể sử dụng số tiền gửi của các cơ quan này để taqì trợ các khoản tín dụng ngắn hạn cho nền kinh tế.
Như vậy việc huy động tiền gửi thanh toán chủ yếu nhằm vào các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính sự nghiệp, các đoàn thể xã hội, các định chế tài chính phi ngân hàng và một số cá nhân có khả năng tài chính có thể thanh toán bằng séc. Đối với các tầng lớp dân cư thu nhập thấp chưa thể áp dụng phương thức thanh toán qua ngân hàng, thì không thể áp dụng hình thức huy động này.
*Huy động tiền gửi có kỳ hạn:
Huy động tiền gửi có kỳ hạn cần phải định ra nhiều loại kỳ hạn dài ba năm, năm năm, mười năm. Về nguyên tắc lãi suất kỳ hạn dài có lãi suất cao hơn lãi suất kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên lãi suất kỳ hạn dài không thể quá cao vượt mức chịu đựng của nền kinh tế. Thông thường người gửi tiền có kỳ hạn dài lo âu là họ là khi họ cần chuyển đổi khoản tiền gửi này thành thanh khoản họ sẽ gặp phải khó khăn, hoặc có lạm phát giá trị tiền tệ của họ sẽ bị thiệt hại, hoặc các ngân hàng phá sản họ sẽ không thu hồi được khoản tiền gửi. Vì vậy đối với các khoản tiền gửi dài hạn cần phát hành trái phiếu dài hạn có thể chuyển nhượng ddược một cách dễ dàng trên thị trường. Các trái phiếu này có thể bán lại cho các cá nhân khác, cho các doanh nghiệp, cho các ngân hàng, cho bất cứ tổ chức, cơ quan nào có khả năng tài chính và họ muồn mua. Một điều đáng lưu tâm là việc huy động tiền gửi dài hạn trước hết nên huy động với tư cách là Nhà nước Trung ương, hoặc địa phương để đầu tư cho các chương trình kinh tế trọng điểm hoặc các công trình phúc công cộng. NHTM làm nhiệm vụ theo uỷ thác của Nhà nước để huy động vốn và đầu tư theo địa chỉ đã được hoạch định trước.
Sở dĩ có ý kiến như trên là do hệ thống ngân hàng của chúng ta hiện nay chưa đủ điều kiện để huy động vốn dài hạn, đặc biệt là tạo đầu ra một cách bền vững chhhhhhhắc chắn và không bị rủi ro. Chúng ta cũng không thể ép buộc các NHTM phải huy động vốn dài hạn khi họ chỉ được hùn vốn hoặc mua cổ phiếu của các doanh nghiêpj vơí tỷ lệ thâps mà với tỷ lệ đó không thể kiểm soát được hoạt động của các doanh nghiệp và họ cũng không thể giao vốn cho người khác sử dụng chỉ với lòng tin là họ sẽ được hoàn trả cả vốn và lãi trong một thời gian dài. Vì vậy nên cho phép các ngân hàng đầu tư phát triển được phép huy động vốn trung và dài hạn và đầu tư vào các doanh nghiệp với tỷ lệ hùn vốn không giới hạn. Hoặc cho phép các NHTM lập công ty đầu tư để huy động và đầu tư vốn dài hạn vào các doanh nghiệp với tỷ lệ cao cho phép công ty đầu tư đó kiểm soát hoạt động của công ty một cách chắc chắn.
Việc thành lập các công ty đầu tư gắn liền với việc huy động vốn dài hạn và việc thành lập các công ty cổ phần, việc thành lập thị trường chứng khoán và giao dịch các cổ phiếu, trái phiếu dài hạn trên thị trường chững khoán.
Cần phải có một cơ chế riêng cho việc huy động vốn dài hạn, cũng như phải có một cơ chế riêng cho Ngân hàng Đầu tư phát triển. Đối với loại hình huy động vốn dài hạn cần phải có một sự ưu đãi tối đa của Nhà nước nhất là về thuế và các nguồn vốn mà Nhà nước huy động được. Không có sự ưu đãi đó thì các NHTM vẫn cứ chỉ là NHTM, họ không thể làm nhiệm vụ của Ngân hàng Đầu tư phát triển.
Có đề nghị là đối với các khoản tín dụng dài hạn cần được miễn thuế kể cả thuế lợi tức. Chính sự ưu đãi này sẽ giúp các ngân hàng tích cực hơn trong việc huy động vốn dài hạn và đầu tư tín dụng dài hạn. Nghĩa là phải có những chính sách cụ thể để những ngân hàng nào huy động vốn và đầu tư dài hạn sẽ có một mức lợi nhuận cao hơn là huy động vốn và đầu tư tín dụng ngắn hạn.
Một vấn đề khác cần được quan tâm là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền dài hạn. Tất nhiên trước hết là lãi suất dài hạn phải lớn hơn lãi suất ngắn hạn. Các khoản lãi phải được trả đúng thời hạn hoặc nhập vốn đúng hạn theo ý muốn của người gửi. Trong trường hợp có lạm phát mạnh giá trị tiền gửi cần phải được bảo đảm. Những qui định trên cần phải công bố cho mọi người được biết và phải được pháp luật bảo hộ.
Hiện tượng cất trữ vàng, đá quý như là một loại tài sản để dành cho con cháu mai sau còn phổ biến trong dân cư. Làm thế nào để vận động mọi người chuyển các hình thức cất trữ tài sản này trở thành tiền gửi dài hạn là một vấn đề có ý nghĩa cao đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Huy động tiền gửi bằng vàng là một hình thức đã được các ngân hàng thương mại áp dụng. Song cũng chỉ huy động ngắn hạn chưa có huy động dài hạn. Có thể thực hiện việc bán vàng và gửi vàng tại các ngân hàng hay không? Có thể thực hiện hình thức này như: Khi một cá nhân nào đó muốn mua vàng để cất trữ có thể đến ngân hàng để nộp vào đó số tiền cần mua theo giá thị trường để mua số vàng mà mình muồn mua, người mua gửi số vàng đó để ngân hàng cất giữ, ngân hàng cấp cho người mua một giấy chứng nhận người đó có gửi nhờ ngân hàng cất giữ một số lượng vàng cụ thể nào đó mà người mua đã mua. Khi người có vàng muốn lấy vàng ra để sử dụng thì báo trước cho ngân hàng một ngày và ngân hàng phải mua vào đủ số vàng đó để trả cho người gửi. Trường hợp người gửi vàng muốn bán lại vàng cho ngân hàng căn cứ vào giá vàng ở thị trường để thanh toán cho người gửi vàng.
Thực chất việc mua bán vàng này chỉ thực hiện trên sổ sách của Ngân hàng mà vàng không xuất hiện. Vàng chỉ xuất hiện khi người gửi muốn nhận lại vàng thực sự.
Phương thức này rất an toàn cho người mua vàng để cất trữ vì không phải mang vàng về nhà. Hình thức này có thể thực hiện thanh toán khi người gửi vàng đùng vàng đó để thanh toán hay chuyển nhượng cho người khác họ sẽ yêu cầu Ngân hàng chuyển quyền sở hữu số vàng đã gửi qua người được thanh toán. Về phía Ngân hàng cũng rất có lợi là không phải trả lãi cho số tiền huy động. Về phía nền kinh tế có thể giảm bớt việc nhập vàng để thoả mãn nhu cầu mua vàng của dân chúng và giảm bớt việc mua bán vàng trên thị trường.
Tuy nhiên đây là hình thức huy động mới mẻ cần được luật pháp chế định các quan hệ mua bán và phải được tuyên truyền giải thích cụ thể cho dân chúng.
Các Ngân hàng cần phải dự trữ một số lượng vàng nhất định để đảm bảo thanh toán bằng vàng cho khách hàng.
*Huy động tiền gửi tiết kiệm:
Tiền tiết kiệm thường nhằm vào một mục đích nhất định như mua nhà, mua các phương tiệ sinh hoạt đắt tiền. Để huy động tiền gửi tiết kiệm theo loại này cần phải tạo ra một sự hấp dẫn nhất là phải chú trọng đến các yếu tố giá rẻ, thủ tục mua bán dễ dàng, đơn giản, vị trí , chất lượng hấp dẫn của các loại hàng hoá mà người gửi tiền muốn đạt đến. Muốn đạt được điều đó Ngân hàng phải phối hợp với các tổ chức cung cấp như tổ chức kinh doanh địa ốc, kinh doanh xe máy...để đặt hàng với giá rẻ hơn giá bán lẻ trên thị trường một vài điểm để kích thích người gửi tiền tiết kiệm. Ngân hàng cần phải thực hiện hộ khách hàng các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu (mua bán) tạo ra sự thoải mái cho khách hàng. Loại hình tiết kiệm để mua nhà ở thích hợp với các Ngân hàng như ngân hàng nhà đất. Phát triển loại hình tiết kiệm để xây dựng nhà ở, Ngân hàng ký kết một hợp đồng với người gửi tiền giá trị căn nhà mà họ được xây dựng có thiết kế mẫu, khi số tiền tiết kiệm hội đủ số tiền cần thiết ngân hàng sẽ yêu cầu công ty xây dựng thực hiện họp đồng xây nhà cho khách hàng. Hình thức tiết kiệm để mua nhà ở hoặc xây dựng nhà là một hình thức hấp dẫn mà các ngân hàng có thể thực hiện với sự giúp đỡ của Nhà nước về mặt quy hoạch các khu dân cư và các thủ tục chuyển giao quyền sở hữu.
Gửi tiết kiệm để làm quà cho con cái trong tương lai cũng là một nhu cầu có thể khai thác. Để làm được điều này các ngân hàng cần có những cuộc tuyên truyền quảng cáo về “món quà đẹp nhất, kinh tế nhất” cho con cái. Đó là mở sổ tiết kiệm cho con (hoặc cháu) từ các sinh nhật thứ nhất cho đến ngày đứa bé trưởng thành có thể sử dụng tài sản tiết kiệm đó cho cuộc sống của mình.
2.2.Về trái phiếu
2.2.1.Trái phiếu dài hạn
Nhằm tập trung việc huy động vốn trong nước vào một mối, loại bỏ cạnh trnh về lãi suất không có lợi cho việc thi hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước thống nhất với Bộ tài chính tiến tới làm đại lý đấu thầu toàn bộ các loại trái phiếu dài hạn cho kho bạc Nhà nước. Nếu việc này được thoả thuận, Ngân hàng sẽ phát hành trái phiếu dài hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm...với mức lãi suất vừa phải nhưng hấp dẫn do tính sinh lợi của loại tiền gửi này. Ví dụ: lãi suất trái phiếu dài hạn 5 năm là 1,7% tháng; 10 năm là 2% tháng; 20 năm là 2,5% tháng. Với lãi suất này mua trái phiếu sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho người mua, chắc chắn sẽ hấp dẫn số dân cư có vốn tạm thời nhàn rỗi, muốn để dành cho tương lai, không muốn phiêu lưu mạo hiểm đi vào kinh doanh.
Ngân hàng đề nghị với Chính phủ cho phép các doanh nghiệp phát hành trái phiếu dài hạn để huy động vốn, theo thể lệ được Chính phủ quy định; tất nhiên là đối với những doanh nghiệp có uy tín, kinh doanh có lãi, làm đầy đủ nhiệm vụ với ngân sách Nhà nước. Dân cư có thể sẵn sàng mua trái phiếu của doanh nghiệp có tín nhiệm, đặt mức lãi suất trái phiếu hấp dẫn, được bảo hiểm và có thể chuyển đổi thành tiền một cách dễ dàng khi họ muốn. Ngân hàng Nhà nước cần chỉ đạo các NHTM tập trung cố gắng để có thể mua hoặc bán các loại trái phiếu dài hạn sẽ là một công cụ quan trọng để huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế, kể cả trái phiếu được phát hành ra nước ngoài.
Ngoài ra, Ngân hàng phối hợp tốt với các ngành quản lý quỹ đầu tư do nước ngoài viện trợ từ các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ nước ngoài nhằm động viên mọi nguồn vốn nước ngoài không thông “kênh” Ngân hàng.
2.2.2.Mở rộng việc phát hành trái phiếu công trình
Một nghịch lý đang diễn ra là trong lúc nguồn vốn trong dân cư còn lớn, các NHTM có thời điểm đọng vốn, thì nhiều dự án đầu tư lớn của đất nước lại thiếu vốn.
Việt Nam đang cần đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, do đó, những công trình, dự án mà Nhà nước là chủ đầu tư, như: dự án đường quốc lộ. cầu. bến cảng. xây dựng nhà máy lọc dầu, Nhà máy điện,...mà lại đang bị thiếu vốn, thì cần mạnh dạn việc phát hành trái phiếu công trình trong dân chúng. Song nhiều người có thể đặt câu hỏi, nếu qui định mức lãi suất trái phiếu thấp thì không huy động được vốn, còn qui định lãi suất quá thì quá sức chịu đựng của công trình. Song điều này có thể giải quyết được trên thị trường đấu thầu trái phiếu do Ngân hàng Nhà nước Trung ương tổ chức.
Trong hai năm qua, với việc tổ chức gần 40 phiên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu kho bạc Nhà nước. Các NHTM đã trúng thầu mua hơn 1000 tỷ đồng trái phiếu và tín phiếu kho bạc, với lãi suất luôn thấp hơn lãi suất do Kho bạc Nhà nước trực tiếp phát hành và thấp hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn.
Nguồn thanh toán trái phiếu đến hạn là thu phí khi đưa công trình vào sử dụng, tất nhiên là việc thu phí kéo dài mới hoàn vốn, do đó, có thể phát hành các đợt trái phiếu sau để thanh toán các đợt trái phiếu.
Thực hiện điều đó, sẽ thúc đẩy các Ngân hàng đẩy mạnh huy động vốn trung và dài hạn trong dân, với mạng lưới rộng và uy tín, chắc chắn các NHTM sẽ huy động được nguồn vốn lớn cho các dự án đầu tư của Nhà nước.
3.Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng mà trước hết là hiện đại hoá hệ thống thanh toán
Trong lĩnh vực thanh toán, nếu tốc độ thanh toán nhanh sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ chu chuyển vốn, vật tư, hàng hoá, dịch vụ, tăng hiệu quả sản xuất- kinh doanh. Đầu tư cho lĩnh vực thanh toán thường đem lại hiệu quả rất lớn.
Công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Ngân hàng làm tốt, sẽ thu hút các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư mở tài khoản, gửi tiền và thanh toán qua ngân hàng. Do đó khối lượng tiền mặt sử dụng trong lưu thông sẽ giảm xuống, NHTM có được nguồn vốn to lớn.
Như vậy, nếu Ngân hàng làm tốt công tác thanh toán sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng. Một mặt thu hút được nguồn vốn ngày càng nhiều để tiền hành cho vay phục vụ phát triển kinh tế, mặt khác nếu thanh toán nhanh chóng thì vòng quay sử dụng tín dụng ngày càng tăng và có hiệu quả.
Thời gian qua, đặc biệt là những năm trước đây công tác thanh toán qua Ngân hàng chưa được chú trọng đúng mức, đối tượng thanh toán qua Ngân hàng còn hẹp, mới chỉ giới hạn ở các đơn vị kinh tế quốc doanh, các cơ quan Nhà nước và một thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khi hầu hết là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng.
Chỉ trong vòng hơn 1 năm trở lại đây, Ngân hàng Nhà nước đã cố chủ trương mở rộng thnah toán không dùng tiền mặt đến dân cư và Doanh nghiệp tư nhân, thông qua việc mở tài khoản và sử dụng séc trong thanh toán. Nhưng mới ở giai đoạn đầu triển khai và kết quả còn rất hạn chế, séc cá nhân mới chiếm từ 20%-30% khối lượng thanh toán trên tài khoản cá nhân tại Ngân hàng. Điều này làm cho NHTM không thể huy động triệt để nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng lượng thanh toán của toàn bộ xã hội còn thấp.
Về cơ cấu huy động nguồn vốn của Ngân hàng hiện nay thì nguồn vốn tiền gửi không kỳ hạn còn chiếm tỷ lệ thấp, nguồn vốn huy động lãi suất cao ngày càng tăng điều đó không có lợi cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Nguyên nhân do công tác thanh ttoán không dùng tiền mặt chưa làm tốt.
Để khắc phục các tồn tại trên đây, đồng thời tập trung ngày càng nhiều nguồn vốn tiền gửi của các tổ chức kinh tế và dân cư vào NHTM, cần giải quyết theo hướng sau:
-Thực hiện chính sách khuyến khích lợi ích khách hàng mở tài khoản và thanh toán qua Ngân hàng, nhằm tạo uy tín cho Ngân hàng:
+Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế trước mắt cũng được trả lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn. Ngân hàng thu phí dịch vụ. Đến khi thanh toán qua Ngân hàng được hiện đại hoá, chất lượng phục vụ thanh toán được nâng lên, mức lạm phát thực sự ổn định, Ngân hàng không trả lãi đối với tài khoản này và cũng không thu phí dịch vụ thanh toán.
+Động viên khuyến khích trong khu vực dân cư đẩy mạnh việc thanh toán bằng séc, thông qua tiền gửi mở tại Ngân hàng. Trong thời kỳ đầu, tiền gửi để phát hành séc sẽ được tính lãi theo mức lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn, các dịch vụ thanh toán séc trên tài khoản này Ngân hàng không thu phí dịch vụ. Tới khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, thu nhập của dân cư sẽ được nâng cao, lúc bầy giờ nhu cầu thanh toans không dùng tiền mặt được nâng cao, mở rộng, lợi ích kinh tế của việc sử dụng séc sẽ thay thế những biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất của Ngân hàng.
+Đổi mới trong phong cách, ý thức phục vụ khách hàng trong quan hệ thanh toán, nhằm tạo ra sự hấp dẫn lôi cuốn khách hàng.
-Ứng dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến để thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi:
+Ngân hàng Nhà nước cùng các NHTM quốc doanh nhanh chóng thiết lập hệ thống thanh toán tự động, liên kết mạng thanh toans quốc gia giữa các Ngân hàng với nhau và giữa NHTM với các khách hàng trong cả nước. Chuẩn bị từng bước tham gia hoà nhập hệ thống truyền thông quốc tế SWIFT để phục vụ thanh toán quốc tế nhanh chóng. Đây là xu hướng tất yếu đối với nền kinh tế mở cửa Việt Nam.
+Từng bước áp dụng mở rộng thẻ thanh toán điện tử của Ngân hàng và Doanh nghiệp, thẻ thanh toán không dùng tiền mặt, thẻ phát hành séc của Ngân hàng-thẻ thanh toán không dùng tiền mặt của Doanh nghiệp thương mại...
+Hiện nay vấn đề quan trọng và cốt lõi nhất trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt là vấn đề hình thức thanh toán không chứng từ qua mạng máy vi tính giữa các Ngân hàng trong cùng địa phương hoặc khác địa phương trong toàn quốc.
Giải quyết vấn đề này, sẽ đẩy nhanh tốc độ thanh toán. Từng hệ thống NHTM trong cả nước hiện nay có điều kiện thuận lợi là hầu hết đã được trang bị máy vi tính và có thể thông tin liên lạc với nhau. Vờn đề còn lại nên sớm ban hành thống nhất chế độ thanh toán không chứng từ qua mạng lưới vi tính, tạo phần mềm (hệ chương trình) cho việc xử lý kỹ thuật truyền tin File chứng từ giữa hai Ngân hàng thông qua mạng lưới vi tính.
+Mở rộng thanh toán bù trừ xuống các quận huyện, thông qua mạng vi tính.
+Áp dụng phổ biến hình thức tiết kiệm gửi một nơi (mở tài khoản tiết kiệm một nơi) có thể rút ra ở nhiều nơi thông qua hệ thống mạng vi tính.
-Phải cung ứng đủ phương tiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
+Hiện nay Ngân hàng đã từng bước khôi phục lại uy tín đối với khách hàng thông qua việc đáp ứng nhu cầu tiền mặt và các phương tiện thanh toán cho khách hàng , chấm dứt tình trạng thiếu tiền mặt.
Do đó, trong thời gian tới lạm phát được kiềm chế, giá trị đồng tiềnn được ổn định, các tổ chức kinh tế và dân cư trong giao dịch mua bán thanh toán với nhau rất ngại đếm, vận chuyển tiền mặt vì mất nhiều thời gian và tốn kém chi phí. Nếu Ngân hàng làm tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt thì các đơn vị tổ chức kinh tế, dân cư sẽ nộp tiền mặt vào Ngân hàng và Ngân hàng sẽ là người làm thay dịch vụ Ngân quỹ, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Lúc đó Ngân hàng không sợ thiếu tiền mặt nữa.
+Ngân phiếu thanh toán là công cụ thanh toán không dùng tiền mặt quan trọng, đã góp phần khắc phục thiếu tiền mặt trong những năm qua. Qua thực tế sử dụng, ngân phiếu thanh toán đã chứng tỏ những ưu thế về tính tiện lợi, đơn giản, được khách hàng ưa chuộng.
Tuy nhiên, đây chỉ là biện pháp tình thế, vì Ngân phiếu thanh toans thực chất chỉ là đồng tiền mặt có mệnh giá lớn, lưu thông trong thời hạn xác định, do đó chịu những rủi ro lớn. Ngân phiếu thanh toán với vai trò lịch sử sẽ được thay thế bằng séc, thẻ điện tử thanh toán và các loại công cụ thanh toán không dùng tiền mặt.
-Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán đối với các đơn vị tổ chức kinh tế và dân cư nói riệng và trong nền kinh tế nói chung:
Cho phép và khuyến khích các NHTM cải tiến công tác thanh toán, kỹ thuật và trình độ công nghệ theo định hướng chung của Ngân hàng Nhà nước để có thời gian thanh toán nhanh chóng, an toàn, chính xác và tiện lợi. Có như vậy mới đẩy mạnh việc thu hút mọi nguồn vốn trong dân cư và tổ chức kinh tế
-Phát triển và hoàn thiện môi trường pháp lý, hoà nhập với thông lệ quốc tế và làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng:
Môi trường pháp lý là cơ sổ để đảm bảo thanh toán ổn định và phát triển để từng bước tham gia và hoà nhập với cộng đồng quốc tế trong thời gian tới, cho nên Nhà nước phải có những hình thức thích hợp để áp dụng các Luật Quốc tế về thanh toán vào nước ta như: Luật séc, Luật hối phiếu thương mại. Luật thanh toán quốc tế, những quy định về thanh toán hiện đại.
4.Làm cho mọi người dân biết và hiểu về hoạt động của hệ thống Ngân hàng
Sự hiểu biết của người dân về Ngân hàng là một nhân tố cần thiết để tạo ra sự tin tưởng lẫn nhau giữa người gửi tiền với Ngân hàng. Ngân hàng là người thủ quỹ của khách hàng, nắm giữ tài sản bằng tiền của khách hàng, sử dụng tài sản bằng tiền của khách hàng để mưu cầu lợi ích cho nền kinh tế, cho người vay, cho chính Ngân hàng và cho người gửi tiền. Nếu người gửi tiền không hiểu được điều đó họ sẽ hiểu sai về hoạt động Ngân hàng và họ chỉ gửi tiền vào đó khi nào có lãi suất cao. Họ sẽ hiểu rằng hoạt động Ngân hàng ccó nhiều rủi ro, phải bỏ ra nhiều chi phí trả lãi cho người gửi tiền. Do vậy phải tuyên truyền, vận động thường xuyên để người dân biết Ngân hàng là gì?...Hơn nữa người dân ta còn ít thời giờ để làm quen cách thức tích luỹ tài sản bằng cách gửi nó vào Ngân hàng và qua đó có thể sử dụng các phương tiện thanh toán của Ngân hàng hoặc uỷ quyền cho Ngân hàng đầu tư các tài sản tài chính đó vào các lĩnh vực đầu tư sản xuất kinh doanh. Đặc biệt hiện nay cần phải làm cho các cơ quan quản lý Nhà nước hiểu rõ về hoạt động Ngân hàng như cơ quan làm luật (Quốc hội, Hội đồng nhân dân...). Các cơ quan quản lý và thực thi pháp luật khác chưa có cái nhìn chính xác về hoạt động Ngân hàng để tạo ra những tiền đề cần thiết cho hoạt động Ngân hàng thuận lợi. Khi người dân đã có mối quan hệ khăng khít với Ngân hàng, Ngân hàng là người bạn của nhân dân thì việc thu hút tiền gửi sẽ trở nên dễ dàng hơn và thuận tiện hơn nhiều.
Mỗi Ngân hàng cần phải biến mình thành một tổ chức mang tính quần chúng nhân dân cao nhất. Những cuộc họp tổ dân phố, họp thôn, họp làng cần có sự tham gia của cán bộ Ngân hàng để tuyên truyền vận động người gửi tiền biết Ngân hàng và gửi tiền vào Ngân hàng.
5.Mở rộng mạng lưới Ngân hàng thu hút vốn
Khi các ngân hàng phát triển, ngân hàng sẽ mở rộng hoạt động của mình bằng cách thành lập các chi nhánh. Vờn đề là mạng lưới chi nhánh ra sao? Hệ thống ngân hàng nên trải đều khắp cả nước, tránh ở các thành phố lại có số chi nhánh tập trung cao ở vùng nông thôn lại không có chi nhánh nào. Chính ở những vùng đó có nhu cầu gửi tiền và vay tiền cao vì người dân hiện đã bớt dự trữ thóc, lúa hoặc tiền vàng. Vì họ lại sợ mất sau những trận thiên tai, lũ lụt phổ biến ở nước ta, và ở nơi này khi các vụ mùa thì khả năng vay vốn rất cao, khi gửi tiền cũng vậy, cho nên ngân hàng có thể biết trước được để mà tổ chức nhanh hoạt động huy động vốn của mình một cách có hiệu quả. Đối với những vùng ven sông nước thì ngân hàng nên năng động sao cho tiếp cận trực tiếp với người dân, tránh tình trạng trung gian của một số người như hiện nay.
6.Tạo sự thuận lợi khi rút tiền; gửi tiền nơi này có thể rút tiền nơi khác
Khi khách hàng có nhu cầu rút tiền, nhưng không thể đến trực tiếp Ngân hàng, khách hàng có thể gọi điện thoại trực tiếp cho nhân viên Ngân hàng mang tiền đến giao trả cho khách hàng hoặc có thể hợp đông trước, khi đến hạn nhân viên Ngân hàng sẽ mang tiền đến tận địa chỉ theo yêu cầu của khách hàng.
Gửi tiền nơi này có thể rút tiền ở nơi khác: Việc này đòi hỏi Ngân hàng phải thay đổi các mẫu sổ tiết kiệm để khi Ngân hàng chi trả có thể phân biệt được sổ thật hay sổ giả hoặc có thể kiểm tra, đối chiếu thuận tiện, dễ dàng qua điện thoại hoặc qua mạng vi tính Ngân hàng, nhằm tránh phiền hà cho khách hàng.
7.Lập quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng
Một khi tiền gửi giảm sức mua thì người gửi tiền vào Ngân hàgn, nhất là gửi trung và dài hạn sẽ bị thiệt thòi, nói chính xác hơn là bị tổn thất tài sản. Nguyên nhân sức mua của tiền bị giảm sút là do đặc điểm của nền kinh tế quốc dân phát triển theo những chu kỳ biến động khác nhau và là điều không thể tránh khỏi. Người gửi tiền nhàn rỗi vào Ngân hàng là những người có trách nhiệm cao trước yêu cầu của Nhà nước, thể hiện sự tin tưởng, gắn bó với hoạt động của Ngân hàng và Chính phủ-họ phải được bù đắp những tổn thất đó.
Các NHTM chỉ kinh doanh tiền tệ trên giá trị danh nghĩa của tiền, hoàn toàn không thu lợi gì qua sự mất giá của tiền. Đối với các doanh nghiệp có vay vốn Ngân hàng, khi giá cả hàng hoá tăng, sức mua của tiền giảm, thì vay vốn ngân hàng đã chuyển hoá vào vật tư hàng hoá; tổng giá cả vật tư hàng hoá đó đã cao hơn so với trước. Khoản chênh lệch đó doanh nghiệp được lợi. Đồng thời vốn nhàn rỗi được huy động cũng phục vụ các nhiệm vụ kinh tế khác, bộ phận đó đã chuyển hoá vào nhiều khâu, nhiều đối tượng vật chất của nền kinh tế. Khi sức mua của tiền giảm thì chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa và giá trị thực tế của bộ phận tiền đó đã trở thành khoản thu nhập nằm ở các khâu, các hình thái vật chất khác nhau trong toàn xã hội, có nghĩa là nó được phân phối như một bộ phận của thu nhập quốc dân: chính từ thu nhập quốc dân phải bù đắp lại cho người gửi.
Như vậy, phải bù đắp tái tạo sức mua của tiền gửi đã bị giảm sút bằng một quỹ. Đó là quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng.
Quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng được lập ra từ những nguồn chính sau đây:
a-Thu tiền bảo hiểm từ những doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức vay vốn Ngân hàng:
Khi các NHTM bán ra hàng hoá tín dụng thì giá cả tức lãi suất cho vay là lãi suất thấp, theo mặt bằng lãi suất ổn định (không tính đến giảm sức mua của tiền). Như vậy các doanh nghiệp vay vốn được tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện yêu cầu hạch toán kinh tế của mính. Song khi thu nợ thì các NHTM phải phải thu thêm một khoản tiền vào quỹ bảo hiểm tiền gửi ngân hàng,, số tiền thu vào quỹ bảo hiểm tiền gửi ngân hàng được tính dựa vào “chỉ số bảo hiểm” thông báo cho từng kỳ biến động giá cả hàng hoá trên thị trường. Việc thu tiền bảo hiểm tiền gửi Ngân ahngf có thể thu trong khi cho vay, hoặc thu cùng kỳ thu lãi cho vay, cách thức thu có thể tạm thu một phần sau đó điều chỉnh lại, hoặc thu song song với thu lãi cho vay.
b-Một bộ phận từ ngân sách chuyển sang:
Chính trong thu nhập thuần tuý của toàn xã hội có một phanà chênh lệch do giảm sức mua của tiền như đã nói ở trên. Ngân sách sẽ chuyển qua từng thời kỳ, đây là một bộ phận lớn, không thể thiếu để tạo thành quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng. Nguồn thu này của quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng được thực hiện từ các cấp quản lý quỹ ngân sách, chủ yếu được xác định và thực hiện ở cấp trung ương.
c-Các nguồn tài trợ của Chính phủ- các tổ chức tài chính quốc tế:
Để có được nguồn này, quỹ vốn huy động trung ương phải có những phương án đầy đủ, đủ sức thuyết phục bởi hiệu quả của phương án đó nhằm được chấp nhận tài trợ cho quỹ bảo hiểm tiền gửi ngân hàng, nhất là thời kỳ đầu khi quỹ còn hạn hẹp và trong những trường hợp đặc biệt cần thiết khác. Nguồn thu này tuy không phải là thường xuyên nhưng là hậu thuẫn lớn, đóng vai trò quyết định trong nhiều trường hợp.
Chắc chắn rằng việc lập và sử dụng quỹ bảo hiểm tiền gửi ngân hàng sẽ giải quyết được mâu thuẫn lớn là đòn bẩy quyết định cho công tác huy động vốn, tạo sức hút mạnh mẽ, hiệu quả cao.
8.Phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán có vai trò to lớn trong huy động vốn thể hiện ở các điểm:
+Khi chưa có thị trường chứng khoán, nguồn vốn phân tán trong các tầng lớp nhân dân chủ yếu chỉ được thu hút một phần qua hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng khác. Với sự ra đời của thị trường chứng khoán một hệ thống thứ hai tiết kiệm đầu tư của dân chúng có hiệu quả hơn bằng cách phát hành cổ phiếu và trái phiếu.
+Thị trường chứng khoán có tổ chức sẽ là nơi cung cấp mọi thông tin tốt nhất về các loại cổ phiếu, trái phiếu và khả năng sinh lợi của chúng.
+Tại thị trường chứng khoán là phương tiện cần thiết cho các tổ chức kinh tế, thông qua thị trường chững khoán, các nhà trung gian môi giới, các nhà bảo lãnh có thể bảo lãnh, có thể bán rộng rãi cho dân chúng của mình.
+Thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ có thể huy động vốn trong dân cư rộng rãi thường xuyên không cần tới công cụ phát hành tiền.
Nguồn tiết kiệm tiềm năng trong dân chúng rất lớn. Thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý đồng bộ, với bộ máy quản lý hữu hiệu sẽ là môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế..
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế, xã hội đến năm 2000 Đảng ta đã chỉ rõ: “Cải tổ hệ thống ngân hàng để hoạt động có hiệu quả, thực sự trở thành trung tâm tiền tệ, tín dụng thanh toán, đóng vai trò nòng cốt trên thị trường vốn và tiền tệ”. Vì vậy biện pháp: Khẩn trương hoàn thiện thị trường tiền tệ ngắn hạn, tạo đà phát triển nhanh thị trường vốn dài hạn (thị trường chứng khoán) nhằm giải quyết tốt hơn nhu cầu về vốn cho CNH-HĐH đất nước là cách tốt nhất để huy động tiền gửi vào ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
III.NHỮNG KIẾN NGHỊ
1. Những kiến nghị đối với Nhà nước
1.1.Tạo môi trường pháp lý
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, các Doanh nghiệp, các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế, nhất là đối với tư nhân đã giải toả được nhiều mặc cảm, không yên tâm đối với sự thiếu nhất quán của các chính sách và các biện pháp trong thời gian qua.
Tuy nhiên nguyện vọng chung của người bỏ vốn đầu tư là mong đợi có hệ thống pháp lý rõ ràng, đầy đủ và bình đẳng.
Hệ thống Luật kinh tế của Việt Nam hiện còn thiếu. Ngoài Hiến pháp là đạo luật cơ bản, những Bộ luật căn bản cần thiết trong quan hệ kinh tế, đặc biệt trong cơ chế kinh tế hiện nay như: Luật thương mại, Luật Toà án kinh tế, Luật Kế toán và Kiểm toán độc lập... cũng chưa có.
Do đó để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người đầu tư (đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp thông qua các tổ chức Tài chính- Ngân hàng) và người sử dụng vốn đầu tư, kiến nghị cần phải có một hệ thống pháp lý đông bộ như: Luật Bảo hộ quyền tài sản tư nhân, Luật Thương mại, Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán, Luật thương phiếu...
Việc ban hành hệ thống pháp lý đồng bộ và rõ ràng, không chỉ là tạo niềm tin cho dân chúng trong khuôn khổ của pháp luật, mà với những qui định khuyến khích của Nhà nước sẽ tác động trực tiếp tới điều chỉnh quan hệ giưã tiêu dùng và tiết kiệm; chuyển một bộ phận tiêu dùng chư cấp thiết sang đầu tư; chuyển dần tài sản cất giữ dưới dạng vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản sang đầu tư trực tiếp vào sản xuất-kinh doanh hoặc gửi vốn vào Ngân hàng.
1.2.Tạo môi trường kinh tế vĩ mô
Nhà nước với các cơ quan chức năng của mình đảm bảo điều tiết nền kinh tế thị trường phát triển ổn định, tránh các đột biến làm giảm bất thường giá trị của các khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dù là đưới loại hình nào... Đặc biệt cần tránh sự thay đổi đột ngột hệ thống Ngân hàng về qui mô, đối tượng hoạt động của cả hệ thống hay từng cấu thành của hệ thống Ngân hàng, dẫn tới sự đe doạ hoặc thực sự làm mất khả năng thanh toán, co hẹp hoạt động hay giải thể, phá sản một hay nhiều cấu thành của hệ thống, tạo ra sự mất ổn định về tâm lý, mục đích gửi tiền, sử dụng loại hình, Ngân hàng được chọn của người gửi tiền làm họ hướng tới “lập két” ngoài Ngân hàng hay hướng tới sự giao dịch tiền tệ ngoài Ngân hàng.
1.3.Tạo môi trường xã hội
Nhà nước, các tổ chức xã hội, đoàn thể, nhà trường...phải tạo ra một tâm lý xã hội coi trọng tích luỹ trong toàn xã hội. Trong mối quan hệ tích luỹ -tiêu dũng xã hội, tiêu dùng xã hội không tạo ra lợi nhuận cần hài hoà với mức tích luỹ. Giải quyết hài hoà mối quan hệ tích luỹ- tiêu dùng trở thành tâm lý chung, lợi ích chung, việc làm chung trong toàn xã hội, các thành viên xã hội, cả cá nhân và các tổ chức. Cũng như thực hiện các biện pháp để tâm lý ấy được thực hiện trong xã hội. Đồng thời xây dựng một khuynh hướng kinh doanh tiết kiệm vốn, tăng cường tích luỹ, tạo năng lực tài chính mở rộng đầu tư khi đủ điều kiện của các doanh nghiệp kinh tế.
2.Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước với chức năng quản lý và điều hành hệ thống ngân hàng, là ‘Ngân hàng của các ngân hàng”, có tầm quan trọng rất lớn trong chiến lược huy động vốn cho phục vụ CNH-HĐH đất nước. Chính sách đúng đắn và cách thức điều hành hợp lý sẽ là tiền đề quan trọng và có tác động tích cực đến việc huy động nguồn vốn hiện đang còn nhàn rỗi trong nhân dân.
Kinh nghiệm thực tế trong các năm qua cho thấy, bằng các biện pháp kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng nội tệ, ổn định tỷ giá, tạo lập hệ thống ngân hàng ngày càng vững mạnh...đã có ảnh hưởng tích cực đến việc huy động tiền gửi từ dân. Tuy nhiên trong quá trình điều hành và tổ chức thực hiện, Ngân hàng Nhà nước vẫn còn bộc lộ một số thiếu sót cần khắc phục.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, các biện pháp khr dĩ có thể thực hiện được nhằm khuyến khích người dân gửi tiền và ngân hàng là làm sao xây dưngj và điều hành chính sách tiền tệ hợp lý hơn. Chính sách tiền tệ này phải theo sát với tín hiệu của thị trường, các can thiệp của Ngân hàng Nhà nước phải thông qua thị trường bằng hệ thống các công cụ tiền tệ gián tiếp (dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở). Bởi sự quản lý chặt chẽ, đôi khi vượt quá sự cần thiết, vào hoạt động của ngân hàng sẽ tạo ra khó khăn cho các ngân hàng trong quă trình hoạt động kinh doanh của mình.
Trong thời gian tới Ngân hàng Nhà nước nên thực hiện một số các biện pháp sau:
+Tiếp tục kìm chế và đẩy lùi nguy cơ lạm phát-ổn định giá trị đồng nội tệ. ổn định giá trị đồng nội tệ hiện nay là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ, vì nếu lạm phát cao đồng tiền bị mất giá sẽ gây ảnh hưởng đến việc huy động tiền gửi vào ngân hàng
+Về lãi suất, thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt và phù hợp với từng thời kỳ nhưng phải bảo đảm chính sách lãi suất thực dương có lợi cho người gửi tiền.
+Về chế độ tỷ giá, thực hiện chế độ điều hành tỷ giá linh hoạt theo quan hệ cung cầu trên thị trường. Các ngân hàng khi thực hiện huy động tiền gửi rất cần có một chế độ tỷ giá được định hướng và ổn định trong một thời gian dài
+Về thị trường vốn, xây dựng và phát triển thị trường vốn tại Việt Nam. Theo kinh nghiệm các nước cho thấy, hoạt động của thị trường vốn có tác động rất lớn đến việc huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong đó có các công tác huy động tiền gửi của các ngân hàng. Qua thị trường vốn, các NHTM có thể định hướng hoạt động huy động vốn của mình:
Vốn các NHTM có thể “bán” hay cho vay lại các khoản vốn tiền gửi dư thừa trong trường hợp bị ứ đọng, do đó các ngân hàng có thể vẫn tiếp tục huy động tiền gửi mà không bị ảnh hưởng bởi tình trạng vốn dư thừa
Qua thị trường vốn, các ngân hàng có thể định ra lãi suất huy động cho đơn vị mình thông qua cơ chế lãi suất trên thị trường vốn.
+Về việc sử dụng các công cụ thuộc chính sách tiền tệ quốc gia trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nươc sthực hiện chính sách tiền tệ bằng cách sử dụng song song các công cụ trực tiếp và gián tiếp. Cách sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như vậy có những lợi ích của nó tuy nhiên do can thiệp mạnh vào hoạt động của các ngân hàng nên đôI khi các điều hành này tỏ ra không có tác dụng cao. Trong thời gian tới, Ngân hầng Nhà nước cần hạn chế công cụ trực tiếp và phát triển công cụ gián tiếp như: dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở trong đó tập trung thực hiện điều hành chính sách tiền tệ qua thị trường mở.
+Ngân hàng Nhà nước uỷ thác cho NHTM đứng ra huy động vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, cho ngân sách nhf nước để từ đó đầu tư xây dựng các công trình phục vụ nền kinh tế quốc dân, nhất là các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đây là hình thức huy động vốn trung và dài hạn rất hiệu quả, vừa tạo được thói quen gửi tiền vào ngân hàng, vừa khuyến khích các ngân hàng tăng cường công tác huy động tiền gửi của đơn vị mình.
+Nghiên cứu và cho sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: séc cá nhân, thẻ tín dụng...trước mắt ngân hàng Nhà nước cho sử dụng ngay séc cá nhân trong cả nước. Qua đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng để được sử dụng các dịch vụ thanh toán trên. Trong quá trình triển khai sử dụng séc cá nhân, Chính phủ cần ban hành qui định bắt buộc các cán bộ công nhân viên thực hiện chế độ, dần dần mở rộng ra các đối tượng khác.
+Cho phép các NHTM thực hiện việc mua bán các loại giấy tờ có giá như: tín phiếu kho bạc...đặc biệt là các loại dài hạn. Trong tình hình chưa có thị trường vốn như hiện nay thì đây là hình thức giúp ngân hàng tạm thời giải quyết được tình trạng ứ đọng vốn bằng cách mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc...do đó không ảnh hưởng đến kế hoạch huy động tiền gửi của ngân hàng, và khi cần vốn ngân hàng có thể bán các loại giấy tờ có giá này để đảm bảo khả năng thanh toán cho ngân hàng.
+Thực hiện đổi mới công nghệ ngân hàng, tăng cường công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, thanh toán liên ngân hàng, chuyển tiền điện tử,trang bị máy ATM-POS... nhằm cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ ngân hàng cho người dân.
KẾT LUẬN
Nền kinh tế thị trường và yêu cầu của quá trình đổi mới đất nước đòi hỏi Ngân hàng cần hoàn thiện các hoạt động kinh doanh của mình trong đó hoạt động đầu tiên là huy động vốn. Huy động vốn của NHTM trong thời gian qua đã tạo ra lượng vốn cần thiết để cho vay, giúp các Doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá cộng nghệ, từ đó góp phần tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tặng sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng huy động vốn trung dài hạn đòi hỏi mạng tính cấp thiết cuả cả Ngân hàng và cho nền kinh tế, vì nó hông những mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng mà còn phục vụ trực tiếp cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, để giải quyết một cách hoàn chỉnh các vấn đề có liên quan đến hiệu quả huy động vốn, đòi hỏi không chỉ nỗ lực của bản thân Ngân hàng mà cần có sự giúp đỡ của các cơ quan khác trong nền kinh tế. Có như vậy, huy động vốn mới có thể phát huy được vai trò tích cực mà nó có để phục vụ lợi ích của đất nước.
Những vấn đề đã đề cập trong bài đề án này chỉ là một khía cạnh của hoạt động Ngân hàng. Và bài đề án vẫn còn nhiều thiếu sót, qua đây em cũng mong được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo. Một lần nữa em xin chân thành cám ơn thầy giáo Nguyễn Hữu Tài cùng các cô chú tại phòng thư viện đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tiền tệ Ngân hàng & Thị trường Tài chính - FREDERIC S.MISHKIN
2. Ngân hàng Thương Mại - EDWARD W.REET AND EDWARD K.GILL
3. Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại - Nhà xuất bản thống kê 1996
4. Kinh tế học - SAMMULSON
5. Ngân hàng Việt Nam- quá trình xây dựng và phát triển
6. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn
7. Những vấn đề cơ bản về tiền tệ tín dụng và ngân hàng trong bước đầu đổi mới ở Việt Nam
8. Tạp chí Ngân hàng số 4+5-1996; 7-1996; 9-1996; 6-1997; 8-1997; 12-1997; 1+2-1998; 3-1998; 4-1998; 8-1998; 11-1998; 13-1998; 15-1998.
9. Một số báo và tạp chí khác
MỤC LỤC TRANG
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNGI: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 3
I.Chức năng Ngân hàng Thương Mại (NHTM) 3
1.Quá trình ra đời của NHTM 3
2.Khái niệm về NHTM 3
3.Chức năng và hệ thống NHTM 3
3.1.Chức năng NHTM Việt Nam 4
3.2.Hệ thống NHTM 4
II.Một số hình thức huy động vốn 5
1.Tiền gửi séc 5
2.Tiền gửi phi giao dịch 6
2.1.Tiền gửi tiết kiệm 6
2.2.Tiền gửi kỳ hạn 6
3.Trái phiếu NHTM 7
III.Một số kinh nghiệm của NHTM trong và ngoài nước
trong việc huy động vốn. 7
1.Kinh nghiệm của Ngân hàng nước ngoài 8
1.1.Một số phương thức huy động vốn ở một số nước 8
1.2.Phương pháp các ngành Ngân hàng nước ngoài
khuyến khích người dân gửi tiền ký thác hoạt kỳ 8
2.Kinh nghiệm của Ngân hàng trong nước 9
2.1.Sở Giao dịch I-Ngân hàng No&PTNT 9
2.2.Ngân hàng công thương khu vực Ba Đình 10
2.3.Ngân hàng Ngoại thương Việt nam-VIETCOMBANK 11
2.4.Ngân hàng Đầu tư và phát triển với việc phát hành trái phiếu 11
CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM VN
I.Thực trạng về huy động vốn 14
1.So sánh tổng tiết kiệm nội địa của Việt Nam với các nước Đông á 14
2.Tình hình gửi tiền ở hệ thống Ngân hàng của dân chúng 15
II.Đánh giá và phân tích thực trạng 16
1.Những thành công và nguyên nhân 16
2.Những tồn tại và nguyên nhân 17
2.1.Những tồn tại 17
2.2.Những nguyên nhân 18
2.2.1.Vấn đề lãi suất 20
2.2.2.Các hình thức huy động vốn trong nhân dân chưa hoàn thiện 23
2.2.3.Chưa đồng bộ, thiếu khoa học trong việc tổ chức
các nghiệp vụ huy động tiền gửi 24
2.2.4.Nhân dân chưa tin vào Ngân hàng 25
2.2.5.Sự trượt giá của đồng tiền 25
2.2.6.Chính sách tập trung vốn từ dân 25
2.2.7.Chưa hình thành thị trường vốn, thị trường chứng khoán
có tổ chức để thực hiện huy động vốn 25
2.2.8.Thông tin đại chúng 26
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG VỐN
I.Các quan điểm có tính định hướng cho việc huy động
vốn của NHTM Việt Nam 26
II.Một số giải pháp huy động vốn 28
1.Giải pháp về lãi suất 28
2.Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn 30
2.1.Đa dạng hoá các hình thức tiền gửi 30
2.1.1.Nhân dân mong muốn điều gì khi đem tiền nhàn rỗi
của mình gửi vào Ngân hàng 30
2.1.2.Đa dạng hoá các hình thức tiền gửi 31
2.2.Về trái phiếu 35
2.2.1.Trái phiếu dài hạn 35
2.2.2.Mở rộng việc phát hành trái phiếu công trình 35
3.Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng, mà trước hết là
hiện đại hoá hệ thống thanh toán 36
4.Làm cho mọi người dân biết và hiểu về hoạt động Ngân hàng 39
5.Mở rộng mạng lưới Ngân hàng thu hút vốn 39
6.Tạo sự thuận lợi khi rút tiền 40
7.Lập quỹ bảo hiểm tiền gửi Ngân hàng 40
8.Phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán 41
III.NHỮNG KIẾN NGHỊ
1.Kiến nghị đối với Nhà nước 42
1.1.Môi trường pháp lý 42
1.2.Môi trường kinh tế vĩ mô 43
1.3.Môi trường xã hội 43
2.Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước 43
KẾT LUẬN CHUNG 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO 47
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0816.doc