Đối với khâu lập kế hoạch.
Trước hết, cơ quan tài chính phải yêu cầu các trường học trực thuộc lập dự toán kinh phí cho đơn vị mình theo đúng trình tự và thủ tục lập kế hoạch ngân sách. Dự toán được lập phải dựa trên đầy đủ các căn cứ đã đặt ra nhằm đảm bảo tính chính xác và sát với thực tế. Dự toán nên được lập chi tiết đến từng mục chi và nên có những giải trình cần thiết về một số căn cứ quan trọng khi lập dự toán như tình hình biến động của số cán bộ giáo viên kế hoạch, số học sinh bình quân. nhằm tăng tính chính xác khoa học cho dự toán ngân sách. Nhờ vào đó mà cơ quan tài chính sẽ thuận lợi hơn trong việc duyệt dự toán, cấp phát kinh phí ở các đơn vị trường học. Mặt khác, với dự toán được lập chi tiết và sát với thực tế sẽ trở thành căn cứ vững chắc cho việc phân bổ dự toán một cách hợp lý giữa các mục chi, tránh được tình trạng chênh lệch về số được phân bổ với nhu cầu thực tế.
Đối với khâu điều hành cấp phát.
Việc cấp phát kinh phí luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng, đúng định mức, đúng mục đích, kịp thời và đúng dự toán quý, năm được duyệt. Cơ quan tài chính cần tạo thế chủ động trong việc nắm giữ kinh phí mà ngân sách thành phố rót xuống. Để đảm bảo cấp phát nhanh gọn kịp thời, chính xác cho các trường học. Tránh phiền hà, quan liêu, giấy tờ trong khi đã có đầy đủ căn cứ để cấp cho các đơn vị thụ hưởng.
Trong quá trình cấp phát, cơ quan tài chính phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với Kho bạc nhà nước nhằm thực hiện kiểm soát chi theo đúng quy định về quản lý ngân sách nhà nước hiện hành. Trong những trường hợp cần thiết, cơ quan tài chính có thể tổ chức những đợt kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất ở các trường học sau khi thực hiện cấp phát kinh phí. Việc kiểm tra sẽ nhằm vào tình hình sử dụng kinh phí được cấp phát ở các trường học như thế nào, từ đó ngăn chặn những hiện tượng như sai mục đích, kém hiệu quả, tăng cường chế độ chính sách trong quản lý tài chính.
104 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
98,58
128,76
86,09
111,01
3
Tổng chi mua sắm sửa chữa
81,19
98,21
129,73
83,01
115,5
Nguồn: Báo cáo quyết toán chi ngân sách nhà nước phòng Tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng
Đây là khoản chi lớn được dành chủ yếu cho xây dựng cơ bản cho nên khâu lập kế hoạch hàng năm rất được chú trọng. Các công trình xây dựng sửa chữa trường lớp, hàng năm phải lập dự toán cụ thể, chuẩn xác theo đúng quy định trong quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Việc thực hiện thi công các dự án luôn được sự kiểm tra, giám sát của cơ quan liên quan như Phòng Tài chính, phòng giáo dục hoặc ban quản lý dự án kinh phí nhà nước.
Nhìn vào bảng số liệu chi ngân sách nhà nước cho mua sắm, sửa chữa trên địa bàn quận qua các năm như sau:
Năm 1999: đạt 8219 triệu đồng, chiếm 32,74% ngân sách nhà nước chi cho giáo dục quận và đạt 81,19% so với kế hoạch.
Năm 2000 là 10662,8 triệu, chiếm 34,95% tổng chi, đạt 98,21% so với kế hoạch và tăng 29,73% so với thực hiện năm 1999.
Năm 2001 là 11889,2 triệu đồng, chiếm 33,57% tổng chi, đạt 83,01% so với kế hoạch và tăng 11,5% so với thực hiện năm 2000.
Có thể nói nhiệm vụ chi cho mua sắm sửa chữa này được phân cấp một phần cho ngân sách quận thực hiện, cho nên quận có điều kiện để quan tâm đến nhóm chi này. Xét toàn cảnh về cơ sở giáo dục quận trong thời gian qua cho thấy có dấu hiệu khả quan. Ngân sách chi cho đầu tư mua sắm, sửa chữa không ngừng tăng qua các năm, năm 2000 tăng 29,73% năm 2001 tăng 11,5% đạt 11889,2 triệu đồng. Được sự quan tâm của thành phố Hà Nội và quận Hai Bà Trưng, cơ sở vật chất phục vụ cho sự nghiệp giáo dục quận khá khang trang. Hàng loạt dự án xây dựng tu sửa, nâng cấp các trường học đã và đang được triển khai. Toàn quận có 80% số phòng học kiên cố, không có trường lớp học ca 3. Nhờ thế mà khung cảnh sư phạm ở các trường học ngày càng khang trang, bề thế. Tất cả các trường đều được trang bị đầy đủ bàn ghế với kinh phí đầu tư hàng năm khoảng 800 triệu đồng. Ngoài ra còn đầu tư trang bị máy vi tính cho các trường học phổ thông trung học. Các phòng học, sân chơi đặc biệt là khối mầm non luôn được tôn tạo, sửa chữa.
Tuy nhiên cơ sở được đầu tư khá lớn nhưng tỷ trọng không đều, nhiều trường học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu học tập và giảng dạy, các phòng học chức năng cũng như hệ thống thư viện còn thiếu thốn. Mà nguyên nhân chủ yếu vẫn là khả năng hạn hẹp về kinh phí từ ngân sách nhà nước, ngoài ra còn phải kể đến công tác quản lý còn nhiều bất cập. Nhiều dự án đầu tư thiếu trọng điểm, dàn trải dẫn đến tình trạng đầu tư lớn nhưng chưa thực sự hiệu quả, việc thẩm định cũng như quản lý các dự án đầu tư xây dựng mua sắm cũng chưa được chặt chẽ, triển khai chậm so với dự kiến nhất là tình trạng chậm trễ trong khâu cấp phát vốn theo tiến độ dự án. Do vậy cần quan tâm hơn nữa trong khâu quản lý trong hạng mục này.
Nhóm V: Chi khác.
Đây là nhóm chi không lớn, chiếm tỷ trọng thấp nhất trong tổng chi cho giáo dục quận. Nhóm chi này dùng để trang trải chi phí cho những ngày lễ lớn của ngành giáo dục và các khoản chi nhỏ khác nhưng không được tính vào các nhóm chi còn lại. Nhóm chi đều tăng tương đối ổn định qua các năm.
- Năm 1999 là 680 triệu, tăng 40% so với kế hoạch.
- Năm 2000 là 820 triệu, chiếm 2,69% tổng chi và tăng 24,62% so với thực hiện năm 1999.
- Năm 2001 là: 912 triệu đồng, chiếm 2,58% tổng chi và tăng 11,32% so với năm 2000.
Như vậy khoản chi này tăng đầu các năm, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách là các cơ sở giáo dục. Tuy nhiên thực hiện triệt để chính sách tiết kiệm của Đảng, khoản chi này có tỷ trọng ngày càng "giảm", năm 2000 chiếm 2,96% tổng chi, sang năm 2001 mặc dù số tuyệt đối tăng lên nhưng tỷ trọng giảm xuống còn 2,58% tổng chi với tỷ trọng thấp và mang tính ổn định nên khá thuận lợi trong công tác kiểm tra, kiểm soát khoản chi này.
2.2. Quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng
Quá trình quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận tiến hành quan 3 khâu: Lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán. Nhưng trước khi đề cập cụ thể, chúng ta cần làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất: trong quản lý các khoản chi thường xuyên của Ngân sách Nhà nước nói chung, quản lý chi nâng sách cho sự nghiệp giáo dục nói riêng nhất thiết cần có định mức cho từng nhóm chi hay cho từng nội dung cụ thể. Nhờ đó mà mỗi ngành mỗi cấp, mỗi đơn vị mới có căn cứ pháp lý để triển khai các công việc của quá trình quản lý chi. Thông thường định mức chi thường xuyên có hai loại:
- Loại định mức chi tiết theo từng nhóm mục chi của nâng sách Nhà nước dựa trên cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cho mỗi đơn vị được hình thành từ những mục chi nào, người ta sẽ tiến hành xây dựng định mức chi cho từng mục đó.
- Loại định mức chi tổng hợp theo từng đối tượng tính định mức chi của ngân sách Nhà nước (dựa vào đặc thù hoạt động của mỗi loại hình đơn vị, để xây dựng đối tượng định mức sao cho phù hợp với hoạt động của các đơn vị vừa phù hợp với yêu cầu quản lý).
Trong quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục người ta thường sử dụng định mức chi theo đối tượng. Tuy nhiên muốn cho định mức trở thành chuẩn mực để phân bổ kinh phí thì các định mức phải đảm bảo yêu cầu sau:
+ Các định mức phải được xây dựng một cách khoa học, từ việc phân loại đối tượng đến trình tự cách thức xây dựng định mức phải được tiến hành chặt chẽ. Có như vậy định mức mới đảm bảo phù hợp với từng nội dung hoạt động của các đơn vị.
+ Các định mức phải có tính thực tiễn cao. Tức là nó phải phản ánh mức độ phù hợp của các định mức với nhu cầu kinh phí của từng hoạt động.
Thứ hai: hoạt động giáo dục là hoạt động có thu, chi cho giáo dục bao gồm chi từ nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước cấp phát và chi từ nguồn thu để lại theo chế độ quy định. Vì vậy quản lý tốt việc khai thác và sử dụng nguồn thu sẽ hỗ trợ đắc lực cho quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục đào tạo.
2.2.1. Công tác lập kế hoạch ngân sách Nhà nước:
Lập kế hoạch là khâu mở đầu cho toàn bộ chu trình ngân sách Nhà nước, nó quyết định đến chất lượng và hiệu quả của các khâu sau đó. Đồng thời thông qua việc xây dựng dự toán ngân sách Nhà nước các cơ quan chức năng còn có thể kiểm tra lại tính chính xác, cân đối của hệ thống các chỉ tiêu kinh tế xã hội trên địa bàn.
- Căn cứ xây dựng kế hoạch Ngân sách Nhà nước.
+ Phụ thuộc vào chủ chương đường lối, chính sách phát triển kinh tế của đất nước, thành phố, quận. Cũng như phục thuộc vào nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục hàng năm.
+ Phụ thuộc vào các định mức về chi nâng sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận, chi mua sắm sửa chữa chi lương và các khoản phụ cấp...
+ Căn cứ vào việc đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch ngân sách của năm trước và cùng kỳ.
- Quy trình lập kế hoạch.
Hiện nay theo luật ngân sách Nhà nước, quy trình lập dự toán từ cấp cơ sở rồi tổng hợp dần lên. Hàng năm tất cả các nhà trẻ, mẫu giáo, các trường tiểu học và trung học trên địa bàn quận, lập dự toán chi ngân sách của đơn vị mình gửi lên phòng tài chính vật giá Quận Hai Bà Trưng phòng giáo dục đào tạo Quận. Dự toán được lập dự vào mục lục ngân sách Nhà nước hiện hành. Phòng tài chính vật giá sau khi xem xét dự toán do các trường gửi lên sau đó tổng hợp lại. Sau khi tổng hợp dự toán, phòng tài chính vật giá gửi lên UBNN Quận và Sở tài chình vật giá thành phố.
- Tổ chức ra dự toán.
Căn cứ vào nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố, UBDN thành phố giao dự toán chi ngân sách Nhà nước cho UBDN Quận. UBDN Quận ra quy định phân bổ ngân sách Nhà nước xuống phòng tài chính vật giá Quận Hai Bà Trưng, phòng tài chính vật giá sau đó ra dự toán cho các đơn vị trường học theo mục lục ngân sách Nhà nước.
2.2.2. Công tác chấp hành dự toán Ngân sách Nhà nước:
- Căn cứ tổ chức chấp hành dự toán Ngân sách Nhà nước.
+ Dự vào mức chi đã được duyệt của từng chỉ tiêu trong dự toán
+ Dự vào khả năng nguồn kinh phí có thể dành chi cho sự nghiệp giáo dục Quận.
+ Dự vào chính sách chế độ chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục hiện hành.
- Các yêu cầu trong tổ chức chấp hành dự toán.
+ Đảm bảo phân phối nguồn kinh phí một cách hợp lý tập trung có trọng điểm trên cơ sở dự toán chi đã được xây dựng.
+ Đảm bảo việc cấp phát kinh phí một cách kịp thời, chặt chẽ tránh mọi sơ hở gây lãng phí thất thoát nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
+ Trong quá trình sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp phát, phải hết sức tiết kiệm.
+ Trong quá trình chấp hành dự toán đòi hỏi phải có sự điều phối linh hoạt giữa các cơ quan chức năng nhưng không được tùy tiện.
- Tổ chức chấp hành.
+ Việc cấp phát kinh phí ngân sách Nhà nước: Sở tài chính vật giá thành phố thông báo hạn mức kinh phí cho phòng tài chính Quận. Sau khi nhận được dự toán kinh phí, phòng tài chính vật giá Quận Hai Bà Trưng thông báo cho phòng giáo dục và đào tạo và Kho bạc nhà nước. Sau đó phòng giáo dục đào tạo phân bổ hạn mức kinh phí cho các trường học trên địa bàn và thông báo với Kho bạc nhà nước. Bảng thông báo này ghi chi tiết hạn mức được phân bổ theo thời gian từng tháng từng quý, từng năm. Theo nhu cầu chi tiêu của mình các đơn vị rút hạn mức kinh phí từ kho bạc về để chi tiêu.
+ Quản lý việc sử dụng ngân sách Nhà nước.
Các đơn vị dự toán ngân sách Nhà nước, mở tài khoản hạn mức tại Kho bạc nhà nước. Ngoài ra còn phải mở tài khoản tiền giử tại Kho bạc nhà nước để thực hiện các khoản giao dịch cần thiết khác (tiền học phí, các khoản đóng góp xây dựng, các khoản đóng góp ủng hộ khác). Nhưng không được rút hạn mức kinh phí chuyển vào tài khoản tiền gửi trừ một số trường hợp đặc biệt.
Các đơn vị dự toán còn có nhiệm vụ báo cáo định kỳ tình hình thực hiện chi ngân sách Nhà nước gửi cơ quan tài chính. Các trường hợp vi phạm chế độ báo cáo, cơ quan tài chính có quyền được đình chỉ cấp phát cho tới khi nhận được báo cáo phù hợp.
2.2.3. Quyết toán Ngân sách Nhà nước:
Đây là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách Nhà nước nói chung và quản lý chi ngân sách Nhà nước, cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng nói riêng. Nó chính là quá trình kiểm tra già soát, chỉnh lý lại các số liệu đã được phản ánh sau một kỳ chấp hành dự toán. Để phân tích đánh giá kết quả chấp hành dự toán.
* Yêu cầu đối với công tác quyết toán.
- Các đơn vị dự toán phải lập đầy đủ các báo cáo quyết toán và gửi các báo cáo này kịp thời cho cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ quy định.
- Số liệu trong các báo cáo phải đảm bảo tính chính xác, trung thực. Nội dung các báo cáo phải theo đúng các nội dung ghi trong dự toán được duyệt và đúng mục lục ngân sách Nhà nước.
- Báo cáo quyết toán của các đơn vị, dự toán không được để xẩy ra tình trạng quyết toán thu lớn hơn quyết toán chi.
* Quy trình lập, gửi, xét duyệt báo cáo quyết toán.
- Đối với đơn vị dự toán: Sau khi thực hiện song công tác khóa sổ vào ngày 31 tháng 12 năm, số liệu trên sổ sách kế toán của mỗi đơn vị phải đảm bảo cân đối và khớp đúng với số liệu của phòng tài chính vật giá và Kho bạc nhà nước, cả về tổng số và chi tiết. Khi đó đơn vị mới được tiến hành lập báo cáo quyết toán năm để gửi xét duyệt theo trình tự sau:
+ Đơn vị dự toán cấp dưới lập báo cáo quyết toán năm gửi đơn vị dự toán cấp trên. Đơn vị dự toán cấp trên có trách nhiệm xét duyệt quyết toán và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán cho đơn vị dự toán cấp dưới.
+ Đơn vị dự toán cấp I có trách nhiệm tổ hợp và lập báo cáo quyết toán năm gửi lên phòng tài chính vật giá Quận.
- Đối với cơ quan tài chính các cấp.
+ Cơ quan tài chính có trách nhiệm xét duyệt quyết toán năm và thông báo kết quả xét duyệt quyết toán năm cho các đơn vị dự toán cấp I. Trường hợp đơn vị dự toán cấp I có ý kiến không thống nhất với thông báo duyệt quyết toán của cơ quan tài chính thì phải trình UBND đồng cấp xem xét và quyết định. Trong thời gian trờ quyết định của UBND đồng cấp thì mọi quyết định của cơ quan tài chính vẫn được thực hiện.
+ Trong quá trình xét duyệt quyết toán của các đơn vị dự toán trực thuộc của cấp I, cơ quan tài chính đồng cấp có quyền tham gia xét duyệt quyết toán năm đối với đơn vị dự toán trực thuộc cấp I (nếu cần). Đơn vị dự toán cấp I và cơ quan tài chính đồng cấp có quyền xuất toán thu hồi các khoản chi không đúng chế độ và không nằm trong dự toán được duyệt. Đồng thời ra lệnh nộp các khoản không đúng chế độ này vào Kho bạc nhà nước.
+ Sau khi đã thẩm tra, xét duyệt báo cáo quyết toán của các đơn vị dự toán cấp I và thẩm tra báo cáo quyết toán ngân sách cấp dưới. Phòng tài chính vật giá quận tiến hành tổng hợp báo cáo quyết toán ngân sách cấp mình gửi UBND, để trình lên hội đồng nhân dân cùng cấp để phê duyệt.
Trình tự trên đây phả ánh một quy trình bắt buộc mà mỗi cấp, mỗi đơn vị, tuân thủ. Có như vậy công tác quyết toán mới đảm bảo được tính chính xác, tập trung, dân chủ.
3. Đánh giá thực trạng quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng:
3.1. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua.
Trong giai đoạn 1999 đến 2001, Quận Hai Bà Trưng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. Chúng ta có thể khái quát những thành tự đó như sau:
- Về tổng số chi cho sự nghiệp giáo dục: Mặc dù khả năng ngân sách trên địa bàn có nhiều hạn chế những do nhận thức rõ tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Nên các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, các cơ quan chức năng đã hết sức cố gắng quan tâm, đầu tư cho sự nghiệp giáo dục quận. Chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục không ngừng tăng lên qua các năm cùng với sự gia tăng nhu cầu mở rộng về quy mô, nâng cao chất lượng giáo dục. Bên cạnh đó công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh, khả năng khai thác nguồn vốn khác ngân sách Nhà nước dần dần được nâng cao. Do đó hỗ trợ một phần không nhỏ cho ngân sách Nhà nước đầu tư và giáo dục. Nhờ đó sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng đã có những chuyển biến đáng khích lệ. Kết quả phát triển giáo dục đã đạt được phần nào cho thấy tính phù hợp và hiệu quả việc tăng chi ngân sách Nhà nước cho đầu tư giáo dục.
- Về cơ cấu chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận: Trong việc sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước, Quận Hai Bà Trưng đã đầu tư cho các nhóm chi theo thứ tự ưu tiên dựa trên vai trò của từng nhóm chi. Ưu tiên hàng đầu là nhóm chi cho con người vì đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển của nền giáo dục. Rồi đến chi cho mua sắm sửa chữa, xây dựng cơ sở vật chất trường lớp. Sau đó lần lượt đến các khoản chi: chi quản lý hành chính, chi nghiệp vụ chuyên môn và các khoản chi khác. Chi cho con người là khoản chi chiếm tỷ trọng cao nhất từ 53% - 54% qua các năm. Điều này chứng tỏ các cấp các ngành đã chú trọng quan tâm đến đời sống của cán bộ giáo viên, tạo điều kiện cho họ yên tâm gắn bó với nghề. Đây là cơ sở để nâng cao chất lượng giáo dục. Ngoài ra phòng giáo dục đào tạo đã thực hiện chính sách tiến kiệm một số khoản chi trong nội dung chi quản lý hành chính, để đầu tư chi nghiệp vụ chuyên môn. Việc này có ý nghĩa rất lớn trong điều kiện kinh phí ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục còn hạn hẹp như hiện nay.
- Về định mức phân bổ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục: Việc phân bổ kinh phí ngân sách Nhà nước cho từng cấp học như đã nêu trên (trước hết phải đảm bảo chi đầy đủ cho nhóm chi con người số còn lại phân bổ theo định mức tính theo đầu học sinh) là tương đối hợp lý và có tính thực tiễn cao. Nó đảm bảo các cấp học, ngành học có đủ kinh phí chi theo đúng chế độ. Đồng thời định mức tính trên đầu học sinh là căn cứ đáng tin cập để cấp phát, quản lý.
- Về công tác lập dự toán.
+ Quy trìnhh lập dự toán ngân sách Nhà nước về cơ bản được thực hiện đúng theo luật ngân sách Nhà nước. Việc lập dự toán bắt đầu từ đơn vị cuối cùng thụ hưởng ngân sách Nhà nước (cấp thấp nhất) cho đến các đơn vị cấp cao hơn. Các đơn vị chủ động lập dự toán dưới sự hướng dẫn của phòng tài chính vật giá Quận và cơ sở giáo dục. Trong quá trình lập dự toán và giao dự toán đã có sự phối kết hợp giữa phòng tài chính vật giá và phòng giáo dục đào tạo, trên cơ sở đó hướng dẫn cho các đơn vị chực thuộc do đó đảm bảo được tính chung lập dân chủ.
+ Việc lập dự toán được tiến hành qua nhiều bước, chịu sự giám sát của nhiều cơ quan chức năng và được thông báo công khai đã làm tăng tính trung thực, chính xác của dự toán. Tạo điều kiện tốt cho công tác chấp hành dự toán.
+ Dự toán được lập theo đúng biểu mẫu, đúng thời gian và chi tiết theo mục lục ngân sách Nhà nước, có căn cứ tiêu chuẩn định mức rõ ràng.
- Về công tác chấp hành dự toán: Công tác chấp hành dự toán ngân sách Nhà nước trong những năm từ 1999 đến 2001 có những chuyển biến tích cực và cơ bản thực hiện đúng theo luật định:
+ Kho bạc nhà nước đã phối hợp chặt chẽ với phòng tài chính vật giá Quận, Phòng giáo dục - đào tạo. Đã cấp phát kinh phi đúng đầy đủ và kịp thời cho đơn vị sử dụng ngân sách. Việc kiểm soát chi qua Kho bạc nhà nước đã cho phép hạn chế thấp nhất việc chi sai mục đích, chế độ hoặc chi vượt dự toán.
+ Thực tế cho thấy hầu hết kinh phí được sử dụng đúng mục đích theo dự toán đã được duyệt, phần lớn chứng từ chi đã hợp lý, hợp lệ. Tính hiệu quả tiết kiệm được nâng cao.
+ Các trường lớp, cơ sở giáo dục - đào tạo đã thực hiện nghiêm túc các văn bản hướng dẫn về việc chi, thu và quản lý nguồn học phí cũng như các khoản đóng góp khác. Phần lớn các trường đã thực hiện tốt việc thu nộp học phí vào Kho bạc nhà nước, chi tiêu công khai đúng chế độ. Quản lý tốt chi từ nguồn khác ngân sách Nhà nước. Do đó đã nâng cao được hiệu quả quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận.
- Quá trình thực hiện cấp phát theo hạn mức KPUQ cũng được quản lý chặt chẽ và tập trung, giảm bớt tình trạng phân tán vốn và sử dụng vốn tại các cơ sở. Việc cấp phát được tiến hành tương đối phù hợp với tiến trình chi tiêu tại các cơ sở trường học.
- Công tác quyết toán ngân sách Nhà nước:
+ Quy trình lập, gửi xét duyệt báo cáo quyết toán đã được tuân thủ chặt chẽ. Nhờ đó đảm bảo tính tập chung dân chủ trong quản lý ngân sách Nhà nước. Hơn nữa về thực hiện xét duyệt qua nhiều cấp sẽ nâng cao tính chính xác chung thực của các báo cáo quyết toán.
+ Nội dung báo cáo quyết toán theo đúng mục lục ngân sách Nhà nước đã quy định, phản ánh đầu đủ các nội dung ghi trong dự toán. Ngoài ra còn phản ánh đầy đủ các nội dung thu, chi học phí. Đây là căn cứ tốt để đánh giá một cách khách quan kết quả chấp hành dự toán, tổng kết và rút ra những kinh nghiệm hữu ích cho những chu trình ngân sách kế tiếp.
3.2. Những tồn tại cần giải quyết:
Bên cạnh những thành tự đạt được, công tác chi và quản lý chi cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng vẫn còn một số tồn tại nhất định. Những tồn tại này có thể bắt nguồn từ những nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Nhìn chung nó làm giảm đáng kể tính hiệu quả sử dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
- Về tổng chi cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn Quận.
Tuy số chi cho sự nghiệp giáo dục từ nguồn khác ngân sách nhà nước trong những năm qua được tăng lên nhưng cũng rất hạn chế. Mà nguồn vốn đầu tư cho giáo dục về cơ bản vẫn là từ nguồn kinh phí ngân sách nhà nước. Tỷ trọng chi từ nguồn ngân sách nhà nước chiếm phần lớn trong tỷ trọng chi cho giáo dục. Một mặt chứng tỏ sự quan tâm của thành phố và Quận đối với sự phát triển của giáo dục, đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Nhưng mặt khác nó lại là một gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Do vậy làm hạn chế nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, nguồn kinh phí tăng lên nhưng không đáp ứng kịp nhu cầu phát triển của giáo dục.
- Về cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục: Việc chọn lựa đầu tư theo thứ tự ưu tiên giữa các nhóm chi chưa thực sự có hiệu quả. Thể hiện ở cơ cấu chi còn bất hợp lý: chi cho con người chỉ chiếm 53% - 55% trong tổng chi, trong khi đó tỷ lệ này trung bình ở các nơi là 60% - 70%. Ngoài ra còn sự bất hợp lý do nhóm chi quản lý hành chính và chi cho nghiệp vụ chuyên môn. Có thể nói chi cho nghiệp vụ chuyên môn là một nội dung chi ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp phát triển giáo dục. Nhưng tỷ lệ nhóm chi này chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ thấp hơn cả tỷ trọng chi cho quản lý hành chính. Không những thế, việc chọn lựa đầu tư giữa các khoản chi ngay trong mỗi nhóm chi còn quản lý lỏng lẻo dẫn đến tình trạng sử dụng sai mục đích, lãng phí ngân sách nhà nước (chẳng hạn cho nhóm chi cho quản lý hành chính: Các khoản chi giao dịch, điện thoại là các khoản chi có thể tiết kiệm được nhưng thực tế lại rất lãng phí. Trong khi đó lại không đủ kinh phí để tổ chức các buổi hội thảo vể chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề...)
- Về công tác lập dự toán ngân sách nhà nước:
+ Mặc dù trong quá trình lập dự toán, phòng tài chính vật giá đã tổ chức thảo luận với phòng giáo dục đào tạo nhưng do hệ thống định mức không phù hợp nên khi thảo luận cơ bản là lập theo khả năng ngân sách, nhiều khi vướng mắc của ngành giáo dục không được giải quyết.
+ Một số trường hợp khi lập dự toán gặp nhiều vướng mắc (do dự hạn chế về trình độ của cán bộ kế toán, do không chấp hành đúng luật ngân sách: Như lập sai biểu mẫu, thiếu mục chi, chậm về thời gian...)
+ Khi lập dự toán, các trường đã không phản ánh các khoản chi từ nguồn thu để lại (thu học phí, các khoản đóng góp của phụ huynh cũng như các tổ chức khác).
+ Việc giao dự toán cho các đơn vị dữ toán ngân sách chưa thực hiện được trước ngày 31 tháng 12 của năm trước. Vì ngày 31 tháng 12 Chính phủ và Bộ Tài chính mới giao dự toán cho thành phố, và sau đó thành phố mới giao lại dự toán cho các Quận.
- Về công tác chấp hành dự toán: Phân cấp nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục còn nhiều bất cập. Phòng giáo dục - đào tạo được chủ động hơn trong sử dụng ngân sách nhưng cũng làm phức tạp hơn quá trình cấp phát kinh phí cho các trường. Ngoài ra dẫn đến tình trạng phân tán và sự vốn tại cơ sở. Các trường rút hạn mức và tự tổ chức thực hiện việc thanh toán, chi trả thiếu sự kiển tra của cơ quan tài chính và kho bạc. Dẫn đến tình trạng rút hạn mức tùy tiện, bằng mọi cách để rút hết hạn mức tuy nhiên đôi khi không sử dụng đúng mục đích. Hiện tượng chạy kinh phí cuối năm để khỏi chuyển trả về ngân sách thành phố cũng thường xẩy ra.
- Công tác quyết toán
Thời gian duyệt quyết toán không quá 30 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán của các trường học gửi lên. Sau khi duyệt quyết toán phòng tài chính thông báo cho các trường học biết và tổng hợp gửi lên Sở tài chính.
Do những điểm mới cần quán triệt khi làm quyết toán năm mà luật ngân sách và các văn bản hướng dẫn quy định nên các đơn vị và cơ quan tài chính cũng gặp không ít khó khăn. Một vấn đề khác nữa đáng chú ý trong quá trình thực hiện quyết toán, hầu hết những nảy sinh làm cản trở đến việc tổng hợp quyết toán ở phòng tài chính Quận, lại xuất hiện từ những báo cáo quyết toán mà các trường học gửi lên. Một số báo cáo quyết toán được lập vội vã dẫn đến số liệu không chính sách, không cấp đúng khi phòng tài chính vật giá thực hiện đối chiếu với số thực chi và số liệu ở kho bạc. Hầu hết các báo cáo quyết toán không có phần thuyết minh, giải trình. Thực trạng vừa nên trên cũng chính là nguyên nhân chậm chễ trong việc lập vào nộp báo cáo quyết toán từ phòng tài chính quận lên Sở tài chính vật giá.
Trên đây là toàn bộ thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng trong giai đoạn từ 1999 đến 2001. Trong điều kiện khó khăn chung Quận Hai Bà Trưng đã có nhiều có gắng nâng cao hiệu quả chi quản lý ngân sách nhà nước, tạo nên bước phát triển mới cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn tuy nhiên trong quá trình quản lý chi còn gặp nhiều vướng mắc và bộc lộ một số hạn chế, cần phải có biện pháp giải quyết trong thời gian tới.
Chương III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG TRONG THỜI GIAN TỚI.
Sự nghiệp giáo dục luôn luôn được coi là vấn đề hàng đầu không chỉ ở nước ta mà tất cả các nước trên thế giới đều như vậy. Nhất là khi chúng ta nhận thức được rằng ở nước ta trong bối cảnh hiện nay, nhân tố quan trọng hàng đầu đảm bảo cho sự thành công của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh chính là phẩm chất, năng lực và ý chí của con người Việt Nam. Thì hơn bao giờ hết, sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải được coi trọng hàng đầu. Thực tế cho thấy chưa bao giờ sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo ở nước ta lại thu hút nhiều sự quan tâm đến thế. Đảng và Nhà nước ta là người khởi xướng và khơi dậy sự quan tâm chú ý của mọi tổ chức cá nhân và toàn xã hội đến giáo dục. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã khẳng định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài".
Để thực hiện mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra đồng thời khắc phục những bất cập và tồn tại trong ngành giáo dục quận. Ban chấp hành Quận ủy Hai Bà Trưng đã xác định phương hướng phấn đấu của ngành giáo dục - đạo tạo quận Hai Bà Trưng từ nay đến 2005 là: "Phát huy những thành tích đã đạt được, khắc phục những mặt còn yếu kém theo hướng chấn chỉnh công tác quản lý, lập lại kỷ cương trường học. Sắp xếp và củng cố lại mạng lưới trường học xây dựng và bồi dưỡng cán bộ giáo viên, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục và đào tạo, từng bước hiện đại hóa cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập, thực hiện xã hội hóa giáo dục góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước".
Để thực hiện phương hướng trên, từ nay đến năm 2005 ngành giáo dục quận cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Về quy mô phát triển và phổ cập giáo dục.
- Sắp xếp lại mạng lưới trường học ở 25 trường trên địa bàn quận và đặc biệt ở các trường học ở phường Trương Định, Tân Mai, Cầu Dền, Giáp Bát...
- Xây dựng một số trường tiểu học và trung học cơ sở đạt tiêu chuẩn quốc gia, chuyển một số trường bán công thành các trường dân lập đáp ứng yêu cầu quản lý và xã hội hóa giáo dục.
- Phấn đấu tỷ lệ trẻ ra mẫu giáo đạt 75%, 98% trẻ 6 tuổi vào học lớp một, phổ cập giáo dục phổ thông trung học đạt 80%, đạt tiêu chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi.
- Xây dựng kế hoạch phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở.
Về chất lượng.
- Hạ thấp tỷ lệ trẻ em đến độ tuổi nhưng chưa đi học, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống 8%. Học sinh tiểu học được học ngoại ngữ, tin học. Nâng cao chất lượng giảng dạy môn giáo dục công dân, giáo dục pháp luật, đạo đức. Đẩy mạnh các hoạt động vui chơi, giáo dục thể chất, văn hóa, văn nghệ. Phát huy vai trò hoạt động của công tác đội, công tác Đoàn.
- Xây dựng phương hướng biện pháp nhằm bồi dưỡng các học sinh giỏi, có chế độ khuyến khích nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của những nhân tài cho đất nước.
- Không ngừng mở rộng các hình thức học tập cho những người khuyết tận, vô gia cư, xây dựng các lớp xóa mù, các trung tâm hướng nghiệp.
Về cơ sở vật chất.
- Trang bị đầy đủ các thiết bị giảng dạy - học tập theo quy định của Bộ giáo dục: như đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ thể dục thể thao, mô hình mẫu vật, hóa chất...
- Phấn đấu đến năm 2005 tất cả các trường tiểu học có cơ sở vật chất riêng, không còn phòng học cấp 4. Các trường tiểu học và trung học cơ sở có phòng làm việc của Ban giám hiệu, văn phòng, phòng thí nghiệm, vi tính...
- Phấn đấu có 50% các trường có bài tập, có khu vui chơi giải trí.
Về đội ngũ giáo viên.
- Phấn đấu đến năm 2005 có 95% giáo viên mầm non đạt trình độ chuẩn, 90% giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt trình độ chuẩn (có 50% tiêu chuẩn). Cán bộ quản lý có trình độ lý luận và quản lý nhà nước là 60%.
- 100% tổng phụ trách, nhân viên thí nghiệm, văn phòng được bồi dưỡng nghiệp vụ. Đổi mới phương pháp dạy và học, đẩy mạnh các hoạt động chuyên môn. Phấn đấu có 40% giáo viên có trình độ tin học và ngoại ngữ phổ thông.
- Có chế độ khuyến khích giáo viên giỏi, cán bộ quản lý giỏi. Nhằm động viên khuyến khích họ trong công tác. Hỗ trợ giáo viên về đời sống vật chất, điều kiện sinh hoạt.
- Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong đội ngũ cán bộ, giáo viên nâng tỷ lệ đảng viên trong ngành lên 40%.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG.
Để phát triển sự nghiệp giáo dục trên địa bàn quận Hai Bà Trưng thì một trong những nhiệm vụ hàng đầu là khắc phục những tồn tại trong quản lý chi NSNN cho giáo dục quận. Vì NSNN là nguồn kinh phí cơ bản, lớn nhất và quan trọng nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quận. Để thực hiện những mục tiêu, phương hướng của ngành giáo dục quận trong thời gian tới nhằm tạo những bước tiến mạnh mẽ cho sự nghiệp giáo dục quận thì cần thiết phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu, nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục. Dưới đây là một số giải pháp mà em xin đề xuất sau khi tìm hiểu thực tế về công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng - thành phố Hà Nội.
1. Tăng chi NSNN cho giáo dục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng.
Với quan điểm giáo dục là vấn đề quyết định sự phát triển của đất nước là một bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì không có gì chúng ta lại đầu tư quá ít cho nó. Một khi nhà nước vẫn còn giữ vai trò chủ đạo trong việc thực hiện xã hội hóa giáo dục thì nhà nước phải là chủ thể đầu tư chủ đạo, phần lớn nguồn vốn cho sự nghiệp giáo dục. Trong những năm tới nhà nước chủ trương đầu tư 30% GDP cho sự nghiệp giáo dục của đất nước. Đây là tín hiệu đáng mừng, được sự quan tâm đầu tư thích đáng của Nhà nước, sự nghiệp giáo dục nước nhà sẽ nhanh chóng phát triển.
Trên tinh thần này quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua đã chú trọng đầu tư cho giáo dục quận và không ngừng tăng lên cả số tuyệt đối lẫn tỷ trọng. Năm 1999 là 935 triệu đồng, năm 2001 là 1577 triệu đồng, đây là một cố gắng đáng ghi nhận. Tuy nhiên tổng chi cho giáo dục từ nguồn NSNN chỉ đáp ứng được 70% đến 75% cho giáo dục trên địa bàn quận, trong đó nguồn kinh phí ủy quyền là chủ yếu. Tỷ trọng chi ngân sách quận cho giáo dục chỉ chiếm 2% đến 2,69% tổng chi ngân sách quận. Chính vì thế, trong những năm tới, thành phố Hà Nội cũng như quận Hai Bà Trưng cần xây dựng những kế hoạch trung hạn và dài hạn trong việc đầu tư cho giáo dục quận Hai Bà Trưng theo đó tăng chi NSNN cho giáo dục quận, đặc biệt tăng chi từ ngân sách quận Hai Bà Trưng cho giáo dục từ 2% đến 2,69% lên đến 7% đến 8% trong những năm tới. Với nguồn kinh phí đầu tư nhiều hơn cho giáo dục từ nguồn NSNN, ngành giáo dục quận sẽ có điều kiện tăng chi cho việc cải thiện tình hình cơ sở vật chất, nâng cao đời sống cũng như trình độ cho đội ngũ giáo viên. Từ đó chất lượng giảng dạy học tập sẽ có chiều hướng tăng lên.
2. Xây dựng cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận một cách hợp lý.
Có thể nói xây dựng được một cơ cấu chi NSNN cho giáo dục một cách cân đối hợp lý, tỷ trọng của các nhóm chi này phụ thuộc vào yêu cầu tính chất của từng nội dung chi sẽ góp phần không nhỏ đem lại hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ngân sách nhà nước ở mức cao nhất.
Nhìn vào cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong thời gian qua cho thấy những kết quả tương đối khả quan song còn nhiều bất cập. Năm 2001, tổng chi NSNN cho giáo dục quận được phân bổ như sau:
- Chi cho con người: 53,92%
- Chi quản lý hành chính: 5,47%
- Chi nghiệp vụ chuyên môn: 4,46%
- Chi mua sắm, sửa chữa: 33,57%
- Chi khác: 0,58%
Nếu xét đến cơ cấu chi NSNN cho giáo dục một cách hợp lý hiện nay thì thông thường chi ngân sách dành cho con người chiếm từ 65% đến 75% tổng chi. Tuy nhiên trong cơ cấu chi ngân sách cho giáo dục quận Hai Bà Trưng, thì nhóm chi cho con người tuy chiếm vị trí cao nhất song vẫn còn thấp chỉ chiếm 53,92% xấp xỉ 54%. Sở dĩ như vậy là vì nhóm chi cho mua sắm sửa chữa trong những năm qua liên tục tăng và chiếm tỷ trọng khá lớn từ 32,74% đến 34,95% năm 2000 và 33,57% năm 2001. Mặc dù nhu cầu mua sắm xây dựng cơ sở vật chất trong những năm qua trên địa bàn quận là khá lớn, nhưng với tỷ trọng như vậy lại quá cao cần phải giảm xuống. Năm 2001 tỷ trọng của nhóm chi này đã giảm xuống góp phần làm tăng tỷ trọng nhóm chi cho con người, nhưng kết quả chưa cao. Một điều bất hợp lý trong cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận là tỷ trọng chi cho nghiệp vụ chuyên môn lại quá thấp, chỉ chiếm 4,37% đến 4,46%. Mà đây là nhóm chi có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giảng dạy, học tập của đội ngũ giáo viên và học sinh. Trong khi đó tỷ trọng của nhóm chi cho quản lý hành chính lại có tỷ trọng cao hơn nhóm chi cho nghiệp vụ, theo nhu cầu tính chất của từng nội dung thì tỷ trọng nhóm chi chi nghiệp vụ phải cao hơn nhóm chi cho quản lý hành chính.
Như vậy với những bất hợp lý trong cơ cấu chi như vậy thì cần phải phải xây dựng một cơ cấu tiến bộ hơn, hiệu quả hơn, đúng với chính sách chế độ và yêu cầu của nội dung chi. Theo cơ cấu chi hợp lý thì nhóm chi cho con người cần được tăng lên, đảm bảo đời sống vật chất tinh thần cho đội ngũ giáo viên, bên cạnh đó cầu tăng tỷ trọng chi cho nhóm nghiệp vụ chuyên môn, đồng thời giảm tỷ trọng chi cho quản lý hành chính. Còn đối với nhóm chi mua sắm sửa chữa: để đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất vốn còn nghèo nàn lạc hậu trong địa bàn quận thì trong các năm tiếp theo tỷ trọng các nhóm dư này cần duy trì ở mức tương đối cao, sau đó các năm sau có thể giảm xuống dần.
3. Tăng cường quản lý chi NSNN cho giáo dục quận phải tăng cường ngay từ khâu lập kế hoạch điều cấp phát cho đến quyết toán.
Trong công tác quản lý tài chính, việc áp dụng một quy trình quản lý chặt chẽ, phù hợp và khoa học sẽ góp phần tăng hiệu quả trong công tác quản lý: tránh thất thoát, sử dụng lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước. Quy trình quản lý ngân sách nhà nước bao gồm khâu lập kế hoạch điều hành cấp phát, quyết toán.
Đối với khâu lập kế hoạch.
Trước hết, cơ quan tài chính phải yêu cầu các trường học trực thuộc lập dự toán kinh phí cho đơn vị mình theo đúng trình tự và thủ tục lập kế hoạch ngân sách. Dự toán được lập phải dựa trên đầy đủ các căn cứ đã đặt ra nhằm đảm bảo tính chính xác và sát với thực tế. Dự toán nên được lập chi tiết đến từng mục chi và nên có những giải trình cần thiết về một số căn cứ quan trọng khi lập dự toán như tình hình biến động của số cán bộ giáo viên kế hoạch, số học sinh bình quân... nhằm tăng tính chính xác khoa học cho dự toán ngân sách. Nhờ vào đó mà cơ quan tài chính sẽ thuận lợi hơn trong việc duyệt dự toán, cấp phát kinh phí ở các đơn vị trường học. Mặt khác, với dự toán được lập chi tiết và sát với thực tế sẽ trở thành căn cứ vững chắc cho việc phân bổ dự toán một cách hợp lý giữa các mục chi, tránh được tình trạng chênh lệch về số được phân bổ với nhu cầu thực tế.
Đối với khâu điều hành cấp phát.
Việc cấp phát kinh phí luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng, đúng định mức, đúng mục đích, kịp thời và đúng dự toán quý, năm được duyệt. Cơ quan tài chính cần tạo thế chủ động trong việc nắm giữ kinh phí mà ngân sách thành phố rót xuống. Để đảm bảo cấp phát nhanh gọn kịp thời, chính xác cho các trường học. Tránh phiền hà, quan liêu, giấy tờ trong khi đã có đầy đủ căn cứ để cấp cho các đơn vị thụ hưởng.
Trong quá trình cấp phát, cơ quan tài chính phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với Kho bạc nhà nước nhằm thực hiện kiểm soát chi theo đúng quy định về quản lý ngân sách nhà nước hiện hành. Trong những trường hợp cần thiết, cơ quan tài chính có thể tổ chức những đợt kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất ở các trường học sau khi thực hiện cấp phát kinh phí. Việc kiểm tra sẽ nhằm vào tình hình sử dụng kinh phí được cấp phát ở các trường học như thế nào, từ đó ngăn chặn những hiện tượng như sai mục đích, kém hiệu quả, tăng cường chế độ chính sách trong quản lý tài chính.
Đối với khâu quyết toán.
Việc lập, nộp và duyệt báo cáo quyết toán hàng quý, năm, phải đảm bảo nhanh chóng, kịp thời và chính xác theo yêu cầu của cơ quan tài chính cấp trên. Công tác lập và báo cáo quyết toán phải đảm bảo sự thống nhất từ các đơn vị thụ hưởng cho đến cơ quan tài chính cấp trên, tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" giữa các cơ quan tài chính với các đơn vị lập quyết toán. Nói cách khác phải có sự nhất quán ngay từ đầu trong việc ra các văn bản hướng dẫn việc lập báo cáo quyết toán. Đi kèm với báo cáo quyết toán phải có phần đánh giá chính xác việc thực hiện kế hoạch và hiệu quả, sử dụng kinh phí trong năm ngân sách. Điều này rất có ý nghĩa trong việc tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời cho năm ngân sách tới.
4. Tăng cường khai thác và cải tiến cách thức quản lý các nguồn thu ngoài NSNN cho giáo dục.
Trong bối cảnh chung của cả nước, mọi ngành nghề cần được hỗ trợ đầu thị trường để phát triển. Tình hình giáo dục quận Hai Bà Trưng cũng như vậy, trong khi nhu cầu học tập, nhu cầu nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực đang gia tăng mạnh mẽ thì NSNN đầu tư cho giáo dục rất hạn hẹp. Việc đưa sự nghiệp giáo dục đạt thêm nhiều bước tiến mới không phải trong chốc lát mà là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải có sự góp sức của mọi người, mọi nhà, mọi ngành hơn bao giờ hết., Ngân sách nhà nước rất cần sự chia sẻ gánh nặng đầu tư cho giáo dục, bởi lẽ với quy mô và tốc độ phát triển giáo dục như hiện nay thì ngân sách nhà nước sẽ không thể kham nổi mà cần huy động bổ sung từ nhiều nguồn tài chính khác.
Trong thời gian qua sự nghiệp giáo dục quận đã nhận được sự hỗ trợ khá lớn từ những nguồn vốn ngoài NSNN. Những nguồn vốn này đang hứa hẹn có nhiều khả năng dồi dào hơn nếu hiệu quả công tác quản lý đối với những nguồn vốn này được tăng cường hơn nữa, các nguồn vốn có thể huy động được bao gồm:
- Vốn đóng góp từ nhân dân: bao gồm học phí, đóng góp xây dựng trường sở, quỹ hội phụ huynh... Việc huy động các khoản đóng góp này trước hết phải đảm bảo theo đúng quy định chung của của Bộ và quy định của thành phố. Học phí và các khoản đóng góp khác thường là vấn đề hết sức nhạy cảm, đụng chạm đến mọi gia đình, nhất là khi việc đóng học phí và các khoản khác hiện nay vẫn còn mang tính nghĩa vụ, chưa xuất phát từ sự tự nguyện của người dân. Do đó, để việc thu học phí và các khoản khác không trở thành nỗi sợ của mỗi người dân thì đi đôi với việc thực hiện nhu cầu tăng cường trách nhiệm quản lý thiết lập trật tự kỷ cương trong nhà trường, kiên quyết loại bỏ các lệ phí, phí ngầm ngoài quy định. Để làm được điều này cần có sự phối hợp giữa ngành giáo dục, ngành tài chính và các ngành khác có liên quan. Mặt khác việc thực hiện công khai tài chính đối với các khoản đóng góp ở các trường học là hết sức cần thiết bởi vì nó sẽ tạo sự kiểm tra, kiểm soát lẫn nhau giữa các trường học với dân từ đó hạn chế việc thu, chi thiếu minh bạch và gian lận đối với các khoản đóng góp.
- Vốn đóng góp của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp: cần nghiên cứu việc thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển giáo dục trên cơ sở hình thành từ các khoản nộp bắt buộc của các doanh nghiệp tính theo tỷ lệ % so với doanh thu. Nếu quỹ này được thực hiện thì đây là một nguồn vốn không nhỏ đầu tư cho giáo dục trên địa bàn quận.
5. Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học.
Là những đơn vị dự toán ngân sách, trực tiếp sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các trường học phải quán triệt những yêu cầu được đặt ra trong việc quản lý tài chính như sau:
- Thực hiện hạch toán một cách đầy đủ, rõ ràng các nguồn vốn được hưởng: nguồn vốn ngân sách cấp được hạch toán riêng với nguồn vốn ngoài ngân sách. Từ đó sẽ thuận lợi cho cơ quan tài chính trong việc thanh, kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí, mặt khác các trường có kế hoạch quản lý, chi tiêu theo đúng quy định của nhà nước.
- Phải có hệ thống sổ sách ghi chép, bảng biểu phù hợp với quy mô của trường học và phù hợp với quy định chung của Bộ Tài chính, Sở tài chính, nhằm đảm bảo sự thống nhất, tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý tài chính được chặt chẽ chính xác.
- Xác định rõ ràng vai trò và trách nhiệm của chủ tài khoản trong quản lý tài chính của đơn vị. Từ đó tạo điều kiện cho việc quản lý được thu về một mối, thiết lập được tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý tài chính.
6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân.
Tổ chức tốt các biện pháp tuyên truyền về vai trò của giáo dục để nhân dân thấy rõ tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ có phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý, cân đối lao động giữa các ngành nghề, kết hợp với đội ngũ lao động trí thức mới là động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.
Ngoài các hình thức tuyên truyền về vai trò của giáo dục còn để nhân dân nhận thức được rằng: sự nghiệp giáo dục không chỉ riêng của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của nhân dân, xây dựng một nền giáo dục toàn dân, nhân dân có trách nhiệm cùng nhà nước xây dựng sự nghiệp giáo dục ngày càng vững mạnh.
7. Chú ý đến công tác đào tạo, đào tạo lại trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ trong ngành giáo dục.
Quận Hai Bà Trưng là một quận có bề dày lịch sử, quận có đội ngũ quản lý tài chính tương đối có trình độ. Tuy nhiên đội ngũ quản lý tài chính trong các trường học thì còn yếu, chưa đồng bộ, chủ yếu là trình độ sơ cấp, trung cấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém hiệu quả trong công tác quản lý tài chính kế toán ở một số trường học, khả năng nắm bắt và thích nghi với những thay đổi trong chế độ tài chính, kế toán cũng hạn chế. Trong khi đó, nguồn lực đầu tư cho giáo dục quận trong những năm tới có xu hướng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng, đòi hỏi phải có những cán bộ nắm chắc nghiệp vụ chuyên môn, cũng như chính sách chế độ về công tác tài chính kế toán.
Chính vì thế ngành giáo dục cần quan tâm hơn nữa đến đầu tư tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tài chính - kế toán tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng và đào tạo lại, cũng như bổ sung những cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn cao nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý tài chính trong ngành.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đã đề ra trong nội dung bài viết này, em xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Một là: các cấp Uỷ Đảng, chính quyền các cấp, phải tăng cường chỉ đạo nhằm tạo nên sự phối kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa ngành giáo dục và các ngành liên quan khác. Đồng thời thực hiện việc tuyên truyền vận động một cách sâu rộng ý thức chấp hành luật ngân sách nhà nước và các quy định liên quan của các cấp các ngành.
Hai là: Trên cơ sở quy định của Chính phủ, Bộ Tài chính. UBND quận Hai Bà Trưng cần cấp hành nghiêm chỉnh các quy định và có các văn bản hướng dẫn quy định về thu, quản lý sử dụng các khoản thu trong trường học thực hành giáo dục - đào tạo. Đây là căn cứ để các trường học tổ chức, khai thác và sử dụng nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước phục vụ cho sự nghiệp giáo dục. Đặc biệt khi quyết định mức thu tiền học phí, tiền xây dựng và các khoản đóng góp khác. UBND Quận cần tiếp thu những ý kiến đóng góp của ngành giáo dục Quận nhằm xây dựng một chính sách thu hợp lý, hiệu quả. Đồng thời thực hiện việc tuyên truyền vận động về vai trò của công tác giáo dục - đào tạo, công tác xã hội hóa giáo dục. Qua đó nâng cao ý thức tinh thần, trách nhiệm của mọi tầng lớn nhân dân đối với sự nghiệp phát triển giáo dục - đào tạo.
Ba là: Cần sửa đổi thời gian phân bổ dự toán nhằm đảm bảo tính khả thi:
+ Trung ương giao dự toán trước ngày 30 tháng 11 năm trước cho các bộ ngành, tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (thay vì cuối tháng 12 như hiện nay).
+ UBND thành phối giao dự toán trước ngày 31 tháng 12 năm trước cho các Quận (thay vì cuối tháng 2 năm kế hoạch).
+ UBND Quận giao dự toán trước ngày 31 tháng 1 cho các phường (thay vì cuối tháng 3 như hiện nay)
KẾT LUẬN
Giáo dục hiện nay được coi là quốc sách hàng đầu trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia vai trò của giáo dục hết sức to lớn, nó đào tạo ra đội ngũ những người lao động hoạt động trong tất cả các ngành nghề đào tạo ra những con người có tri thức có kỹ năng và đặc biệt có sức khỏe, tinh thần, đạo đức. Theo Nghị quyết II đại hội VIII Đảng ta đã khẳng định, phát triển giáo dục để đào tạo ra nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước nhà. Để làm được điều này thì hàng năm nhà nước phải đầu tư một nguồn kinh phí không nhỏ từ nguồn ngân sách nhà nước cho giáo dục. Tuu nhiên mọi nguồn lực đều hữu hạn. Nguồn ngân sách nhà nước ta cũng vậy, ngoài nhiệm vụ chi cho giáo dục, ngân sách nhà nước còn phải đầu tư cho nhiều hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội khác. Chính vì vậy một trong những biện pháp quan trọng phù hợp trong tình hình hiện nay, để góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục đất nước là tăng cường, quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục. Nhằm tăng cường hiệu quả đầu tư cho giáo dục. Nhận thức được điều này trong quá trình thực tập tại phòng Tài chính vật giá Hai Bà Trưng em đã chọn đề tài này.
Đề tài này bao gồm:
Phần đầu: Những lý luận chung về ngân sách nhà nước, và vai trò của chi ngân sách nhà nước đối với sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội.
Phần hai: Căn cứ vào tình hình thực tế, em đã đi sâu vào phân tích thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục trong địa bàn quận.
Phần ba: Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế trong công tác chi ngân sách cho giáo dục quận, em đã đưa ra một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận.
Trong đề tài này không thể tránh khỏi những sai sót do hạn chế về mặt nhận thức cũng như thời gian thực hiện. Một lần nữa em xin chân thành tiếp thu những ý kiến đóng góp của các thầy cô, bạn bè.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo quyết toán (1999-2001) về tình hình giáo dục quận Hai Bà Trưng.
2. Báo cáo quyết toán chi ngân sách nhà nước (1999-2001) của Phòng Tài chính vật giá quận Hai Bà Trưng.
3. Đổi mới ngân sách: GS -TS Tào Hữu Phùng và PTS Nguyễn Công Nghiệp, NXB Thống kê Hà Nội.
4. Giáo trình "lý thuyết tài chính" trường Đại học Tài chính Kế toán - thành phố Hồ Chí Minh.
5. Giáo trình "Tài chính Nhà nước" trường Đại học Tài chính Kế toán.
6. Kinh tế học, tập II - David Begg.
7. Hướng dẫn thực hiện Luật ngân sách nhà nước - Bộ Tài chính, nhà xuất bản tài chính.
8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
9. Tạp chí tài chính số 2, 3, 4, 6, 10, 11, 12 (2001).
10. Thông tin tài chính số 10 năm 2001, số 3 năm 2002.
MỤC LỤC
Trang
[
Lời mở đầu 1
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ SỰ CẦN THIẾT QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC Ở NƯỚC TA 3
I. Kihái quát về ngân sách nhà nước. 3
1.Khái niệm về Ngân sách nhà nước. 3
2. Khái niệm : 3
1.1. Bản chất của Ngân sách nhà nước. 4
1.2. Vai trò của Ngân sách nhà nước. 5
2.Tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước. 7
2.1. Các nguyên tắc tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước . 7
2.2 Cơ cấu tổ chức hệ thống Ngân sách nhà nước : 8
3. Phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước. 9
3.2 Nội dung của phân cấp quản lý Ngân sách nhà nước. 10
II. Sự nghiệp giáo dục và vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 17
1.Khái quát về sự nghiệp giáo dục. 17
2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 18
III. Chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta . 21
Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục. 21
2. Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp giáo dục ở nước ta hiện nay. 23
3. Sự cần thiết phải quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận. 24
4. Nội dung quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận 27
4.1 Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục từ nguồn kinh phí ủy quyền. 27
4.2. Quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục từ nguồn Ngân sách quận. 30
Chương II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI 32
I. Vài nét về đặc điểm kinh tế xã hội và sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng 32
1. Địa lý hành chính . 32
2. Đặc điểm về kinh tế. 32
3. Đặc điểm về văn hóa - xã hội 33
4. Đặc điểm về giáo dục Quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội. 34
II. Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội . 41
1. Nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng. 41
2. Tình hình quản lý chi Ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục Quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 45
2.1. Thực trạng chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 45
2.2. Thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong những năm qua. 74
2.2.1. Công tác lập kế hoạch ngân sách nhà nước . 74
2.2.2. Công tác thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước. 75
2.2.3. Công tác quyết toán 76
3. Đánh giá thực trạng quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn quận Hai Bà Trưng. 78
3.1. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua. 78
3.2. Những tồn tại cần giải quyết 80
Chương III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHI NSNN CHO SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI 84
I. Mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng trong thời gian tới. 84
II. Một số giải pháp tăng cường quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục quận Hai Bà Trưng. 86
1. Tăng chi NSNN cho giáo dục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng. 86
2. Xây dựng cơ cấu chi NSNN cho giáo dục trên địa bàn quận một cách hợp lý. 87
3. Tăng cường quản lý chi NSNN cho giáo dục quận phải tăng cường ngay từ khâu lập kế hoạch điều cấp phát cho đến quyết toán. 88
4. Tăng cường khai thác và cải tiến cách thức quản lý các nguồn thu ngoài NSNN cho giáo dục. 90
5. Khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý tài chính ở các trường học. 91
6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và trách nhiệm của nhân dân. 92
7. Chú ý đến công tác đào tạo, đào tạo lại trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ trong ngành giáo dục. 92
III/ Một số kiến nghị: 93
KẾT LUẬN 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28619.doc