Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới

Để thu hút dòng vốn FDI thuận lợi hơn nữa trong bài chuyên đề tốt nghiệp này,các giải pháp đưa ra bao gồm 2 nhóm giải pháplớn : giải pháp mang tính dài hạn gắn liền với quá trình thị trường hóa ngành điện hay là các giải pháp nhằm xây dựng một khuôn khổ thị trường và nhóm các giải pháp vận hành mang tính ngắn hạn,vì nhóm các giải pháp này có thể tháo gỡ ngay được những khó khăn mà nhà đầu tư đang gặp phải. Các nhóm giải pháp này bao gồm: Nhóm giải pháp trong dài hạn: - Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể. - Thự hiện lộ trình cải tổ ngành điện. - Xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng và hiệu quả. - Xây dựng giá điện tiệm cận giá thị trường. Nhóm các giải pháp trong ngắn hạn: - Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư. - Soạn thảo những PPA chuẩn. - Dần bãi bỏ cơ chế bảo lãnh của Chính phủ. - Cho phép IPP ở những vùng cụ thể. - Tổ chức qui trình đấu thầu cạnh tranh.

doc61 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1985 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào ngành điện Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà máy và vấn đề môi trường. Giá than sẽ được đàm phán giữa TKV và các nhà đầu tư,thông thường hợp đồng mua bán than kéo dài ít nhất 1 năm trở lên,vì các nhà đầu tư an tâm rằng giá than sẽ là tương đối ổn định cho hoạt động sản xuất điện.Giá than sẽ thay đổi phụ thuộc vào 2 yếu tố là chi phí sản xuất than trong nước thay đổi và giá than trên thị trường thế giới biến động,khi đó ,TKV sẽ phải thay đổi giá bán than cho nhà đầu tư.Hiện nay,các dự án FDI trong nhà máy nhiệt điện than đều có qui mô nhỏ phục vụ trực tiếp các KCN-KCX,trừ có một vài dự án BOT sắp được xây dựng có qui mô rất lớn khoảng 1.200MW tại Quảng Ninh và Bình Thuận,các nhà ĐTNN thấy rằng nhiệt điện than ở Việt Nam rất có tiềm năng vì nguyên vật liệu đầu vào có sẵn và cam kết của Chính phủ,vì thế,trong tương lai dòng vốn đầu tư vào nhiệt điện than sẽ nhiều hơn. Vấn đề vị trí các nhà máy nhiệt điện than phần lớn các nhà máy vẫn đang tiếp tục được xây dựng ở miền Bắc vì Quảng Ninh là nơi sản xuất than lớn nhất cả nước.Tuy nhiên,Chính phủ và ngành điện hiện đang lập kế hoạch phát triển các nhà máy nhiệt điện than ở miền Trung và miền Nam. Các nhà máy nhiệt điện than có mức ô nhiễm lớn nhất,ảnh hưởng tiêu cực ở qui mô toàn cấu về phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính.Việc xây dựng nhiệt điện than sẽ được tính toán trong dài hạn,tác động đến môi trường sẽ là căn cứ quan trọng xây dựng các dự án. b.Nguồn nhiệt điện sử dụng khí Phát triển các nhà máy điện lớn sử dụng khí ngoài khơi,Việt Nam đòi hỏi có sự liên kết của một số cơ quan chức năng và trên cả hai phương diện huy động một lượng lớn vốn ban đầu và các cam kết trong dài hạn.Công ty khí Việt Nam(PVGC),một thành viên của Tổng công ty dầu khí Việt Nam, chịu trách nhiệm về điều hành khí đốt tự nhiên,đây là một công ty trung ương,nắm giữ cổ phần của Chính phủ trong các cơ sở sản xuất,độc quyền nắm giữ quyền bán lẻ khí,mua khí từ ngoài khơi,và bán lẻ cho người tiêu dùng cuối cùng.Về thăm dò và khai thác khí,PVGC liên doanh hoặc kí hợp đồng phân chia sản phẩm với các công ty dầu khí quốc tế.Về phía sản xuất điện,việc các nhà đầu tư ngoài EVN phát triển các tổ hợp IPP có công suất lớn là cực kì cần thiết do EVN bị hạn chế về nguồn vốn.Các nhà đầu tư IPP có thể gồm cả các bên phát triển khai thác dầu khí.Tuy nhiên,sự tham gia của các nhà đầu tư khác cũng rất cần thiết.EVN sẽ đại diện cho bên mua sản phẩm điện của nhà máy.Cuối cùng,Chính phủ Việt Nam,cần đóng vai trò quan trọng trong cả phê duyệt những thỏa thuận phát triển và cung cấp bảo đảm một phần rủi ro cho thỏa thuận bán điện cho các nhà đầu tư bên ngoài.Hai dự án đầu tư lớn nhất loại này là nhà máy Phú Mỹ 2 và Phú Mỹ 3 của nhà ĐTNN.Các ưu điểm của nhà máy chạy bằng khí là thời gian xây dựng nhanh,mức độ phức tạp trong việc vận hành và ô nhiễm đều thấp hơn nhiệt điện than. Khí ngoài khơi Việt Nam được sử dụng cho các tổ hợp sử dụng khí lớn trên bờ,trong đó,bên cạnh cung cấp cho một vài nhà máy sản xuất phân bón thì phần lớn tập trung cho phát điện. Các mỏ khí chính bao gồm: Mỏ Cửu Long: nằm ngoài phía Đông Nam ngoài khơi,Việt Nam đã khai thác dầu tại mỏ này từ năm 1995.Khí đồng hành từ các mỏ sầu chính của Vệt Na, được dẫn vào bờ qua hệ thống đường ống Bạch Hổ.Hiện tại,lượng khí đồng hành đang giảm dần,tuy nhiên một lượng khí mới hiện đang được nghiên cứu có thể khai thác từ đây.Thêm vào đó,đã có một phát hiện đầy hứa hẹn lượng khí không đồng hành tại khu Sư Tử Trắng trong mỏ Cửu Long,khoảng 40 tỷ m3 trở lên. Mỏ Nam Côn Sơn: Cũng nằm ngoài khơi phía Đông Nam,tuy nhiên xa hơn mỏ Cửu Long.Khí từ mỏ này,hiện đang cung cấp cho tổ hợp Phú Mỹ.Sản lượng khí khai thác theo hợp đồng với BP và KNOC dự kiến sẽ tăng liên tục với mức 7 tỷ m3/năm là công suất thiết kế của đường ống dẫn khí. Ngoài ra còn có các mỏ: Mỏ Tây Nam,Phú Mỹ và các vùng lân cận,Cà Mau,Ô Môn,Nhơn Trạch.Quy mô tối ưu của các tổ hợp nhiệt điện khí so với các nguồn điện khác ở nước ta là hết sức nhạy cảm với giá khí kí kết.Đến lượt mình,giá khí lại nhạy cảm với tính vững chắc và qui mô khai thác của các cam kết sử dụng khí.Do vậy, việc phát triển những cam kết vững chắc,ở qui mô lớn và dài hạn giường như rất cần thiết phải có để đạt được các giá điện cạnh tranh từ các nhà máy nhiệt điện khí. Việc EVN tham gia sỡ hữu hầu hết các nhà máy điện là không khả thi,thậm chí cả khi dùng các nguồn vốn vay do khả năng vay của EVN là có giới hạn.Những đầu tư bên ngoài vào IPP,bên cạnh đầu tư của các công ty khai thác khí là cần thiết trong từng khu công nghiệp điện khí lớn. Hình thức nhiệt điện khí rõ ràng là thế mạnh của khu vực có vốn ĐTNN và cũng là hình thức phát điện mà nhà ĐTNN ưa thích,vì như ta đã nói ưu điểm của nhiệt điện khí là thời gian xây dựng nhanh,hiệu suất phát điện cao,ngoài ra,hình thức này cần số vốn đầu tư rất lớn,thậm chí,đầu tư khép kín từ khai thác khí,vận chuyển khí qua ống dẫn,rồi mới đến nhà máy điện khí,công nghệ hiện đại nhằm đảm bảo giảm thiểu thấp nhất ô nhiễm và tăng hiệu suất,cũng như nhiệt điện than,nhiệt điện khí sẽ là hình thức có nhiều nhà ĐTNN tham gia trong tương lai.Tuy nhiên,ở nước ta,cả EVN và PVN ngày càng tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm và có tiềm lực lớn hơn về vốn để sẵn sàng tham gia đầu tư vào cơ cấu phát điện hấp dẫn này. c.Phát triển nguồn thủy điện Việt Nam,đang có một kế hoạch nhằm khai thác phần lớn nguồn thủy điện tiềm năng nhất của đất nước trong thập kỷ tới.Tổng công suất của thủy điện trong năm 2004 là 4.227MW,trong đó,thủy điện Hòa Bình(1.920MW) và Yali(720) chiếm 60% tổng công suất của thủy điện.Kế hoạch sẽ phát triển thêm các nhà máy thủy điện lớn trên sông Đà,phía thượng lưu của Hòa Bình bao gồm có Sơn La(2.400MW) và Lai Châu(1.100MW).Khi hoàn thành,bậc thang gồm 3 thủy điện lớn trên sông Đà,sẽ có tổng công suất lên tới 5.400MW.Bên cạnh kế hoạch phát triển đó,chương trình khai thác thủy điện của Việt Nam còn tập trung vào 30 dự án qui mô vừa(công suất từ 100-350),và xem xét một số nhà máy thủy điện nhỏ khác(công suất nhỏ hơn 30MW).Các dự án này trải dài theo lưu vực chính của hệ thống sông ở miền Bắc,Trung,và Nam.Có 14 dự án thủy điện loại vừa đang được xây dựng vào đầu năm 2005 với tổng công suất 3.170MW.EVN cũng đang lên kế hoạch sẽ tiếp tục xây dựng thêm 16 nhà máy thủy điện qui mô vừa với tổng công suất 2.775MW càng sớm càng tốt. Hiện nay,chưa có dự án FDI nào đầu tư vào cơ cấu thủy điện,nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do hình thức tự chỉ định thầu từ EVN.Các công trình thủy điện,chủ yếu do các đơn vị của EVN làm chủ đầu tư không qua đấu thầu.Vì vậy,các đơn vị khác ít có cơ hội đầu tư.Ngoài ra,các công trình thủy điện mà tư nhân được tham gia đầu tư,chủ yếu có công suất nhỏ,vốn đầu tư không quá lớn do Chính phủ qui định các công trình thủy điện lớn sẽ hình thành hình thức độc quyền Nhà Nước. d.Nhiệt điện hạt nhân Theo qui hoạch điện hạt nhân sẽ được xây dựng tại tỉnh Ninh Thuận,dự kiến sẽ xuất hiện lần đầu tiên vào năm 2020 và sẽ chiếm 11% sản lượng điện quốc gia năm 2025 và 30% vào năm 2050.Đây sẽ là hình thức phát điện EVN độc quyến sở hữu,vận hành vì tính chất đặc biệt của điện hạt nhân liên quan đến môi trường và an ninh quốc gia.Vì vậy,hình thức này,sẽ không có các nguồn đầu tư bên ngoài tham gia. e.Các nguồn điện sạch như điện sinh học,điện gió,điện mặt trời Hiện nay,vẫn chưa có một khảo sát nào về trữ lượng,tiềm năng của nguồn điện sạch tại Việt Nam,nhưng xu hướng chung của thế giới hiện nay là sử dụng nguồn điện sạch đến mức tối đa,khai thác tiềm năng có thể,mặc dù chi phí xây dựng ban đầu sẽ lớ, nhưng về lâu về dài sẽ rất có lợi cho nền kinh tế cũng như môi trường.Tiềm năng thu hút FDI trong nguồn phát điện này của Việt Nam là rất lớn.Đặc biệt là,các tỉnh miền Trung có bờ biển kéo dài thuận lợi cho khai thác nguồn gió,nền nông nghiệp Việt Nam có thể cung cấp các nguyên liệu cho sản xuất điện sinh học…Ngoài ra,Chính phủ chủ trương đến năm 2010 nâng tỷ trọng dạng phát điện này chiếm 3% tổng công suất và tiếp tục tăng lên trong tương lai,đồng thời, đây cũng là dạng điện mà nhà ĐTNN có thế mạnh về kinh nghiệm và công nghệ,trong tương lai sẽ có nhiều nhà đầu tư trong nước quan tâm tới hình thức phát điện này. 2.3.1.4.Xét theo dự án đầu tư Hiện nay,mới có 10 dự án lớn đầu tư trong khâu phát điện và cả 10 dự án đều là nhiệt điện(than,dầu,khí hoặc hỗn hợp) với 2 dự án dạng BOT đã phát điện,2 dự án đang xây dựng,còn lại 6 dự án IPP tại các KCN-KCX. Các dự án BOT theo kiểu các dự án ở Phú Mỹ,có thể là kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu trong khâu phát điện.Tuy nhiên,cần phải có một số biện pháp chung để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Có một số hình thức biến thể theo mô hình BOT,trong đó,có các dự án xây dựng-sở hữu-vận hành(BOO),theo đó không yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải chuyển giao quyền sở hữu tài sản tại thời điểm kết thúc hợp đồng.Các nhà máy điện vẫn có thể tồn tại trong thời gian dài hơn so với thời gian của các hợp đồng PPA là 20 năm đối với các dự án điện ở Việt Nam.Tuy thế,chi phí bảo dưỡng sẽ tăng cùng với tuổi của nhà máy và chế độ vận hành có thể sẽ thay đổi khi những nhà máy mới có hiệu suất cao hơn được phê duyệt.Do đó,trên thực tế,sẽ khó có một tác động đáng kể nào của sự thay đổi đối với mô hình đầu tư được đề xuất. Khu chế xuất Tân Thuận,là khu chế xuất đầu tiên được xây dựng tại Việt Nam vào đầu những năm 1990,là liên doanh giữa Tập đoàn Phát triển và Thương mại(CT&D,Đài Loan) và các cơ quan Việt Nam.Bên cạnh các cơ sở hạ tầng cơ bản dành cho khu chế xuất,CT&D còn xây một nhà máy điện công suất 375MW ở Hiệp Phước,để cung cấp điện ổn định cho các khách hàng trong khu chế xuất thông qua một đường dây chuyển tải riêng.Công suất thừa được cung cấp cho khu vực Nam Sài Gòn. Hiện nay, giá bán điện trực tiếp từ nhà máy Hiệp Phước cho khách hàng trong khu chế xuất bị giới hạn ở mức 25% so với biểu giá của EVN.Chính phủ,cũng nói rõ rằng không muốn nhân rộng mô hình này 2.3.Hạn chế và những nguyên nhân 2.3.1.Hạn chế Mặc dù,tiềm năng đầu tư trong ngành điện là rất lớn nhưng hiện nay chỉ có 2 dự án FDI dạng BOT và 6 dự án dạng IPP vậnj hành trong lĩnh vực phát điện,hàng loạt các dự án ngành điện đang kêu gọi đầu tư nhưng vẫn chưa được sự tham gia hưởng ứng từ các nhà đầu tư,với các dự án trong nước đầu tư chủ yếu do 2 tập đoàn PVN và TKV đầu tư,EVN chỉ kí kết hợp đồng triển khai dự án mà chưa có thỏa thuận cụ thể về công suất bao tiêu hằng năm,về giá mua bán điện,còn các nhà ĐTNN giá bán điện phải được thỏa thuận từ trước,sau đó họ mới tiến hành khởi công dự án.Vì vậy,thời gian đàm phán với EVN rất dài,ảnh hưởng lớn đến thời điểm kinh doanh và nhiệt tình đầu tư. 2.3.1.1.Chất lượng quy hoạch tổng thể ngành điện còn thấp Trách nhiệm quy hoạch tổng thể ngành điện,mà thường gọi tắt là tổng sơ đồ điện 4,5,6 thuộc về Viện năng lượng - một đơn vị nằm trong EVN,tổng sơ đồ điện sẽ trình bày tất cả các khía cạnh liên quan đến ngành điện như:hiện trạng,cơ cấu tổ chức,tổng quan về năng lượng,dự báo nhu cầu phụ tải,các chương trình phát triển nguồn điện,lưới điện,phân phối và bán lẻ,vv…trong thời gian 5 năm,tính từ năm quy hoạch hoàn thành và quá trình Thủ tướng chính phủ,có tính đến 10 năm tiếp theo và tầm nhìn trong 10 năm,chẳng hạn, tổng sơ đồ điện 6 tính cho giai đoạn 2006-2010,tầm nhìn đến 2025.Một bản quy hoạch tốt sẽ dự báo được tương đối chính xác nhu cầu phụ tải trong tương lai và các biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu phụ tải đó,đồng thời,có đến độ nhạy cảm khi một vài tham số cơ bản thay đổi.Trong sơ đồ 4 và 5,nhu cầu phụ tải thực tế đều vượt quá thời gian dự đoán đã dẫn đến tình trạng thiếu điện trầm trọng trong những năm vừa qua,một bản quy hoạch tốt và được công khai cho tất cả các bên,sẽ giúp các nhà đầu tư tin tưởng và có được các kế hoạch kinh doanh nhanh và chính xác hơn.Tổng sơ đồ điện , dự kiến được phê duyệt năm 2006 nhưng đã bị lùi lại năm 2007 khiến các nhà đầu tư thực sự quan ngại khi họ phải chờ thêm một năm nữa cho các quyết định đầu tư của mình nhằm phù hợp với bản quy hoạch.Các nhà đầu tư cũng rất lo ngại rằng,bản quy hoạch được giao cho Viện năng lượng thuộc EVN,có thể sẽ dẫn đến thiên vị khi các đơn vị trong EVN sẽ được ưu tiên hơn nhà đầu tư nước ngoài trong việc tiếp cận thông tin và trong việc xây dựng các nguồn phát điện mới.Vì vậy,trong lộ trình cải tổ ngành điệ, nhiều chuyên gia cho rằng đơn vị xây dựng bản quy hoạch nên độc lập với EVN. Vừa qua,kế hoạch phát triển năng lượng của Việt Nam,dựa trên quy hoạch điện 6,các Tổng sơ đồ 5 và 6 của EVN cùng với Bộ Công thương đã được đánh giá bởi một nhóm chuyên gia.Nhóm này nhận định,dự báo nhu cầu điện được trình bày sơ lược,không rõ ràng,thiếu thuyết phục. Đây là nhóm chuyên gia của Trung tâm Hỗ trợ phát triển(CDA) ,sau khi đã trao đổi với TS Chris Greacen của Đại học Berkeley(Hoa Kỳ),đã phối hợp với Viện Nghiên cứu năng lượng(thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam),Viện Khoa học thủy lợi và một số chuyên gia năng lượng. Đề án tính toán tốc độ tăng trưởng điện giai đoạn 2006-2010,là 16,3%/năm với phương án phụ tải cơ sở vả 17,2%/năm với phương án phụ tải cao(ứng với tốc độ tăng trưởng GDP 8,5%/năm). Theo đó,nhu cầu năm 2010 là 112 tỷ Kwh(gấp đôi năm 2005),năm 2015 là 190 tỷ Kwh,2020 là 294 tỷ Kwh,năm 2025 là 431 tỷ Kwh. Như vậy,tốc độ tăng nhu cầu điện năng,sẽ tăng gấp 2 lần tốc độ tăng GDP,điều này là khó thuyết phục. Kết qủa nghiên cứu của các chuyên gia nói trên cho rằng,dự báo nhu cầu năng lượng điện của Tập đoàn Điện lực là chưa hợp lý,chỉ mới nêu kết quả theo kiểu cộng dồn,phải tính theo hệ số tăng trưởng dự kiến,phương án phụ tải cao và phương án phụ tải cơ sở như giống nhau,tốc độ bình quân là 11,6% và 11,8% 2.3.1.2.Thủ tục đầu tư phiền hà rắc rối Chiến lược phát triển ngành điện theo sơ đồ điện 6 đã được Chính phủ phê duyệt năm 2007 có tính đến phát triển ngành điện trong 5 năm 2006-2010 và tầm nhìn đến năm 2025.Chủ trương của Chính phủ,là thu hút nhiều hơn nữa các dự án nguồn điện thuộc mọi thành phần kinh tế,EVN cũng kêu gọi các nhà đầu tư bên ngoài đầu tư do tập đoàn này không thể đảm nhận hết được các dự án nguồn điện với số vốn lớn.Tuy nhiên,thực tế cho thấy việc đàm phán phán với EVN rất lâu với nhiều thủ tục kéo dài. Với các doanh nghiệp FDI tham gia đầu tư,quy trình đầu tư như sau: Trước hết,EVN sẽ giới thiệu danh sách các dự án đang cần đầu tư cho nhà đầu tư lựa chọn.Sau đó,nhà ĐTNN phải tham gia đấu thầu dự án,nếu thắng thầu cũng mất trung bình 2 năm nữa cho quá trình được cấp phép dự án,cuối cùng,là việc đàm phán với EVN trong hợp đồng mua bán điện dài hạn,về giá điện,công suất bao tiêu hằng năm và thời gian của hợp đồng,đây là quá trình đàm phán rất khó khăn và kéo dài nhất,chẳng hạn như dự án BOT Phú Mỹ 2,2 mất 6 năm,Phú Mỹ 3 mất 3 năm..Sau giai đoạn nà, nhà ĐTNN mới chính thức được cấp phép đầu tư,nhiều dự án chưa thể xây dựng ngay vì còn vướng khâu giải phóng mặt bằng.Tuy nhiên,trong quá trình đàm phán nếu thấy tiến triển tốt thông thường trong hợp đồng kí tắt ban đầu EVN sẽ có trách nhiệm phối hợp cùng UBND các tỉnh có dự án tiến hành giải phóng mặt bằng.Đối với nhà đầu tư trong nước,việc đàm phán với EVN cũng gặp khó khăn tương tự như vậy. Câu chuyện Tập đoàn Tân Tạo(ITA group), khiến cho nhiều nhà đầu tư IPP phải suy tính rất kĩ.Đó là,ITA vừa ký hợp đồng với các đối tác nước ngoài và tư vấn trong nước đầu tư dự án xây dựng Trung tâm nhiệt điện Kiên Lương,một trong những dự án nhiệt điện lớn nhất ở phía Nam,trị giá 6,7 tỷ USD.Nhưng ngay khi các hợp đồng của Tân Tạo với các đối tác được thông qua,Bộ Công thương đã phản hồi bằng văn bản cho rằng,ITA mới chỉ là đơn vị lập dự án,chưa được chấp thuận là chủ đầu tư chính thức,vì dự án này thuộc nhóm A,cần có thời gian nghiên cứu xem xét ở cấp độ cao hơn.Cách ứng xử này đã làm mất lòng nhà đầu tư. Trao đổi với báo Tuổi Trẻ,bà Đặng Thị Hoàng Yến,chủ tịch HĐQT Tập đoàn Tân Tạo khẳng định rằng: Doanh nghiệp muốn đầu tư vào điện luôn đồng hành với các thủ tục hành chính rườm rà.Bên cạnh thủ tục đất đai phức tạp,mỗi khâu kéo dài từ 6 tháng đến 1 năm,và các doanh nghiệp tư nhân thường vướng nhiều qui định liên qan đến EVN. Có dự án xây dựng nhà máy điện dù đã được Thủ tướng cho phép lập dự án đầu tư,nhưng đến khi triển khai lại bị vướng quy hoạch tổng sơ đồ điện 6 được chính Thủ tướng đã phê duyệt. Ngoài ra,sau khi doanh nghiệp lập xong quy hoạch trình lên các bộ,doanh nghiệp vẫn phải làm đúng công thức: Xin các bộ cho phép làm chủ đầu tư,sau đó mới được phép lập dự án dù Thủ tướng đã cho phép trước đó. Tập đoàn Tân Tạo vẫn còn may hơn so với các nhà đầu tư khác vì không phải chịu lỗ khi xây dựng xong dự án điện mà không được EVN mua hoặc mua không hết công suất.Trường hợp như Tập đoàn PVN và TKV xây xong dự án của mình mới đàm phán với EVN,lý do việc này là để 2 Tập đoàn này không thể chờ đợi thời gian đàm phán kéo dài như trường hợp của nhà ĐTNN,họ vừa xây vừa tiến hành đàm phán với EVN,nhưng, khi xây xong hai bên không thể thống nhất được giá mua-bán điện,kết quả là,EVN không mua hoặc mua một phần khiến nhà đầu tư bị lỗ. 2.3.1.3.Giá bán điện của nhà đầu tư cho EVN còn thấp Giá bán điện hiện nay,chưa phản ánh đầy đủ giá trị thị trường ngành điện.Do chủ trường trước đây của Nhà nước với các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu,viễn thông,điện lực,vv…là Nhà nước nắm giữ độc quyền.Tuy nhiên,hiện nay,do sưc ép cạnh tranh và mô hình mới với một số ngành không cần Nhà nước nắm giữ 100% nữa,chẳng hạn như là ngành viễn thông,đặc biệt là mạng di động giá cước đã giảm đang kể do các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường cạnh tranh làm giảm giá.Giá điện còn được Nhà nước trợ cấp khá lớn để đảm bảo mục tiêu chính trị xã hội của Đảng là đưa điện đến toàn dân.Theo báo cáo của UNCTADnăm 2009,giá điện của Việt Nam là tương đương hoặc thấp hơn các nước láng giềng.Một trong những nguyên nhân chính làm cho nền kinh tế chúng ta hoạt động không hiệu quả thời gian qua là hệ thống giá cả còn bao cấp.Để nhiều loại hàng hóa bị kìm nén tăng giá quá lâu,sẽ phá vỡ quy luật thị trường,đến khi bắt buộc phải tăng giá thì sẽ bung ra.Chính phủ sẽ từng bước khắc phục điều này,tuy nhiên,xem xét đến sức chịu đựng của nhền kinh tế,có chính sách đến từng khu vực đối tượng thụ hưởng. Giá điện thấp cũng chính là nguyên nhân nhiều dự án đầu tư vào nguồn điện không thể thực hiện,đặc biệt,các dự án nguồn điện sạch như điện gió,điện mặt trời vì có chi phí đầu vào cao,và cũng là nguyên nhân của các cuộc đàm phán kéo dài giữa EVN và các nhà đầu tư thời gian qua.Giá điện và mức độ hấp dẫn đầu tư có mối liên hệ,giá điện cao sẽ thu hút được các nhà đầu tư,giải quyết tình trạng thiếu điện hiện nay,nhưng ngược lại đó là người tiêu dùng Việt Nam, sẽ chịu mức giá cao hơn,làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam và của cả nền kinh tế. 2.3.1.4.Chưa có các hợp đồng mua bán điện dài hạn dạng chuẩn Do đặc điểm nhu cầu đầu tư vào ngành điện đòi hỏi vốn lớn,thời gian hoàn vốn phải kéo dài,trung bình mất khoảng 10 năm,công nghệ hiện đại nhằm kéo dài không gây hại cho môi truờng về lâu dài.Vì vậy,với các dự án có công suất lớn,chỉ những nhà ĐTNN có đủ tiềm lực mới tham gia.đa số các dự án kiểu này nhà ĐTNN đều muốn kí kết các hợp đồng dài hạn,như 2 dự án BOT Phú Mỹ thời gian thanh lý hợp đồng là 20 năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động,ngoài ra,các dự án nhỏ hơn của các IPP trong nước,thì đa số vẫn kí kết các hợp đồng ngắn hạn hoặc mua bán trên thị trường giao ngay.Hiện nay,EVN chưa có các hợp đồng PPA dạng chuẩn,lợi ích khi có PPA dạng chuẩn là đơn giản hóa và rút ngắn thời gian kí kết hợp đồng,nhất là các bên đã được xem xét trước tài liệu sơ bộ ngay từ đầu của dự án,đồng thời sẽ giảm được các chi phí pháp lý cho bên Việt Nam và các nhà ĐTNN trong việc đạt được thỏa thuận cuối cùng.Việc soạn thảo các hợp đồng PPA thuộc trách nhiệm của Cục Điều tiết điện lực ERAV trực thuộc bộ Công thương.Tuy nhiên,ERAV mới được thành lập năm 2005 nênsẽ có thể chưa đủ các chuyên gia vừa am hiểu pháp luật,chính sách của Việt Nam lại vừa am hiểu và có kinh nghiệm đầu tư trong ngành điện.Vì vậy,ERAV đang tích cực tuyển thêm các chuyên gia có đủ kỹ năng như vậy,hi vọng Việt Nam sẽ sớm có PPA chuẩn. 2.3.1.5.Hành lang pháp lý chưa đảm bảo Nhà ĐTNN tham gia đầu tư vào ngành điện sẽ chịu rất nhiều điều chỉnh bởi luật chung là Luật đầu tư và luật đấu thầu năm 2005 sẽ còn phải tuân theo quy hoạch ngành điện và Luật riêng đó là quy hoạch ngành điện trong tổng sơ đồ điện 6,Luật điện lực năm 2004,ngoài ra,theo quyết định 2002 về quản lý việc đầu tư và xây dựng các nhà máy điện đợc lập,các công trình dạng này sẽ phải tuân thủ theo 2 yêu cầu chính sau: Đầu tư vào IPP phải dưới hình thức xây dựng-vận hành-chuyển giao(BOT),xây dựng-chuyển giao-vận hành(BTO),xây dựng-chuyển giao(BT) hay xây dựng-vận hành-sở hữu(BOO). Việc lựa chọn các nhà đầu tư để thực hiện một dự án điện độc lập phải thông qua đấu thầu. Trên thực tế,hình thức phổ biến mà nhà đầu tư yêu thích là dạng BOT,trong Luật đấu thầu năm 2005 và nghị định 78/2007/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức BOT,BT,BO quy định rằng tất cả các dự án dạng BOT của bất kỳ ngành nào đều phải thông qua đấu thầu công khai trong nước và quốc tế.Tuy nhiên,cũng như trong các luật và quy định khác,Nghị định lại cho phép nhà đầu tư tự mình đề xuất dự án,nếu các cơ quan có thẩm quyền quyết định phê duyệt bổ sung những dự án đó vào trong quy hoạch tổng thể ngành,việc đàm phán song phương với nhà đầu tư sẽ được thực hiện,do vậy,không cần đầu tư.Việc hạn chế độc quyền của EVN,nhằm bảo vệ các nhà đầu tư bên ngoài(đóng góp 30% sản lượng điện) được điều tiết bằng luật cạnh tranh.Tuy nhiên,năm 2005 Luật điện lực ra đời làm cho luật cạnh tranh không mấy tác dụng,ít đi vào thực tế với việc hạn chế độc quyền của EVN. 2.3.2. Nguyên nhân 2.3.2.1 Cơ cấu tổ chức độc quyền của EVN Không thể phủ nhận vai trò hết sức to lớn của EVN trong việc đảm bảo nguồn điện,tuy nhiên,theo như quy luật trong kinh tế học bất kỳ một tổ chức độc quyền nào cũng sẽ giảm dần hiệu quả hoạt động do không chịu sức ép cạnh tranh,trừ khi tổ chức đó cạnh tranh thành tích của chính mình trong quá khứ, nhưng việc này cũng sẽ không diễn ra được lâu dài,và nguyên nhân của hàng loạt những khó khăn của ngành điện trong thời gian qua,như thiếu điện trầm trọng,môi trường đầu tư không hấp dẫn với hàng loạt các thủ tục phiền hà,vv…chính là do cơ cấu tổ chức độc quyền hiện nay của EVN,các chính sách liên quan đến đầu tư trong ngành đều do EVN hoặc các đơn vị trong EVN soạn thảo và đề xuất,tình trạng thiên vị cho các đơn vị trong EVN so với các nhà đầu tư bên ngoài là không thể nào tránh khỏi,các dự án tốt và tính khả thi cao sẽ được các đơn vị trong EVN biết và tham gia trước,và việc chậm trễ trong khâu thủ tục cũng do EVN.EVN đẩy nhanh quá trình đàm phán cấp phép thì dự án sẽ nhanh chóng triển khai và ngược lại là một sự chậm trễ của EVN các nhà đầu tư phải chịu,vv… đây là nguyên nhân hàng đầu của những hạn chế trên.Vì vậy,những khâu nào nhà nước phải độc quyền 100% để đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và công cụ cho các chính sách xã hội thì nhà nước sẽ giữ lại,còn các khâu khác sẽ có sự tham gia của các thành phần kinh tế cạnh tranh phát triển. 2.3.2.2.Giá bán điện đầu ra của EVN bị khống chế Việc tranh cãi xung quanh EVN và các nhà đầu tư về mức giá điện quá thấp khiến mức độ hấp dẫn trong ngành giảm sút .Nguyên nhân quan trọng là khâu phân phối bán lẻ điện còn độc quyền 100% nhà nước,giá bán lẻ điện theo như trong luật điện lực quy định chỉ được phép dao động trong một khung giá nhất định,khung giá này,do cự điều tiết điện lực tính toán được trình lên Bộ Công thương và Thủ tướng Chính phủ kí kết quyết định,giá bán lẻ là không thống nhất trên toàn quốc và các đối tượng khác nhau.Cụ thể là, giá điện sinh hoạt thấp hơn giá điện cho sản xuất,trong giá điện sinh hoạt thì ở thành thị cao hơn khu vực nông thôn.Chính vì vậy,trong khâu bán lẻ có hiện tượng bù chéo giữa điện sản xuất cho điện tiêu dùng.Giá bán đầu ra đã bị khống chế rõ ràng là một khó khăn cho EVN khi phải tính toán các chỉ tiêu kinh tế-tài chính nhằm vừa đảm bảo mục tiêu cung cấp đầy đủ điện cho nền kinh tế nhưng đồng thời cũng phải kinh doanh điện có lãi.Giá điện hiện nay của Việt Nam,là thấp hơn so với các nước trong khu vực,việc giá điện thấp không khuyến khích được người dân tiết kiệm điện,giá điện thấp cũng không thu hút FDI vào đầu tư,không khuyến khích nhà đầu tư đưa công nghệ cao vào Việt Nam.Vì vậy,có chuyên gia cho rằng,EVN nên xây dựng một lộ trình giá hợp lý có tính đến các loài đối tượng khác nhau trong xã hội như hộ nghèo,đồng bào dân tộc,vv…để việc tăng giá điện không làm xáo trộn đời sống người dân.Tuy nhiên,xét về lâu dài chính sách giá điện sẽ phải tiếp cận giá thị trườug nhằm phản ánh đầy đủ giá cả thị trường của loại hàng hóa đặc biệt này. 2.3.2.3.Đặc điểm đầu tư trong ngành điện Đặc điểm đầu tư trong ngành điện chi phối mức độ thu hút FDI trong ngành,không giống như các ngành sản xuất xuất khẩu,đầu tư trong ngành điện có những đặc điểm cơ bản như sau: Thứ nhất,vốn đầu tư lớn: Vốn đầu tư cho các công trình thủy điện nhỏ thông thường là trên dưới 1 triệu USD,còn các công trình nhiệt điện cỡ lớn lên đến hàng trăm triệu USD,có công trình như nhiệt điện Mông Dương 2 lên đến 1,6 tỷ USD,đây là số vốn không nhỏ nếu như tính theo quy mô vốn đầu tư trung bình trên một dự án ở Việt Nam hiện nay.Vì vậy,chỉ các nhà ĐTNN có kinh nghiệm,tiềm năng,vốn lớn mới tham gia vào đầu tư. Thứ hai,thời gian đầu tư kéo dài và gặp nhiều rủi ro.Các dự án phát điện kéo dài ít nhất 10 năm có thể thu hồi vốn đầu tư và có lãi tùy thuộc vào quy mô dự án,2 dự án BOT Phú Mỹ hợp đồng kéo dài 20 năm.Trong khoảng thời gian này,nhà đầu tư phải chịu rủi ro vận hành tức là khi máy móc gặp sự cố cần phải sửa chữa,bảo dưỡng,còn các rủi ro mang tính khách quan như là lượng điện sẽ không được mua hết do nhu cầu phụ tải giảm đột ngột do suy thoái kinh tế hoặc các rủi ro về chính trị xã hội,nhà đầu tư yêu cầu được bảo lãnh từ phía Chính ph, trong những trường hợp như vậy rủi ro sẽ được san sẻ cho 2 bên tùy thuộc vào hợp đồng bảo lãnh đã kí.Ở Việt Nam hiện nay,các nhà đầu tư nướn ngoài đều có yêu cầu có hợp đồng bảo lãnh của Chính phủ mới tham gia đầu tư. Thứ ba,Đàm phán với nhiều bên liên quan: Nhà ĐTNN sẽ phải đàm phán với 3 chủ thể có liên quan.Trước tiên là,với EVN trong việc xây dựng hợp đồng PPA chuẩn,tiếp theo nữa là thỏa thuận mua nguyên nhiên liệu đầu vào.Nếu là nhiệt điện than sẽ đàm phán với TKV trong hợp đồng mua bán than dài hạn CSA,còn nhiệt điện khí sẽ thương lượng với PVN,cuối cùng sẽ là hợp đồng bảo lãnh của Chính phủ.Thông thường việc xây dựng hợp đông PPA sẽ kéo dài lâu nhất,mất khoảng 3 năm.Một dự án chỉ có thể tiến hành xây dựng khi cả 3 hợp đồng trên được kí hoặc được thống nhất với nhau về cơ bản.Khó khăn lớn nhất,trong việc đàm phán là 3 hợp đồng trên không độc lập mà có liên quan chặt chẽ với nhau,nếu vì ký do nào đó mà một bên yêu cầu thay đổi các điều khoản hợp đồng sẽ buộc nhà ĐTNN phải xem xét,tính toán đến 2 hợp đồng còn lại.Chẳng hạn,do biến động thị trường giá mua khí tăng lên đã buộc nhà đầu tư phải tính toán tăng giá điện cho EVN.Chính vì đặc điểm này, như là một rào cản khách quan trong việc thu hút FDI trong ngành điện. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO NGÀNH ĐIỆN VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1.Chiến lược an ninh năng lượng quốc gia của Việt Nam và vai trò của EVN Ngành điện là một ngành có tính hệ thống cao,bất kỳ một sự thay đổi về các thông số kỹ thuật nào của một bộ phận cũng đều ảnh hưởng chung đến toàn hệ thống vì mạng lưới điện nước ta đã được liên kết hoàn chỉnh trong cả nước.vì vậy, tính hệ thống cũng có ảnh hưởng quan trọng đến an ninh năng lượng quốc gia bởi hệ thống có ổn định,có đủ công suất mới đáp ứng được nhu cầu điện năng cho đất nước.An ninh năng lượng quốc gia được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm,vì rằng hiện nay nền kinh tế công nghiệp không thể thiếu điện trong một ngày được,thậm chí,sự cố mất điện trong một giờ cũng có thể gây cho cả một nền công nghiệp bị thiệt hại.Đảng và Nhà nước ta đặt năng lượng trong đó có điện lực là ngành rất cần quan tâm đặc biệt vì tầm quan trọng của nó,trong Tổng sơ đồ 6 chiến lược và chính sách phát triển ngành điện như sau: - Đảm bảo cung cấp đầy đủ điện cho phát tiển kinh tế xã hội của đất nước. - Đa dạng hóa các hình thức đầu tư và thu hút các thành phần tư nhân tham gia vào ngành điện. - Mở rộng hợp tác quốc tế cùng với hội nhập quốc tế. - Từng bước hình thành thị trường điện. - Nghiên cứu phát triển nên nhà máy điện hạt nhân. - Đảm bảo phát triển bền vững,giảm thiểu tác động xấu tới môi truờng. Vai trò của EVN trong việc đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia rất lớn,hiện nay,trong khâu phát điện EVN sở hữu khoảng 60% các nhà máy điện,trong khâu truyền tải-phân phối điện EVN nắm giữ 100%,EVN có nhiều chuyên gia đầu ngành về kỹ thuật điện,có một đội ngũ cán bộ công nhân viên nhiều kinh nghiệm,các hoạt động kinh doanh của EVN tương đối đảm bảo,rõ ràng vai trò đảm bảo năng lượng quốc gia đã được Đảng và Nhà nước trao tránh nhiệm cho EVN.Tuy nhiên,tầm quan trọng như vậy không có nghĩa là giữ mãi cơ cấu hiện nay của EVN,tái cơ cấu ngành điện sẽ là nằm trong chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia một cách bền vững và lâu dài. 3.2.Một số giải pháp mang tính dài hạn Các giải pháp mang tính dài hạn,gắn liên với quá trình cải tổ ngành điện đã được Chính phủ phê duyệt,đó là,trong vòng 30 năm tới Việt Nam sẽ có một thị trường điện cạnh tranh hoàn toàn từ khâu sản xuất điện đến khâu bán lẻ điện cho người tiêu dùng cuối cùng,các giải pháp dài hạn sẽ xây dựng nên một khuôn khổ thị trường cho ngành điện hoạt động hiệu quả,qua đó thu hút được dòng vốn FDI.Ngược lại,các giải pháp trong ngắn hạn chính là bổ sung cho những hạn chế cần được và có thể sửa chữa được ngay nhằm thu hút các dự án đang thăm dò và tháo gỡ cho các dự án đang triển khai nhưng gặp khó khăn.Vì vậy,có thể gọi các giải pháp ngắn hạn,là các giải pháp về vận hành,tuy nhiên,các giải pháp ngắn hạn này có thể được thay thế bằng các giải pháp ngắn hạn khác cho phù hợp hơn với tình hình thực tế. 3.2.1.Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể Viện năng lượng thuộc EVN là đơn vị có trách nhiệm đưa ra quy hoạch tổng thể ngành điện,thời gian xây dựng là 5 năm và tầm nhìn trong 15 năm.Do nhu cầu phụ tải có thể thay đổi,không như trong dự kiến hoặc những thay đổi khách quan bên ngoài có thể ảnh hưởng đến nhà đầu tư,vì vậy,bản quy hoạch có thể được sữa chữa lại cho phù hợp hơn với thực tiễn.Các chuyên gia cũng cho rằng trong các lần quy hoạch sau nên xây dựng thời gian 10 năm hoặc 15 năm thay vì 5 năm như hiện nay,nhằm quy hoạch ngành mang tính dài hạn và bền vững hơn.Các nghiên cứu tiền khả thi phải được tiến hành kỹ lưỡng và nghiêm túc nhằm có được các dữ liệu để tính toán và xây dựng bản quy hoạch,để làm tốt tất cả các việc này,Viện năng lượng cần giành một khoản ngân sách cho công tác nghiên cứu khả thi và đào tạo con người,việc nghiên cứu khả thi có thể do một đơn vị trong EVN thực hiện hoặc cũng có thể thuê một tổ chức bên ngoài. 3.2.2.Thực hiện lộ trình cải tổ ngành điện Để tiếp tục phát triển ngành điện bền vững,thu hút được nhiều nhà đầu tư tư nhân thì việc tái cơ cấu lại ngành điện là không thể bàn cãi.Việc tranh cãi hiện nay,là cải tổ như thế nào cho hiệu quả mà vẫn đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia.Luật điện lực năm 2005,đã xây dựng nên lộ trình phát triển thị trường ngành điện trong vòng 30 năm tới vào năm 2025 trở đi Việt Nam sẽ là một thị trường điện hoàn hảo,nhiều người mua và nhiều người bán,giá điện sẽ phản ánh đúng giá thị trường.Tuy nhiên,Chính phủ cũng đã lường trước được những rủi ro có thể xảy ra trong quá trình cải tổ này,đây thực sự là một qua trình khó khăn khi tách EVN một đơn vị độc quyền thành một chủ thể bình thường trong thị trường.Nhiều nước trước đây,đã thị trường hóa ngành điện nhưng gặp thất bại,nên phải làm lại từ đầu,Việt Nam cần rút ra kinh nghiệm từ những nước này.Trong tổng sơ đồ 6,việc cải tổ ngành điện được dự trên những căn cứ sau: - Việc phát triển thị trường điện tại Việt Nam phải thỏa mãn được các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn: Tăng cường thu hút vốn đầu tư tư nhân,giảm gánh nặng đầu tư trong nước,tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh,phát triển dần dần thị trường điện cạnh tranh,đảm bảo cung cấp điện ổn định,tin cậy và chất lượng ngày càng cao,đảm bảo phát triển ngành điện một cách bền vững. - Phát triển thị trường qua từng cấp độ. - Đảm bảo ổn định,phát triển thị trường điện phải được tiến hành từng bước thận trọng không gây đột biến,xáo trộn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và cơ cấu tổ chức dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực về kinh tế,xã hội và môi trường. Sự thận trọng của EVN trong việc tái cơ cấu ngành điện là có cơ sở do Tập đoàn này phải chịu trách nhiệm liên quan đến an ninh năng lượng quốc gia.Tuy nhiên,có một luồng ý kiến trái ngược với EVN,là cần đẩy nhanh hơn nữa quá trình cải tổ để tăng tính hiệu quả trong ngành và thu hút được nhiều nhà đầu tư bên ngoài,đây là lưồng ý kiến của một số chuyên gia đầu ngành trong nước,của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam và cũng là nhận định của UNCTAD trong báo cáo chính sách đầu tư của Việt Nam năm 2008.Luồng ý kiến này đã cho rằng,cơ cấu hiện nay của EVN họat động không hiệu quả,chưa thu hút được hều nhà đầu tư nước ngoài tham gia,cần tách 3 khâu phát điện,truyền tải,phân phối ra khỏi EVN.Đã có một tranh cãi giữa World Bank tại Việt Nam và EVN về việc chia nhỏ Tập đoàn,có thể nói rằng luồng ý kiến này nhấn mạnh,và đề cao đến tính hoạt động hiệu quả để dưa ra các quan điểm cải tổ của mình.Tuy nhiên,lộ trình cụ thể thế nào thì vẫn chưa được làm sáng tỏ.Việc Bộ Công thương,mới đây trình Chính phủ đề án tái cơ cấu ngành điện theo đó sẽ tách ngay khâu phát điện,truyền tải,điều độ ra khỏi EVN,EVN chỉ nắm khâu phân phối lẻ điện.Ngay sau đó,công văn trả lời của EVN phản đối phương án cải tổ này,vì nếu tách khâu truyền tải điều độ ra khỏi EVN thì chắc chắn đơn vị truyền tải này sẽ không đảm bảo nguồn vốn đầu tư hàng năm trên 2 tỷ USD,do chưa có đủ uy tín để huy động nguồn vốn bên ngoài và điều này sẽ ảnh hưởng đến an ninh năng lượng quốc gia.Việc này là có cơ sở vì hệ thống phát điện là truyền tải phải cần được đầu tư thống nhất cùng nhau,thông thường lưới truyền tải phải có công suất dự phòng 20% lớn hơn công suất phát điện.Đề án của Bộ Công thương cần phải được xem xét lại,cụ thể hóa lộ trình cho một thị trường điện cạnh tranh là cần thiết,việc tham khảo các ý kiến chuyên gia đầu ngành hoặc tư vấn của các tổ chức quốc tế uy tín và trực tiấp là sự phản biện của EVN,hi vọng rằng Việt Nam sẽ sớm có một đề án cải tổ ngành điện chi tiết để thu hút thêm các nhà ĐTNN và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Theo UNCTAD, việc tái cơ cấu ngành điện cần phải chú ý những điểm sau: - Thực sự tách biệt giữa phát điện,truyền tải và phân phối điện: Ba hoạt động này phải được thực hiện bởi các công ty có tư cách pháp nhân độc lập với nhau,không sở hữu chéo cổ phiếu của nhau. - Tách nhỏ tập đoàn EVN: EVN không nên tiếp tục là 1 công ty điện lực được hợp nhất theo chiều dọc. - Tách đơn vị mua duy nhất khỏi EVN: Đơn vị mua duy nhất trong quá trình chuyển đổi sang thị trường buôn bán nên trực thuộc công ty độc quyền truyền tải điện,trong đó,có trung tân Điều độ hệ thống điện quốc gia. Chuyển giao quyền sở hữu các công ty nhà nước từ Bộ Công thương sang tổng công ty Đầu tư vốn nhà nước SCI 3.2.3.Xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng và hiệu quả Để cho thị trường hoạt động minh bạch,hiệu quả,cần có một hành lang pháp lý đủ mạnh,việc xây dựng hành lang pháp lý sẽ song hành cùng với lộ trình thị trường hóa ngành điện,và thông thường phải xây dựng trước một bước bằng cách học hỏi các kinh nghiệm của các nước đi trước áp dụng vào thực tiễn của nước ta. Theo như nhận định của các chuyên gia Liên hiệp quốc trong báo cáo về chính sách đầu tư tại Việt Nam năm 20009,Việt Nam chưa sẵn sàng cho thị trường phát điện cạnh tranh thực dự.Bằng chứng mà họ đưa ra là,hàng loạt các quy định pháp lý chồng chéo,đó là việc phê duyệt các dự án đầu tư vào ngành điện Việt Nam do Chính phủ và bộ Công thương quản lý.Nhưng Bộ này lại đảm nhận hai vai trò trái ngược nhau ,vừa sở hữu EVN đồng thời lại chịu trách nhiệm điều tiết điện lực.Cục điều tiết điện lực ERAV,trực thuộc Bộ này nhưng chức năng chính không phải là điều tiết mà là giúp việc cho bộ trưởng trong việc thực thi các chính sách.Quá trình đàm phán hợp đồng mua bán điện,yếu tố sống còn của một dự án điện-lại do EVN làm việc trực tiếp với các nhà đầu tư. Thời gian qua,đã có nhiều ý kiến cho rằng cần phải cải tổ ngành điện nhanh hơn để nâng cao hiệu quả.Tuy nhiên,thực tế lại cho thấy chưa có một hành lang pháp lý hoàn thiện thì thị trường điện sẽ không thể vận hành trơn tru được và có thể dẫn đến rủi ro thất bại.Vì vậy,nhiệm vụ xây dựng một hành lang pháp lý là rất quan trọng hành đầu nếu như muốn tiến tới thị trường điện hóa ngành điện.Hiên nay,việc xây dựng,đề xuất các chính sách về điện là trách nhiệm của Bộ Công thương,cụ thể là ERAV và Viện năng lượng,hoặc trong tương lai Bộ Công thương có thể lập ra một đơn vị độc lập xây dựng được một hệ thống các chính sách pháp lý cần thiết cho qua trình cải tổ ngành điện mà Bộ vừa trình Chính phủ thời gian qua. 3.2.4.Xây dựng giá điện tiệm cận thị trường Giá điện thấp, không đủ hấp dẫn đầu tư vì mức tỉ suất lợi nhuận thấp,việc EVN bị lỗ khi mua từ các nguồn điện bên ngoài do giá bán điện là không tăng trong khi giá mua điện ngày càng cao hơn là một điều bất hợp lý ,vì từ đó sẽ dẫn đến tình trạng EVN sẽ không mua điện từ các nguồn này nữa và điều này ảnh hưởn nghiêm trọng đến độ ổn định trong môi trường đầu tư ngành điện.Việc EVN không mua điện vì sợ bị lỗ ,rõ ràng là điều bình thường vì trong hoàn cảnh tương tự doanh nghiệp nào cũng sẽ phải hành động như vậy.Vì vậy,việc tăng giá điện cho người tiêu dùng,sẽ là việc không tránh khỏi.Giá điện thấp không khuyến khích người dân và doanh nghiệp tiết kiệm điện. Tuy nhiên,việc tăng giá điện có ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân,đến mức độ cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam,vì giá điện được coi là chi phí đầu vào của doanh nghiệp.Vì vậy,việc tăng giá điện cần phải có lộ trình rõ ràng được tính toán trên cơ sở khoa học,và không thể thay đổi ngay được trong ngắn hạn,việc tiến tới giá thị trường trên cơ sở đã hạch toán hết được các chi phí để sản xuất ra một Kwh điện sẽ nâng cao hiệu quả 3 khâu phát điện-truyền tải-phân phối,từ đó,chỉ rõ khâu nào còn yếu kém nhằm nâng cao hiệu quả trong khâu đó,khi giá điện tiệm cận được với giá thị trường thì giá điện sẽ thay đổi theo các yếu tố đầu vào,nhưng về dài hạn là giá sẽ phải giảm xuống chứ không tăng liên tục như hiện nay. Trách nhiệm trong việc xây dựng giá điện,là do ERAV tham mưu cho Bộ Công thương trình Chính phủ,cho nên,trách nhiệm của ERAV phải xây dựng được một bản lội trình giá điện phù hợp với lộ trình thị trường hóa ngành điện. 3.3.Một số giải pháp trong ngắn hạn 3.3.1.Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư Thời gian qua,dòng vốn FDI trong ngành sản xuất ồ ạt vào Việt Nam mà không cần một chương trình xúc tiến đầu tư rầm rộ nào,tuy nhiên,ngành điện nói riêng,và đầu tư vào cơ sở hạ tầng nói chung ít hấp dẫn nhà đầu tư hơn với công nghiệp chế tạo sản xuất,do đặc điểm đầu tư của ngành này là đòi hỏi vốn lớn,thời gian thu hồi vốn dài,độ rủi ro cao.Do đó,rõ ràng để thu hút nhà đầu tư,công tác xúc tiến đầu tư trong ngành phải tích cực,chủ động hơn ngành sản xuất.Một quan chức trong ngành điện cũng cho rằng ,việc có ít nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào ngành này nguyên nhân trước tiên là do trong khâu xúc tiến đầu tư của Việt Nam chưa thực sự hiệu quả,việc đưa ra một danh sách các công trình kêu gọi đầu tư bên ngoài phải càng cụ thể hơn,càng chi tiết càng tốt,phải thể hiện sự cam kết của Chính phủ trong việc hợp tác và hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện dự án đặc biệt là các dự án BOT,phải có bộ phận chăm sóc nhà đầu tư khi họ bắt đầu có ý định tham gia vào ngành điện để cung cấp đầy đủ thông tin có liên quan trong ngành,việc chậm trễ cung cấp thông tin có thể làm nản lòng các nhà đầu tư. 3.3.2. Soạn thảo những PPA chuẩn Cục điều tiết điện lực sẽ phải đẩy nhanh hơn nữa quá trình xây dựng nên những PPA chuẩn nhằm rút ngắn thời gian đàm phán,tiết kiệm chi phí cho các bên tham gia.Mẫu hợp đồng mua bán điện PPA cho thị trường phát điện cạnh tranh được xây dựng,sẽ đảm bảo chia sẻ rủi ro công bằng giữa các nhà máy điện và khách hàng tiêu thụ điện.Theo đó,sẽ có giá điện tốt nhaats cho khách hàng tiêu thụ nghuồn điện.Điều này sẽ giúp cho các nhà phát triển dự án dễ dàng tìm kiếm và thu xếp vốn cho dự án. 3.3.3.Dần bãi bỏ cơ chế bảo lãnh của Chính phủ Trong các dự án nhà máy điện,các hợp đồng PPA thường có thời gian kéo dài 20 năm,trong khoảng thời gian đó,nhiều rủi ro tiềm ẩn có thể xẩy ra gây thiệt hại hoặc cho EVN hoặc cho phía nhà đầu tư hoặc cả 2 bên,phía nhà đầu tư biết rằng,rủi ro có thể là dự báo nhu cầu phụ tải quá lạc sẽ dẫn đến tình trạng công suất nhà máy không phát huy hết,rủi ro về thanh toán khi bên EVN vì lý do nào đó ,không có khả năng thanh toán như trường hợp đồng Việt Nam mất giá,vv…trong những trường hợp như vậy thì nhà đầu tư cần sự bảo lãnh của Chính phủ,như 2 trường hợp dự án BOT Phú Mỹ được Chính phủ bảo lãnh,vì vậy,các nhà đầu tư chuẩn bị tham gia vào thị trường điện cũng kì vọng Chính phủ bảo lãnh như vậy.Trong một thị trường điện cạnh tranh,tiềm lực tài chính của các bên mua điện chính là cơ sở chủ yếu để nhà đầu tư kí hợp đồng,tuy nhiên,ở Việt Nam lộ trình thị trường thị trường hóa ngành điện mới bắt đầu khởi động,việc Chính phủ tuyên bố gần đây rằng,sẽ rút khỏi hợp đồng bảo lãnh khiến nhà đầu tư lo ngại vì tiềm lực tài chính của EVN chưa đủ ddamr bảo tin cậy cho nhà đầu tư.Việc Chính phủ rút khỏi bảo lãnh,nhằm một mặt tăng cường vai trò của EVN và mặt khác Chính phủ sẽ không phải chịu áp lực tài chính,điều đó đúng, nhưng chưa thực sự phù hợp.Chính phủ nên có lộ trình rút khỏi thị trường như có lộ trình thị trường hóa ngành điện,nếu bây giờ Chính phủ không đảm bảo các khoản bảo lãnh này thì sẽ có ít nhà đầu tư tham gia vào thị trường điện,việc Chính phủ rút dần bảo lãnh nên được công bố công khai,và trong thời hạn bao nhiêu năm để cho các bên nắm được thông rin cho các hoạt động kinh doanh của mình. 3.3.4.Cho phép IPP ở những vùng cụ thể Những IPP này,sẽ cung cấp điện cho một khu vực cụ thể thường là các KCX-KCX hoặc các khu dân cư biệt lập nào đó,giá bán điện vẫn phải chịu sự điều tiết của Chính phủ,nếu thừa công suất sẽ bán cho EVN trên thị trường giao ngay,và một trong những IPP điển hình loại này là IPP Hiệp Phước của nhà đầu tư Đài Loan cung cấp điện cho khu chế xuất Tân Thịnh và khu đô thị Phú Mỹ Hưng,việc cung cấp điện ổn định cho khách hàng trong khu chế xuất là một trong những điều kiện tạo nên mức độ thành công của khu chế xuất này(KCX Tân Thuận được xây dựng đầu tiên ở Việt Nam trong những năm 1990,được đánh giá là mô hình thành công nhất tại TP.Hồ Chí Minh),tuy nhiên,Chính phủlại, không khuyến khích mô hình này vì cho rằng ngành điện mang tính hệ thống,việc các nhà máy điện được xây dựng thêm,phải nằm trong tổng sơ đồ quy hoạch ngành điện và phải được đấu nối vào hệ thống điện quốc gia để đạt mục tiêu lâu dài là ổn định điện cho nền kinh tế. Trong báo cáo đầu tư của UNCTAD năm 2008,đã chỉ ra những lợi ích khi phát triển các IPP dạng này như sau: - Các nhà máy đó sẽ đáp ứng một phần nhu cầu điện của một ngành công nghiệp đang tăng trưởng nhanh chóng. - Các nhà máy đó,sẽ cung cấp điện ổn định cho các khu vực quan trọng,trong đó,có các ngành phụ thuộc nhiều vào điện đang hoạt động. - Các nhà máy điệ, được xây dựng theo khuôn khổ này sẽ không cần có bảo lãnh Chính phủ đối với các hợp đồng mua bán điện dài hạn,bởi vì điện sẽ được bán trực tiếp từ nhà máy phát điện đến cho các công ty ở trong khu vực.Điều này sẽ giúp cho Chính phủ đỡ được các nghĩa vụ nợ dự phòng,là điều mà Chính phủ đang mong muốn. - Nếu những nhà máy điện phục vụ cho những khu vực riêng biệt được phép bán công suất cho lưới điện quốc gia,nhưng chỉ bán trên thị trường giao ngay mà thôi,thì có thể góp phần vào việc phát triển thị trường giao ngay Rõ ràng ,những lợi ích để phát triển những IPP cho một khu vực riêng biệt được chỉ rõ,việc Chính phủ hạn chế dạng IPP này sẽ mất cơ hội tốt cho các nhà đầu tư,để kiểm soá, Chính phủ có thể quy định tối đa phần trăm công suất của những nhà máy kiểu này trong tổng công suất hệ thống và xây dựng những quy định cho loại hình đầu tư này. 3.3.5.Tổ chức quy trình đấu thầu tự do Theo như kế hoạch phát triển ngành điện ,nhà nước sẽ nắm độc quyền xây dựng 2 dạng nhà máy điện chủ chốt là thủy điện lớn và điện hạt nhân,vì vậy,không cần đấu thầu với những dự án này,còn các dự án khác sẽ giành cho nhà đầu tư trong hoặc ngoài nước thông qua quá trình đấu thầu cạnh tranh nhằm có thể tìm ra được nhà đầu tư phù hợp nhất cho từng dự án cụ thể.Lợi ích của việc đấu thầu cạnh tranh rộng rãi thì quá rõ,đó là chọn được những nhà thầu phù hợp nhất với từng dự án,đồng thời, có sự cam kết rõ ráng của các nhà đấu thầu trong trách nhiệm hoàn thành công trình đứng tiến độ.Hiện nay,trong cơ cấu phát thủy điện nhà ĐTNN, ít có cơ hội tham gia mặc dù nhiều nhà ĐTNN thấy được tiềm năng trong cơ cấu phát điện này,việc các nhà đầu tư thuộc EVN không thể hoàn thành công trình thủy điện đúng tiến độ càng chứng minh rõ rằng khâu phát thủy điện nên được đấu thầu rộng rãi.Việc tổ chức chấm thầu Viện năng lượng sẽ là đơn vị có đủ năng lực vì bản quy hoạch tổng thể ngành điện do Viện xây dựng nên.Tuy nhiên,cũng cần phải giám sát chặt chẽ do hiện tại Viện năng lượng là một đơn vị thuộc EVN nên có thể sẽ ưu tiên cho các nhà đầu tư EVN,cũng chính vì điều này mà có nhiều ý kiến cho rằng việc tách Viện năng lượng ra khỏi EVN càng sớm càng tốt nhằm nâng cao chất lượng quy hoạch và khách quan trong việc chấm thầu. KẾT LUẬN Đầu tư cho cơ sở hạ tầng,sẽ ngày càng cấp bách hơn để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế,nếu không tốc độ tăng trưởng có thể bị giảm sút,ảnh hưởng lớn đến các mục tiêu xã hội của Chính phủ như giảm tỷ lệ nghèo,bất bình đẳng xã hội.Một số hiện tượng căng thẳng và quá tải đã xảy ra đặc biệt trong hai ngành vận tải và điện lực,khi nhu cầu xã hội luôn vượt quá khả năng đáp ứng của 2 ngành này.Chính phủ vẫn đang khuyến khích các thành phần tư nhân tham gia đầu tư cho cơ sở hạ tầng,song hành với quá trình đó là việc xây dựng được hành lang pháp lý đủ mạnh nhằm đem lại lợi ích cho cả hai bên là một việc cần thiết song cũng rất phức tạp. Việt Nam đã đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ có một thị trường điện cạnh tranh thực sự,nhiều người bán nhiều người mua điện trong một khuôn khổ nhất định.Quá trình này mất khoảng 30 năm,so với nhiều nước trong khu vực thời gian này ngắn hơn,tuy nhiên, quá trình này rất phức tạp tiềm ẩn nhiều rủi ro vì thị trường đặc biệt,vì thế,Chính phủ chủ trương thực hiện cải tổ từng bước.Trước mắt là thị trường hóa khâu phát điện,Chính phủ đang khuyến khích các thành phần tư nhân tham gia đầu tư vào khâu này,đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong ngành điện có một số đặc điểm là ,vốn lớn,công nghệ phức tạp,thời gian vận hành kéo dài ,và tiềm ẩn nhiều rủi ro trong quá trình đầu tư,đó là những rào cản tự nhiên nếu chưa nói đến rào cản về chính sách và hành lang pháp lý khiến dòng vốn FDI chưa đổ vào nhiều,nếu không tính đến các dự án nhiệt điện IPP có công suất nhỏ chủ yếu phục vụ cho các KCN-KCX thì đến na, mới có 2 dự án nhiệt điện BOT và sắp tới là 2 dự án nhiệt điện than BOT nữa.Tuy nhiên,4 dự án này có vốn đầu tư rất lớn từ 480 triệu USD đến 1,6 tỷ USD góp phần đang kể vào tăng vốn cho hệ thống. Để thu hút dòng vốn FDI thuận lợi hơn nữa trong bài chuyên đề tốt nghiệp này,các giải pháp đưa ra bao gồm 2 nhóm giải pháplớn : giải pháp mang tính dài hạn gắn liền với quá trình thị trường hóa ngành điện hay là các giải pháp nhằm xây dựng một khuôn khổ thị trường và nhóm các giải pháp vận hành mang tính ngắn hạn,vì nhóm các giải pháp này có thể tháo gỡ ngay được những khó khăn mà nhà đầu tư đang gặp phải. Các nhóm giải pháp này bao gồm: Nhóm giải pháp trong dài hạn: Nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể. Thự hiện lộ trình cải tổ ngành điện. Xây dựng hành lang pháp lý thông thoáng và hiệu quả. Xây dựng giá điện tiệm cận giá thị trường. Nhóm các giải pháp trong ngắn hạn: Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư. Soạn thảo những PPA chuẩn. Dần bãi bỏ cơ chế bảo lãnh của Chính phủ. Cho phép IPP ở những vùng cụ thể. Tổ chức qui trình đấu thầu cạnh tranh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Đảng Cộng Sản Việt Nam-văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 2.Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam-Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Hà Nội,2005. 3.Giáo trình Kinh tế phát triển-GS-TS Vũ Thị Ngọc Phùng-Nhà xuất bản Lao động xã hội-Hà Nội,2005. 4.Giáo trình Khoa học quản lý-PGS-TS Nguyễn Thị Ngọc Huyền-PGS-TS Đoàn Thị Thu Hà chủ biên-Hà Nội,2002. 5.Giáo trình Kinh tế đầu tư-PGS-TS Nguyễn Bạch Nguyệt-Hà Nội,2010. 5. Báo cáo đánh giá chính sách đầu tư tại Việt Nam-UNCTAD,2008. 7. Qui hoạch điện 6 giai đoạn 2006-2025. 8. Báo Tuổi trẻ. 9. Báo Lao động. 10. Tạp chí kinh tế và dự báo. 11.Thời báo kinh tế Việt Nam : vneconomy.vn 12. Vietnamnet.vn. 13. Trang web EVN : EVN.com.vn. 14. Trang web Tổng cục thống kê : gso.gov.vn. 15. Trang web Bộ Công thương : moit.gov.vn. 16. Trang web Cục đầu tư nước ngoài : fia.mpi.gov.vn. 17. Trang web : //www.hiendaihoa.com.vn// DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BOO Xây dựng-sở hữu-vận hành BOT Xây dựng-vận hành-chuyển giao BT Xây dựng-chuyển giao ĐTNN Đầu tư nước ngoài ERAV Cục Điều tiết Điện lực Việt Nam EVN Tập đoàn điện lực Việt Nam FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài IPP Nhà sản xuất điện độc lập KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất KV Kilovon KWh Kilowat giờ KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư MW Megawat PPA Hợp đồng mua bán điện dài hạn PVN Tập đoàn dầu khí Việt Nam TKV Tập đoàn khoáng sản Việt Nam UNCTAD Hội nghị của liên hợp quốc về thương mại và phát tiển DANH MỤC HÌNH Hình 2.1 Lượng tăng điện bán ra của EVN qua các năm Hình 2.2 Tăng công suất và dự kiến thiếu hụt phát điện năm 2007-2010 Hình 2.3 Các nguồn phát điện ở Việt Nam Hình 2.4 Cơ cấu vốn đầu tư nguồn điện năm 2005 Hình 2.5 Tỷ trọng công suất phát điện năm 2005. DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1 Tỷ trọng vốn đầu tư cuả EVN và bên ngoài cho nguồn điện 2006-2010 Bảng 2.2 Cơ cấu nguồn điện 2005-2050 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26779.doc
Tài liệu liên quan