Đối với một số trường hợp nên miễn tiền thuê đất như các dự án đầu tư nước ngoài tại Thái Bình sử dụng từ 50 lao động trở lên nên được miễn tiền thuê đất để tạo ra động lực khuyến khích họ đầu tư và sản xuất, cụ thể được miễn thuê đất trong 7 - 8 năm đầu tiên và giảm 50% trong 15 tiếp theo để tái đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ cho doanh nghiệp. Nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngòai đang đầu tư tại Thái Bình nếu vận động thêm nhà đầu tư mới về đầu tư tại Thái Bình mà dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao ngoài thời gian ưu đãi trên thì cũng sẽ được hưởng giá thuê đất ưu đãi, giảm khoảng 30-40% tiền thuê trong thời gian còn lại, nhờ có chính sách này có thể lôi kéo thêm được các nhà đầu tư mới vào đầu tư tại Thái Bình và các khu công nghiệp.
Chính sách thuế: Cần có những quy định nhất định đối với việc ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong các KCN vể thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu tiên các dự án FDI vào các KCN sử dụng nhiều lao động, các dự án FDI vào các KCN mới ở Huyện được tính thuế thu nhập 10%, hoặc có thể được miễn những năm đầu sau đó được giảm 50%. Đối với các ưu đãi này về có thể thu hút được các dự án FDI tập trung vào khu công nghiệp đặc biệt là các KCN ở ngoại thành nhằm mục tiêu phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh.
Chính sách về lao động và tiền lương: các chính sách này nhằm thu hút nhiều lao động vào làm việc ở các doanh nghiệp FDI trong khu công nghiệp, cần hỗ trợ lao động trong thời gian đầu lam việc tại các Doanh nghiệp FDI trong KCN về chỗ ăn ở và sinh họat, đặc biệt các cấp quản lý nên quy định mức tiền lương tối thiểu và mức trợ cấp cho người lao động để tạo động lực cho họ khi tham gia lao động ở đây.
Ngoài các chính sách trên thì một chính sách quan trọng không thể thiểu trong hệ thống chính sách nhằm khuyến khích FDI vào KCN đó là Chính sách về vốn. Các chủ đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Thái Bình cần được xét duyệt cho vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh theo quy định của nhà nước nhằm hỗ trợ để mở rộng quy mô hay đổi mới cải tiến công nghệ
Các ưu đãi trên đây cần phải được cụ thể hóa thành chính sách hỗ trợ và được công khai rộng rãi đến các nhà đầu tư nước ngoài, giúp họ hiểu được quyền lợi của mình khi đầu tư vào các KCN ở Thái Bình và việc áp dụng chúng ra sao?
76 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các Khu công nghiệp ở Thái Bình giai đoạn 2009 -2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường
15/03/2007
19.000.000
8.628.937
Tăng VĐT từ 9.000.000 lên 19.000.000
Dự án SX thức ăn chăn nuôi
23/08/2007
3.588.920
2.600.000
Tăng VĐT từ 3.447.000 lên 3.588.920
Hạn chế và nguyên nhân
Hạn chế
Cơ cấu nguồn vốn FDI chưa đa dạng
Một điều dễ nhận thấy nhất khi nghiên cứu về FDI vào các KCN trên địa bàn tỉnh Thái Bình đó là cơ cấu nguồn vốn theo đối tác, theo hình thức đầu tư, theo lĩnh vực kinh doanh đều không đa dạng.
Theo đối tác: Phần lớn số dự án là của Đài Loan, điều này cũng dễ hiểu vì đầu tư vào các KCN ở Thái Bình còn đang rất mới mẻ, Đài Loan là một nước lân cận đã qua thời gian dài tìm hiểu mới quyết định đầu tư nhiều vào Thái Bình mà trọng tâm là các KCN. Do đó Đài Loan và tỉnh Thái Bình đã thiết lập được mối quan hệ tốt do đó sẽ thu hút các nhà đầu tư Đài Loan đến tỉnh Thái Bình đầu tư phát triển. Hơn nữa Thái Bình đã tạo điều kiện đầu tư thoáng giúp cho các doanh nghiệp Đài Loan có thể hạ thấp giá thành khai thác từ đó hạ thấp giá cả thuê đất, thu hút nhiều doanh nghiệp vào đầu. Việc Công ty Đài Tín vào đầu tư tại các KCN ở Thái Bình như một mũi tên dọn đường cho các Doanh nghiệp khác của Đài Loan tiếp bước vào Thái Bình.
Phân theo hình thức Đầu tư: Như đã trình bày ở phần lý luận chung về FDI, có nhiều hình thức đầu tư FDI trong thực tiễn nhưng FDI đầu tư vào các Khu công nghiệp Thái Bình hoàn toàn là kiểu hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài do đó mọi hoạt động trong các doanh nghiệp đều do nước ngoài điều hành.
Phân theo lĩnh vực kinh doanh: các dự án đầu tư chủ yếu tập trung ở ngành công nghiệp như may mặc xuất khẩu và gia công chế biến các thiết bị điện. Các dự án đầu tư mới chỉ khai thác ở lĩnh vực sơ chế, gia công là chính, còn những dự án lớn với hàm lượng công nghệ cao thì gần như không thu hút được nhiều. Các ngành này là ngành truyền thống của Thái Bình bởi nó dựa trên đặc điểm về nguồn lao động trong tỉnh phù hợp với ngành nghề sản xuất này do không đòi hỏi tay nghề cao và cũng không phải yêu cầu đào tạo nghề
2.1.2 Nguồn vốn FDI vào các KCN còn hạn chế
Khu công nghiệp được đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại nhằm mục đích thu hút các dự án đầu tư đặc biệt là các dự án FDI, ở Thái Bình các KCN đã thực hiện tốt vai trò thu hút FDI chủ yếu cho toàn tỉnh tuy nhiên số lượng FDI vào KCN cũng như vào tỉnh vẫn còn rất hạn chế. Năm 2008 toàn tỉnh thu hút được 12 dự án FDI thì cả 12 dự án đó đều thuộc các KCN. Do vậy có thể thấy rằng phần lớn FDI vào tỉnh là do đóng góp của KCN, tuy nhiên nguồn vốn này còn quá ít nếu đem so sánh nó với vốn đầu tư phát triển vào toàn tỉnh:
Bảng 2.10: Cơ cấu vốn đầu tư của Thái Bình phân theo nguồn vốn
giai đoạn (2003-2008)
Đơn vị: %
Chỉ tiêu/năm
2003
2004
2005
2006
2007
2008
Vốn Nhà nước
46,67
45,53
43,93
42,64
42,75
42,71
Vốn ngoài quốc doanh
50,73
48,89
54,22
55,17
54,32
53,24
FDI
2,6
5,68
1,85
2,19
2,93
4.05
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Sở Kế hoạch và đầu tư Thái Bình
Tỷ lệ vốn FDI trong tổng vốn đầu tư toàn tỉnh không ổn định, năm 2004 số tỷ lệ này vượt quá 5% nhưng đến năm 2005 lại chỉ còn dưới 2%, các năm sau đó tỷ lệ này cũng tăng dần nhưng mức tăng không đáng kể. Tỷ lệ vốn FDI trong tổng vốn đầu tư phát triển qua các năm chỉ chiếm từ 2 – 5% đây là một tỷ lệ tương đối nhỏ. Điều này có thể cho thấy được vốn FDI vào Thái Bình không ổn định và nó chưa thực sự thể hiện được vai trò quan trọng của mình trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Bởi vì như ta đã biết vốn đầu tư là một trong những nguồn lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư trong và ngoài nước đều có vai trò riêng do đó có những đóng góp nhất định trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, vì vậy cần phải biết cân đối hai nguồn này, vốn đầu tư trong nước giữ vai trò quyết định còn vốn đầu tư nước ngoài giữ vai trò quan trọng.
Vốn FDI giải ngân chậm
Như đã phân tích ở trên vấn đề vốn giải ngân đươc xét trên hai khía cạnh, tiến độ triển khai xây dựng dự án và tỷ lệ vốn sử dụng so với vốn đăng ký. Về tiến độ triển khai xây dựng ở một số dự án FDI trong các KCN ở Thái Bình còn chậm, như dự án cơ sở hạ tầng KCN của trung tâm dịch vụ và thương mại Đài Loan số giấy phép 02/GP-TB ngày 14/5/2004 vẫn đang trong tình trạng xây dựng dở dang mặc dù đã được cấp giấy phép đầu tư 4năm. Năm 2007 có 3 dự án cũng chưa triển khai xây dựng. Về vốn thực hiện trung bình của 35 dự án chỉ đạt 35,43% vốn đăng ký.
Nguyên nhân
Môi trường đầu tư chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư
Hiện nay trong công tác quản lý đầu tư vẫn chưa hoàn thiện, vẫn còn tình trạng các quy định trong quản lý đầu tư thay đổi nhiều có khi chỉ trong vòng một năm, các quy định hướng dẫn trong văn bản luật, dưới luật chưa rõ ràng gây nên những quan niệm khác nhau làm mất thời gian của các nhà đầu tư trong các thủ tục giải quyết đất, ưu đãi đầu tư.
Hệ thống quản lý đầu tư của tỉnh còn quá rườm rà, phức tạp, khô cứng, khá chậm khi đứng trước sự biến động của thực tế. Có nhiều dự án do tình trạng quản lý rườm rà, phức tạp đã gây khó dễ nhiều cho nhà đầu tư về mặt thủ tục làm nản lòng nhà đầu tư. Cơ chế một cửa trong hoạt động đầu tư được triển khai nhưng chưa thực sự triệt để gây nhiều khó khăn cho việc đăng ký đầu tư.
Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư
* Cán bộ quản lý hoạt động đầu tư:
Cán bộ quản lý đầu tư chưa đáp ứng được yêu cầu, trình độ chưa được cập nhật trong giai đoạn mới dẫn đến nhiều sai sót trong quản lý, gây thất thóat, lãng phí trong đầu tư. Một số dự án khi cấp giấy chứng nhận đầu tư xong thì không đủ năng lực để triển khai dẫn đến việc bị thu hồi chấm dứt hoạt động đầu tư. Năm 2008, có hai dự án đăng ký vào các khu công nghiệp (năm 2006) bị thu hồi giấy phép đăng ký đầu tư do không đủ năng lực tài chính để triển khai dự án. Để diễn ra tình trạng này một phần lỗi cũng thuộc về các nhà quản lý đầu tư đã không xem xét kỹ năng lực của Nhà đầu tư khi họ đăng ký mà đến tận sau hai năm không thể triển khai được thì mới kiểm tra lại và thu hồi giấy phép đầu tư. Do vậy cán bộ làm trong giai đoạn thẩm định dự án và nhà đầu tư phải đáp ứng đủ trình độ và sự cẩn thận trong việc ra quyết định có cấp giấy phép đầu tư hay không, hạn chế tối đa việc giấy phép cấp ra rồi lại phải thu hồi lại.
* Lao động công nghiệp
Lao động của Thái Bình được sử dụng các KCN phần lớn xuất thân từ các vùng nông nghiệp chuyển đổi sang nên phần lớn chưa qua đào tạo nghề do đó chỉ phù hợp với những ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến, còn đối với các ngành công nghiệp nặng và sản xuất đồ điện tử thì số lao động đó không thể đáp ứng được. Do đó mới xảy ra tình trạng lao động trong các KCN thì vẫn thiếu trong khi tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh vẫn cao.
Bên cạnh đó, lao động trong tỉnh chưa quen với môi trường làm việc khoa học và mang tính kỷ luật cao mà các nhà đầu tư nước ngoài mang đến trong tỉnh do đó việc không đáp ứng được đòi hỏi của nhà đầu tư là điều dễ hiểu.
Quy hoạch trong các KCN chưa tốt gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong các KCN
Xây dựng quy hoạch trong các KCN không tốt kéo theo nhiều hệ quả mà nghiêm trọng nhất là việc gây ô nhiễm môi trường. Điều này ảnh hưởng nhiều đến các nhà đầu tư. Thứ nhất, đối với các nhà đầu tư hiện có trong KCN vấn đề này sẽ làm họ phải bận tâm nhiều đến hệ thống xử lý nước thải làm tăng chi phí sản xuất do đó họ khó có thể mở rộng quy mô sản xuất. Thứ hai, nó làm giảm niềm tin đối với các nhà đầu tư mới đang có ý thăm dò và đầu tư vào KCN của tỉnh.
Việc quy hoạch chi tiết trong các KCN không đồng bộ, sắp xếp và phân bố ngành nghề không hợp lý, các doanh nghiệp sản xuất ở các lĩnh vực khác nhau không thống nhất được việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải nên gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng trong các KCN.
Nhận thấy các KCN trong toàn tỉnh đều được quy hoạch đa ngành nghề sản xuất điều đó tạo nên một khu công nghiệp năng động nhưng đó là trong trường hợp lập quy hoạch tốt. Tuy nhiên công tác quy hoạch ở cấp địa phương nước ta được coi là yếu kém nhất trong hệ thống kế hoạch hóa do vậy việc quy hoạch các KCN đa ngành nghề sẽ để lại những hậu quả không lường trước được. Thái Bình vốn là một tỉnh thuần nông mới bắt đầu đi vào xây dựng các KCN cho nên chưa có kinh nghiệm quy hoạch tổng thể về mạng lưới các KCN tập trung theo nghị quyết Đại hội lần thứ 16 Đảng bộ tỉnh. Trước đây, việc quy hoạch các KCN Nguyễn Đức Cảnh và Phúc Khánh từ năm 2001 chưa dự báo được sự phát triển của Thành phố Thái Bình cho nên hiện nay hai KCN này nằm trọn trong trung tâm thành phố. Trong các khu công nghiệp lại chưa quy hoạch được các ngành nghề khác nhau cho phù hợp, việc quy hoạch thiếu đồng bộ với quy hoạch hạ tầng ngoài KCN (về điện, nước, giao thông, hệ thống thoát nước thải…) làm cho việc xử lý chất thải của các khu công nghiệp không thực hiện triệt để dẫn đến tình trạng ô nhiễm trong các KCN và ô nhiễm các khu dân cư của thành phố xung quanh các KCN.
Hầu hết các KCN ở Thái Bình đều không có hệ thống xử lý xả thải đạt tiêu chuẩn. Khi quy hoạch các nhà quản lý đã không tính đến việc dành chỗ để xây dựng hệ thống xả thải và đến khi các doanh nghiệp đầu tư vào họ lại không chú ý đến việc bảo vệ môi trường, không có công trình xử lý nước thải sơ bộ nào trước khi thải vào hệ thống chung của khu công nghiệp. Do quy hoạch các ngành nghề khác nhau nên các loại rác thải cũng khác nhau dẫn đến việc xả thải chung gây nên sự tắc nghẽn và ô nhiễm.
Để xảy ra tình trạng này sẽ làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư khi họ đến xem và khảo sát tình hình trước khi ra quyết định đầu tư.
Công tác giải phóng mặt bằng còn chậm trễ
Việc giải ngân vốn đầu tư ở Thái Bình còn chậm tiến độ nhiều bởi lý do nhưng lý do mang tính chủ đạo nhất vẫn là do công tác giải phóng mặt bằng còn chậm trễ. Khi một số dự án được phê duyệt, nguồn vốn cho dự án đã sẵn sàng mà công tác giải phóng mặt bằng vẫn chưa thực hiện xong thì dự án không thể triển khai được, do đó tiến độ của dự án chậm lại, làm tăng chi phí cho dự án, lỡ cơ hội của chủ đầu tư và từ đó có thể làm mất đi niềm tin của chủ đầu tư vào chủ trương và chính sách ưu đãi của tỉnh…
Nhiều công trình thì công tác giải phóng mặt bằng còn nhiều khó khăn, hội đồng giải phóng mặt bằng ở các huyện còn yếu về chuyên môn, về đo đạc, kiểm điểm, tính toán xây dựng phương án, dự toán đền bù giải phóng mặt bằng ở một số dự án còn chậm trễ.
Một nguyên nhân khác làm cho việc giải phóng mặt bằng không kịp tiến độ đó là người dân không chấp thuận phương án đền bù của tỉnh, do không thỏa đáng về mặt kinh tế hoặc các chính sách của tỉnh khi đến tai người dân bị bóp méo tinh thần chung do đó họ không đồng ý chuyển đi. Đồng thời trong quá trình giải phóng mặt bằng ở tỉnh còn nhiều bất cập dẫn đến việc lợi dụng cơ hội đê trục lợi của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực này dẫn đến việc người dân không tham gia hưởng ứng quyết định của Ủy ban Nhân dân tỉnh do đó việc giải phóng mặt bằng không thực hiện được khiến cho việc giải ngân vốn đầu tư không đúng tiến độ
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN Ở TỈNH THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN 2009 - 2015
I. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA CÁC KCN Ở THÁI BÌNH TRONG THU HÚT FDI TRONG THỜI GIAN TỚI
Thách thức
Do đây là thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nên các KCN tỉnh Thái Bình cũng chịu tác động to lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế trên thế giới hiện nay. Khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ giữa năm 2008 tại các nước phát triển trên thế giới đặc biệt là Mỹ sau đó lan nhanh và rộng ra toàn cầu. Cuộc khủng hoảng này đã làm nhiều tập đoàn tài chính trên thế giới đi vào con đường tự phá sản kéo theo hàng trăm nghìn người lao động bị thất nghiệp. Rất nhiều nước trên thế giới đưa ra gói tài chính kích cầu từ vài tỷ đến vài trăm tỷ đô la nhằm cứu nền kinh tế trong nước tuy nhiên tình hình cũng không mấy khả quan. Cuộc khủng hoảng này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến FDI. Đây là một thách thức quan trọng nhất trong việc thu hút FDI, xét trên hai khía cạnh: Đăng ký đầu tư và giải ngân vốn đầu tư đều bị hạn chế.
Trong tình hình kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoàng nghiêm trọng như hiện nay sẽ ảnh hưởng mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư, họ sẽ ngần ngại khi ra quyết định đầu tư do trong tình hình thế giới như hiện nay sẽ khiến sản xuất kinh doanh không hiệu quả. Do vậy luồng vốn FDI vào Việt Nam sẽ không còn khả quan như giai đoạn 2005 -2008, nhận xét này có thể được giải thích theo các hướng như:
+ Trên bình diện quốc tế, theo dự báo của tất cả các tổ chức tài chính quốc tế, luồng vốn FDI sẽ sụt giảm. Các nước có đầu tư ra nước ngoài đều quan tâm đến tình hình trong nước của họ. Vấn đề thất nghiệp, tình hình nội địa, kích cầu trong nước sẽ là những vấn đề chính mà chính phủ các nước buộc phải đưa ra những mệnh lệnh yêu cầu các doanh nghiệp của họ quan tâm trước tiên. Hiện tại, tỷ lệ thất nghiệp đang rất lớn, ví dụ Chính phủ Anh công bố tỷ lệ này năm 2008 là 11%
+Giá cả thị trường thế giới được dự báo sẽ giảm 20% trong năm 2009 và chỉ phục hồi nhẹ 0,5% vào năm 2010. Điều này không có lợi cho các nhà đầu tư, nên họ sẽ cân nhắc khi triển khai dự án.
+ Các nhà đầu tư lớn buộc phải điều chỉnh chiến lược toàn cầu, người ta buộc phả tìm đến những nơi thuận lợi hơn, có thể vẫn là châu Á nhưng không thể như trước được khủng hoảng được.
+ Các ngân hàng đối mặt với khó khăn sẽ thận trọng hơn với các khoản tín dụng dành cho giới đầu tư. Thông thường, 70% vốn đầu tư nhờ tín dụng ngân hàng, chỉ có 30% còn lại là do các nhà đầu tư bỏ ra do vậy các ngân hang sẽ thận trọng và khắt khe hơn với các điều kiện tín dụng cũng sẽ làm giảm luồng vốn.
Từ những phân tích tình hình kinh tế thế giới trên có thể khái quát lại thách thức lớn nhất trong việc thu hút FDI vào Việt Nam nói chung và Các KCN ở Thái Bình nói riêng chính là luồng vốn FDI bị giảm mạnh trong giai đoạn tới. Tác động của chúng được khái quát theo hai khía cạnh như sau:
- Tâm lý các nhà đầu tư bị ảnh hưởng khiến họ phải đắn đo khi ra quyết định đầu tư vào nước khác do đó số lượng và quy mô dự án cũng giảm.
- Đối với các dự án đã đăng ký sẽ có nguy cơ không giải ngân được hoặc giải ngân chậm do tình hình kinh tế khủng hoảng
Cơ hội
Trong bối cảnh kinh tế thế giới đang lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, các chuyên gia kinh tế có ý kiến dự đoán rằng nhiều nền kinh tế sẽ giảm sút hoặc có thể tăng trưởng âm, tuy nhiên họ lại có cái nhìn khả quan về nền kinh tế Việt Nam. Quỹ tiền tệ quốc tế đánh giá tăng trưởng của Việt Nam năm 2009 sẽ đạt ở mức 5%. Không tỏ ra lạc quan cũng không quá bi quan, Tiến sỹ Võ Trí Thành – Trưởng Ban nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế (CIEM) khẳng định: Việt Nam cũng sẽ là quốc gia có tốc độ tăng trưởng ít nhất là 4% trong năm 2009. Lý do tăng trưởng là bởi Việt Nam giữ được tốc độ tăng trưởng nông nghiệp rất khả quan, dự báo từ 3,5 – 4% trong năm nay, đóng góp khoảng 0,8% GDP, tăng trưởng khu vực dịch vụ khoảng 4 – 5% đóng góp khoảng 1,6% GDP, còn lại là tăng trưởng công nghiệp và xây dựng do vẫn duy trì được mức giải ngân các nguồn vốn đầu tư và tác động từ hiệu quả gói kích cầu 6 tỷ USD của chính phủ Việt Nam. Từ những thông tin trên cho thấy nền kinh tế Việt Nam vẫn có lý do để khả quan do vậy cơ hội thứ nhất được đánh giá ở đây là: trong điều kiện kinh tế thế giới khủng hoảng thì Việt Nam vẫn là điểm đến đáng tin cậy của các nhà đầu tư.
Cơ hội thứ hai đối với việc thu hút FDI vào các KCN được xuất phát từ môi trường chính sách của tỉnh nhằm tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Nó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của các cấp lãnh đạo trong tỉnh đối với KCN. Hiện nay các chính sách đang được áp dụng tại các khu công nghiệp nhằm tạo môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài như: hỗ trợ 50% kinh phí giải phóng mặt bằng, san lắp mặt bằng, cho thuê đất ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp FDI đào tạo nghề cho lao động, thủ tục đăng ký FDI thông qua cơ chế “một cửa” nhanh gọn và bắt đầu đem lại tính hiệu quả.
PHƯƠNG HƯỚNG THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN Ở THÁI BÌNH GIAI ĐOẠN 2009 – 2015
Phương hướng thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình
Quan điểm của UBND tỉnh trong đầu tư và phát triển các KCN là: phát triển công nghiệp mà trọng tâm là phát triển các KCN tập trung, làm đầu tầu kéo toàn bộ ngành công nghiệp phát triển, đồng thời tạo hạt nhân lan tỏa theo các ngành nông nghiệp, dịch vụ và toàn bộ nền kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển với tốc độ cao. Do đó phương hướng trong giai đoạn tới để thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh là:
+ Khuyến khích mạnh mẽ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành sản xuất hàng hóa xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án phát triển hạ tầng và các lĩnh vực tỉnh có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
+ Xây dựng KCN trở thành lực lượng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ, thực hiện bảo vệ môi trường sản xuất, kinh doanh thị trường ngoài KCN.
+ Tiếp tục thu hút FDI vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò động lực của các địa bàn đó, tập trung thu hút FDI vào các KCN đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt, tập trung chủ yếu vào hai KCN mới là Gia Lễ và Cầu Nghìn, do hai KCN Phúc Khánh và Nguyễn Đức Cảnh nằm trong trung tâm thành phố nên cũng chịu nhiều bất tiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất hoặc thêm các Dự án mới.
+ Khuyến khích các nhà đầu tư có tiềm năng lớn về tài chính và công nghệ hiện đại đầu tư vào các lĩnh vực: công nghệ thông tin, công nghệ tin học, giống cây trồng, vật nuôi … với quy mô dự án đầu tư từ 10 triệu USD trở lên.
+ Khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp khác ở Thái Bình để phát triển hạ tầng cơ sở, nhất là các KCN và cụm công nghiệp ở Huyện như KCN Tiền Hải, KCN Diêm Điền….
Mục tiêu thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình trong giai đọan 2009 – 2015
Từ những phân tích thách thức và cơ hội của việc thu hút FDI vào các Khu công nghiệp ở Thái Bình, mục tiêu được đề ra cho giai đoạn 2009 – 2015 là:
Thứ nhất, mục tiêu về tăng số lượng dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp trong tỉnh lên từ 7 đến 10 dự án một năm với tổng số vốn đăng ký 90 triệu USD (tương đương gần 1.600 tỷ đồng). Các dự án FDI được phân bổ cho các Khu công nghiệp trong tỉnh, không chỉ tập trung vào các khu công nghiệp lâu đời như KCN Nguyễn Đức Cảnh, Phúc Khánh, Gia Lễ, Cầu Nghìn mà còn đầu tư vào khu công nghiệp ở Huyện (KCN Diêm Điền, KCN Tiền Hải, Đồng Tu..), để giúp các KCN này phát triển cơ sở hạ tầng và mở rộng về quy mô.
Thứ hai, là mục tiêu về tăng quy mô trung bình của một dự án. Do các dự án được đầu tư vào Thái Bình còn hạn chế về quy mô so với các khu vực xung quanh trong khi tiềm năng phát triển chưa được khai thác hết nên đặt ra mục tiêu tăng quy mô dự án lên trên 10 triệu USD là hợp lý.
Giải ngân vốn đầu tư đúng tiến độ là mục tiêu sau cùng khi đã thu hút được các dự án FDI đăng ký vào. Vốn FDI giải ngân chậm hoặc quá ít so với vốn đăng ký có thể làm kìm hãm sự phát triển trong các Khu công nghiệp vì một dự án đã được cấp giấy đăng ký đầu tư nghĩa là đã giảm đi một cơ hội cho các nhà đầu tư khác muốn xâm nhập vào khu vực đó. Do vậy phải tăng cường đôn đốc việc giải ngân vốn đầu tư để đạt được mục tiêu này.
NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT FDI VÀO CÁC KCN Ở THÁI BÌNH TRONG GIAI ĐOẠN 2009 – 2015
Để đạt được mục tiêu và phương hướng đã đặt ra trong việc thu hút FDI vào các Khu công nghiệp cần có những giải pháp cụ thể và triệt để xuất phát từ những nguyên nhân và hạn chế đã đánh giá ở trên.
1. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực
Có thể chia nhân lực thành hai mảng quan trọng là nhân lực quản lý hoạt động đầu tư và nhân lực lao động trong các KCN
1.1 Đào tạo cán bộ quản lý Hoạt động đầu tư nước ngoài
Như đã phân tích ở trên, một trong nguyên nhân của vấn đề môi trường đầu tư chưa thực sự thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài là việc quản lý và thẩm định các dự án đầu tư chưa tốt do cán bộ chưa thực sự nắm bắt được chủ trương định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp. Từ đó chưa đảm bảo được hoạt động tư vấn cho các nhà đầu tư và quảng bá điểm đặc trưng của khu vực mình quản lý để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.
Do vậy trước mắt, trong thời gian tới cần tập trung nâng cao trình độ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực đầu tư nhất là mảng đầu tư FDI và cán bộ quản lý các khu công nghiệp. Để làm được điều đó trước tiên phải tiến hành việc cải cách bộ máy hành chính sao cho phù hợp, tránh tình trạng cán bộ quản lý thì nhiều mà trong nhiều công việc không có ai phụ trách. Nên phân định rõ chức năng và nhiệm vụ cho từng cán bộ.
Tăng cường việc đào tạo đúng chuyên môn, nhất là trong việc thẩm định dự án đầu tư và thẩm định năng lực của nhà đầu tư để lựa chọn được dự án phù hợp, tiến độ thực hiện đạt yêu cầu. Vì nếu cán bộ không nắm bắt rõ chuyên môn có thể dẫn đến các sai sót trong các khâu xử lý, có thể dẫn đến các quyết định sai lầm trong tư vấn đầu tư hay thẩm định dự án đầu tư. Khi các quyết định sai sẽ dẫn đến các hậu quả khó lường nhất là trong đầu tư cơ sở hạ tầng, không những ảnh hưởng đến hiện tại mà còn làm ảnh hưởng đến cả việc sắp xếp các dự án đầu tư sau này.
Bên cạnh đó cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch xuất phát từ việc lựa chọn cán bộ có năng lực và am hiểu lĩnh vực quy hoạch do đây vẫn là vấn đề nhức nhối của không chỉ riêng Thái Bình mà của hầu hết các địa phương trong cả nước. Quy hoạch không chỉ đơn thuần là việc bố trí về không gian trong các KCN mà còn phải tính toán các chỉ tiêu mang tính bền vững, hợp lý mang tính chiến lược và dài hạn.
Giải pháp thứ hai là tăng cường thu hút lực lượng cán bộ trẻ về hoạt động tại tỉnh nhà vì hoạt động đầu tư là hoạt động hết sức năng động và mang tính hướng ngoại nhiều đòi hỏi sự sáng tạo, lối tư duy và kiến thức của thế hệ trẻ. Tuy họ chưa có kinh nghiệm nhiều nhưng qua thời gian ngắn tiếp xúc họ sẽ dễ thích nghi và hoàn thiện năng lực của mình. Do đó cần có những chính sách, chế độ ưu đãi cụ thể và công khai rộng rãi để thu hút nhân tài về tỉnh như tổ chức việc thi tuyển công chức một cách công khai, hỗ trợ giai đoạn đầu cho nhân viên mới, nhất là đối với sinh viên mới ra trường về mặt tài chính, và điều kiện làm việc (áp dụng công nghệ thông tin được cập nhật kịp thời..)
1.2 Đào tạo nguồn lao động cho sản xuất công nghiệp
Lao động ở Thái Bình được coi là dồi dào nhưng chất lượng thì chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong các dự án FDI. Vì xu hướng đầu tư FDI vào các KCN dần chuyển sang các lĩnh vực đòi hỏi lao động có tay nghề như sản xuất các đồ điện tử, gia công chế tác các sản phẩm cơ khí, do vậy trong thời gian tới cần tập trung chú trọng đào tạo nghề cho lao động tại chỗ.
Thứ nhất là việc đào tạo nghề cho lao động mới chuyển đổi từ ngành nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp như công nghiệp, dịch vụ đi kèm với các hình thức xúc tiến, hỗ trợ và giới thiệu việc làm, nhằm cân đối cung và cầu lao động vào các dự án FDI trong các KCN, không để tình trạng lao động được đào tạo ra mà không tìm được việc làm.
Thứ hai, muốn đáp ứng được yêu cầu của từng dự án sản xuất trong các khu công nghiệp cần tiến hành giải pháp đào tạo lao động thông qua cách đào tạo của doanh nghiệp. Sự khan hiếm về lao động địa phương để cung ứng cho các doanh nghiệp FDI trong các KCN trên địa bàn tỉnh là do trình độ lao động của địa phương còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyên môn của công việc, chưa quen môi trường và phong cách làm việc hiện đại của nước ngoài. Vì vậy mặc dù trong doanh nghiệp thiếu lao động (số sử dụng chỉ bằng 32.73% số đăng ký) nhưng tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh vẫn chưa được cải thiện nhiều. Việc đào tạo phải phụ thuộc vào nhu cầu và yêu cầu của công việc do vậy cần phải có chính sách đào tạo lao động tại chỗ, đào tạo theo đáp ứng của từng KCN, có thể liên kết với các trường trung học, dạy nghề trong cả nước thành lập chi nhánh đào tạo tại chỗ cho lao động địa phương. Ngoài ra tỉnh hoặc KCN cần trích ngân sách hỗ trợ cho công tác đào tạo lao động và kinh phí ban đầu cho lao động đi học việc để tạo điều kiện cho họ có đủ điều kiện để hoàn thiện tay nghề. Nhằm thực hiện được giải pháp này, các cơ sở dạy nghề trong tỉn đã chủ động phối hợp chặt ché với chính quyênd địa phương khảo sát nhu cầu học nghề, bố trí giáo viên, chuẩn bị đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy nghề có các đối tượng học nghề. Chương trình, nội dung đào tạo dạy nghề phải từng bước nâng cao, bổ sung nhiều kiến thức mới, học phài đi đôi với thực hành, điều này đặc biệt phải chú trọng trong dạy nghề
Song song với việc nâng cao chất lượng tay nghề của lao động là việc đảm bảo chất lượng nguồn lao động về thể lực. Muốn đạt được điều đó cần phải đầu tư hơn nữa cho lĩnh vực y tế, đặc biệt y tế trong các doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Đảm bảo việc tham gia đầy đủ việc đóng Bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế cho lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI, đảm bảo điều kiện lao động tốt, thời gian lao động, chế độ lương thưởng giúp người lao động có thể đáp ứng được nhu cầu trong sinh hoạt và làm việc tốt nhất.
2. Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư
Đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp vận động, xúc tiến đầu tư, chú trọng xúc tiến đầu tư theo lĩnh vực, địa bàn với đối tác cụ thể, chú trọng thu hút đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Xây dựng quỹ xúc tiến đầu tư trên cơ sở ngân sách của tỉnh kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức và doanh nghiệp đang hoạt động ở KCN. Trên cơ sở đó giải quyết, xử lý và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp FDI đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh.
Thực hiện thống nhất, chủ động trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào kCN với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cấp lãnh đạo sở, ban, ngành và chính quyền tỉnh. Cần thành lập một cơ quan chuyên môn làm công tác vận động, xúc tiến đầu tư vào KCN mang tính chuyên nghiệp vừa có thể kêu gọi vừa có thể tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài đang xem xét và có ý định đầu tư vào tỉnh. Như vậy có thể mang lại niềm tin và sự yên tâm của nhà đầu tư trước khi ra quyết định, và có thể thu hút thêm nhiều đối tác mới làm danh mục các nhà đầu tư tại các KCN thêm đa dạng.
Tăng cường công khai các văn bản, các quy định của tỉnh liên quan đến đầu tư như các bản quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN để nhà đầu tư và nhân dân trong tỉnh biết. Bên cạnh đó cần nêu rõ mục tiêu, quan điểm phương hướng trong thu hút đầu tư để có kế hoạch thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI vào KCN hợp lý.
Cần tiếp thị hình ảnh của tỉnh cũng như các KCN đang họat động trên địa bàn tỉnh để làm nổi bật lên điểm mạnh và hấp dẫn các nhà đầu tư đang tìm kiếm địa điểm đầu tư. Các KCN của tỉnh Thái Bình, như đã phân tích ở trên đều có vị trí xây dựng hết sức thuận lợi đi kèm các điều kiện về kinh tế xã hội khác đủ sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Đây có thể nói là một kinh nghiệm được học hỏi từ các nước, các khu vực lân cận khác, tăng cường quảng bá điểm khác biệt của KCN mình, phát huy “giá trị cộng thêm” để thu hút đầu tư.
3. Quy hoạch các KCN hợp lý
Hiện nay vấn đề quy hoạch được đặt lên hàng đầu không chỉ riêng cho tỉnh Thái Bình mà cho hầu hết các địa phương trên lãnh thổ Việt Nam khi xây dựng các KCN. Như đã phân tích ở trên quy hoạch các KCN ở Thái Bình chưa thực sự hợp lý gây nên hậu quả nghiêm trọng về môi trường trong các KCN và môi trường xung quanh. Giai đoạn qua tỉnh đã tiến hành hoàn thiện quy hoạch 7 Khu công nghiệp trên hầu hêt các huyện và thành phố. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là các quy hoạch chi tiết đó đã hợp lý chưa? Và thực tế đã giúp ta trả lời câu hỏi đó, các quy hoạch đôi khi chưa được tính toán chính xác hoặc quá thiên về tổng thể trong khi chi tiết chưa đồng bộ khiến cho chúng ta khó triển khai hoặc lệch với quy hoạch chung.
Do vậy những vấn đề cần giải quyết trước mắt là:
+ Tiến hành quy hoạch lại các Khu công nghiệp cả tổng thể và chi tiết đối với các KCN chưa được lấp đầy, quy hoạch không những xác định bố trí không gian mà còn phải tiến hành quy hoạch theo ngành nghề, theo lĩnh vực phù hợp để các doanh nghiệp sản xuất trong khu công nghiệp có thể liên kết hỗ trợ cho nhau. Đặc biệt trong vấn đề rác thải và xử lý chúng, nếu các ngành có chất thải có tính chất giống nhau có thể sử dụng chung hệ thống xả thải, bãi rác thải mà không cần nhiều diện tích để xây dựng riêng biệt để tiết kiệm chi phí. Tránh việc quy hoạch đa ngành nghề sản xuất, nhất là những ngành không có mối quan hệ với nhau. Mỗi khu công nghiệp cần xây dựng một hệ thổng xử lý nước thải cho phù hợp, có thể yêu cầu và đề nghị các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cùng góp chi phí để xây dựng nhằm cải thiện môi trường đang ở mức báo động về ô nhiễm của Thái Bình. Đối với các KCN đã lấp đầy các dự án cần kiểm tra những sai phạm về mặt quy hoạch trong khi xây dựng để có những điều chỉnh phù hợp.
+ Ban quản lý các KCN tham gia cùng các ngành chức năng xây dựng quy hoạch tổng thể các KCN cho hợp lý, xem xét đánh giá lại quy hoạch chi tiết trong từng KCN (so với thực tế) đặc biệt là chú ý quy hoạch bố trí ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh
Để thực hiện được các công việc trên yêu cầu phải có đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm và hiểu biêt về quy hoạch, tuy nhiên lĩnh vực này các địa phương thường không đáp ứng được do đó cần có kế hoạch đào tạo nâng cao kiến thức về quy hoạch cho cán bộ để họ từng bước tháo gỡ vướng mắc cho các khu công nghiệp đang bế tắc do quy hoạch không hợp lý.
Vấn đề phát triển các KCN theo quy hoạch
Có hai quan điểm trong phát triển các KCN: quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI về mặt số lượng, bất kể lĩnh vực nào, quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư vào KCN; quan điểm thứ hai cho rằng cần phải tăng thu hút đầu tư trong nước và FDI về chất lượng theo một quy hoạch, các KCN phải có tính chuyên môn và cơ cấu hợp lý, phù hợp với lợi thế và khả năng của mình. Quan điểm thứ nhất hiện nay phổ biến, hầu như các khu công nghiệp đều cố gắng để thu hút FDI vào địa bàn mình bất kể ngành nào, sản phẩm nào. Điều này sẽ gây ra sự không hợp lý trong chính khu công nghiệp, sự phát triển trong khu công nghiệp trở nên lộn xộn và không đi theo định hướng mục tiêu chung ban đầu mà các nhà quản lý đã đặt ra.
Việc phát triển các KCN cần theo một quy hoạch thống nhất, có chính sách ưu tiên phát triển ngành, lĩnh vực trong từng KCN dựa trên lợi thế của từng khu, và dựa trên mục tiêu và định hướng chung đã đặt ra. Do những tác động quan trọng cũng như vai trò chiến lược của các KCN trong sự phát triển kinh tế, cần một tầm nhìn, một kế hoạch dài hạn cho sự xây dựng các KCN và đưa ra những chính sách thích hợp cho các loại hình công nghiệp cần khuyến khích đầu tư vào khu này để tạo ra sự liên kết giữa các khu công nghiệp và các doanh nghiệp trong khu, phát huy lực đẩy cho sự phát triển của tỉnh, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. Để cho việc thực hiện tầm nhìn chiến lược tiến hành tốt đẹp, sự đáp ứng tích cực của người dân, nhất là trong việc chấp hành đền bù giải phóng mặt bằng là một yếu tố quan trọng.
Xây dựng chuẩn mực và cơ cấu lại các KCN
Xây dựng chất lượng KCN ngang tầm khu vực và quốc tế, xác định tiêu chuẩn các xí nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề và công nghệ.
Xác định tiêu chuẩn các doanh nghiệp đầu tư vào KCN về quy mô, ngành nghề, công nghệ để tạo được hiệu quả đầu tư cao. Đối với một số KCN cần định hướng phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp nặng, các ngành có hàm lượng khoa học và vốn cao.
Phát triển các KCN phải kết hợp chặt chẽ với quy hoạch và quá trình đô thị hóa, phân bố dân cư, theo hướng hình thành mạng lưới đô thị hài hòa, rộng thoáng, kiên quyết tránh tập trung xây dựng các đô thị quá lớn tạo ra sự quá tải về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở đô thị. Không thể cứ mỗi KCN đều xây dựng một cụm dân cư riêng rẽ, điều đó đưa đến phá vỡ quy hoạch đô thị chung cũng như làm tăng chi phí xây dựng KCN, giảm hiệu quả các KCN.
Bên cạnh đó cần phát triển đồng bộ các thể loại tập trung công nghiệp: xây dựng cả 3 thể loại: KCN tập trung, cụm công nghiệp vừa và nhỏ, làng nghề công nghiệp, không nên xây dựng quá nhiều khu công nghiệp trong một thời gian, cần chú trọng phát triển các làng nghề và các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở các huyện thị vùng nông thôn, để phân tán vốn đầu tư ra toàn tỉnh, tránh tập trung quá nhiều ở khu độ thị gây nhiều hệ quả khác. Như vậy có thể phát triển được hạ tầng và công nghiệp nông thôn.
Xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài dựa trên quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ sao cho hợp lý và mang tính khả thi cao.
4. Phát triển cơ sở hạ tầng KCN
Cơ sở hạ tầng đảm bảo là một trong những điều kiện quan trọng nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN. Vì vậy cần đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng, tập trung đầu tư hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật dịch vụ và xã hội trong KCN, đảm bảo tính đồng bộ, thuận tiện cho cả doanh nghiệp sản xuất và các nhà cung cấp. Tránh tình trạng cải thiện mặt này thì để lại hậu quả cho mặt khác giống như việc gây tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường hay tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội nảy sinh. Điều đó có nghĩa là phải xét đến tính bền vững của các công trình hạ tầng trong dài hạn chứ không phải để giải quyết vấn đề hiện tại.
Trước mắt, cần tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng bên trong các KCN hiện có. Kêu gọi các doanh nghiệp trong khu công nghiệp góp vốn để đầu tư xây dựng, sửa chữa và hoàn thiện cơ sở vật chất trong khu công nghiệp như đường xá, hệ thống dẫn điện, nước phục vụ sản xuất liên tục và phục vụ cả sinh hoạt của người lao động trong khu công nghiệp.
Cần xây dựng các công trình sinh hoạt phục vụ cho hoạt động của KCN như xây dựng chợ, trạm xá, bệnh viện, khu nhà ở tập thể…tạo thuận lợi cho lao động trong các khu công nghiệp, cũng là tạo điều kiện tốt cho sản xuất đúng giờ giấc và nội quy.
Đối với các khu công nghiệp mới thành lập hoặc mới được quy hoạch lại thì cần lựa chọn công ty phát triển hạ tầng hợp lý về năng lực tài chính, năng lực kỹ thuật và nhân lực đảm bảo xây dựng được một hạ tầng khu công nghiệp đúng quy hoạch, đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư, đặc biệt đầu tư nước ngoài với các dự án quy mô lớn và tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư đang có ý định thăm dò khu vực.
Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thu hút các dự án FDI đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng cơ sở dưới các hinh thức như BOT, BT, …
Ban quản lý các KCN cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong tỉnh nhất là sở Kế hoạch và Đầu tư để theo dõi chặt chẽ quá trình và chất lượng xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, đồng thời sớm có tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng đối với các công trình cơ sơ hạ tầng KCN, tránh để thất thoát hoặc chậm tiến độ xây dựng ảnh hưởng đến hình ảnh của toàn khu công nghiệp trong mắt các nhà đầu tư.
5. Khẩn trương chấn chỉnh công tác giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng nhanh hay chậm gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đầu tư xây dựng do đó ảnh hưởng đến tiến độ của việc giải ngân vốn FDI, Hiện nay công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh đang gặp vướng mắc trong khâu đền bù làm nản lòng các nhà đầu tư
Để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tăng cường giải ngân vốn đầu tư đúng tiến độ thì Thái Bình cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Nhóm giải pháp thứ nhất:
- Đối với những khu vực đã quy hoạch để làm KCN, cấp ủy chính quyền địa phương phải công bố công khai quy hoạch trong từng thời kỳ, tuyên truyền giải thích để nhân dân thấy rõ lợi ích của cá nhân và của địa phương, lợi ích chung của toàn tỉnh để sẵn sàng di dời chuyển đất sang làm công nghiệp. Bên cạnh đó cần công khai chế độ chính sách về kinh tế của Nhà nước, của tỉnh, những chính sách xã hội đối với những hộ di chuyển được hưởng.
- Căn cứ vào quy định của Nhà nước, của tỉnh và vào tình hình thực tế của địa phương để xây dựng và công bố:
+ Công khai công tác đo đạc, tính toán để các chủ hộ có thể tự xác định được giá trị kinh tế của mình.
+ Tổng đơn giá đền bù giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư bao gồm quyền sử dụng đất, đền bù chuyển đổi ngành nghề, hỗ trợ địa phương chi phí cho công tác giải phóng mặt bằng.
Nhóm giải pháp thứ hai:
Vận dụng các chính sách của Nhà nước tranh thủ sự đồng tình, giúp đỡ của các tổ chức chính quyền đoàn thể trong quá trình vận động và thuyết phục nhân dân, giải quyết khiếu nại của người dân ngay tại cơ sở. Mặt khác không xem nhẹ việc xử lý hành chính đối với những trường hợp lợi dụng dân chủ, lợi dụng chính sách để kéo dài thời gian và để chuộc lợi.
Nhưng để đạt được hiệu quả cao hơn nữa thì ở bất cứ nhóm giải pháp nào cũng cần phải thành lập các đoàn thanh tra, kiểm tra công tác giải phóng mặt bằng vì nhiều trường hợp chủ trương chính sách của tỉnh đã rất đúng mức nhưng các cán bộ cấp dưới do mưu lợi riêng đã thực hiện không đúng. Đồng thời với chính sách đó thì khi cân đối bố trí vốn cho giải phóng mặt bằng, tỉnh cần có những tính toán chính xác để tiến độ giải phóng mặt bằng được đảm bảo như tính toán ban đầu.
Đi liền với giải phóng mặt bằng là vấn đề phải đảm bảo việc sử dụng đất một cách hợp lý, tránh tình trạng giải phóng mặt bằng xong để đấy mà không biết sử dụng để làm gì, hoặc sử dụng một cách ngổn ngang gây tình trạng phí phạm đất. Cần tập trung lấp đầy và phát triển hiệu quả các KCN đã có, khi nào các KCN lấp đầy 60 – 70% thì mới cho phép triển khai các KCN tiếp theo.
IV. KIẾN NGHỊ
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích thực trạng việc thu hút FDI vào các KCN ở Thái Bình, tôi xin đưa ra một số kiến nghị riêng của bản thân về việc tạo môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
Sức hấp dẫn của môi trường đối với các nhà đầu tư phụ thuộc vào hệ thống chính sách và cơ chế quản lý của các cấp lãnh đạo trong hoạt động đầu tư. Vì đầu tư là một hoạt động tài chính nên nó rất nhạy cảm với những thay đổi của môi trường chính sách. Do đó trong thời gian tới cần:
1. Phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, các ngành trong hoạt động đầu tư và quản lý đầu tư
Phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cơ quan, các cấp lãnh đạo trong tỉnh trong họat động quản lý đầu tư. Cơ quan chuyên môn phụ trách chính trong quản lý các KCN là ban quản lý các KCN là trung tâm gắn kết các ngành các cấp đó để đưa ra các quyết định phù hợp và hiệu quả. Nếu các cơ quan, tổ chức không phối hợp với nhau để quản lý sẽ gây tình trạng chồng chéo lên nhau, gây mâu thuẫn trong điều hành, quản lý khi chính cán bộ cũng không biết theo quyết định của bên nào, ngoài ra còn gây thất thoát, lãng phí cho ngân sách tỉnh. Ngoài sự liên kết giữa các cơ quan trong tỉnh thì còn cần sự liên kết giữa các vùng với nhau để đảm bảo sự cân đối, bền vững. Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội luôn đề cập đến vấn đề phát triển các vùng với nhau, do đó không thể tách riêng từng cơ sở sản xuất, từng khu riêng biệt mà phải kết hợp chúng lại với nhau để phát triển phù hợp với quy hoạch chung.
Phân cấp nhiệm vụ rõ ràng giữa các cán bộ, các cơ quan nhưng trên cơ sở có mối liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau.
2. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong hoạt động đầu tư
Triển khai và thực hiện tốt quy chế một cửa trong hoạt động đầu tư ở tỉnh theo quyết định số 68/2006/QĐ – UBND tỉnh, giảm bớt khó khăn trong công tác đăng ký đầu tư thủ tục hành chính cũng như thời gian đăng ký và chờ xét duyệt.
Ngày 23/11/2006, UBND tỉnh Thái Bình đã ban hành quy định về thực hiện cơ chế “ một cửa” trong hoạt động đầu tư tại tỉnh Thái Bình áp dụng cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước với phạm vi áp dụng là các dự án không thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước và trừ các dự án đầu tư vào khu công nghiệp theo quyết định của Chính phủ.
Sở Kế hoạch và đầu tư là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Thái Bình, với các nhiệm vụ chính sau:
+ Phối hợp với các sở, ban, ngành và UBND huyện, thành phố xây dựng chương trình, kế hoạch và công bố danh mục các dự án thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài trình UBND tỉnh phê duyệt.
+ Hướng dẫn các nhà đầu tư hoàn thiện hồ sơ lấy giấy chứng nhận đầu tư và đầu tư
+ Giám sát quá trình triển khai thực hiện dự án đầu tư và quản lý dự án sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư.
+ Tổng hợp và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của dự án đầu tư
Các sở, ban, ngành của tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc quản lý và thẩm tra hoạt động đầu tư.
Như vậy quản lý hoạt động đẩu tư trong toàn tỉnh Thái Bình được quy về một mối để phân định rõ tính trách nhiệm và phạm vi điều chỉnh. Quyết định này còn quy định rõ thời gian duyệt và cấp giấy phép đầu tư với từng dự án với quy mô khác nhau nhằm mang lại sự thuận tiện, nhanh gọn đối với các nhà đầu tư muốn đăng ký kinh doanh tại tỉnh nói chung cũng như vào KCN. Thời gian tối đa để phê duyệt một dự án không quá 15 ngày kể từ khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ.
Việc quản lý theo cơ chế “một cửa” được cụ thể trong hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa” của UBND tỉnh được đặt ở sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình.
Quyết định này được ban hành rất phù hợp trong giai đoạn hiện nay, nó có tác dụng cải thiện dần môi trường đầu tư và mang hình ảnh tỉnh đến với các nhà đầu tư. Chính vì vậy cần phải tăng cường hơn nữa việc triển khai quy chế “một cửa” trong thời gian tới, đồng thời không ngừng nghiên cứu xem xét và sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Tránh tình trạng chấp nhận thu hút bất kỳ dự án FDI nào mà không xem xét kỹ năng lực của nhà đầu tư, do vậy nhanh gọn phải đi đôi với chất lượng của các dự án được phê duyệt, như năng lực tài chính và công nghệ của nhà đầu tư, cam kết về việc bảo vệ môi trường và sự phù hợp với quy hoạch định hướng chung.
Trong thời gian tới, muốn hoàn thành được mục tiêu đề ra về thu hút FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình thì việc cải cách hành chính theo cơ chế một cửa là một yếu tố hết sức quan trọng cần phải được triển khai mạnh hơn nữa
3. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về phát triển KCN và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chính sách nhà nước tác động quan trọng đến phát triển các KCN, cần không ngừng hoàn thiện chính sách. Nhất là hệ thống chính sách hỗ trợ cho đầu tư vào các KCN. Đẩy mạnh chuyển từ công tác quản lý hành chính sang công tác dịch vụ theo cơ chế “ một cửa” trong quản lý phát triển các KCN. Cải cách hành chính và áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đảm bảo quản lý thống nhất giữa các khu công nghiệp.
Ngoài ra cần từ bỏ quan niệm lới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiểm, như các nhà đầu tư nước ngoài thường nói Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc là “trước cho, sau lấy” có tính làm ăn lâu dài trong thu hút FDI vào KCN.
Xác định các mặt bằng chính sách chung cho các KCN trong cả tỉnh, tránh tình trạng địa phương “cạnh tranh” lẫn, đưa ra các chính sách ưu đãi, chính sách thuế thường là vượt khung, trái với Luật đầu tư chung. Đồng thời, ban hành các chính sách ưu đãi các nhà đầu tư trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong KCN như: giá thuê đất, thuế, hỗ trợ vốn, lãi suất ưu đãi.
Các chính sách cần đồng bộ và thiết thực có tác dụng lâu dài, sự thống nhất giữa các cán bộ, giữa các ngành và sự thực thi của chính quyền địa phương là rất quan trọng nhằm tránh sự chồng chéo và chậm trễ gây cản trở cho doanh nghiệp.
Thái Bình cần mạnh dạn hơn nữa trong việc tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo xu hướng đồng bộ hóa, tránh chồng chéo mâu thuẫn giữa các Luật đồng thời cần tiến tới luật đầu tư thống nhất chung trong nước và đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó cần chú trọng các chính sách sau:
Chính sách về đất đai: Hỗ trợ hoặc cho thuê đất với giá ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp theo Luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước được xét cho thuê đất tại Thái Bình thời hạn đến 49 năm và thực hiện cùng một mức giá theo các khu vực. Có thể cho thuê ở mức giá ưu đãi thấp nhất trong khung giá theo quyết định của Bộ Tài Chính đối với một số dự án nằm trong danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư và dự án khuyến khích đầu tư theo phụ lục Nghị định số 24/2000/NĐ – CP ngày 31/07/2000 của chính phủ về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các dự án sản xuât, chế biên sản phẩm nông sản, nuôi trồng thủy sản đơn giá thuê đất chỉ nên bằng 50% giá đất quy định nhằm thu hút Vốn đầu tư vào lĩnh vực này để phát triển chúng.
Đối với một số trường hợp nên miễn tiền thuê đất như các dự án đầu tư nước ngoài tại Thái Bình sử dụng từ 50 lao động trở lên nên được miễn tiền thuê đất để tạo ra động lực khuyến khích họ đầu tư và sản xuất, cụ thể được miễn thuê đất trong 7 - 8 năm đầu tiên và giảm 50% trong 15 tiếp theo để tái đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, mở rộng thị trường tiêu thụ cho doanh nghiệp. Nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngòai đang đầu tư tại Thái Bình nếu vận động thêm nhà đầu tư mới về đầu tư tại Thái Bình mà dự án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao ngoài thời gian ưu đãi trên thì cũng sẽ được hưởng giá thuê đất ưu đãi, giảm khoảng 30-40% tiền thuê trong thời gian còn lại, nhờ có chính sách này có thể lôi kéo thêm được các nhà đầu tư mới vào đầu tư tại Thái Bình và các khu công nghiệp.
Chính sách thuế: Cần có những quy định nhất định đối với việc ưu đãi cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong các KCN vể thuế thu nhập doanh nghiệp, ưu tiên các dự án FDI vào các KCN sử dụng nhiều lao động, các dự án FDI vào các KCN mới ở Huyện được tính thuế thu nhập 10%, hoặc có thể được miễn những năm đầu sau đó được giảm 50%. Đối với các ưu đãi này về có thể thu hút được các dự án FDI tập trung vào khu công nghiệp đặc biệt là các KCN ở ngoại thành nhằm mục tiêu phát triển đồng đều giữa các vùng trong tỉnh.
Chính sách về lao động và tiền lương: các chính sách này nhằm thu hút nhiều lao động vào làm việc ở các doanh nghiệp FDI trong khu công nghiệp, cần hỗ trợ lao động trong thời gian đầu lam việc tại các Doanh nghiệp FDI trong KCN về chỗ ăn ở và sinh họat, đặc biệt các cấp quản lý nên quy định mức tiền lương tối thiểu và mức trợ cấp cho người lao động để tạo động lực cho họ khi tham gia lao động ở đây.
Ngoài các chính sách trên thì một chính sách quan trọng không thể thiểu trong hệ thống chính sách nhằm khuyến khích FDI vào KCN đó là Chính sách về vốn. Các chủ đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư tại Thái Bình cần được xét duyệt cho vay vốn tín dụng ưu đãi hoặc hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh theo quy định của nhà nước nhằm hỗ trợ để mở rộng quy mô hay đổi mới cải tiến công nghệ
Các ưu đãi trên đây cần phải được cụ thể hóa thành chính sách hỗ trợ và được công khai rộng rãi đến các nhà đầu tư nước ngoài, giúp họ hiểu được quyền lợi của mình khi đầu tư vào các KCN ở Thái Bình và việc áp dụng chúng ra sao?
KẾT LUẬN
Trên đây là toàn bộ thực trạng về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN ở Thái Bình, là kết quả tổng hợp và phân tích của tôi sau thời gian dài thực tập ở sở Kế hoạch - Đầu tư Thái Bình. Từ những phát hiện thực trạng vấn đề đã giúp tôi đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào các KCN ở Thái Bình, các giải pháp này không hẳn là các giải pháp mới nhưng đóng góp lớn nhất của chúng chính là việc vận dụng chúng vào thực tế từng địa phương, từng khu vực sao cho hợp lý. KCN (với vai trò thu hút FDI nhiều nhất trong tỉnh) đã có những đóng góp hết sức to lớn trong sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh cũng như của cả nước do vậy cần phải có những chính sách phát triển hợp lý nhằm tận dụng được hết tiềm năng sẵn có của các KCN đó để tăng cường thu hút FDI vào đầu tư cơ sở hạ tầng và sản xuất kinh doanh.
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Tổng hợp đầu tư nước ngoài vào KCN và vào toàn tỉnh Thái Bình lũy kế đến 31/12/2008 10
Bảng 1.2: Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong các KCN ở tỉnh Thái Bình 12
Bảng 1.3: Cơ cấu GDP toàn tỉnh Thái Bình phân theo ngành lĩnh vực giai đoạn 2003 -2008 13
Bảng 1.4: Bảng tổng hợp tình hình sử dụng lao động tại các khu công nghiệp với các dự án FDI 15
Bảng 1.5: Bảng phân loại trình độ công nghệ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp Việt Nam. 16
Bảng 2.1 Tổng hợp dự án FDI vào KCN Nguyễn Đức Cảnh tính đến 31/12/2008 27
Bảng 2.2 Tổng hợp số lượng dự án đầu tư vào KCN Phúc Khánh phân theo tiến độ thực hiện tính đến 31/12/2008 30
Bảng 2.3: Tổng hợp các dự án đầu tư FDI vào KCN Gia Lễ tính đến 31/12/2008 31
Bảng 2.4 Cơ cấu vốn đầu tư FDI vào các KCN ở Thái Bình theo đối tác: 34
Bảng 2.5: Cơ cấu vốn FDI theo lĩnh vực kinh doanh. 35
Bảng 2.6: Bảng tổng hợp dự án FDI vào các KCN ở tỉnh Thái Bình theo năm giai đoạn 2002 – 2008 37
Bảng 2.7: Bảng tổng hợp tiến độ sản xuất các dự án FDI vào các KCN tỉnh Thái Bình (2002-2008) phân theo năm đăng ký 38
Bảng 2.8: Tổng hợp các dự án FDI vào các KCN theo năm đăng ký (2002-2008) 40
Bảng 2.9: Tổng hợp các dự án FDI đăng ký tăng vốn đầu tư: 42
Bảng 2.10: Cơ cấu vốn đầu tư của Thái Bình phân theo nguồn vốn giai đoạn (2003-2008) 44
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Giáo trình Kế hoạch hóa phát triển kinh tế xã hội – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Niên giám thống kê.
Nghị định 36/CP ngày 24/4/1997.
Báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình các năm 2008.
Báo cáo tổng hợp của sở Kế hoạch và đầu tư Thái Bình về đầu tư nước ngoài năm 2007, 2008
Báo cáo tổng hợp của phòng quản lý đầu tư, Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Bình, tính đến 31/12/2008
Các website của:
Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình: www.thaibinh.gov.vn
Báo điện tử Việt Nam: www.vietnamnet.vn
Bộ Kế hoạch và Đầu tư: www.mpi.gov.vn
Các bài phát biểu của các chuyên gia kinh tế:
TS Võ Trí Thành- Trưởng ban Nghiên cứu chính sách hội nhập kinh tế quốc tế (CIEM).
Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Mại – một trong những chuyên gia hàng đầu về kinh tế quốc tế ở Việt Nam
Ông Vũ Ngọc Thu, trưởng Ban quản lý các KCN tỉnh Thái Bình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21819.doc