Tài nguyên khoáng sản là một nguồn lực quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nguồn lực này không tái tạo được, vì vậy cần phải được quản lý, bảo vệ chặt chẽ, khai thác sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Trong thực tế, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động khai thác khoảng sản trong thời gian qua còn tồn tại nhiều bất cập. Cụ thể, Theo quy định, việc thẩm định cấp phép khai thác khoáng sản thông thường thuộc trách nhiệm của Sở TN&MT, nhưng việc quản lý về quy hoạch và xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động khai thác lại thuộc về Sở Xây dựng; Quản lý về kỹ thuật khai thác mỏ, an toàn trong khai thác thuộc Sở Công thương. Do nhiều đầu mối quản lý dẫn đến không quy định trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho từng sở, đã vậy giữa các sở cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý Nhà nước nên việc quản lý Nhà nước về khoáng sản và công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn. Điều này, mặt khác cũng tạo ra những khó khăn nhất định trong hoạt động đầu tư của công ty, nhất là trong quy trình hoàn thiện thủ tục đầu tư, xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản, duyệt quy hoạch xây dựng và chứng nhận về đảm bảo kĩ thuật xây dựng và an toàn kĩ thuật. Chính vì thế, việc thống nhất quy về một mối trong quản lý khai thác mỏ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý của nhà nước đồng thời thuận lợi cho cả doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, tiết kiệm được thời gian, chi phí, bắt kịp cơ hội trong đầu tư.
Ngoài ra, cơ quan quản lý hoạt động đầu tư của địa phương cũng cần quan tâm hơn trong việc tháo gỡ những khó khăn mà công ty gặp phải trong quá trình đầu tư trong đó quan trọng nhất là cải thiện thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình giải phóng mặt bằng. Địa phương chính là cầu nối nối giữa người dân địa phương với doanh nghiệp trong giải tỏa mặt bằng, cân bằng lợi ích của cả hai bên để thúc đẩy quá trình giải phóng mặt bằng được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
75 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển tại Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, tính đến thời điểm cuối tháng 6 năm 2008 đã vượt xa kế hoạch của năm 2010 đặt ra. Lợi nhuận mang lại cho Tổng công ty là không nhỏ Nguyên nhân là do trong những thời gian qua, ngành may mặc trong nước đang phát triển đáng kể, nên rất thuận tiện cho ngành may mặc phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đây thực sự là một bước đi đúng đắn của Tổng công ty trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
+ Thức ăn gia súc: Dựa trên số liệu thực hiện được ở trên so với kế hoạch đặt ra là 32.000 tấn/năm2006 và 100.000 tấn/năm 2010 là điều không thể thực hiện được. Nguyên nhân là vì thị trường tiêu thụ chưa lớn, thu mua nguyên liệu đầu vào ngày càng nhiều khó khăn do tác động của nền kinh tế, nên các chi phí thu mua nguyên liệu tăng lên đáng kể. Tổng cần ty cần đầu tư nhiều hơn nữa vào dự án này, nhất là khâu maketting, nhằm tiêu thụ sản phẩm được nhiều hơn nữa, do sản phẩm phải cạnh tranh với nhiều loại đã có mặt trên thị trường lâu rồi.
+ Lợn siêu nạc: Việc đầu tư vào dự án chăn nuôi lợn siêu nạc gặp là một dự án đúng đắn và hợp lý trong bối cảnh thị trường hiện nay, song dự án vẫn gặp nhiều khó khăn nguyên nhân là trong thời gian qua do sự bùng phát của dịch lợn tai xanh nên hạn chế đầu tư, cũng do dịch lợn tai xanh đã tác động đáng kể đến hiệu quả của công tác chăn nuôi. Dịch lợn tai xanh là nguyên nhân chủ yếu làm cho hoạt động chăn nuôi không đạt được kế hoạch đặt ra của Tổng công ty. Trong thời gian tới nếu Tổng công ty nói chung và công ty lợn siêu nạc nói riêng tập trung đầu tư hiệu quả những vấn đề còn yếu thì dự án chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao cho toàn Tổng công ty.
+Xuất khẩu lao động: hai năm 2006 và 2007 xuất khẩu lao động vượt kế hoạch đặt ra, và nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lao động như năm 2007 so với 2006 thì việc thực hiện xuất khẩu 1000 lao động/năm 2010 là hoàn toàn có thể. Nguyên nhân là do nhu cầu về xuất khẩu lao động đi các nước ở Việt Nam đang ngày càng nhiều. Nhu cầu thị trường lao động xuất khẩu nhiều kết hợp với uy tín của thương hiệu Mitraco hoàn toàn có thể giúp Công ty cổ phần xuất khẩu lao động hoàn toàn có thể đạt được kế hoạch đặt ra
1.3.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả rất đáng khích lệ, hoạt động đầu tư phát triển của công ty còn tồn tại một số hạn chế sau:
1.3.2.1. Những hạn chế còn tồn tại
Huy động vốn còn hạn chế.
Các đơn vị cấp dưới không có tư cách pháp nhân, không chịu trách nhiệm trước pháp luật về toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của mình như: việc huy động vốn, quản lý doanh thu, chi phí, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, công nợ, nghĩa vụ đối với người lao động ... mà trách nhiệm hoàn toàn thuộc về Tổng công ty, do đó mà quyền tự chủ của các đơn vị trực thuộc bị hạn chế. Vì thế hiệu quả sản xuất kinh doanh của các đơn vị này, trong một số giai đoạn đã không thực sự mang lại hiệu quả tối ưu
Quyền hạn, vai trò của Công ty về tài chính, về đầu tư, chính sách tiền lương vẫn còn nhiều vướng mắc, dẫn đến trong tổ chức quản lý, sản xuất kinh doanh thiếu năng động, chưa hoàn toàn thích ứng với cơ chế thị trường, chưa tạo điều kiện để các đơn vị trực thuộc phát triển.
Một phần nguồn vốn của các dự án là từ nguồn đi vay, tuy được cam kết được cung cấp vốn đúng tiến độ và đủ song ở một số giai đoạn trong khi thực hiện dự án vẫn xảy ra tình trạng vốn không đủ, phải ngưng công việc để chờ vốn. Mặt khác, do khi thực hiện phải chia ra nhiều công đoạn, việc tập trung vốn là không dễ tạo ra một số ảnh hưởng đến việc huy động các nguồn lực khác, ảnh hưởng tới thời gian thực hiện dự án…
Đầu tư cho Khoa học công nghệ chưa thỏa đáng.
Trên thực tế hiện nay, không những là khách hàng mới mà các khác hàng truyền thống cũng đòi hỏi sản phẩm phải có chất lượng cao, giá thành thấp…vì thế đã tạo ra một áp lực rất lớn đối với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Các trang thiết bị của các dự án được đầu tư khá kỹ càng, có những ưu thế vượt trội về tính năng, công suất, chất lượng, nhất là các dự án đang được triển khai… so với trong khu vực nhưng đối với khoa học công nghệ trên thế giới thì còn có phần lạc hậu, nhất là đối với các nước: Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Pháp… là những khách hàng chủ yếu.
Mặc dù trong nhiều năm qua Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh đã đầu tư nhiều cho khoa học công nghệ nhưng mà bên cạnh đó hiệu quả sử dụng các thiết bị chưa cao.
Một số nhà máy vẫn còn chưa quan tâm tới hoạt động đổi mới công nghệ, các công nghệ hiện tại đang rất lạc hậu, không đáp ứng được đòi hỏi của thị trường từ đó đã làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Với xuất phát điểm thấp, vốn tự có so với các tập đoàn, Tổng công ty lớn trong nước còn ít và hiệu quả hoạt động chưa cao, công nghệ còn hạn chế. Do đó mà việc nâng cao trình độ công nghệ còn gặp nhiều khó khăn.
Vấn đề kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy trình sử dụng, quản lý, sữa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị có công nghệ mới còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Chế độ thưởng phạt trong vấn đề này chưa mang lại hiệu quả.
Đầu tư mở rộng thị trường còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển.
Công tác đầu tư thăm dò tìm kiếm thị trường là một việc vô cùng quan trọng khi tiến hành xây dựng dự án. Sự đỏi hỏi ngày càng cao của các khách hàng cũng như những thị trường khó tính thì bên cạnh những thị trường sẵn có cần có những thị trường mới và tiềm năng hơn nữa.
Về công tác quảng cáo và dự báo nhu cầu thị trường Tổng công ty vẫn chưa thực hiện tốt. Bộ phận này không có sự tách biệt rõ ràng còn nhầm lẫn trong các phòng ban khác. Vì thế Tổng công ty nên có phòng Maketting và phòng thống kê riêng. Vì phòng maketting có nhiệm vụ đi nghiên cứu thị trường từ đó sẽ giúp Tổng công ty chủ động đưa ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh, dẫn đến mở rộng thị trường. Còn phòng thống kê riêng giúp cho Tổng công ty phân tích và dự báo nhu cầu thị trường nhằm phản ánh đúng thực trạng hoạt động của Tổng công ty từ đó giúp cho lãnh đạo Tổng công ty có những quyết định đứng đắn và kịp thời.
Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh cũng đã chú trọng nhưng mà hiệu quả của công việc này chưa cao. Cán bộ về công tác thị trường chưa được đào tạo một cách chính quy.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế
Một số cán bộ công nhân viên trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm tổ chức, quản lý điều hành sản xuất kinh doanh còn hạn chế, tư duy về kinh tế thị trường chưa nhạy bén, chưa thoát khỏi tư tưởng bao cấp, chưa chủ động sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao, lực lượng công nhân kỹ thuật, lao động trực tiếp tay nghề chưa cao ....
Năng suất lao động vẫn còn thấp, chưa khai thác tối đa công suất máy móc thiết bị, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ công nhân viên còn thấp.
Tính chủ động trong tổ chức sản xuất còn hạn chế.
Đầu tư cơ sở hạ tầng còn thấp.
Cơ sở hạ tầng đã được đầu tư nhiều nhưng mà vẫn còn thấp, nhất là hệ thống nhà xưởng của công ty còn chưa được khang trang, đồng bộ, đảm bảo yêu cầu về kĩ thuật, thiết kế và đặc biệt là chưa đáp ứng được trong việc tạo ra điều kiện lao động thuận lợi cho người lao động, vì hệ thống chống nóng, chống ồn còn chưa được đầu tư đúng mức. Bởi lẽ, địa bàn của Tổng công ty là ở Hà Tĩnh, có điều kiện khí hậu rất khắc nghiệt, điều này sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới năng suất lao động của người lao động.
Hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu là khai thác quặng. Điều này lại nên việc giao thông đi lại giữa các mỏ là rất quan trọng. giao thông nội mỏ đi lại khó khăn, hạn chế các phương tiện vận chuyển và việc vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm làm ảnh hưởng đến công tác điều hành sản xuất.
Bên cạnh đó, việc giải phóng mặt bằng ngày càng phức tạp, diện tích đền bù nhiều, các mỏ khai thác ngày càng nghèo, thu hồi thấp, quặng biến đổi nhanh làm ảnh hưởng tới công nghệ tuyển quặng.
Nhiều nhà máy các công cụ sản xuất vẫn còn thiếu và chưa hoàn thiện khiến việc khai thác gặp nhiều khó khăn, không tận dụng khai thác được.
Hệ thống giao thông, bến đỗ, bốc dỡ vẫn còn chưa hoàn chỉnh
Hạn chế trong tổ chức và quản lý hoạt động đầu tư
Trong quản lý, chỉ đạo, điều hành, độ nhạy bén và sự thích ứng chưa thật cao đối với cơ chế thị trường. Lãnh đạo một số đơn vị thành viên chưa chủ động trong công việc, còn ảnh hưởng khá nặng nề của tư tưởng bao cấp ,còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại.
Hệ thống văn bản nội bộ ban hành nhiều, có lúc chồng chéo, có một số văn bản phát hành chưa kiểm soát được việc thực hiện. Công tác tham mưu của các phòng, ban chuyên môn còn cứng nhắc, chưa có sự phối hợp nhuần nhuyễn về nghiệp vụ, khi tham mưu cho lãnh đạo Tổng công ty
Công tác quản lý hành chính, lao động chưa nghiêm, chưa bảo đảm tốt thời gian làm việc. Thực hành tiết kiệm một số mặt chưa tốt, còn gây lãng phí.
Một số đồng chí cán bộ thiếu chủ động, thiếu sâu sát, chưa kịp thời xử lý dứt điểm các vấn đề phát sinh và các khó khăn trong quá trình SXKD.
Việc giải thể Văn phòng đại diện Hà Nội và 2 chi nhánh xuất khẩu lao động tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh chậm, không bảo đảm thời gian theo Quyết định của HĐQT.
Việc giải quyết, thảo gỡ các vướng mắc tại đơn vị chưa kịp thời, có khi còn gây khó khăn cho đơn vị, làm gián đoạn sản xuất.
Công tác định mức KTKT không theo kịp tình hình sản xuất, sự điều chỉnh chưa nhạy bén, kịp thời, có khi chưa công bằng trong thanh toán tiền lương, chi phí, thưởng, phạt điện, dầu…
Chưa theo dõi được quá trình thực hiện phân cấp quản lý tại các đơn vị dẫn đến nhiều chồng chéo, bất cập trong quản lý sản xuất, chưa chỉ đạo được các đơn vị xây dựng các định mức KTKT nội bộ, cho nên việc theo dõi chỉ dừng lại ở mức xí nghiệp, chưa sát đến từng đội sản xuất.
Công tác kinh doanh, thị trường chưa xây dựng chiến lược kinh doanh cho từng loại hàng hoá, sản phẩm, việc hoạch định chiến lược thị trường, quảng bá thương hiệu còn lúng túng, thụ động trong công tác bán hàng…
Công tác sữa chữa MMTB làm chưa tốt, còn xảy ra tình trạng lãng phí. Chi phí sửa chữa cao nhưng chất lượng sửa chữa lại thấp; Việc quản lý vật tư phụ tùng thu hồi để có thế tận dụng, thay mua mới chưa tốt, chưa có quy định cụ thể để thu hồi, phân loại, chưa có kế hoạch tái sử dụng hoặc thanh lý thu hồi vốn khi nhu cầu sử dụng giảm bớt do thu hẹp sản xuất.
Tài nguyên mỏ ngày càng nghèo đi song việc cải tiến công nghệ chưa thực sự quyết liệt và mang lại hiệu quả cao, chậm tổng kết công nghệ tuyển quặng nghèo để có phương án tổ chức sản xuất hiệu quả.
Công tác thăm dò, qui hoạch khai thác một số mỏ chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất, giải quyết các thủ tục, hồ sơ cấp mỏ, thuê đất còn chậm; công tác GPMB có khi còn ách tắc, chậm như địa bàn xã Cẩm Hoà, Thạch Văn, cất bốc mồ mả tại Kỳ Khang. Công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác đôi lúc chưa chặt chẽ, phối hợp giữa các phòng ban chưa nhịp nhàng; trong kiểm tra, xử lý còn nể nang, nên để hàm lượng KVN vượt quy định kéo dài.
Công tác Cổ phần hóa tiến hành còn chậm, nhận thức về Cổ phần hóa của CBCNV còn hạn chế, chỉ đạo thiếu quyết liệt, chậm tiến độ đề ra.
Công tác chỉ đạo các phong trào thi đua yêu nước và lao động sáng tạo còn nặng về hình thức, vai trò của các Ban chỉ đạo còn mờ nhạt, chưa tạo được khí thế thi đua thực sự trong CBCNV.
Việc giám sát đầu tư, giám sát kỹ thuật các công trình XDCB chưa thật chặt chẽ, có công trình thực hiện chậm tiến độ, nghiêm thu, quyết toán công trình chậm trễ.
Công tác chỉ đạo, kiểm tra tại các đơn vị chưa thường xuyên, chưa xác định rõ và tập trung đúng mức các đơn vị, các khâu trọng tâm, trọng điểm.
Hoạt động phân tích chỉ phục vụ nội bộ, chưa mở rộng được phạm vi phân tích, chưa có kế hoạch, chiến lược quảng cáo để phát triển dịch vụ ra bên ngoài.
Trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ chưa ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ, một số làm việc thụ động kém hiệu quả.
Việc cải tiển các hệ thống ISO không quyết liệt, chưa khâu nối được giữa các cá nhân, bộ phận để cải tiến.
1.3.2.2. Những nguyên nhân chung của các hạn chế trên là:
Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, lạm phát và giảm phát của nền kinh tế, chính sách hạn chế xuất khẩu khoáng sản và tăng thuế xuất khẩu khoáng sản của Nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng, đời sống CBCNV, vốn, lao động và tiến độ hoàn thành các dự án…
- Hoạt động của Tổng Công ty nhiều nghành nghề, lĩnh vực đòi hỏi chuyển đổi nhanh, nên có khi còn lúng túng trong chỉ đạo, điều hành.
- Trình độ, năng lực, kỹ năng của đội ngũ cán bộ còn hạn chế, nhưng thiếu tinh thần, ý thức tự rèn luyện, học tập nâng cao, thiếu cán bộ giỏi, tâm huyết, đam mê trong công việc chuyên môn.
- Định mức KTKT chưa được bổ sung, điều chỉnh kịp thời, đặc biệt đối với các đơn vị mới, đơn vị ngoài khối Ilmenite.
- Công tác quản lý tài chính ở các đơn vị từ hạch toán phụ thuộc sang hạch toán độc lập chuyển biến chậm, đội ngũ kế toán đơn vị độc lập chưa tinh thông nghiệp vụ.
- Một số lĩnh vực việc lập, phê duyệt kế hoạch làm chậm nên bị động trong quản lý, chỉ đạo, điều hành.
- Đòi hỏi đền bù, GPMB của người dân vùng mỏ cao, vượt quy định Nhà nước, nhưng TCT cũng phải chấp nhận để có mặt bằng khai thác, triển khai các dự án và tạo việc làm cho lao động.
- Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện chưa thường xuyên, dĩ hoà vi quý, chưa cương quyết trong xử lý vi phạm.
CHƯƠNG II : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIÊN TẠI TỔNG CÔNG TY KHOÁNG SẢN VÀ THƯƠNG MẠI HÀ TĨNH.
2.1. Định hướng phát triển của công ty đến năm 2010
Căn cứ vào tình hình hiện tại của công ty so sánh với quy mô của thị trường, tình hình phát triển kinh tế xã hội nói chung và sự phát triển của ngành khoáng sản nói riêng, công ty đã xây dựng một định hướng phát triển từ nay đến năm 2010, làm cơ sở cho việc lập các kế hoạch đầu tư phát triển của công ty. Một số điểm quan trọng trong định hướng phát triển của công ty từ nay đến năm 2010 :
Cơ cấu lại vốn của các Công ty mẹ trong các doanh nghiệp thành viên, mở rộng lĩnh vực đầu tư vốn của Công ty mẹ.
Nghiên cứu liên doanh, kiên kết với các Tổng Công ty, các Công ty trong địa bàn trong nước, phát huy lợi thế của Tổng Công ty, đồng thời mở rộng liên doanh liên kết đầu tư nước ngoài với các lĩnh vực nếu thấy có hiệu quả.
Tiến hành đầu tư những dự án có tầm cỡ quốc gia.
Thực hiện chiến lược phát triển kinh doanh đa nghành nghề, chế biến sâu, đa dạng các sản phẩm khoáng sản để tăng hiệu quả kinh tế. Trong những năm từ 2003 - 2010 Công ty đầu tư xây dựng các dự án mới: nhà máy chế biến dioxyt titan, nhà máy gạch men cao cấp, nhà máy sản xuất que hàn, nhà máy luyện fero mangan, nhà máy gạch không nung, chế tác vàng, kinh doanh các mặt hàng và xây dựng trung tâm thương mại - khách sạn có tầm cỡ quốc tế, nhà máy sản xuất thạch cao tại Lào... thu hút thêm các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh có nguồn lực phát triển tự nguyện tham gia làm các đơn vị thành viên để Tổng Công ty phát triển và có sức cạnh tranh lớn.
Tiếp tục đổi mới thiết bị công nghệ sản xuất tạo ra những sản phẩm để thâm nhập vào thị trường mới tạo nguồn thu ngoại tệ. Giữ vững, phát triển thị trường và khách hàng hiện có, mở các thị trường mới sang các nước phát triển như: Châu Âu, thị trường Châu Mỹ.
Hoàn thiện cơ chế tổ chức, đổi mới quản lý kinh doanh, đào tạo phát triển nhân lực theo hướng tiếp cận trình độ quốc tế, nâng cao kiến thức maketing cho cán bộ, nhân viên nghiệp vụ của Công ty và các Công ty con.
Nâng cao chất lượng sản phẩm để thoã mãn ngày càng cao về yêu cầu của khách hàng. Xây dựng phương án thu hút đầu tư nước ngoài, liên doanh, liên kết đầu tư trong nước và ngoài nước, thâm nhập thị trường quốc tế để đáp ứng yêu cầu theo kịp lộ trình hội nhập AFTA.
Thực hiện cơ chế quản lý tài chính theo mô hình Công ty mẹ và Công ty con. Thực hiện nghiêm túc hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000, ISO 14001:2004 để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Nâng cao thu nhập cho người lao động, có cơ chế thu hút, đãi ngộ nhân tài để đáp ứng nhu cầu về nhân sự cho mô hình hoạt động Công ty mẹ - Công ty con.
Những phương hướng cụ thể cho Tổng công ty là:
- Hoàn tất các dự án: +) Trung tâm thương mại
+) Gạch ngói Đồng Nai – Hà Tĩnh
+) Vật liệu xây dựng Kỳ Phương
+) Cty Vật liệu xây dựng và phụ gia luyện kim
+) Chế biến thạch cao tại Lào
- Cùng các cổ đông triển khai nhanh dự án
+) Tổng kho xăng dầu - dầu khí Vũng áng
+) Dệt may Hồng Lĩnh
+) Thuỷ điện Hương Sơn
Cổ phần hoá toàn Tổng công ty trong năm 2009
Cổ phần hoá: Xã hội hoá đầu tư, thu hút, liên kết với các tập đoàn kinh tế, các Tổng công ty, doanh nghiệp, cá nhân tham gia đầu tư cùng Tổng công ty.
Tái cấu trúc: Tạo lợi thế cạnh tranh, đầu tư khai thác, chế biến sâu khoáng sản, cơ cấu lại các công ty thành viên hoạt động chưa có hiệu quả.
Đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ Zircon siêu mịn trong và ngoài nước, tận dụng cơ chế nhà nước tiếp tục khai thác, chế biến khoáng sản.
Đẩy mạnh đầu tư kinh doanh vào các dịch vụ tại Cảng Vũng Áng
Mở rộng khai thác, chế biến một số khoáng sản khác trên địa bàn Hà Tĩnh, quản lý tốt chất lượng các sản phẩm mới.
Đẩy mạnh hơn nữa việc áp dụng tối đa ứng dụng khoa học kỹ thuật vào công tác điều hành sản xuất
Xây dựng thương hiệu Mitraco, phát triển gắn với thân thiện xã hội, xoá đói giảm nghèo, thân thiện với môi trường.
Mục tiêu chủ yếu phát triển Công ty đến năm 2010 là:
Giai đoạn 2003 - 2005:
Tổng doanh thu bình quân năm: > 400 tỷ đồng.
Lợi nhuận trước thuế: từ 35 - 40 tỷ đồng/năm.
Giai đoạn 2006 - 2010:
Tổng doanh thu bình quân năm: > 700 - 1.000 tỷ đồng.
Lợi nhuận trước thuế: từ 50 - 65 tỷ đồng/năm.
2.2. Giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển của công ty
Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại, công ty cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển của công ty trong thời gian tới.
2.2.1. Giải pháp về huy động vốn
Vốn cho hoạt động đầu tư là điều kiện tiên quyết và cần thiết cho hoạt động đầu tư của Tổng công ty được duy trì, phát triển và diễn ra liên tục. Yêu cầu dặt ra đối với vốn đưa vào lưu thông là không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn trong đầu tư. Tức là vốn trong lưu thông phải đảm bảo có hiệu quả, đồng vốn lưu chuyển nhanh, tạo ra lợi nhuận cao trong tương lai. Vốn đưa vào lưu thông phải được bảo toàn và phát triển. Có như vậy, mới đảm bảo được dự trữ vốn nhất định trong Tổng công ty. Vốn trong hoạt động đầu tư cần phải rút ngắn thời gian lưu thông, thu hồi vốn hợp lý.
Vốn trong Tổng công ty đảm bảo cho quá trình phục vụ hoạt động đầu tư được hoàn tất từ khâu mua sắm máy móc thiết bị đến việc mở rộng sản xuất. Vì thế mở rộng quy mô nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.
Cổ phần hoá để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực phát triển cho Tổng công ty, làm cho tài sản của doanh nghiệp ngày một tăng.
Công ty mẹ - Công ty con liên kết với nhau chủ yếu thông qua mối quan hệ về vốn, lợi ích kinh tế, chiến lược kinh doanh, bí quyết công nghệ, thương hiệu, khoa học, thị trường, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Khi cổ phần hoá các Công ty con sẽ chủ động sáng tạo, năng động trong sản xuất kinh doanh vừa có mối liên kết chặt chẽ với Công ty mẹ, các Công ty con sẽ hoạt động có hiệu quả.
Các công ty con và các đơn vị trực thuộc nghiêm túc thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh, cố gắng tiết kiệm, giảm chi phí. Tập trung thu hồi công nợ đặc biệt là các khoản nợ lớn, các khoản nợ khó đòi. Tránh để tình trạng nợ đọng dây dưa. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của Tổng Công ty và các nguồn vốn vay. Hạn chế các các khoản vay đầu tư mà hiện tại hiệu quả còn thấp hoặc chưa có hiệu quả.
Tiếp tục thực hiện cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước sẽ tạo ra loại hình doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, vốn sẽ được sử dụng có hiệu qủa, tài sản của nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào sản xuất, kinh doanh.
Có sự phối hợp giữa các phòng nhằm tập trung thanh quyết toán dứt điểm các công trình đã đưa vào sử dụng, nợ tồn đọng tại các công trình đang để kéo dài chưa quyết toán xong.
Rà soát tổng chi phí, đặc biệt chi phí sản xuất tại các đơn vị, tham mưu đề xuất cắt giảm tối đa các chi phí, với phương châm tiết kiệm tối đa, để hạ giá thành sản xuất. Thường xuyên tổ chức kiểm tra rà soát công tác quản lý vật tư, tiền vốn tại các công ty con và đơn vị trực thuộc. Kiểm tra kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật đã ban hành.
Xây dựng phương án huy động vốn linh hoạt, có hiệu quả với lãi suất thấp nhất phục vụ sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của Tổng Công ty, nhất là việc góp vốn vào các dự án đã cam kết.
Kiểm tra rà soát và đề xuất sửa đổi định mức chi phí sản xuất theo hướng tiết kiệm, hiệu quả, đề xuất các giải pháp quản lý tài chính nhằm nâng cao tính chủ động và trách nhiệm cho đơn vị, vừa tiết kiệm hiệu quả và dễ kiểm soát.
Phòng Tài chính – KT phân công cán bộ theo dõi, kiểm soát mọi chi phí phát sinh, hàng quý có báo cáo hiệu quả của từng lĩnh vực, từng đơn vị để kịp thời xác định hướng đi phù hợp. Bên cạnh đó phải: thắt chặt công tác quản lý tài chính và quản trị doanh nghiệp, giám sát thu, chi đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức các khoản chi thường xuyên, đột xuất. Tập trung thu hồi công nợ cá nhân và tập thể, đặc biệt là thu hồi vốn vay tại các công ty cổ phần.
Do là một công ty của Nhà nước nên Tổng Công ty Khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh nên tăng cường vốn góp, liên doanh, liên kết với các tổ chức, cá nhân bên ngoài. Điều chỉnh cơ cấu vốn cho hợp lý.
2.2.2. Giải pháp đầu tư cho khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ đã và đang phát triển mang lại những bước tiến đáng kể trong lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong lĩnh vực quản lý. Việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ mang được lợi thế cho công ty.
Tổng Công ty Khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh có ngành nghề kinh doanh chính là khai thác và chế biến khoáng sản do dó mà khoa học công nghệ đóng một vai trò rất quan trọng. Có thể nói nó là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của Tổng công ty.
Khoa học công nghệ luôn thể hiện sự tiến bộ vượt bậc của con người. Nó là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Để có những sản phẩm chất lượng cao, số lượng lớn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tổng Công ty nên đầu tư các loại dây chuyền công nghệ mới, tiên tiến, nhiều loại máy móc thiết bị hiện đại, từng bước cơ giới hoá các công đoạn sản xuất nhất là các nhà máy: dây chuyền nhà máy Zircon siêu mịn, nhà máy Cẩm Xuyên, Nhà máy tuyển ướt 120T/h, Nhà máy Zircon - Rutile 1 vạn tấn/ năm, Nhà máy thức ăn gia súc ....
Để thực hiện mục tiêu đa dạng hoá sản phẩm, đảm bảo cung cấp các sản phẩm và dịch vụ ngày càng cao của khách hàng về chất lượng và số lượng Tổng công ty đã đặc biệt coi trọng công tác đầu tư đổi mới công nghệ và thiết bị hiện đại, đầu tư chiều sâu để chế biến các sản phẩm từ khoáng sản, tăng năng suất lao động, phát huy nội lực, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất.
Ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại sẽ mang lại lợi thế cho Công ty trong việc sản xuất và chế biến các loại khoáng sản.
Công nghệ mới tạo điều kiện cải thiện điều kiện lao động, giảm cường độ lao động chân tay do đó mà nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên liệu, tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho khả năng tái sản xuất mở rộng của công ty.
Bên cạnh đó Tổng công ty cần Tập trung hoàn chỉnh công nghệ tuyển quặng nghèo, đánh giá đúng thực chất để tiếp tục sản xuất; hoàn chỉnh việc nâng cấp công nghệ nhà máy Zircon siêu mịn, báo cáo đầy đủ những ưu điểm, hiệu quả đưa lại sau khi cải tạo, đặc biệt là nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm, hiệu quả thu hồi và giá thành cho 1 đơn vị sản phẩm sau cải tạo.
Rà soát lại đội ngũ lái xe, máy để đào tạo nâng cao tay nghề và ý thức trách nhiệm bảo vệ tài sản Nhà nước; đánh giá, kiểm tra hệ thống máy cơ giới, xây dựng kế hoạch sữa chữa, bảo dưỡng trong thời gian thu hẹp sản xuất, hạn chế tối đa việc mua sắm, nhập khẩu máy móc, vật tư phụ tùng. Cân đối MMTB để có thể đề xuất thanh lý một số máy công trình không cần sử dụng để thu hồi vốn.
Tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy trình sử dụng, quản lý, sữa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị có công nghệ mới. Xây dựng chế độ thưởng phạt rõ ràng trong công tác này.
Do đó mà trong điều kiện hiện nay Tổng Công ty phải luôn nắm bắt và mạnh dạn đầu tư đưa khoa học công nghệ vào trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm mang lại hiệu quả cao.
2.2.3. Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Xác định nguồn nhân lực là nhân tố then chốt tạo nên sức mạnh và đem đến sự phát triển bền vững của công ty. Trong thời gian tới công ty cần coi hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực là trọng điểm đầu tư.
Để điều hành bộ máy có quy mô lớn, hoạt động trên diện rộng, kinh doanh nhiều loại hàng hoá, Công ty cần tiếp tục chú trọng công tác đào tạo cán bộ, bồi dưỡng nguồn nhân lực, coi nhân tố con người là điều kiện quyết định và thể hiện rất rõ trong chính sách chất lượng của Công ty “ chính sách chất lượng của công ty được thực hiện theo mô hình quản lý toàn diện các hoạt động có liên quan đến chất lượng, nhắm đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan, trong đó con người đóng vai trò chủ đạo”.
Nâng cao trình độ quản lý và tay nghề cho người lao động: Trong Tổng công ty, bộ phận lao động trực tiếp và bộ phận lao động gián tiếp là hai bộ phận phụ thuộc lẫn nhau. Một trong hai bộ phận ấy hoạt động kém hiệu quả thì sẽ dẫn đến giảm hiệu quả chung của Tổng công ty.
Bộ phận quản lý Công ty có chức năng như hoạch định, tổ chức, điều khiển,... do đó mà phải thường xuyên cử các cán bộ đi học để nâng cao trình độ cũng như kinh nghiệm của các nhà quản lý để họ thực hiện tốt các chức năng trên.
Bộ phận lao động trực tiếp tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó mà Tổng công ty muốn đạt được mục tiêu : tăng năng suất - chất lượng - hiêu quả thì phải đầu tư cho bộ phận nay đi học để họ có tay nghề vững, có khả năng tiếp thu được khoa học công nghệ đưa vào sản xuất và có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc.
Bên cạnh đó thì Tổng công ty phải luôn có nhưng biện pháp kích thích tinh thần sáng tạo, tích cực trong sản xuất của người lao động. Đồng thời cần có sự phân công lao động một cáh hợp lý, sắp xếp các bộ phận lao động phù hợp với trình độ và ngành nghề của người lao động trong công việc.
Tạo điều kiện cho toàn thể cán bộ công nhân viên tham gia chương trình sáng kiến cải tiến kỹ thuật tạo ra năng suất cao và như vậy sẽ làm lợi hàng chục tỷ đồng cho Tổng công ty, bên cạnh đó cũng nên tổ chức thi bậc thợ cho đội ngũ công nhân kỹ thuật.
Đào tạo và nâng cao tay nghề cho những công nhân chế biến các sản phẩm xuất khẩu.
Cho các công nhân đi học để nâng cao tay nghề và đặc biệt là để điều khiển các máy móc thiết bị hiện đại.
Đầu tư cho các công nhân sản xuất trực tiếp đi học ở nước ngoài để nâng cao trình độ tay nghề.
Tổng công ty luôn chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực nhờ vậy mà đội ngũ cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty ngày càng phát triển về số lượng cũng như chất lượng, có tác phong và lề lối làm việc văn hoá. Hiện nay, Công ty đã có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên môn nghiệp vụ và công nhân kỹ thuật giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, trẻ về tuổi đời, năng động, nhiệt huyết, gắn bó lâu dài với Công ty, đáp ứng được yêu cầu về nhân lực cho sự phát triển của Công ty và có đủ sức mạnh để cạnh tranh khi hội nhập và phát triển.
Bên cạnh việc tập trung đào tạo nâng cao trình độ nguồn nhân lực,công ty cần tiếp tục quan tâm tới các chính sách đãi ngộ người lao động, bởi xét ở một góc độ nhất định đây cũng chính là một trong những nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Phòng Tổ chức- LĐTL: Nghiên cứu đề xuất phương án giải quyết số lao động dôi dư trong quá trình tổ chức, sắp xếp lại sản xuất tại các đơn vị, đảm bảo chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật; trích một phần quỹ của TCT để hỗ trợ cho người lao động giải quyết khó khăn để tìm việc làm mới hoặc ổn định kinh tế gia đình.
Phải quán triệt sâu rộng trong công nhân về kế hoạch hoạt động của Tổng công ty, về an toàn lao động, tai nạn giao thông, đặc biệt trong những ngày lễ, tết.
Hằng năm phải thường xuyên tập hợp danh sách các gia đình cán bộ CNV có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, lập kế hoạch đề xuất hỗ trợ trong dịp tết Nguyên Đán và các dịp lễ quan trọng khác. Có kế hoạch thăm hỏi, tặng quà bà con có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, gia đình chính sách trên địa bàn hoạt động của TCT.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tiên phong của các Đảng viên trong sự phát triển của Tổng công ty. Kết hợp chặt chẽ giữa chính quyền với các tổ chức quần chúng như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Ban nữ công để phát động phong trào thi đua nâng cao năng suát chát lượng hiệu quả công trình.
Thường xuyên chăm lo cải thiện đời sống vật chất tinh thần, tạo điều kiện cho người lao động có cuộc sống và thu nhập ổn định lâu dài với Tổng công ty.
Thực hiện tốt công tác an toàn, bảo hộ lao động, giải quyết kịp thời, đầy đủ các chế độ chính sách đối với người lao động.
Có chính sách đãi ngộ xứng đáng với cán bộ kĩ thuật, kĩ sư kinh tế theo hiệu quả đóng góp cho sản xuất, tạo điều kiện làm việc để cán bộ kĩ thuật phát huy năng lực sáng tạo.
-Thường xuyên tổ các hoạt động phong trào thể thao, văn nghệ, vui chơi, giải trí lành mạnh cho CBCNV.
-Có chế độ khuyến khích cán bộ làm việc ở những công trình trọng điểm, xa đô thị.
- Áp dụng các cơ chế khen thưởng cho cá nhân, tập thể có kết quả sản xuất tốt. Có chế độ về thu nhập và đào tạo để thu hút các cán bộ có tài năng về làm việc tại công ty.
2.2.4. Giải pháp đầu tư vào hoạt động marketing để mở rộng thị trường.
Thị trường được khai thác hợp lý sẽ mang lại cho công ty những điều kiện thuận lợi về việc cung cấp các yếu tố đầu vào cũng như việc tiêu thụ sản phẩm.
Do trong Tổng công ty việc mở rộng thị trường chưa được quan tâm đúng mức do đó mà trong thời gian tới cần quan tâm tới những vấn đề sau:
Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh cần tiếp tục nghiên cứu, khảo sát tìm kiếm thị trường mới từ đó đưa ra quyết định sản xuất. Thị trường là nơi diễn ra mọi hoạt động giao dich buôn bán, là nơi xuất hiện các cuộc cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng, mẫu mã, ...của sản phẩm. Trong điều kiện hiện nay, sự tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật là điều kiện tiền đề cho sự phát triển kinh tế hàng hoá. Tổng Công ty có thể khẳng định được mình trên thị trường thông qua sự cạnh tranh về các sản phẩm hàng hoá có chất lượng với các Công ty khai thác trong nước cũng như các nước trong khu vực. để làm được điều này thì vấn đề đặt ra với Tổng Công ty là phải nắm bắt kịp thời, chính xác đầy đủ các thông tin trên thị trường. đưa ra kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp để sản xuất ra sản phẩm đảm bảo về số lượng và chất lượng và tính năng của sản phẩm đó với nhu cầu của khách hàng trên thị trường. Do đó mà đầu tư vào nghiên cứu và khảo sát thị trường là một công tác đầu tư rất quan trọng để Tổng công ty có thể chiếm lĩnh được thị trường.
Hơn thế nữa, để làm ăn lâu dài, đứng vững trên thị trường thì chất lượng hàng hoá của Tổng công ty là yếu tố có ý nghĩa quyết định. Nếu chất lượng hàng hoá tốt, Tổng công ty sẽ thiết lập và giữ được các mối quan hệ với bạn hàng, dễ dàng mở rộng thị trường, tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ, từ đó tăng doanh thu và lợi nhuận. Ngược lại, nếu chỉ vì lợi ích trước mắt mà hạ giá thành làm giảm chất lượng sản phẩm thì chỉ sau một thời gian ngắn khách hàng sẽ không sử dụng sản phẩm của Tổng công ty nữa. Nhất là sản phẩm của Tổng công ty được sử dụng cho các khách hàng nước ngoài khó tính như Mỹ, Nhật… Tổng công ty không tiêu thụ được sản phẩm, sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, mất vốn, thậm chí có thể gây ngừng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa hiện nay Tổng công ty đang muốn tăng cường mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, trong khi khách hàng nước ngoài lại là khách hàng khó tính và thị trường nước ngoài có nhiều đối thủ cạnh tranh hơn.
Bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm, Tổng công ty cần phải đa dạng hoá mặt hàng sản xuất kinh doanh. Trong những năm trước đây, Tổng công ty chỉ sản xuất một số sản phẩm chủ yếu là ILmenite, Zircôn , Rutin năm 2005 Tổng công ty đã tăng thêm sản phẩm than, man gan và trong các sản phẩm cũ thì phân ra nhiều loại sản phẩm theo từng nhu cầu của khách hàng như ILmenite 52% TIO2, ILmenite 55%,TIO2 ILmenite 60% TIO2 và ZC siêu mịn các loại . Doanh thu tiêu thụ sản phẩm các mặt hàng mới có xu hướng tăng nhanh đáng kể và chiếm tỷ trọng khá lớn trong doanh thu của Tổng công ty.
Bên cạnh đó phải mở rộng sản xuất các sản phẩm khoáng sản của Tổng công ty là ILmenite, Zircôn , Rutin, than, man gan, ... song song với việc tìm kiếm và phát triển thị trường trong nước và ngoài nước. Cụ thể: Tổng công ty cần mở rộng sang thị trường Liên bang Nga, Ấn Độ, Nam phi... ( hiện nay các khách hàng ngoài nước của Tổng công ty đã tiêu thụ là Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Malaysia, Hàn quốc).
Từng bước chuyển hướng đầu tư sản xuất các sản phẩm mới như Thạch cao, Sắt.. tăng tỷ trọng sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao, chú trọng đầu tư, áp dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất sản phẩm.
Tiếp tục cải thiện hơn nữa cho công nghệ để có nhiều sản phẩm thâm nhập một số thị trường mới.
Cải thiện chất lượng sản phẩm nhất là những sản phẩm mà số lượng xuất khẩu nhiều.
Tổng công ty cần tích cực tìm hiểu thị trường, lựa chọn đối tác làm ăn. Đưa ra các chính sách quảng cáo thích hợp để có được nhiều đơn đặt hàng tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm. Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để truyền tin về sản phẩm hoặc cho các phần tử trung gian hoặc cho các khách hàng cuối cùng trong không gian và thời gian xác định. Mục đích của quảng cáo là kích thích người tiêu thụ sản phẩm của công ty ngày một nhiều hơn, là phương tiện đắc lực trong cạnh tranh, là vũ khí lợi hại để thu hút khách hàng. Trong thời gian qua, Tổng công ty cũng quan tâm đến vấn đề quảng cáo sản phẩm như thường xuyên quảng cáo lên đài truyền hình địa phương (ĐPTTH Hà Tĩnh), làm logo trên một số trang wed được nhiều người truy cập, quảng cáo trên một số phương tiện truyền thông đại chúng khác…những công tác này thực sự đã phát huy tác dụng, đưa thương hiệu của Tổng công ty tới nhiều người. Trong thời gian tới cần phát huy hơn nữa công tác này.
Thực hiện các hoạt động xúc tiến yểm trợ bán hàng, có nghĩa là thúc đẩy bán hàng, tìm cách đưa sản phẩm đến tay khách hàng. Hoạt động này trong thời gian qua còn yếu và thiếu. Để nâng cấp được sức cạnh tranh trên thị trường đòi hỏi công ty phải đầu tư nhiều hơn nữa cho lĩnh vực này.
Để thực hiện tốt các chính sách về Marketing, đòi hỏi Tổng công ty phải quan tâm một cách đúng mức về bộ máy quản lý hoạt động Marketing mà cụ thể là phòng kinh tế của Tổng công ty. Đầu tư những trang thiết bị hiện đại và đầy đủ, tuyển dụng nhân viên có trình độ chuyên môn cao tận tâm với công việc.
Bên cạnh đó việc xác lập một chính sách giá đúng đắn và phương pháp xử lý giá linh hoạt là điều kiện để dẫn đến thành công trong cạnh tranh trên thị trường của doanh nghiệp. Nhất là khi sản phẩm chủ yếu của Tổng công ty là khoáng sản và chủ yếu là xuất khẩu ra nước ngoài, nên việc cạnh tranh về giá cả cũng là một yếu tố hết sức quan trọng, do có quá nhiều đối tác trên thế giới để khách hang có thể lựa chọn. Chính vì vậy ngoài những biện pháp khác như nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm...thì việc đầu tư để hoàn thiện chính sách giá một cách phù hợp là điều kiện cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Tổng Công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, thay đổi mẫu mã phù hợp đối với từng đối tượng khách hàng và làm tốt công tác tiếp thị nên sản phẩm của Tổng công ty đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị fần trong nước cũng như ngoài nước.
2.2.5. Giải pháp về đầu tư cơ sở hạ tầng.
Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh có doanh thu lớn nhất là từ việc bán các sản phẩm khoáng sản. Để nâng cao năng suất và cường độ làm việc thì cơ sở hạ tầng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Muốn cho hoạt động của Tổng Công ty diễn ra liên tục, không ngừng, Công ty phải chuẩn bị tốt các yếu tố đầu vào cũng như các điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất như: nguyên liêu, thiết bị, kho tàng, bến bãi....của dây chuyền sản xuất góp phần duy trì sản xuất, đáp ứng dược yêu cầu sản xuất, tăng khả năng đáp ứng nhu cầu trên thị trường Công ty.
Đầu tư xây dựng thêm các công trình giao thông đi lại giữa các hầm mỏ, điều này sẽ làm cải thiện điều kiện thi công, tiết kiệm đáng kể thời gian chi phí vận chuyển, từ đó giảm giá thành sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Xây dựng thêm nhà ở cho công nhân người lao động yên tâm sản xuất. Nhà ở cho cán bộ công nhân viên là một trong những chính sách mà công ty nên quan tâm triển khai, bởi lẽ, nó có tác dụng lan tỏa rất lớn trong việc tạo một tâm lý yên tâm cho người lao động, khiến họ gắn bó với công ty, coi công ty như ngôi nhà của mình. Đây cũng là một trong những chính sách đem lại hiệu quả xã hội rất cao, và đang được khuyến khích thực hiện. Với những hiệu quả về mặt xã hội như vậy, việc huy động vốn sẽ thuận tiện hơn. Bởi lẽ, ngoài huy động vốn từ nhà nước thì người lao động cũng sẵn sàng góp vốn để xây lên chính ngôi nhà của mình.
Mua sắm thêm các thiết bị phục vụ sản xuất trong hầm mỏ như xe chuyên chở khoáng sản, máy xúc, máy đào.....
Công ty nên chủ động đầu tư trang thiết bị, máy móc để chủ động trong công tác vận chuyển nguyên liệu phục vụ tốt cho việc sản xuất kinh doanh có như vậy Công ty mới khắc phục được khó khăn và phát triển ngày một đi lên.
2.2.6. Nâng cao chất lượng quản lý các dự án đầu tư của tổng công ty.
Hoạt động sản xuất kinh doanh đa lĩnh vực, với nhiều công ty con, công ty liện doanh liên kết, cùng một lúc thực hiện nhiều dự án là đặc điểm nổi bật của tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh. Chính vì thế, công tác quản lý các dự án đầu tư của công ty không hề đơn giản mà rất phức tạp do phải cùng lúc quản lý nhiều dự án khác nhau. Chính những hạn chế trong tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tư đã làm ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả của các dự án đầu tư của công ty. Chính vì thế, trong thời gian tới TCT cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện và nâng cao chất lượng của công tác tổ chức thực hiện và quản lý dự án.
2.2.6.1. Công tác lập và thẩm định dự án đầu tư
Công tác lập dự án của công ty do phòng phát triển dự án của công ty đảm nhiệm. Tuy nhiên, do các dự án của công ty rất đa dạng về lĩnh vực trong đó có cả các lĩnh vực mới mà công ty còn ít kinh nghiệm. Chính vì thế, trong một số trường hợp, với các dự án đầu tư ở các lĩnh vực mới, công ty có thể thuê các tổ chức tư vấn lập các dự án để đảm bảo dự án đầu tư được lập một cách khoa học, chính xác. Ngoài ra, công ty cũng cần chú ý trong việc đào tạo đội ngũ nhân sự phụ trách việc lập dự án, xây dựng một quy trình lập dự án hoàn thiện, làm cơ sở cho việc lập dự án được thuận lợi. Với công tác thẩm định dự án, công ty cần đảm bảo thực hiện theo đúng nguyên tắc thẩm định và các bước thẩm định, đảm bảo hiệu quả của thẩm định vì bước thẩm định có vai trò như một bộ lọc để lựa chọn dự án hiệu quả nhất.
2.2.6.2. Công tác quản lý dự án đầu tư
Công tác tổ chức và quản lý dự án đầu tư của công ty cần được chuyên nghiệp hóa và có sự phân công công việc cụ thể, tránh gây ra hiện tượng chồng chéo trong quản lý dự án, đặc biệt cần có cơ chế giám sát, thanh tra thật chặt chẽ để hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng lãng phí và thất thoát vốn đầu tư. Ngoài ra, cần đề ra kế hoạch dự án cụ thể chứ không thể chung chung, trong đó phải bao gồm các loại kế hoạch tiến độ, kế hoạch vật tư, kế hoạch nhân sự... . Các kế hoạch này cần phải phù hợp với nhau, đồng thời cần phải đảm bảo tính phù hợp giữa nguồn lực hiện có của công ty với nhu cầu đầu tư, để tránh tập trung nguồn lực trong một thời gian sẽ gây ra khó khăn trong việc thực hiện dự án cũng như huy động nguồn lực. Sau khi kế hoạch dự án được xây dựng cần tổ chức thực hiện và quản lý dự án dựa trên một hệ thống chuẩn để quản lý đồng thời việc phân phối nguồn lực, quản lý chi phí, dự toán ngân sách, quản lý chất lượng dự án. Đồng thời cũng cần có sự giám sát và đánh giá dự án một cách chặt chẽ nhằm phàn hồi ngay khi có những biến động bất thường hay những khó khăn để kịp thời tháo gỡ khó khăn và đảm bảo dự án thực hiện đúng tiến độ. Trong điều kiện nguồn lực bị hạn chế, công ty không nên đầu tư dàn trải mà cần có sự phân tích để đưa ra quyết định lựa chọn những dự án có tiềm năng nhất, tạm thời đình hoãn các dự án chưa cần thiết để tập trung các nguồn lực hạn chế vào một dự án. Đối với công tác giải phóng mặt bằng vốn là một khó khăn đáng kể không chỉ với TCT mà còn xảy ra với hầu hết các doanh nghiệp khác trong quá trình triển khai dự án, TCT cần có một chính sách đền bù giải phóng mặt bằng hài hòa về mặt lợi ích, đáp ứng được lợi ích của cả ba bên : Nhà đầu tư- địa phương- người dân nằm trong diện phải giải tỏa, đồng thời cần có những chính sách hỗ trợ thiết thực ngoài tiền đền bù với người dân địa phương như đào tạo nghề giúp họ chuyển đổi nghề và bắt đầu cuộc sống mới. Tạo thêm các việc làm, ưu tiên tuyển dụng lao động địa phương.
2.2.6.3. Công tác quản trị rủi ro các dự án đầu tư
Việc kinh doanh đa ngành nghề một mặt có thể hạn chế được rủi ro bằng cách đa dạng hóa hoạt động song trên thực tế điều này lại tiềm ấn những rủi ro khác, đó là do việc đa dạng hóa dẫn tới việc công ty tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh không phải là lĩnh vực chuyên môn sâu, thậm chí ở những lĩnh vực hoạt toàn không liên quan tới hoạt động đầu tư quen thuộc. Việc thiếu kinh nghiệm, nguồn lực hạn chế lại bị phân tán, tập trung vào lĩnh vực mới mà bỏ bê lĩnh vực truyền thống còn tiểm ẩn những rủi ro lớn hơn, nhất là khi tình hình thị trường chưa ổn định mà có sự biến động bất thường. Đây cũng là một trong những vấn đề mà thời gian qua các phương tiện thông tin đại chúng đã nhắc đến rất nhiều đối với các tập đoàn lớn của nhà nước chuyển hướng đa dạng hóa kinh doanh nhưng hoạt động kinh doanh truyển thống lại kém hiệu quả. Hiện tượng bùng nổ các công ty chứng khoán và ngân hàng trong giai đoạn 2007 là một ví dụ điển hình khi nhiều công ty đua nhau mở các công ty chứng khoán khi thị trường chứng khoán phát triển quá nóng, cho dù không có kinh nghiệm vào lĩnh vực mới mẻ náy. Thị trường Chứng khoán Việt Nam tụt dốc vào năm 2008 một cách thê thảm do rất nhiều nguyên nhân đã đẩy rất nhiều công ty chứng khoán rơi vào trạng thái sa sút thậm chí phải phá sản và đóng cửa. Chính vì thế, công ty cần coi trọng công tác quản lý rủi ro đồi với các dự án. Nghiệp vụ quản lý rủi ro vốn là một nghiệp vụ ít được quan tâm và thực hiện có hệ thống, chính vì thế, việc xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro có hiệu quả để áp dụng cho công ty là hoàn toàn cần thiết. Quản trị rủi ro cần phải được thực hiện trong tất cả các giai đoạn của dự án từ lập dự án- tổ chức thực hiện và vận hành dự án. Công tác quản trị rủi ro của dự án cần được triển khai qua các bước : Nhận diện rủi roà đánh giá rủi ro à quản trị rủi ro.
2.3. Một số kiến nghị đối với nhà nước
2.3.1. Công tác quản lý nhà nước trong khai thác khoáng sản và quản lý đầu tư.
Tài nguyên khoáng sản là một nguồn lực quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Nguồn lực này không tái tạo được, vì vậy cần phải được quản lý, bảo vệ chặt chẽ, khai thác sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Trong thực tế, công tác quản lý Nhà nước về hoạt động khai thác khoảng sản trong thời gian qua còn tồn tại nhiều bất cập. Cụ thể, Theo quy định, việc thẩm định cấp phép khai thác khoáng sản thông thường thuộc trách nhiệm của Sở TN&MT, nhưng việc quản lý về quy hoạch và xây dựng các công trình phục vụ cho hoạt động khai thác lại thuộc về Sở Xây dựng; Quản lý về kỹ thuật khai thác mỏ, an toàn trong khai thác thuộc Sở Công thương. Do nhiều đầu mối quản lý dẫn đến không quy định trách nhiệm cụ thể, rõ ràng cho từng sở, đã vậy giữa các sở cũng chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý Nhà nước nên việc quản lý Nhà nước về khoáng sản và công nghiệp khai thác chế biến khoáng sản trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn. Điều này, mặt khác cũng tạo ra những khó khăn nhất định trong hoạt động đầu tư của công ty, nhất là trong quy trình hoàn thiện thủ tục đầu tư, xin cấp giấy phép khai thác khoáng sản, duyệt quy hoạch xây dựng và chứng nhận về đảm bảo kĩ thuật xây dựng và an toàn kĩ thuật. Chính vì thế, việc thống nhất quy về một mối trong quản lý khai thác mỏ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý của nhà nước đồng thời thuận lợi cho cả doanh nghiệp trong việc thực hiện các thủ tục hành chính, tiết kiệm được thời gian, chi phí, bắt kịp cơ hội trong đầu tư.
Ngoài ra, cơ quan quản lý hoạt động đầu tư của địa phương cũng cần quan tâm hơn trong việc tháo gỡ những khó khăn mà công ty gặp phải trong quá trình đầu tư trong đó quan trọng nhất là cải thiện thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục đầu tư, và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình giải phóng mặt bằng. Địa phương chính là cầu nối nối giữa người dân địa phương với doanh nghiệp trong giải tỏa mặt bằng, cân bằng lợi ích của cả hai bên để thúc đẩy quá trình giải phóng mặt bằng được diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
2.3.2. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về khai thác khoáng sản.
Hiện nay, ở các tỉnh, thành phố còn nhiều trường hợp vi phạm trong khai thác khoáng sản mà các cơ quan quản lý nhà nước chưa xử lý triệt để. Phổ biến nhất là các hình thức như: Công suất khai thác và thời gian khai thác vượt quá quy định trong giấy phép; Nhiều giấy phép do UBND tỉnh cấp chưa có báo cáo kết quả thăm dò khoáng sản, tên gọi các loại khoáng sản ghi trong giấy phép chưa thống nhất; Báo cáo đánh giá tác động môi trường có công suất lớn hơn công suất mỏ; Chia nhỏ những khu mỏ có quy mô lớn thành những khu vực nhỏ để cấp cho nhiều doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, tài nguyên khoáng sản khai thác, sử dụng chưa triệt để...
Chính vì thế, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản, thời gian tới bên cạnh việc sửa đổi một số điều trong Luật Khoáng sản, Nhà nước cần sửa đổi một số văn bản pháp quy có liên quan đến lĩnh vực khai thác, chế biến khoáng sản; Xây dựng quy trình cấp phép thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh; Tăng cường công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản các cấp.
2.3.3. Hỗ trợ vốn
Vốn là nguồn lực không thể thiếu trong hoạt động đầu tư phát triển, đặc biệt là hoạt động đầu tư theo dự án thường có nhu cầu vốn thường rất lớn. Chính vì thế, nhà nước cần có chính sách hỗ trợ vốn hay tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tín dụng ưu đãi đối với việc huy động vốn cho các dự án đầu tư phát triển có hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội cao. Điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước trong đó có TCT khoáng sản và thương mại sẽ luôn trông chờ vào nguồn vốn của nhà nước mà mất đi sự chủ động trong việc tìm kiếm các nguồn lực từ bên ngoài để huy động cho đầu tư phát triển. Hơn nữa, vốn nhà nước dưới dạng xin cho sẽ giảm dần dẫn tới cắt hẳn. Nhà nước chỉ đứng ra như một đơn vị bảo lãnh để doanh nghiệp vay vốn và tiếp cận với các nguồn vốn ưu đãi để thực hiện các dự án tiềm năng. Đặc biệt là khi nền kinh tế Việt Nam đang phải chịu những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới thì việc chính phủ thực hiện các chính sách kích cầu trong đó có kích cầu đầu tư thông qua gói hỗ trợ lãi suất cho vay trung và dài hạn là rất thiết thực. Tuy nhiên, để được hưởng lãi suất ưu đãi từ gói kích cầu này, công ty cũng cần lựa chọn dự án có tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, có như thế thì việc tiếp cận vốn mới dễ dàng và sau khi tiến hành hoạt động đầu tư thì khả năng thu hồi vốn và trả nợ mới được đảm bảo.
Như vậy, nhà nước cũng đóng vai trò nhất định trong việc thực hiện các chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư phát triển của công ty. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, các chính sách của nhà nước không chỉ có tác dụng với riêng công ty mà sẽ đem lại những tác động tích cực cho rất nhiều công ty khác, trong đó có nhiều đối thủ cạnh tranh của TCT Khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh. Chính vì vậy, việc tận dụng thời cơ và cơ hội mà môi trường bên ngoài để nâng tầm sức mạnh nội tại của công ty mới là vũ khí giúp công ty có thể thắng được trong cạnh tranh và phát triển bền vững.
KẾT LUẬN
Trước sự thay đổi không ngừng của cơ chế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước đã vấp phải không ít khó khăn. Doanh nghiệp trong lĩnh vực khai thác khoáng sản cũng vậy. Tuy có lợi thế về nhiều mặt song khó khăn cũng không ít. Đầu tư cho những hạng mục thiết yếu đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Không nằm ngoài quy luật đó, Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh cũng đã từng bước hoàn thiện chính sách đầu tư của mình, bên cạnh những bất cập đang tồn tại thì Tổng công ty cũng đã có những hướng đi đúng đắn trong hoạt động đầu tư. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng công ty
Một lần nữa em xin cảm ơn ThS. Hoàng Thu Hà đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Qua đây em xin cảm ơn sự giúp đỡ từ phía Tổng Công ty Khoáng sản và Thương mại Hà Tĩnh đã nhiệt tình giúp đỡ em về mặt thực tiễn và cung cấp cho em những tài liệu quan trọng làm cơ sở nghiên cứu đề tài, giúp em hoàn thành chuyên đề thực tập.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, PGS.TS. Từ Quang Phương -Giáo trình Kinh tế đầu tư – NXB Đại học Kinh tế quốc dân- Hà Nội- 2007
PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt - Giáo trình Lập và phân tích dự án- Trường ĐHKTQD- Hà Nội- 2005
Báo cáo làm việc với Tỉnh uỷ Hà Tĩnh của Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh
Báo cáo tài chính của Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh
Số liệu tổng kết cuối năm của các Phòng tại Tổng công ty khoáng sản và thương mại Hà Tĩnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21954.doc