Chuyên đề Một số giải pháp phát triển Khu công nghiệp Bỉm Sơn đến năm 2010 và những năm tiếp theo

Với những đặc tính ưu việt của mình, mô hình KCN, KCX đã nổi lên như một kiểu mẫu hiện đại trong số các công cụ nhằm thu hút và sử dụng hiệu qủa vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự phát triển thành công của nhiều KCN, KCX trên thế giới đã chứng minh đây là mô hình đạt hiệu suất cao trong một khoảng thời gian tương đối ngắn để có thể phát triển hoàn thiện nền sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu nhằm phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Và những thành tựu to lớn mà các KCN, KCX đã đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam những năm qua không thể phủ nhận được.

doc64 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển Khu công nghiệp Bỉm Sơn đến năm 2010 và những năm tiếp theo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng 9: Tình hình thu hút lao động trong KCN của thị xã Bỉm Sơn. Đơn vị: người lao động. KCN Nhu cầu lao động Lao động sử dụng Khu A 3.427 2.854 Khu B 2.644 2.091 Tổng 6.071 5.945 Nguồn: Ban quản lý các KCN Bỉm Sơn KCN của thị xã đã giải quyết việc làm cho khoảng 4.954 người lao động. Trong đó đã góp phần giải quyết lao động nhàn rỗi, làm tăng thu nhập cho người dân trong thị xã. Đồng thời góp phần làm giảm tiêu cực trong xã hội do đã giải quyết đươc một số lượng lớn lao động. Thật vậy qua bảng trên ta có thể thấy được nhu cầu lao động trong KCN là tương đối (4.945người), trong đó số lao động sử dụng ở Khu A chiếm 51,84% tổng số lao động sử dụng, với mức sử dụng lao động l.2854 người. Nhu cầu lao đông của Khu A này cũng cao hơn so với Khu B là 581 người, chiếm 56,45% tổng số nhu cầu lao động của KCN. Qua đó có thể thấy KCN đã góp phần tích cực trong việc giải quyết việc làm cho một khối lượng khá lớn lao động của địa phương. Không những vậy các lao động trong KCN còn có mức thu nhập ổn định và cao hơn so với mặt bằng chung của Bỉm Sơn, giảm bớt sức ép về lao động đối với xã hội và giảm được lao động di cư theo thời vụ từ Bỉm Sơn đến các đô thị lớn tỉnh, miền trung và cả nước mà tập trung là ở Hà Nội. Từ đó góp phần tích cực vào việc thực hiện công tác chính trị của đảng bộ và nhân dân Bỉm Sơn là thực hiện công cuộc xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao mức sống nhân dân, ổn định tình hình chính trị và đảm bảo an ninh trật tự xã hội. Sự ra đời và phát triển của KCN đã thúc đẩy việc nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động. Do đó việc ra đời của KCN đã góp phần nâng cao nguồn nhân lực của thị xã. 4.1.5. Tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương. Trước khi thành lập thị xã, năm 1981 tổng thu ngân sách trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn không là bao nhiêu trong đó hầu như là thu từ tiền thuế đất, đất công nghiệp và các doanh nghiệp ở trên địa bàn thị xã. Năm 2006 thu ngân sách của thị xã đã đạt 519 tỷ đồng trong đó có 420 tỷ đồng thu từ hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Nhìn chung phần lớn ngân sách đạt 519 tỷ đồng năm 2006 thì trong đó tiền thu từ các khoản thuế, lệ phí và các khoản thu từ hoạt động dịch vụ do các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh nói chung và trong KCN nói riêng chiếm chủ yếu. Điều này đã đóng góp phân lớn vào sự phát triển về kinh tế xã hội của thị xã. 4.1.6. Khu công nghiệp đóng góp vào tăng trưởng GDP của Thị xã Bỉm Sơn trong thời gian qua. Trong giai đoạn 2001-2005 KCN trên địa bàn thị xã Bỉm Sơn đã có chiều hướng phát triển và thu hút các nhà đầu tư trong nước và mhpào nước, ngày càng tăng nhanh các doanh nghiệp đầu tư vào KCN. Điều này làm KCN đóng góp phần lớn cho ngân sách Nhà nước của địa phương, bình quân hàng năm giá trị sản xuất CN tăng 17,1%. Việc phát triển KCN đã nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, tăng lợi nhuận, đồng thời làm mở rộng quy mô sản xuất góp phần làm tăng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp và góp phần làm tăng trưởng về kinh tế của thị xã. tăng trưởng kinh tế của thị xã trong giai đoạn 2001-2005 là 17,3%, năm 2006 là 16,5%. 4.2. Những hạn chế trong việc phát triển khu công nghiệp và nguyên nhân của nó. 4.2.1. Những hạn chế. - Qua nghiên cứu việc thu hút đầu tư vào KCN của thị xã Bỉm Sơn những năm qua cho thấy bên cạnh những thành công bước đầu trong công tác thu hút vẫn còn có một số tồn tại, vướng mặc cần tháo gỡ: + Về công tác đền bù giải phóng mặt bằng + Về tiến độ thi công cơ sở hạ tầng của các công ty xây dựng + Về quy hoạch sử dụng đất và đầu tư xây dựng đường công nghiệp + Công tác vận động và xúc tiến đầu tư + Về dịch vụ như: Cấp thoát nước, Về xử lý chất thải, Về chỗ ở cho người lao động, Về đào tạo việc làm, Cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, + Cạnh tranh trong thu hút đầu tư - Ngoài ra lao động trong KCN còn nhiều bất cập: nguồn lao động của địa phương khi được tuyển dụng phần lớn chưa được đào tạo các cơ sở đào tạo nghề của thị xã chưa phát triển nên các doanh nghiệp KCN ngoài việc tự đào tạo tại chỗ còn phải đưa công nhân đi học tại các nơi khác, do đó vừa gây khó khăn tốn kém cho người lao động vừa làm giảm tính hấp dẫn của mối trường đầu tư trên địa bàn thị xã. Việc phối hợp cơ quan quản lý lao động, các đơn vị đào tạo nghề thời gian qua đã có những cố gắng đáng kể tuy nhiên việc phối hợp này vẫn còn thụ động. Tuy nhiên khi đào tạo xong thì một số lao động lại không có tay nghề tốt để đảm nhiệm công việc, ngoài ra còn có tình trạng lao động đi làm việc ở nơi khác. 4.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trên. Nhiều nhà đầu tư lớn đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài mà muốn liên doanh với nhà đầu tư trong nước, để thuận lợi cho công việc liên quan đến thủ tục, mạng lưới phân phối có sẵn để tiêu thụ sản phẩm. Vì thế, trong năm gần đây thị xã do sản xuất chưa phát triển các dự án đầu tư trong nước còn trong giai đoạn đầu tư ban đầu thì trên địa bàn thị xã không có đối tác tại chỗ để liên doanh, hạn chế đến việc thu hút các dự án đầu tư lớn của các nhà đầu tư. Việc tìm kiếm chủ đầu tư xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng trong KCN còn khó là vì: chi phí để xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn ít các chủ đầu tư có thể đáp ứng được. Thêm vào đó do tác động của các nhân tố kinh tế khác đã làm cho chi phí đầu tư xây dựng tăng lên từ đó đẩy chi phí cho thuê đất cũng tăng theo, chính điều này đã làm hạn chế việc thu hút các nhà đầu tư vào trong KCN. Cơ chế “một cửa tại chỗ” chưa được triển khai một cách triệt để, đồng bộ. Việc giải quyết các vướng mắc, thủ tục còn lê mề và chồng chéo. Chưa phát huy tác dụng của cơ chế uỷ quyền mà chỉ giới hạn trong một số nhiệm vụ nhất định nên việc giải quyết các công việc còn rất chậm và chưa triệt để. Các cơ quan ban ngành chưa thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau để cùng giải quyết vấn đề vướng mắc cho các nhà đầu tư. Các dịch vụ hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt là dịch vụ tư vấn pháp luật hoạt động còn kém, khiến các nhà đầu tư nước ngoài tốn nhiều công sức và thời gian tìm hiểu hệ thống pháp luật và các điều kiện đầu tư. Nguồn lao động của địa phương chưa đáp ứng được những yêu cầu của các nhà đầu tư về chất lượng. Cơ cấu giữa đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp-kỹ thuật và các ngành nghề được đào tạo rất chênh lệch. Lực lượng lao động kỹ thuật chưa đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp. Do KCN có sẵn cơ sở hạ tầng, nhà đầu tư phải thoả thuận với địa phương về đơn giá đền bù giải phóng mặt bằng. vì thế không xác định được chính xác thời gian cần thiết để giải phóng mặt bằng làm các nhà đầu tư e ngại khi lựa chọn để đầu tư. Trên thực tế còn có hiện tượng do tâm lý khi tiếp xúc với các nhà đầu tư nước ngoài ngươi dân thường đòi hỏi cao hơn so với các nhà đầt tư trong nước. Cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN của thị xã đã từng bước được nâng cấp, xong vẫn chưa theo kịp với sự phát triển chung trong thời đại khoa học kỹ thuật, chưa đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư. CHƯƠNG III. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KHU CÔNG NGHIỆP BỈM SƠN ĐẾN NĂM 2010 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO. 1. Mục tiêu và quan điểm phát triển Kinh tế- Xã hội của thị xã đến năm 2010. 1.1. Mục tiêu phát triển Kinh tế Xã hội. 1.1.1. Dư báo về phát triển kinh tế. Theo dự báo của hội nghị kiểm điểm tình hình khu vực kinh tế trong nước thì trong những năm tới khu vực kinh tế của tỉnh Thanh Hoá sẽ là một trong những khu vực có tốc độ tăng trưởng không cao. Là một thị xã nằm giữa miền Bắc và miền Trung, nơi tiếp nối giao thương của hai miên, việc phát triển kinh tế- xã hội của thị xã gắn liền với chiến lược phát triển của hai miền và cả nước. Mục tiêu chung đã được đặt ra là phải phát triển kinh tế với tốc độ cao ổn định, trên cơ sở tăng nhanh về giá trị sản xuất công nghiệp - dịch vụ kết hợp với sự chuyển đổi mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp, phấn đấu đưa thị xã Bỉm Sơn cơ bản trở thành một đô thị công nghiệp trước năm 2020 với cơ cấu kinh tế hợp lý. Mức GDP bình quân đầu người của thị xã cao, tiếp tục quan tâm giải quyết tốt các vần đề xã hội, giữ vững chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội. 1.1.2. Mục tiêu chung. Thực hiện đường lối đổi mới theo hướng CNH- HĐH của Đảng, đẩy mạnh công nghiệp hoá, khai thác tiềm năng, thế mạnh của thị xã, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển công nghiệp, dịch vụ với tốc độ cao và bền vững; đẩy nhanh tốc độ chỉnh trang đô thị; xây dựng và phát triền KCN theo hướng hiện đại hoá; thực hiện tốt các vấn đề Văn hoá - Xã hội của KCN; giữ vững nề nếp tác phong làm việc của người lao động. Xây dựng hệ thống quản lý vững mạnh và phấn đấu đến năm 2010 thị xã đạt tiêu chuẩn đô thị loại III. 1.1.3. Mục tiêu cụ thể. - Hoàn thành quy hoạch chi tiết, đẩy nhanh quy hoạch khu CN và khu đô thị mới, làm cơ sở hạ tầng và các công trình phúc lợi, tạo điều kiện kêu gọi các DN đầu tư vào KCN. Tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá. Tập trung vào các ngành chế tạo cơ khí và ngành nghề thu hút nhiều lao động. Duy trì phát triển ngành nghề Công nghiệp hiện có để nhân rộng trên địa bàn tạo thêm việc làm cho lao động, đặc biệt là lao động khu vực nông thôn. - Tăng cường công tác quản lý quy hoạch, quản đất đai và công tác XDCB, quản lý môi trường đô thị để thị xã được xanh sạch đẹp. Tăng cường công tác nắm bắt thông tin, thu hút các dự án đầu tư vào khu công nghiệp. Tạo nguồn vốn đầu tư bằng cách khai thác và huy động tốt các nguồn vốn trên địa bàn và nguồn vốn từ bên ngoài, tranh thủ sự hỗ trợ đầu tư bằng nguồn ngân sách cấp trên, nguồn đầu tư của các ngành Trung ương, nguồn vốn từ quỹ đất để có đủ kinh phí đầu tư phát triển khu CN và hạ tầng đô thị Có chính sách khuyến khích đào tạo nâng cao trình độ và thu hút nguồn nhân lực từ nay đến năm 2010 giải quyết 10.000 việc làm cho người lao động. - Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 27%, trong đó Công nghiệp - Xây dựng 26.6% - GDP bình quân đầu người 2.434 USD theo giá cố định. - Cơ cấu GDP: Công nghiệp - Xây dựng 76,0%, 1.2. Quan điểm phát triển khu công nghiệp của Thị xã Bỉm Sơn. 1.2.1. Những quan điểm cơ bản. Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo và làm nòng cốt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở thị xã Bỉm Sơn. Công nghiệp phải luôn phát triển với tốc độ cao và có hiệu quả, phải gắn phát triển công nghiệp với xây dựng hệ thống cơ sở kết cấu hạ tầng. Phát triển các ngành công nghiệp có giá trị sản xuất cao có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp của địa phương khác trên cơ sở khai thác triệt để các nguồn nhân lực của thị xã Bỉm Sơn đồng thời thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Phát triển các ngành công nghiệp mới, ngành công nghiệp then chốt, ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp lắp ráp và một số ngành công nghiệp có sử dụng nhiều lao động. Phát triển và phân bố hợp lý các ngành sử dụng nguyên liệu tại địa phương là nguyên liệu từ nông nghiệp- lâm nghiệp. Khuyến khích phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, phát triển các ngành nghề truyền thống nhằm giải quyết việc làm cho người lao động, đổi mới cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá. Hình thành cụm CN tập trung gắn với quốc lộ 1A, từng bước hoàn thành hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước. Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, tìm kiếm đối tác để giải quyết vấn đề về vốn, công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm và ưu tiên lựa chọn cho công nghệ tiên tiến, hiện đại đáp ứng yêu cầu hướng mạnh về xuất khẩu. 1.2.2. Quan điểm đẩy mạnh phát triển khu công nghiệp Bỉm Sơn. Để đạt mục tiêu chủ yếu đến năm 2010 giá trị sản xuất công nghiệp tăng trên 27%/ năm, góp phần đưa tổng giá trị sản xuất của thị xã lên 9.840 tỷ đồng gấp 3,3 lần năm 2005. Với mục tiêu đề ra đó nếu chỉ dựa vào nguồn vốn đầu tư trong thim xã, tỉnh thì rất khó thực hiện được, mà một phần lớn của nguồn vốn này phải huy động qua các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tỉnh ngoài. Để làm được điều này Đảng bộ và chính quyền thị xã Bỉm Sơn đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của việc phát triển KCN tập trung trong việc thu hút vốn đầu tư, góp phần phát triển nền công nghiệp của thị xã. Kết hợp liên doanh với nước ngoài và tự đầu tư trong nước trong quá trình xây dựng KCN ở thị xã. Với hình thức vốn liên doanh có thể thu hút vôn đầu tư nước ngoài trong quá trình hình thành KCN gồm đầu tư trực tiếp, liên doanh, liên kết và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm tạo nên sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp vào KCN. Hình thức này tạo ra lợi thế triển khai xây dựng nhanh, nhưng chỉ thực hiện với sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Do đóthị xã luôn có những lựa chọn ưu tiên, chủ động tiến hành các biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài. Xây dựng KCN phải tiến hành dứt điểm, tránh tràn lan. Kinh nghiệm phát triển của các KCN thời gian qua cho thấy thời gian thu hồi vốn cho hạ tầng chậm, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kém. Để đảm bảo hiệu quả cao trong phát triển KCN, cần tập trung đầu tư dứt điểm kết cấu hạ tầng của KCN đồng thời có chính sách khuyến khích để thu hút nhanh các doanh nghiệp trong và ngoài nước. 1.2.3. Quan điểm đẩy mạnh công tác hợp tác đầu tư. Phát huy nội lực của thị xã về nguồn nhân lực, vị trí địa lý, cơ chế chính sách để đẩy mạnh việc vận đông thu hút đầu tư, tổ chức thực hiện và triển khai các dự án đầu tư nước ngoài, trong tỉnh, ngoài tỉnh, tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công nghị quyết Đại Hội đại biểu toàn quốc. Trong giai đoạn 2006- 2010 việc đẩy mạnh hợp tác đầu tư vẫn là một giải pháp hết sức cần thiết để hình thành và phát triển các KCN tập trung, để tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương tiến tới trở thành một thị xã công nghiệp. Đây là giai đoạn quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, đảm bảo sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong thị xã nói chung và các doanh nghiệp trong KCN nói riêng với khu vực trong nước và trên thế giới. Bởi thế việc tiếp nhận và triển khai các dự án vào địa bàn thị xã với mục tiêu đạt tổng số vốn thực hiện tương đối, sản phẩm sản xuất ra có khả năng cạnh tranh cao, thu hút nhiều lao động đã trở nên rất khẩn trương. Và nhiêm vụ này càng khẩn trương hơn khi xuất hiện một số lợi thế tương đối về thu hút đầu tư vào địa phương đang ngày càng giảm đi khi xuất hiện những ưu thế của các KCN lân cận về khả năng cạnh tranh thu hút vốn đầu tư. Để đảm bảo cho nền kinh tế ở thị xã có đủ sức hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Với quan điểm cho vấn đề vận động thu hút các nhà đầu tư thì thị xã phải chấp nhận cơ chế thị trường, chấp nhận và tạo điều kiện cho các dự án đầu tư cạnh tranh công bằng và chấp nhận giải quyết hậu quả kinh tế xã hội khi một tỷ lệ nhất định các dự án thua lỗ trong đầu tư. 2. Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về phát triển khu công nghiệp. 2.1. Kinh nghiệm của khu công nghiệp kiểu mẫu Quế Võ Tỉnh Bắc Ninh Đây là một trong những KCN lớn nhất và quan trọng nhất của tỉnh Bắc Ninh cũng như cả miền Bắc. KCN kiểu mẫu Quế Võ gồm khu đô thị-Khu du lịch sinh thái, đây được coi là KCN kiểu mẫu của cả nước. Với vị trí trọng điểm trong việc đầu tư phát triển KT - XH của tỉnh Bắc Ninh, KCN Quế Võ không chỉ thuận lợi về giao thông mà còn vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội giao thông và thương mại với các tỉnh lân cận như: Hải Phòng,Thái Nguyên, Hải Dương, Hưng Yên… Đầu tư vào KCN Quế Võ, được thực hiện theo cơ chế “một cửa” đã giúp các nhà đầu tư tiết kiệm được rất nhiều thời gian và tiền bạc. Ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng để tiếp đón các nhà đầu tư tới thuê đất. Thì KCN Quế Võ còn học tập kinh nghiệm của KCN Tân Tạo vốn thành công trong việc xây dựng nhà xưởng, sẵn sàng cho các nhà đầu tư thuê hoặc mua trả góp trong vòng 10 năm. Quy mô vốn xây dựng nhà xưởng lên tới 200 tỷ VNđồng. Ở đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể thuê nhà xưởng như vậy sẽ tiết kiệm được tiền thuê đất, chi phí và thời gian xây dựng Sự phát triển quần thể kiến trúc hiện đại từ KCN, khu dân cư, đến dịch vụ đã tạo ra sự hài hoà về mặt xã hội từ việc có một nhà máy để tạo ra công ăn việc làm, đến việc giải quyết nơi ăn chốn ở cho cán bộ công nhân viên và đặc biệt là tạo nơi ở đạt tiêu chuẩn cho những người lao động có thu nhập thấp. Quần thể KCN - dân cư - dịch vụ Quế Võ Tỉnh Bắc Ninh là một mô hình đầu tiên xây dựng theo quan điểm hoàn toàn mới về KCN. Hiện nay, quần thể này được đánh giá là điển hình cho mô hình xây dựng và phát triển KCN. Trong tương lai gần thì quần thể KCN- dân cư- dịch vụ sẽ tạo nên một tổng thể hoàn chỉnh của KCN kiểu mẫu, đáp ứng đầy đủ điều kiện cơ sở hạ tầng, nhà ở, các dịch vụ công cộng hiện đại và tiện ích cho người lao động. Với những ưu thế đó KCN kiểu mẫu này sẽ là kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho các địa phương khác của cả nước đặc biệt là đối với Bỉm Sơn-một thị xã có nhiều điểm tương đồng với Bắc Ninh. 2.2. Kinh nghiệm của khu công nghiệp Dung Quất. KCN Dung Quất đã cho phép các doanh nghiệp của Việt Nam dùng giá trị quyền sử dụng đất của mình để góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác trong nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp này sau khi thuê đất để thực hiện dự án đầu tư của mình vào các lĩnh vực khuyến khích thì được cho phép nộp chậm tiền thuê đất một thời gian tối thiểu là 3 năm. Ban quản lý KCN Dung Quất cùng UBND các tỉnh thành có liên quan đảm bảo tổ chức công tác đền bù, giải phóng mặt bằng đúng tiến độ trong cùng một khu vực đất đai và cùng thời điểm. Ban quản lý này cũng thực hiện chính sách một giá nghĩa là các nhà đầu tư trong và ngoài nước được hưởng mức giá đầu vào một số dịch vụ tiện ích như điện, nước, bưu chính viễn thông... . Điều này đã tạo ra một sân chơi công bằng cho tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. KCN Dung Quất được ưu tiên thuận lợi hơn nhiều so với các KCN khác về vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng: Nguồn điện: có hai nguồn riêng 220 KV. Cấp nước: 2 nguồn riêng( 100.000m3 và 15000m3 ). Viễn thông: nguồn riêng (10 triệu USD vốn ODA). Đường bộ: ngân sách Nhà nước đầu tư các trục chính. Đường sắt: có tuyến đường sắt riêng ra cảng. Đường không: có sân bay riêng bên trong. Đường biển: có hệ thống cảng riêng bên trong. KCN Dung Quất đã quảng bá tiềm năng, cơ hội đầu tư vào KCN của mình băng cách lập và đưa lên mạng trang Web về KCN và ghi vào đĩa CD đầy đủ những nội dung về KCN. Điều này giúp cho nhà đầu tư có được những thông tin chính xác và cập nhật mới nhất về môi trường đầu tư tại KCN. Dung Quất đã kết hợp với phòng Thương mại- Công nghiệp Việt Nam và các tổ chức tư vấn có uy tín cao trong nước, nước ngoài để tổ chức kêu gọi đầu tư tại một số nước phát triển có quan hệ đầu tư với Việt Nam. Chủ động, sẵn sàng gặp gỡ, tiếp xúc các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi họ có ý định đầu tư vào KCN, qua đó trực tiếp đàm phán, thảo luận và cung cấp cho họ những thông tin, tài liệu cần thiết cho việc quyết định đầu tư...của các nhà đầu tư. 2.3. Kinh nghiệm của các khu công nghiệp Đồng Nai. Các KCN Đồng Nai luôn luôn là điểm sáng về thu hút đầu tư trong những năm gần đây. Việc tạo ưu đãi cho các nhà đầu tư bằng những cơ chế chính sách thông thoáng, với giá thuê đất rẻ, thủ tục hành chính đơn giản, thuận tiện là những lý do cơ bản khiến các KCN Đồng Nai thu hút được nhiều nhà đầu tư đến với mình. Đồng Nai là địa bàn điển hình của cả nước về phát triển KCN. Tính về số lượng KCN được xây dựng trên địa bàn thì Đồng Nai (với 10 KCN) chỉ đứng sau TPHCM (với 12 KCN). Đồng Nai bây giờ không còn là vùng đất nghèo như nhiều năm về trước. Với luồng vốn đầu tư khổng lồ hội tụ từ các nhà đầu tư từ khắp mọi nơi trên thế giới chảy về đã biến đây thành một vùng đất công nghiệp năng động, thay ra đổi thịt từng ngày. Thành quả mà các KCN Đồng Nai tạo dựng cho mình được hôm nay là có sự đóng góp rất lớn của Ban quản lý các KCN Đồng Nai. Chế độ “một cửa, tại chỗ” là thế mạnh nổi cộm trong việc thu hút đầu tư vào Đồng Nai, song nó cũng đồng thời đặt lên vai Ban quản lý các KCN này những trách nhiệm nặng nề của một đơn vị quản lý đầu tầu. Khối lượng công việc mà Ban quản lý phải xử lý, giải quyết hàng ngày thì có thể nói đâu là một trong những Ban quản lý “bận bịu” nhất so với các ban quản lý KCN khác trong nước. Hầu như mọi phát sinh, tranh chấp, mâu thuẫn trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN đều cần có sự tham gia giải quyết của Ban quản lý. Khi thì ở vai trò trung gian, hoà giải, khii thì trở thành đầu mối phối hợp với các cơ quan liên ngành trực tiếp xử lý vướng mắc cho doanh nghiệp. Với trách nhiệm nhiệt tình và tâm huyết trong công việc đó thì Ban quản lý các KCN Đồng Nai đã thực sự trở thành cây cầu nối đảm bảo cho các nhà đầu tư với người lao động và các cơ quan Nhà nước có liên quan. Tuy nhiên với sức ép cạnh tranh để thu hút đầu tư vào các KCN đang diễn ra hiện nay đã đặt ra những thách thức không nhỏ cho các KCN Đồng Nai. Trong tình cảnh ấy, để chủ đông thích ứng với tình hình, Đồng Nai đã tự hoạch định cho mình các chiến lược thu hút đầu tư hợp lý. Bên cạnh việc cải thiện, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng cả trong và ngoài hàng rào KCN, tạo mặt bằng cơ chế chính sách thực sự thông thoáng và cởi mở… Đồng Nai còn thực hiện các chiến lược để tự mình tìm đến với các nhà đầu tư chứ không ngồi chờ nhà đầu tư đến. Các cuộc vận động xúc tiến đầu tư do các ban, ngành trong tỉnh phối hợp tổ chức khá quy mô và thống nhất đã đem lại hiệu quả đáng kể cho sự phát triển của các KCN Đồng Nai. Với nhiều thách thức tiềm ẩn song với kinh nghiệm hoạt động và những thành công đã đạt được- Đồng Nai vẫn thực sự là điểm sáng trong thu hút đầu tư nước ngoài tạo nên những KCN phát triển cho các địa phương khác học hỏi. Nghiên cứu thành công của các KCN trên ta có thể rút ra bài học cho Bỉm Sơn. Cần có một kế hoạch tốt bao gồm từ kế hoạch mục tiêu đến kế hoạch cụ thể để khuyếch trương xây dựng, vận động quảng bá tiềm năng cơ hội để thu hút vốn đầu tư. Cần phải mạnh dạn cho việc đầu tư xây dựng và bảo đảm cung cấp đủ hệ thống cơ sở hạ tầng cho việc triển khai các hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của KCN. Mặt khác phải giữ sao cho những chi phí xây dựng đầu tiên thật cần thiết và ít tốn kém nhất, điều này còn tuỳ vào địa điểm KCN được lựa chọn xây dựng. Một môi trường đầu tư tốt có sức hấp dẫn mạnh tới các nhà đầu tư là nhân tố quan trọng bậc nhất để làm sôi động cho một KCN vừa xây dựng xong. Mục tiêu đặt ra cho KCN như thế nào thì các chính sách, các biện pháp ưu đãi với các nhà đầu tư cần phải tương xứng như thế đó. Mục tiêu có giới hạn, thì các chính sách, các biện pháp ưu đãi cũng có giới hạn của nó. Thủ tục hành chính cần đơn giản, ngắn gọn, dễ hiểu, hoạt động tư vấn tốt và đặc biệt là thực hiện tốt theo “cơ chế một cửa”. Việc phát triển KCN theo hướng đa dạng hoá cần gắn với phát triển các công trình kết cấu hạ tầng ngoài KCN (khu dịch vụ, khu nhà ở, khu vui chơi giải trí…) để tạo thành một khu đô thị mới. Điều này không chỉ tạo tâm lý tốt và yên tâm cho các nhà đầu tư, thu hút lao động làm việc lâu dài trong KCN mà còn đẩy mạnh sự phát triển trong hoạt động thương mại dịch vụ tại địa phương. Điều đáng lưu ý đối với các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay là các sức hấp dẫn của KCN không còn chỉ mình giá nhân công và ưu đãi về thuế, mà còn tập trung vào những khía cạnh “chất lượng” khác như: điều kiện kinh tế chính trị xã hội ổn định, hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển và bảo đảm về luật pháp. Bên cạnh đó cần có một chất lượng nguồn lao động tốt và các quy trình quản lý hành chính gọn nhẹ có hiệu quả, tốc độ thu hồi vốn nhanh, lợi nhuận cao. Học hỏi những kinh nghiệm và việc vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện của thị xã sẽ tạo ra cho KCN của Bỉm Sơn có những bước phát triển mới, bền vững thu hút được nhiều nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. 3. Định hướng phát triển các khu công nghiệp. 3.1. Định hướng phát triển các khu công nghiệp trong cả nước. Định hướng phát triển công nghiệp thời kỳ 2001- 2005 theo tinh thần nghị quyết Đại Hội Đảng lần thứ IX đã xác định “Quy hoạch phân bố công nghiệp hợp lý trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các KCN, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở”. Hoạt động của các KCN cả nước cần triển khai những phương hướng phát triển dưới đây: + Kết hợp chặt chẽ việc phát triển các KCN với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình đô thị hoá, phát triển nông nghiệp nông thôn, đồng bộ hoá việc phát triển hạ tầng kỹ thuật trong và ngoài hàng rào KCN ngay từ khâu thành lập để thống nhất quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đảm bảo tính khả thi và nâng cao hiệu quả hoạt động của các KCN. + Phát triển KCN phải tuân thủ quy hoạch đã được phê duyệt để đảm bảo tính khả thi và có hiệu quả. Trước mắt cần tập trung thu hút đầu tư để lấp đầy các KCN-KCX đã được thành lập. Phấn đấu trong vài ba năm tới cần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài để lấp đầy trên 50% diện tích đất công nghiệp của các khu đã thành lập. + Xây dựng KCN phải gắn với việc thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong khu vực. + Tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư vào KCN + Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và phương thức quản lý Nhà nước về KCN theo hướng tăng cường cơ chế “một cửa, tại chỗ” nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp trong KCN. + Có biện pháp triệt để trong việc xử lý môi trường. Trước hết phải nâng cao chất lượng quy hoạch, yêu cầu mọi doanh nghiệp trong KCN phải có hệ thống xử lý chất thải cục bộ đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra hệ thống chung. + Tập trung xây dựng đồng bộ hạ tầng ngoài hàng rào KCN, trước mắt khẩn trương giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân, xây dựng đời sống văn hoá mới cho công nhân làm việc tại các KCN. Song song với việc hoàn thiện cơ sở kết cấu hạ tầng KCN, trong thời gian tới cần phải chú trọng đến việc xây dựng khu đô thị, khu dân cư, các dịch vụ phục vụ KCN. Đây là yêu cầu tất yếu và cần thiết để đảm bảo phát triển KCN có chất lượng và phát triển bền vững. Trong 5 năm tới nên phát triển nhiều hơn nữa các khu kinh tế cửa khẩu phía Tây, một số khu thương mại tự do ven biển(Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Kiên Giang...), mở rộng và tăng cường các KCN, KCX ở các vùng kinh tế trọng điểm. Tất cả các tỉnh đều có KCN, khu nông- công nghiệp. Để phát triển công nghệ cao nên khuyến khích đầu tư vào ba vùng: Đồng bằng sông Hồng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Trong đó cần phải tăng cường đầu tư phát triển cho các KCN trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ để rút ngắn khoảng cách với các KCN vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đi đôi với việc tăng cường thu hút đầu tư, huy động, sử dụng hết diện tích công cộng trong các KCN hiện có, một định hướng mới quan trọng là hình thành từng bước các cụm công nghiệp, các điểm công nghiệp ở những địa bàn thích hợp, có khả năng khai thác nhiều lợi thế của vùng (gắn với vùng nguyên liệu, nhân lực dồi dào, gần các tuyến giao thông...). 3.2. Định hướng phát triển khu công nghiệp Bỉm Sơn. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội của thị xã Bỉm Sơn tới năm 2010 và đến năm 2015, kinh tế đối ngoại tiếp tục được xác định là lĩnh vực kinh tế động lực của thị xã. Trong đó các hoạt động đầu tư nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi nó là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội của thị xã theo định hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Phương hướng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào KCN trong giai đoạn này được xác định như sau: + Phấn đấu để KCN sớm trở thành một KCN thành công. Ban quản lý sẽ phối hợp với công ty liên doanh phát triển KCN tập trung vào công tác vận động, thu hút đầu tư để lấp đầy KCN này vào giữa năm 2008. + Tiếp tục đầu tư vốn, ngân sách để xây dựng các công trình về cơ sở hạ tầng của KCN và tập trung vào việc kêu gọi đầu tư trong nước và ngoài nước để phát triển KCN. Kế hoạch phát triển KCN thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2006- 2015 là tập trung vào một số nhóm ngành nghề sau: Những dự án thu hút nhiều lao động. Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông- lâm- thuỷ sản. Ngành công nghiệp gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp, với công nghệ hiện đại thúc đẩy các ngành khác cùng phát triển. Các dự án có khả năng cao đóng góp lớn vào ngân sách. Trên cơ sở các ngành được khuyến khích, sẽ tập trung thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào mở rộng quy mô sản xuất của các ngành và KCN. 4. Một số giải pháp nhằm phát triển khu công nghiệp Bỉm Sơn. 4.1. Nhóm giải pháp về tạo môi trường hoạt động thuận lợi. Đầu tư là một hoạt động tài chính nên nó rất nhạy cảm với những thay đổi về chính trị đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Giữ vững ổn định chính trị là giải pháp hàng đầu. Đây là giải pháp kế thừa, phát triển nhân tố tích cực về thu hút đầu tư từ nước ngoài trong thời gian qua ở các KCN của nước ta. Để tạo lập môi trường chính trị xã hội ổn định thì nước ta cần tăng cường hơn nữa vai trò, năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới và coi đây là nhân tố quyết định. Đồng thời phát huy quyền làm chủ của người dân, cần xây dựng và nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực từ kinh tế đến xã hội. Phải coi trọng giải quyết các vấn đề xã hội đang ngày càng bức xúc như tham nhũng, hối lộ, thất nghiệp, nghèo đói… Cùng với sự ổn định về chính trị là chính sách ngoại giao mềm rẻo, hợp lý đảm bảo nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền. Đa phương hoá, đa dạng hoá trong các mối quan hệ với khẩu hiệu “Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước trên thế giới, hoà bình hợp tác và phát triển”. Từ việc mở rộng quan hệ ngoại giao là tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế, trong đó có việc thu hút đầu tư nước ngoài. Về việc xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đổi mới cơ chế chính sách. Bỉm Sơn cần mạnh dạn hơn nữa trong việc tạo ra môi trường pháp lý cho các hoạt động đầu tư nước ngoài tại thị xã theo xu hướng đồng bộ hoá về luật. Tăng ưu đãi về tài chính cho nhà đầu tư đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển bền vững, mạnh mẽ cho phù hợp với tình hình trong nước và thông thương quốc tế. Cần phải tránh sự trung lập, mâu thuẫn giữa các luật, đặc biệt cần tiến tới ban hành luật đầu tư thống nhất chung với cả nước và đầu tư nước ngoài. Để khuyến khích hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước thì thị xã Bỉm Sơn cần quan tâm đến một số chính sách sau: + Chính sách thuế và hỗ trợ tài chính. Nên có công tác rà soát lại các chính sách về thuế để đảm bảo tính ổn định, đồng thời thay đổi những điều bất hợp lý theo hướng khuyến khích các dự án thực hiện nội địa hoá, khắc phục tình trạng nhập khẩu nguyên liệu, vật liệu… tư nước ngoài. Nhà nước cần nghiên cứu hoàn thiện các chính sách ưu đãi tài chính, giải quyết vần đề hoàn thuế, chuyển lợi nhuận về nước, vốn góp, hỗ trợ các dự án được cấp giấy phép hưởng những ưu đãi về thuế lợi tức, giá thuế đất mới, cần giảm thuế thu nhập cho các đang doanh nghiệp làm ăn thua lỗ… + Chính sách đất đai. Cụ thể hoá việc cho thuê, thế chấp, chuyển nhượng đất đai hình thành bộ máy xử lý nhanh và có hiệu quả. Kết hợp giữa thuyết phục tuyên truyền việc chấp hành pháp luật và cưỡng chế. Giảm giá thuế đất, công tác đo đạc chỉ nên tiến hành tối đa 2 hoặc 3 lần, thủ tục đơn giản, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng được xác định trên cơ sở giá thị trường và có sự thoả thuận với người sử dụng đất. Công tác giải phóng mặt bằng hiện nay gây chậm trễ nhất là trong việc triển khai các dự án đầu tư cho KCN. Bởi vậy nhà nước cần cụ thể hoá bằng các văn bản pháp luật để có căn cứ cho các địa phương tổ chức thực hiện thuận lợi. + Chính sách lao động. Hoàn thiện văn bản pháp quy về việc tuyển dụng, lựa chọn lao động, chức năng quan quản lý lao động, đề bạt sa thải, tranh chấp lao động… Tăng cường vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra giám sát, sửa đổi mức chịu thuế thu nhập của người nước ngoài theo hướng nâng cao mức khởi điểm chịu thuế và giảm mức thuế suất, giảm thuế thu nhập hay nâng cao mức chịu thuế cho người Việt Nam. Sở lao động và thương binh xã hội cần thoả thuận với các nhà đầu tư để lựa chọn những người lao động cho thích hợp để bằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cử cán bộ chuyên trách sang tham gia phỏng vấn kiểm tra hồ sơ… Khi đó sẽ thúc đẩy nhanh quá trình tuyển dụng lao động tìm kiếm lao động thích hợp, để các dự án được triển khai đúng tiến độ, chất lượng dự án nâng lên, tiến tới cho phép các nhà đầu tư nước ngoài có quyền tuyển dụng lao động theo tiêu chuẩn của họ. + Chính sách tiền lương. Các doanh nghiệp trong KCN phải có các chính sách về tiền lương hợp lý nhằm tạo điều kiện cho người lao động hoàn thành tốt công việc của mình, đồng thời nâng cao mức sống cho người lao động. Từ đó tạo động lực cho người lao động để họ hăng say làm việc để làm tăng doanh thu cho doanh nghiệp, đẩy nhanh việc phát triển KCN. + Chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cần khuyến khích xuất khẩu những sản phẩm có chất lượng cao, chế biến tinh, sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam. Phải nghiên cứu ban hành các chính sách để chống độc quyền, chống hàng giả, xây dựng luật cạnh tranh để tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Bảo hộ thị trường trong nước bằng cách ưu tiên các ngành nghề chủ đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng. 4.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh phát triển và hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về khu công nghiệp. 4.2.1. Đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về khu công nghiệp. Sở Công nghiệp là cơ quan tham mưu giúp UBND thị xã quản lý Nhà nước về công nghiệp trên địa bàn, làm nhiệm vụ, nghiên cứu phát triển, theo dõi hoạt động, hướng dẫn giúp đỡ các doanh nghiệp, nghiên cứu thị trường, quy họach không gian công nghiệp trên lãnh thổ, định hướng phát triển công nghiệp... Phòng kinh tế ở thị xã là cơ quan tam mưu giúp UBND thị quản lý Nhà nước về công nghiệp trên địa bàn trong không gian thị xã. Hoạt động của phòng kinh tế thị xã (lĩnh vực công nghiệp) gắn với sự chỉ đạo chuyên ngành của Sở công nghiệp. Mở rộng phạm vi thực hiện quản lý Nhà nước các KCN trên địa bàn theo cơ chế "một cửa" với các nội dung: + Giao cho ban quản lý làm đầu mối giúp UBND thị xã chủ trì tổ chức thực hiện và quản lý Nhà nước về quy họach hệ thống KCN đã được phê duyệt trên địa bàn Bỉm Sơn, về quỹ đất, về tổ chức triển khai các KCN .v.v.. + Hình thành một công ty xây dựng hạ tầng KCN công ích trực thuộc ban quản lý để tác động tích cực trong việc xây dựng hạ tầng trong và ngoài KCN. + Kiện toàn tổ chức của Ban quản lý theo hướng: Bổ sung một số sở ngành có liên quan làm ủy viên của Ban quản lý để đảm bảo tính chặt chẽ trong việc phối hợp thực hiện quản lý Nhà nước hoạt động của KCN trên địa bàn. Các ủy viên ban quản lý có thể là đại diện của các phòng ban sau: phòng kế hoạch-tài chính, phòng công thương, phòng lao động, Ngân hàng nhà nước thị xã, công an, phòng tài nguyên môi trường, khoa học- công nghệ: 4.2.2. Hoàn thiện hệ thống thể chế khu công nghiệp. Tạo môi trường pháp lý để thuận lợi cho việc phát triển KCN, tiến hành rà soát lại hệ thống văn bản pháp quy do các cấp chính quyền ở Trung ương và địa phương ban hành có liên quan đến các hoạt động quản lý Nhà nước về KCN. Xử lý những điều chưa hợp lý, chồng chéo nhau,bất cập và bổ sung những quy định mới phu hợp với thực tiễn, với lộ trình hội nhập kinh tế với thế giới, rút ngắn lộ trình nhằm tạo mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài… .Khi ban hành thêm một văn bản pháp quy cần ban hành đồng bộ những văn bản pháp lý có liên quan, cần tính đến việc khả thi của văn bản ban hành đó. 4.3. Nhóm giải pháp về quy hoạch phục vụ phát triển khu công nghiệp. 4.3.1. Nâng cao chất lượng quy hoạch các khu công nghiệp. Hiện nay các vấn đề về quy hoạch được đặt ra không chỉ riêng cho thị xã Bỉm Sơn mà ở bất cứ địa phương nào khi xây dựng KCN cũng phải đặt vấn đề này lên hàng đầu. Quy hoạch KCN ở thị xã trong thời gian qua chưa thực sự hợp lý. Có một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường vẫn còn hoạt động ngay trong thị xã ngoài KCN. Bên cạnh đó khi quy hoạch các cơ quan chức năng tỉnh, thị xã chưa tận dụng triệt để các lợi thế tiềm năng, lợi thế so sánh của từng khu vực trên địa bàn thị xã nên đã gây lãng phí nguồn lực, một số trung tâm hỗ trợ phát triển KCN không được tiến hành một cách đồng bộ, việc bố trí các khu nhà ở dành cho người lao động trong KCN còn đặt ra nhiều bất cập, các công ty xây dựng và phát triển hạ tầng chưa được tạo điều kiện để phát huy tính ưu việt của mình. Do vậy vấn đề nâng cao chất lượng quy hoạch KCN là công việc quan trọng đặt ra cho thị xã Bỉm Sơn. Để đáp ứng các điều đó thì cần phải có đội ngũ cán bộ quy hoạch có kinh nghiệm, năng lực, nhiệt tình và sáng tạo. Bộ máy của ban quy hoạch phải có năng lực, kinh nghiệm, độc lập trong công việc. Mặt khác phải có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng nhằm đảm bảo tính hợp lý, hài hoà trong quy hoạch KCN. 4.3.2. Cần khẩn trương chấn chỉnh công tác đền bù giải phóng mặt bằng. Việc giải phóng mặt bằng chậm đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của các dự án đầu tư xây dựng. Hiện nay việc giải phóng mặt bằng của nhiều dự án đầu tư trên địa bàn thị xã đang bị dán đoạn trong vấn đề đền bù đã làm kéo dài thời gian giải phóng mặt bằng gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả đầu tư và làm nhiều nhà đầu tư nản lòng. Để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư cho các nhà đầu tư thì thị xã Bỉm Sơn cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau: Thứ nhất: - Đối với những khu vực đã được quy hoạch để làm KCN, cấp uỷ chính quyền địa phương phải công bố công khai việc quy hoạch trong từng thời kỳ, cần tuyên truyền giải thích để người dân thấy rõ lợi ích của cá nhân, lợi ích của địa phương, lợi ích chung của toàn xã hội để sẵn sàng di dời chuyển đất sang cho KCN. - Công khai chế độ chính sách về kinh tế của Nhà nước, của tỉnh, của thị xã, những chính sách xã hội của những hộ di chuyển được hưởng. - Căn cứ vào quy định của Nhà nước, của tỉnh, của thị xã và vào tình hình thực tế của địa phương xây dựng, cần công bố: + Công khai công tác đo đạc, tính toán để các chủ hộ có thể tự xác định được giá trị kinh tế của mình. + Tổng đơn giá đền bù giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư bao gồm quyền sử dụng đất, đền bù chuyển đổi ngành nghề, hỗ trợ địa phương chi phí cho công tác giải phóng mặt bằng. Thứ hai: Cần vận dụng các chính sách của Nhà nước, đồng thời tranh thủ sự đồng tình giúp đỡ của các tổ chức chính quyền đoàn thể trong quá trình vận động, thuyết phục nhân dân và giải quyết khiếu lại của người dân ngay tại cơ sở. Tuy vậy không được xem nhẹ việc xử lý hành chính đối với những trường hợp lợi dụng dân chủ, lợi dụng chính sách để trầy bừa, chuộc lợi. Thứ ba: Lựa chọn đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi dự án giải phóng mặt bằng của hội đồng đền bù. Đó phải là những cán bộ có phẩm chất đạo đức tốt, thông thạo về nghiệp vụ chuyên ngành, hiểu biết luật pháp. Trong thành phần tổ công tác nghiệp vụ phaỉ có người đại diện do chính những hộ di chuyển giới thiệu, đề bạt. Khi bắt đầu làm việc với người dân phải được tập huấn trước về nội dung chương trình, phương pháp kỹ năng tiếp cận về những thắc mắc của người dân. Việc chi trả tiền đền bù cho các hộ dân nơi giải phóng nên được tiến hành chu đáo thuận tiện, hài long họ. 4.4. Cần ra sức đầu tư đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp. Tạo điều kiện thuận lợi để KCN khẩn trương triển khai giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng KCN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp nhận các dự án, đặc biệt là dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các dự án lớn. Từ thực tế nhu cầu thuê nhà xưởng của dự án FDI và hiệu quả của việc cho các dự án này thuê nhà xưởng trong thời gian vừa qua, KCN đầu tư một diện tích nhà xưởng theo tiêu chuẩn để tiếp nhận các dự án vừa và nhỏ, coi đây là một ngành kinh doanh. Các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đầu tư nhà xưởng, còn các chủ đầu tư thuê nhà xưởng để sản xuất kinh doanh và mở rộng hoạt động kinh doanh, bên cạnh đó chuyên môn hoá kinh doanh cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng. Người đầu tư sản xuất sẽ có chính sách giảm chi phí đầu tư ban đầu vì họ không phải xây dựng nhà xưởng, vừa có thể đẩy nhanh tiến độ hoạt động sản xuất kinh doanh tranh thủ cơ hội đầu tư. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, thị xã Bỉm Sơn tập trung ngân sách đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngoài KCN như: điện, nước, giao thông KCN… tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy đầu tư cơ sở hạ tầng trong KCN, tích cực vận động các nhà đầu tư có đủ năng lực trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh cơ sở hạ tầng cho KCN khi chưa có chủ đầu tư. Trước mắt giành đất trong quy hoạch cho các doanh nghiệp lớn, có nhiều lao động tự xây dựng chung cư phục vụ chỗ ăn, chỗ ở cho người lao động của chính doanh nghiệp này và những người lao động của các doanh nghiệp khác trong KCN thuê. Bên cạnh dó cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu đô thị mới nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động và đẩy mạnh phát triển dịch vụ, tạo cho người lao động chưa có việc làm ổn định cuộc sống. Hiện nay cùng với các chính sách ưu đãi đầu tư của Chính phủ, UBND tỉnh Thanh Hoá, thị xã Bỉm Sơn chuẩn bị đưa ra ưu đãi riêng của thị xã đối với các dự án đầu tư phát triển hạ tầng KCN, bằng việc cấp lại tiền thuê đất cho chủ đầu tư. 4.5. Nhóm giải pháp về khuyến khích đầu tư. Thị xã Bỉm Sơn từ khi được thành lập là một thị xã kết hợp giữa CN và NN, sau 21 năm xây dựng với đường lối đúng đắn của Đảng, chỉ đạo sáng suốt của thị ủy, HĐND, UBND thị xã, cơ cấu kinh tế Thị xã đã có nhưng chuyển động quan trọng. Với vị trí tái thuận lợi và chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư của Nhà nước và UBND tỉnh Thanh Hoá ban hành với cơ chế quản lý "một cửa, tại chỗ" thông thoáng của tỉnh được ban quản lý KCN đang thực hiện, tình hình thu hút đầu tư đang rất khả quan. Để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thị xã Bỉm Sơn cần ban hành những chính sách khuyến khích đầu tư. Cụ thể hóa ban hành thực hiện cơ chế một cửa theo quyết định 181/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực đầu tư, đảm bảo nhanh chóng, đơn gian không phiền hà. Tiến hành giới thiệu công khai, rộng rãi quy họach phát triển, công nghiệp và các chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư. Tích cực xúc tiến kêu gọi đầu tư: Thẩm định hồ sơ dự án cấp giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiến hành hướng dẫn các doanh nghiệp sau cấp phép đầu tư. Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức xúc tiến đầu tư phải thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức hoặc tham gia các cuộc hội thảo về kêu gọi đầu tư do Trung ương và các Bộ, ngành, địa phương tổ chức, nghiên cứu học tập mô hình đầu tư và xúc tiến đầu tư tại các khu công nghiệp bạn, học hỏi kinh nghiệm và thu hút các nhà đầu tư trong ngoài nước. Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Ban quản lý các công ty hạ tầng về công tác xúc tiến đầu tư nhằm đảm bảo sự điều hành và tính thống nhất việc cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Nhằm khuyến khích, kêu gọi vốn đầu tư, ngoài các chính sách của nhà nước đã ban hành; Ban quản lý KCN cần ban hành các chính sách về việc quy dịnh ưu đãi khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước trên địa bàn tỉnh bao gồm một số ưu đãi chính như: Miễn giảm tiền thuê đất, hỗ trợ đền bù thiệt hại về đất, hỗ trợ về vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề trong nước cho lao động tuyển dụng tại địa phương... Quyết định ưu đãi và khuyến khích đầu tư các văn bản quy phạm pháp lý khác sẽ tạo ra hành lang pháp lý cơ bản, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thu hút gọi vốn đầu tư trong và ngoài nước. 4.6. Nhóm giải pháp khác. 4.6.1. Xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp. KCN tập trung không phải là một địa bàn sản xuất khép kín, một lãnh địa riêng biệt thuộc trách nhiệm quản lý riêng của một doanh nghiệp hay một nhóm người có mối quan hệ kinh tế xã hội với các ngành khác như: Thông tin liên lạc, Điện, An ninh trật tự của xã hội… Xây dựng KCN tập trung đòi hỏi phải có sự đồng bộ bên trong và bên ngoài KCN, xu thế hiện tại trong việc xây dựng, phát triển KCN ở thị xã Bỉm Sơn hiện nay mới chú ý đến xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài KCN các đường giao thông vận tải nên thường bị chậm trễ trong quá trình xây dựng làm ảnh hưởng tới quá trình lưu thông hàng hoá, nguyên liệu. Ngoài ra hạ tầng bên ngoài KCN còn bao gồm cả chợ, trường học, bệnh viện… Theo tính toán thì mỗi KCN tập trung bình quân có tầm khoảng 50 xí nghiệp doang nghiệp, mỗi xí nghiệp doanh nghiệp có từ 150- 250 công nhân, vậy cơ sở hạ tầng bên ngoài phải đáp ứng nhu cầu sinh hoạt cho khoảng 750 - 1250 nghìn công nhân. Bởi thế, nếu ban quản lý và thị xã không có sự quan tâm đúng mức vào cơ sở hạ tầng ngoài KCN thì khi KCN đi vào hoạt động sẽ tạo nên những vấn đề tiêu cực khó lường cho xã hội và từ đó có gây tác động tiêu cực trở lại KCN, gây ảnh hưởng tới sự phát triển của KCN. 4.6.2. Ban hành những khuyến ưu đãi về lợi ích về kinh tế khi đầu tư vào khu công nghiệp. UBDN thị xã Bỉm Sơn khuyến khích và dành ưu đãi đối với các dự án đầu tư của các nhà đầu tư nhằm phát triển hạ tầng KCN và các dự án phát triển sản xuất kinh doanh vào các KCN trên địa bàn thị xã như sau: Miễn giảm tiền thuê đất trong thời gian các nhà đầu tư xây dựng cơ bản và miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo tài sản cố định trừ đi vật tư xây dựng trong nước đã sản xuất được ra.Về thuế thu nhập doanh nghiệp thì thuế suất áp dụng cho thị xã Bỉm Sơn gồm hai loại 10% và 15 %, thời gian miễn từ 2- 4 năm, giảm 50% cho ba năm tiếp theo, tuỳ từng loại dự án đầ tư. Các dự án sử dụng số lượng lao động từ 100 người trở nên là người trong thị xã được hỗ trợ 40% chi phí đào tạo nghề cho một người lao động. Hỗ trợ đào tạo lao động bằng cách UBND thị xã cấp kinh phí cho trường đào tạo nghề của thị xã theo kế hoạch hàng năm để đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề cho doanh nghiệp trong KCN. 4.6.3. Chính sách đào tạo và sử dụng lao động. Do chưa có mô hình đào tạo lao động phù hợp, quy mô đào tạo chưa tương ứng đồng thời máy móc, thiết bị tại các cơ quan đào tạo công nhân kỹ thuật trong thị xã và đào tạo nghề đón đầu cho các doanh nghiệp KCN còn chậm, chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu tuyển dụng lao động của các nhà đầu tư. Vì vậy vấn đề đặt ra là UBND thị xã cần có các phương hướng chỉ đạo các ngành liên quan chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cao và tay nghề cơ bản cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Đối với các cán bộ quản lý Nhà nước phải được đao tạo qua chương trình quản lý hành chính nhà nước, bồi dưỡng về kiến thức chủ đạo và bổ túc về pháp luật. Ngoài kiến thức về chuyên môn thì các cán bộ quản lý doanh nghiệp cần được đào tạo qua về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh. Về lực lượng lao động: Những lao động có kỹ thuật cần được đào tạo nghiêm túc về chuyên môn tay nghề lẫn kỹ thuật, tác phong công nghiệp. Ngoài chính sách ưu đãi hộ kinh phí đào tạo lao động của tỉnh đã ban hành cần xây dựng trung tâm đào tạo có đủ trang thiết bị hiện đại để dạy nghề và đào tạo lại nghề. Bỉm Sơn cần được xây dựng trường cao đẳng kỹ thuật và quản lý kinh tế đa ngành đáp ứng cho nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện địa hóa của thị xã. Ban quản lý các khu công nghiệp cần phải xây dựng nhà trong khu lân cận KCN cho người lao động làm việc trong các KCN. Việc xây dựng nhà ở cho lao động làm việc tại các KCN sẽ tạo sự ổn định cho người lao động làm việc tại các KCN. KẾT LUẬN Với những đặc tính ưu việt của mình, mô hình KCN, KCX đã nổi lên như một kiểu mẫu hiện đại trong số các công cụ nhằm thu hút và sử dụng hiệu qủa vốn đầu tư phục vụ công cuộc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam. Sự phát triển thành công của nhiều KCN, KCX trên thế giới đã chứng minh đây là mô hình đạt hiệu suất cao trong một khoảng thời gian tương đối ngắn để có thể phát triển hoàn thiện nền sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu nhằm phục vụ sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá. Và những thành tựu to lớn mà các KCN, KCX đã đóng góp trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam những năm qua không thể phủ nhận được. Qua nghiên cứu chuyên đề này, chung ta có thể nhận thấy những thuận lợi của Thị xã Bỉm Sơn như: vị trí địa lý; nguồn nhân lực, chính sách thu hút đầu tư… Tuy nhiên việc phát triển KCN Bỉm Sơn hiện nay đang là một vấn đề cấp thiết cần quan tâm giải quyết khi nó gặp những khó khăn trong môi trường đầu tư: những vấn đề về pháp lý, đất đai, các vấn đề liên quan đến cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp trong KCN... KCN Bỉm Sơn không những góp phần thúc đẩy nền công nghiệp nói riêng, kinh tế đất nước nói chung mà còn góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế của địa phương: tăng cường nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo việc làm, đổi mới công nghệ, từng bước nâng cao tay nghề, trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý và nghiệp vụ cho người lao động. Các KCN đã góp phần thay đổi bộ mặt kinh tế- xã hội của Thị xã và tạo đà phát triển để Bỉm Sơn trở thành một đô thị công nghiệp đúng với mục tiêu mà Đảng bộ và nhân dân Thị xã Bỉm Sơn đang phấn đấu. Để chuyên đề tốt nghiệp này được hoàn thành, một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn Th.s: Bùi Thị Lan đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi có được kết quả này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ. Nghị định 36 CP ngày 27/04/1997 ban hành quy chế KCN, KCX, KCNC. Niên giám thống kê năm 2006 phòng thống kê Thị xã Bỉm Sơn và Báo cáo tình hình kinh tế xã hội Thị xã Bỉm Sơn giai đoạn 2001-2005 và năm 2006. Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội Thị xã Bỉm Sơn 2000- 2010. Báo cáo thống kê các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của Hưng Yên. Danh mục các dự án đầu tư vào KCN Bỉm Sơn. Báo cáo quy hoạch về KCN Bỉm Sơn. Trang Web : www.mpi.gov.vn Thời báo Kinh tế Việt Kinh tế 2005 – 2006. Tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam. BẢNG GIẢI THÍCH CÁC TỪ VIẾT TẮT KCN : Khu công nghiệp. DV- TM : Dịch vụ- Thương mại. LN : Lâm nghiệp. UBND : Uỷ ban Nhân dân. XN- CN : Xí nghiệp- công nghiệp. CNH- HĐH : Công nghiệp hoá- hiện đại hoá. DN : Doanh nghiệp. XDCB : Xây dựng cơ bản. KT- XH: : Kinh tế- xã hội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31909.doc
Tài liệu liên quan