Ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển từ cuối thế kỷ XIX đến nay và ngày càng trở thành một ngành kinh tế quan trọng. Không chỉ đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát cho người dân, ngành còn có đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm và vào ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó ngành Bia – Rượu – Nước giải khát cũng đã tạo được công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động và góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trong thời gian tới, bên cạnh các cơ hội để phát triển ngành còn phải chịu khá nhiều thách thức. Chính những hạn chế của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát sẽ cộng hưởng với các thách thức làm cho ngành gặp rất nhiều khó khăn trong những năm tới. Việc tìm ra giải pháp để phát triển ngành là hoàn toàn cần thiết và chính là lý do để tôi thực hiện đề tài “Một số giải pháp phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam đến năm 2015”.
Trong khuôn khổ chuyên đề này, đề tài đã cố gắng làm rõ các nội dung:
Thứ nhất: Đặc điểm và những nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát
Thứ hai: Sự cần thiết phải phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam
Thứ ba: Những thành tựu cũng như hạn chế và nguyên nhân của chúng trong quá trình phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam thời gian qua
99 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3771 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam đến năm 2015, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hiệp Phát, công ty CP Thực phẩm quốc tế (Interfood), công ty TP & NGK Dona NEWTOWER…đều đầu tư các dây chuyền sản xuất tiên tiến, tự động hóa hoàn toàn, một số còn đầu tư dây chuyền hiện đại sản xuất vỏ chai ngay tại nhà máy. Những doanh nghiệp này được đầu tư công nghệ tiên tiến nên tiết kiệm nguyên nhiên liệu, xử lý chất thải tốt hơn, giảm các yếu tố gây ô nhiễm môi trường.
Việc xây dựng và quảng bá thương hiệu cũng được các doanh nghiệp này chú trọng. Ngoài đảm bảo chất lượng, doanh nghiệp đã chú ý tăng cường hoạt động quảng bá thông qua các phương tiện truyền thông. Bên cạnh đó, các công ty còn tham gia các hoạt động xã hội khác, đặc biệt là tài trợ cho các đội bóng, các giải thể thao lớn trong nước.
Một số hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu trên, ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở nước ta cũng bộc lộ nhiều hạn chế về năng lực cạnh tranh, về quy hoạch phát triển ngành và về hiệu quả hoạt động.
2.1. Năng lực cạnh tranh của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát còn thấp
Sản phẩm của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường nội địa, tuy nhiên, sức cạnh tranh trong thị trường này cũng hạn chế. Thời gian qua, các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát trong nước được tiêu thụ nhiều do giá thấp hơn hàng ngoại vì không phải chịu thuế nhập khẩu và do thói quen tiêu dùng. Những lợi thế này sẽ giảm dần khi đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên, chất lượng sản phẩm sẽ là điều được chú trọng hơn. Do đó, có thể nói chất lượng và thương hiệu là những yếu tố tạo nên khả năng cạnh tranh chính cho sản phẩm. Tuy nhiên, ngoài sản phẩm của một số các doanh nghiệp lớn, sản phẩm của các doanh nghiệp nhỏ trong ngành nhìn chung có chất lượng thấp, chưa đảm bảo cả về tiêu chuẩn VSATTP chứ chưa nói đến các yêu cầu khác.
Về sản phẩm bia, chỉ có một vài nhãn hiệu bia nội như Saigon Special, Hanoi Premium Beer…được xếp vào hàng bia cao cấp nhưng vẫn còn chịu sự chèn ép của các nhãn hiệu bia ngoại như Heineken, Carlsberg, Corona, Pilsner, Budweiser, Sella Artois…Các sản phẩm bia khá có tiếng của Việt Nam còn lại như Bia 333, San Miguel, Zorock, Laser, Đại Việt đen, Bia Hà Nội, Sài Gòn, Huda, Halida…mới chỉ đáp ứng được ở thị trường bia trung cấp, một số sản phẩm bia ít tên tuổi hơn và bia địa phương thì đáp ứng nhu cầu của thị trường bình dân.
Rượu có thể nói là tiểu ngành có sức cạnh tranh kém nhất trong ngành Bia - Rượu - Nước giải khát. Hiện nay chúng ta đã có khá nhiều chủng loại như rượu vang, vodka, champagne, liquor nhưng chất lượng thì còn thấp hơn nhiều so với các sản phẩm của thế giới. Đặc biệt ngành rượu đã có nguồn gốc lịch sử hàng ngàn năm nhưng chưa có loại rượu nào thuộc vào hàng “quốc tửu” như Mao Đài của Trung Quốc hay Sake của Nhật Bản để bạn bè thế giới biết đến. Thêm vào đó là chất lượng của rượu dân tự nấu quá thấp, chứa nhiều độc tố nguy hiểm cho con người, rượu giả, rượu lậu thì không quản lý được.
Nước giải khát trên thị trường hiện có hàng trăm loại, tuy nhiên qua những đợt kiểm tra của các cơ quan chức năng, rất nhiều sản phẩm không đạt tiêu chuẩn VSATTP, nước tinh khiết nhiễm các vi khuẩn gây bệnh, nước giải khát được làm từ các hương liệu không rõ nguồn gốc, chứa các chất độc hại...
Bên cạnh chất lượng thấp, cơ cấu sản phẩm cũng chưa hợp lý. Trong cả 3 tiểu ngành bia, rượu, nước giải khát đều thiếu hẳn những sản phẩm cao cấp, trong đó nghiêm trọng nhất vẫn là ngành rượu.
Thị trường của ngành cũng còn nhỏ, thị trường chính là thị trường nội địa. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu xuất sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và một số nước nhưng hầu hết không phải là thị trường cao cấp.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến năng lực cạnh tranh của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát thấp, trong đó phải kể đến hai nguyên nhân chính là chất lượng sản phẩm thấp và hoạt động xây dựng, bảo vệ thương hiệu của ngành còn kém.
Về chất lượng sản phẩm: Sản phẩm của ngành có chất lượng thấp do máy móc thiết bị, trình độ công nghệ thấp; lao động trong ngành có chất lượng chưa cao và điều kiện về nguyên liệu cho ngành cũng chưa đảm bảo.
Do đặc điểm của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát, yếu tố công nghệ đóng vai trò rất quan trọng. Theo ý kiến của các chuyên gia trong ngành, để sản xuất ra sản phẩm tốt đòi hỏi phải có trình độ công nghệ cao và điều kiện sản xuất phải đảm bảo. Tuy nhiên những điều kiện này Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được.
Trong khi công nghệ sản xuất bia tiên tiến là sử dụng hệ thống lên men chính phụ trong cùng một tank thì nhiều nhà máy bia ở Việt Nam hiện vẫn còn sử dụng công nghệ cũ, hệ thống nhà lạnh và thiết bị lên men chính phụ riêng biệt. Đa số các cơ sở sản xuất nhỏ sử dụng thiết bị tự chế tạo và thực hiện chuyển giao công nghệ trong nước, thiết bị không đồng bộ, nhiều thiết bị được chế tạo thủ công, thiết kế không chuẩn, không đạt yêu cầu.
Trong sản xuất rượu, công đoạn lọc vẫn sử dụng lọc khung bản là chủ yếu (chiếm 80%), lọc bông chỉ chiếm 8%, lọc cột lọc chiếm 12%, công nghệ sử dụng axit và nấm mốc thay vì sử dụng enzim vẫn còn phổ biến. Hầu hết các cơ sở sản xuất chưa có thiết bị đồng bộ từ rửa chai, chiết chai, dập nút, dán nhãn…Các thiết bị được đầu tư theo phương thức “thiếu đâu bù đấy”, các khâu thủ công vẫn còn nhiều. Theo báo cáo nghiên cứu “Đánh giá trình độ công nghệ ngành sản xuất cồn rượu Việt Nam” của Bộ Công nghiệp thì trình độ công nghệ chung của ngành sản xuất cồn rượu ở mức thấp so với thế giới. Báo cáo sử dụng phương pháp ATLAS công nghệ để đánh giá, kết quả hàm lượng công nghệ gia tăng bình quân toàn ngành là ATCA = 0,314 (trong khi giá trị ứng với trình độ công nghệ tốt nhất thế giới là 1). Đối với rượu sản xuất thủ công thì công nghệ và thiết bị còn đơn giản và lạc hậu hơn nữa. Thiết bị dùng trong sản xuất rượu thủ công gồm thiết bị sản xuất bánh men và thiết bị sản xuất rượu. Người ta dùng các loại cối hoặc máy nghiền để nghiền gạo, thuốc bắc (đối với bánh men thuốc bắc), các loại lá, củ, quả (đối với bánh men lá) và bánh men giống để làm men và dùng vỉ tre, mẹt…để ủ men. Quá trình lên men trong các chum, vại sành sứ hoặc thùng nhựa. Thiết bị chưng cất thường được người dân sử dụng là thiết bị “ống ruột gà” và thiết bị “thủy thượng”. Rượu nấu theo phương pháp thủ công chưng cất một lần với công cụ thô sơ vì vậy còn chứa nhiều độc tố. Có những cơ sở do muốn tiết kiệm chi phí đã sử dụng bã rượu nấu lần thứ nhất cho thêm đường, phân urê vào nấu lần thứ hai, khi rượu có mầu đục thì cho thuốc trừ sâu DDT vào để làm trong rồi đem bán. Có những hộ gia đình còn dùng cồn công nghiệp, cồn khô của Trung Quốc để pha rượu.
Ngành sản xuất nước giải khát cũng vậy, quá nhiều cơ sở sản xuất nhỏ với công nghệ thiếu đồng bộ và chỉ có một số khâu trong quá trình sản được làm bằng máy.
Sự hạn chế về công nghệ của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát là do hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ còn yếu. Trên thực tế, những máy móc thiết bị hiện đại mà ngành đang có đều được nhập khẩu từ các nước như Đức, Đan Mạch, Ý...Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ điều kiện để làm việc này, nhất là đối với các cơ sở nhỏ, khả năng về vốn đầu tư còn yếu. Sự hạn chế về vốn đầu tư cũng là nguyên nhân dẫn đến quy hoạch phát triển ngành còn nhiều bất cập và sẽ được trình bày ở phần sau.
Công nghệ và trang thiết bị lạc hậu, nhiều khâu còn sử dụng lao động thủ công trong khi đó trình độ lao động lại còn thấp. Theo số liệu điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê năm 2007, số lao động có trình độ trên đại học trong ngành Bia - Rượu - Nước giải khát có 124 người, chiếm 0,33%; Đại học và cao đẳng có 7767 người, chiếm 20,86%; Trung cấp có 4373 người, chiếm 11,74%. Công nhân qua đào tạo dài hạn có 4097 người, chiếm 11%; công nhân qua đào tạo ngắn ngày có 6813 người chiếm 18,29% và công nhân chưa qua đào tạo có 11084 người, chiếm 29,75%. Ở đây mới thống kê về trình độ lao động được đào tạo về các kỹ năng chính, đội ngũ công nhân ở rất nhiều đơn vị sản xuất không qua đào tạo để có đủ khả năng tiếp thu công nghệ mới, số lượng cán bộ có trình độ tay nghề và kỹ thuật cao còn ít hay thậm chí tỷ lệ lao động nắm được các yêu cầu về VSATTP của ngành cũng còn thấp.
Bên cạnh yếu tố công nghệ và lao động, chất lượng nguyên liệu đầu vào cũng là một nguyên nhân lớn làm cho chất lượng sản phẩm bia, rượu, nước giải khát của chúng ta chưa cao. Về mặt lý thuyết, Việt Nam là một quốc gia có nguồn nguyên liệu vô cùng phong phú, đa dạng, thực sự là tiền đề để phát triển ngành công nghiệp sản xuất rượu, bia, nước giải khát. Tuy nhiên vùng nguyên liệu trong nước còn vụn vặt, tản mạn, chất lượng không đồng đều dẫn đến tình trạng nguyên liệu trong nước có nhưng vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Đối với ngành nước giải khát, nguồn nguyên liệu cung cấp cho ngành chế biến nước quả chủ yếu thu mua từ những vùng cây ăn quả của các hộ kinh tế vườn, nguồn hoa quả vào chính vụ có thể rất nhiều nhưng do các khâu bảo quản, chế biến còn kém nên không chất lượng không cao và không đủ để sản xuất khi trái vụ. Trong khi đó, quy hoạch tổng thể tạo vùng cây ăn quả tập trung hay chuyên canh, có sự đầu tư về khoa học – công nghệ từ khâu lai tạo giống, chọn giống đến chăm sóc, thu hái, chế biến gần như chưa có.
Chất lượng thấp dẫn đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm kém, thị trường tiêu thụ nhỏ. Tuy nhiên, có những sản phẩm có chất lượng tốt nhưng tiêu thụ vẫn còn hạn chế, có thể nói đó là do hoạt động xây dựng và bảo vệ thương hiệu, công tác quảng bá của các doanh nghiệp chưa tốt.
Về hoạt động xây dựng và bảo vệ thương hiệu: Từ năm 2003, theo đánh giá về công tác chuẩn bị hội nhập của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát, nhiều chuyên gia đã cho rằng khó khăn và thách thức lớn nhất mà ngành đang gặp phải là vấn đề nhận thức của doanh nghiệp. Chỉ có một số doanh nghiệp lớn có ý thức tốt trong vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu, còn lại hầu hết là chưa chú trọng. Thậm chí nhiều doanh nghiệp còn có những quan điểm sai lầm về thị trường. Họ quan niệm thị trường chỉ là nơi để tiêu thụ sản phẩm, nơi kết thúc của quá trình sản xuất và thu hồi vốn đầu tư ban đầu. Do vậy, trong quá trình kinh doanh, hai công đoạn sản xuất và tiêu thụ được tách rời ra, độc lập với nhau, nếu có chăng chỉ thông qua thị trường để điều chỉnh sản lượng chứ chưa thực sự coi thị trường là nơi quyết định sức sống của doanh nghiệp.
Đến nay, nhận thức của doanh nghiệp đã có nhiều chuyển biến nhưng họat động xây dựng, bảo vệ thương hiệu vẫn là việc mà các doanh nghiệp lớn có chú trọng đầu tư, còn lại thì vẫn chưa thực sự để ý.
Công tác quảng bá sản phẩm cũng chưa thật phát triển. Các lễ hội trong ngành đồ uống là nơi quảng bá rất tốt cho sản phẩm, nơi gặp gỡ giữa nhà sản xuất trong ngành Bia – Rượu – Nước giải khát và các ngành công nghiệp phụ trợ. Đặc biệt, đó là nơi tiếp xúc, gặp gỡ trực tiếp giữa người tiêu dùng với nhà sản xuất, qua đó giúp các nhà sản xuất có được những thông tin phản hồi chính xác, kịp thời nhất từ khách hàng để nâng cao chất lượng sản phẩm. Năm 2007, Việt Nam mới có festival bia đầu tiên nhằm quảng bá và tôn vinh các thương hiệu bia nổi tiếng trong nước và thế giới. Các doanh nghiệp trong nước tham gia vào các Hội chợ thực phẩm, đồ uống hay các triển lãm quốc tế cũng còn ít.
Quảng cáo sản phẩm là hoạt động được thực hiện khá tốt ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những chương trình quảng cáo có quy mô lớn, các doanh nghiệp này còn quảng bá thông qua việc tài trợ cho các hoạt động xã hội, các giải thể thao lớn như Tiger cup…còn các doanh nghiệp khác thì chất lượng và hiệu quả của hoạt động quảng cáo chưa cao.
2.2. Quy hoạch phát triển ngành còn nhiều bất cập
Việc mở rộng phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát trong thời gian qua có thể nói là khá nhanh. Tuy nhiên quy hoạch phát triển ngành còn nhiều bất cập, thể hiện qua sự phân mảng về quy mô các nhà máy, việc bố trí mạng lưới sản xuất và quy hoạch vùng nguyên liệu.
Về quy mô các nhà máy: Trong số các doanh nghiệp của ngành, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ chiếm tỷ trọng quá lớn trong cả 3 phân ngành, đặc biệt là ngành nước giải khát, chiếm tới hơn 90%, trong khi các doanh nghiệp lớn lại chiếm tỷ trọng quá nhỏ.
Các cơ sở sản xuất nhỏ đi kèm với công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp và gây ô nhiễm môi trường. Do hạn chế về tài chính và ý thức bảo vệ môi trường kém nên việc đầu tư thiết bị, công trình xử lý ô nhiễm còn chưa được quan tâm đúng mức. Có những cơ sở không có bể chứa và biện pháp xử lý chất thải, tất cả nước thải được xả trực tiếp ra hệ thống thoát nước chung.
Về mạng lưới sản xuất: Việc bố trí mạng lưới sản xuất cũng chưa thực sự hợp lý. Khu vực miền Trung được coi là “dải đất du lịch” của cả nước với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, khí hậu lại khô và nóng, nhu cầu về bia, rượu, nước giải khát sẽ rất lớn. Tuy nhiên hiện nay ở khu vực này mới tập trung chủ yếu là các cơ sở sản xuất nhỏ, không đáp ứng được nhu cầu. Chẳng hạn như đối với sản phẩm bia, trong vùng có Công ty Bia Huế là doanh nghiệp lớn hơn cả (công suất 100 triệu lít/năm), nhưng sản phẩm lại mới chỉ đáp ứng được chủ yếu ở thị trường Huế, các tỉnh khác như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị…hầu hết phải vận chuyển sản phẩm của SABECO, HABECO…về để tiêu thụ.
Về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu: Bên cạnh việc bố trí mạng lưới sản xuất chưa hợp lý, ngành cũng chưa có các quy hoạch vùng nguyên liệu cho sản xuất. Trái cây phục vụ cho sản xuất rượu vang đã được chú trọng hơn, hiện đang hoàn thành giai đoạn I của dự án trồng nho tại Ninh Thuận. Một số dự án thử nghiệm nữa đang được tiến hành. Vùng nguyên liệu đại mạch cho sản xuất bia thì vẫn dừng lại ở khâu khảo sát, chưa có kết quả. Các loại hoa quả để sản xuất nước giải khát chủ yếu là mua tại vườn, chưa theo quy hoạch.
Tình trạng phát triển thiếu cân đối như trên là do công tác quản lý quy hoạch ngành còn kém, cấp phép đầu tư tràn lan, không hiệu quả và một phần là do thiếu vốn.
Về công tác quản lý quy hoạch ngành: Nhu cầu về bia rượu giá rẻ vẫn còn phổ biến, các doanh nghiệp hiện có không đáp ứng được tất yếu dẫn đến hình thành các cơ sở sản xuất ở địa phương để bù đắp khoảng trống này. Hơn nữa, do có thuế tiêu thụ đặc biệt nên nhiều nơi mong muốn có nhà máy bia để tăng thu ngân sách cho địa phương. Rất nhiều cơ sở sản xuất được cấp phép, tuy nhiên do vốn ít nên đây hầu hết là các cơ sở nhỏ. Ở ngành sản xuất nước giải khát, nhu cầu về sản phẩm lớn cộng với sự ra đời của các thiết bị lọc và xử lý nước không cần nhiều vốn dẫn đến có quá nhiều cơ sở sản xuất nước tinh lọc có quy mô nhỏ ra đời, quản lý không theo kịp. Mặt khác, việc quản lý quy hoạch ngành Bia – Rượu – Nước giải khát mới được chú trọng từ năm 2000 trở lại đây, trước đó sự phát triển của ngành khá tự do, tuy nhiên các cơ sở sản xuất hiện có lại thường được phát triển dựa trên các cơ sở sẵn có, do đó chưa theo kịp với những thay đổi về nhu cầu và chưa gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu.
Về vốn: do vốn đầu tư ít dẫn đến sự xuất hiện của hàng loạt các cơ sở sản xuất nhỏ, máy móc trang thiết bị nghèo nàn, công nghệ lạc hậu. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu và phát triển vùng nguyên liệu cũng đòi hỏi vốn lớn tuy nhiên sự hạn chế về vốn đầu tư làm cho hoạt động này gặp nhiều khó khăn.
2.3. Ngành hoạt động chưa thực sự hiệu quả
Mặc dù lợi nhuận toàn ngành Bia – Rượu – Nước giải khát tăng liên tục trong những năm qua, tuy nhiên nếu xét theo thành phần kinh tế thì các doanh nghiệp ngoài nhà nước liên tục bị lỗ, xét theo phân ngành thì ngành sản xuất nước giải khát bị lỗ liên tục. Nguyên nhân của tình trạng này là do quy mô của các doanh nghiệp ngoài nhà nước và các cơ sở sản xuất nước giải khát rất nhỏ, trình độ công nghệ thấp. Sản phẩm của các đơn vị này làm ra có chất lượng kém, không cạnh tranh được với các sản phẩm khác, phát huy công suất thấp và thua lỗ.
Bên cạnh đó, sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát trong thời gian qua chủ yếu theo chiều rộng. Thành công lớn nhất của ngành có thể nói đó là sự tăng lên rất nhanh về sản lượng. Do thị trường trung cấp và bình dân ở nước ta còn chiếm tỷ trọng lớn, nhu cầu đang cao nên các doanh nghiệp trong nước có thể tăng lượng cung mà chưa phải lo nhiều về thị trường. Trong thời gian qua, giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm của ngành lớn chủ yếu dựa trên sản lượng lớn. Thời gian tới, dưới sức ép cạnh tranh của hàng ngoại, sản lượng không thể tăng một cách ồ ạt. Hơn nữa, trong ngành bia, nguyên liệu hầu hết phải nhập khẩu mà chưa có biện pháp khắc phục hiệu quả, chi phí cho nguyên liệu lớn làm giảm hiệu quả của ngành. Vì vậy có thể nói khả năng duy trì các chỉ tiêu GO, VA cao của ngành trong những năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn.
Thị trường bia đang cạnh tranh gay gắt và đã có nhiều thương hiệu mạnh chiếm lĩnh tại các phân khúc thị trường, khu vực địa lý, 3 tổ hợp gồm có SABECO, HABECO – Carlsberg (Halida, Huda), APB (VBL – HBL: Heineken, Tiger, BGI, Larue) tạo thành thế kiềng 3 chân, rất khó khăn cho những nhãn hiệu bia mới xâm nhập thị trường, đã có nhiều dự án không phát huy hiệu quả, nhiều nhãn hiệu bia mới tung ra thị trường không tiêu thụ được. Tuy nhiên thị trường bia nước ta đang có mức tăng trưởng cao, sức hút đầu tư vào ngành lớn nên đến nay vẫn có nhiều dự án đầu tư tiếp tục chuẩn bị thực hiện như: Dự án nhà máy bia Thăng Long tại khu công nghiệp Đại An tỉnh Hải Dương; dự án liên doanh sản xuất bia sữa của Vinamilk tại Đà Nẵng; dự án nhà máy bia Vinashin & BIDV…Nếu không xem xét cẩn thận, sự phát triển tràn lan cũng sẽ làm giảm hiệu quả của ngành trong thời gian tới.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH BIA – RƯỢU – NƯỚC GIẢI KHÁT Ở VIỆT NAM ĐẾN NĂM 2015
Quan điểm, định hướng và mục tiêu phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam
Quan điểm phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát
Ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở nước ta ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Ngành đang được quan tâm phát triển dựa trên những quan điểm sau:
Thứ nhất, phát triển ngành công nghiệp sản xuất bia, rượu, nước giải khát theo hướng bền vững, chú trọng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng và bảo vệ môi trường sinh thái.
Thứ hai, phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát trên cơ sở huy động nguồn lực từ tất cả các thành phần kinh tế, dưới mọi hình thức, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, đa dạng của xã hội.
Thứ ba, phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát trên cơ sở áp dụng công nghệ, thiết bị tiên tiến, không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên vật liệu, năng lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và sản phẩm; tập trung xây dựng một số thương hiệu mạnh quốc gia để cạnh tranh hiệu quả trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Định hướng phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát
Dựa trên quan điểm phát triển của ngành, định hướng phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát của nước ta trong thời gian tới là:
Đối với lĩnh vực sản xuất bia: tập trung cải tạo, mở rộng nâng công suất các nhà máy quy mô vừa và nhỏ gắn với đổi mới thiết bị, công nghệ hiện đại. Xây dựng mới các nhà máy có công suất lớn từ 100 triệu lít/năm trở lên gắn với các thương hiệu lớn. Tiếp tục xây dựng và phát triển một số thương hiệu bia nội địa mạnh để có đủ năng lực cạnh tranh trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đối với lĩnh vực sản xuất rượu: khuyến khích phát triển sản xuất rượu quy mô công nghiệp chất lượng cao. Giảm dần rượu nấu thủ công quy mô gia đình. Kết hợp nấu rượu thủ công có cải tiến công nghệ ở các làng nghề với thu gom xử lý theo quy mô công nghiệp ở các công ty để sản xuất ra rượu mang màu sắc truyền thống, không độc hại, giá rẻ, phục vụ nhu cầu ở các địa phương. Khuyến khích phát triển rượu vang từ các loại quả gắn với phát triển các vùng nguyên liệu ở các địa phương.
Đối với lĩnh vực sản xuất nước giải khát: khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư sản xuất nước giải khát quy mô lớn, thiết bị, công nghệ hiện đại, đảm bảo vệ sinh thực phẩm và bảo vệ môi trường; sử dụng nguyên liệu trong nước kết hợp xây dựng vùng nguyên liệu, trong đó ưu tiên sản xuất nước giải khát từ hoa quả và các loại nước uống bổ dưỡng.
Mục tiêu phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát đến năm 2015
Dựa trên quan điểm và định hướng phát triển, kết hợp với thực trạng phát triển của ngành trong thời gian qua, mục tiêu phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát đến năm 2015 là:
Về mục tiêu tổng quát: xây dựng ngành Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam trở thành một ngành kinh tế quan trọng, có thương hiệu hàng hóa mạnh trên thị trường; các sản phẩm có chất lượng cao, có uy tín, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đa dạng hóa về chủng loại, bao bì, mẫu mã; có khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập, đáp ứng nhu cầu trong nước và một phần xuất khẩu.
Trong thời gian tới, mục tiêu của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát là phát triển nhanh, hiệu quả, phù hợp với bối cảnh quốc tế và khu vực, phù hợp với các cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển ngành của thế giới và khu vực, phát huy được tiềm năng, lợi thế của đất nước, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế quốc dân và tiến tới xuất khẩu sản phẩm.
Bên cạnh mục tiêu chung ở trên, ngành có các mục tiêu cụ thể sau:
Về sản lượng và cơ cấu sản phẩm:
Đối với sản phẩm bia, mục tiêu đến năm 2015 sản lượng bia đạt 4.293 triệu lít, trong đó giảm dần tỷ lệ bia hơi, giữ ổn định tỷ lệ bia lon và tăng tỷ lệ bia đóng chai lên 66,7%.
Đối với sản phẩm rượu: mục tiêu đến năm 2015 sản lượng rượu đạt 500 triệu lít. Về cơ cấu, giảm tỷ trọng rượu tự nấu xuống còn 62,35%.
Đối với sản phẩm nước giải khát: mục tiêu đến năm 2015 sản lượng nước giải khát đạt 4.205 triệu lít. Về cơ cấu, theo xu hướng phát triển của thị trường thì nhu cầu các loại nước quả, nước bổ dưỡng và đồ uống không gaz tăng nhanh trong thời gian tới. Do đó mục tiêu đến năm 2015, tỷ trọng nước quả tăng lên 8,91%; đồ uống không gaz tăng lên 7,68%; nước uống có gaz giảm xuống còn 15,8%; nước khoáng và nước tinh lọc chiếm 67,6%.
Về công suất đầu tư mới và đầu tư mở rộng:
Trên cơ sở mục tiêu sản xuất bia, rượu, nước giải khát, dự tính khả năng phát huy công suất của các nhà máy trong giai đoạn từ nay đến năm 2015 đạt khoảng 80% thì tổng công suất thiết kế và số lượng các nhà máy vào cuối năm 2015 như sau:
Bảng 3.1: Tổng công suất và số nhà máy của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát dự kiến đến hết năm 2015
Bia
Rượu
Nước giải khát
Tổng công suất thiết kế (triệu lít)
5.385
235
5.227
Số lượng nhà máy
158
90
1.013
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu, IPSI, 2008
Về phân bố công suất sản xuất theo vùng:
Bảng 3.2: Phân bố công suất sản xuất theo vùng đến năm 2015
Đơn vị: %
Bia
Rượu
Nước giải khát
Vùng Đồng bằng sông Hồng
33,16
29,49
27,11
Vùng Trung du miền núi phía Bắc
4,77
9,16
3,94
Vùng Duyên hải miền Trung
27,46
12,63
14,28
Vùng Tây Nguyên
1,99
5,09
1,08
Vùng Đông Nam Bộ
24,80
29,91
28,97
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long
7,82
13,72
24,62
Cả nước
100
100
100
Nguồn: Tính toán của nhóm nghiên cứu, IPSI, 2008
Ngành Bia – Rượu – Nước giải khát có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên từ thực trạng phát triển ngành trong thời gian qua cần thiết phải tìm ra các giải pháp để ngành Bia – Rượu – Nước giải khát phát triển phù hợp với các quan điểm, định hướng cũng như mục tiêu đã đề ra. Tiếp theo chuyên đề sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển ngành đến năm 2015.
Một số giải pháp chủ yếu phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam
Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
Các giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm
1.1.1. Giải pháp về nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ
Khoa học công nghệ là động lực thúc đẩy ngành Bia – Rượu – Nước giải khát phát triển. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó còn ảnh hưởng đến mức tiêu hao nguyên, nhiên liệu và vấn đề môi trường. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất sẽ giúp phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát theo chiều sâu, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành. Do vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ, đẩy mạnh việc áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng, quản lý môi trường tiên tiến…cho ngành Bia – Rượu – Nước giải khát.
Các doanh nghiệp lớn trong ngành cần chú trọng đầu tư cho trung tâm hoặc phòng nghiên cứu chuyên ngành của mình trang thiết bị hiện đại và đội ngũ cán bộ khoa học đủ mạnh để nghiên cứu các sản phẩm mới, nghiên cứu cải tiến công nghệ hiện có.
Thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển và của các công ty hàng đầu thế giới; có chương trình phối hợp với các viện nghiên cứu, các trường đại học để nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến theo xu hướng phát triển của thế giới.
Việc đổi mới máy móc thiết bị, đặc biệt là máy móc thiết bị từ nước ngoài đòi hỏi phải có vốn lớn. Do đó các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa có các phương án nâng cấp thiết bị, sử dụng thiết bị chế tạo trong nước có chất lượng tương đương thiết bị nhập khẩu nếu có thể để tiết kiệm chi phí.
Đối với các dự án đầu tư nhà máy mới, cần chú trọng đầu tư các nhà máy có công suất lớn, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến.
Các dự án đầu tư mở rộng và đầu tư theo chiều sâu cần thực hiện triệt để việc hiện đại hóa công nghệ, thay thế công nghệ và thiết bị lạc hậu hiện có bằng công nghệ và thiết bị hiện đại, chú trọng xử lý chất thải bảo vệ môi trường.
1.1.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nguồn nhân lực của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát hiện nay đang có chất lượng thấp, do đó phát triển nguồn nhân lực là việc làm cấp thiết cho sự phát triển lớn mạnh của cả ngành.
Muốn thực hiện được điều này, các doanh nghiệp cần xây dựng kế hoạch tổ chức đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực.
Nhu cầu lao động tăng thêm của ngành từ nay đến năm 2010 là trên 1000 người và đến năm 2015 cần thêm khoảng 6000 người. Dự tính trung bình hàng năm số lao động nghỉ theo chế độ 4% tổng lao động thì trung bình 1 năm cần bổ sung thêm khoảng 1500 người. Như vậy, trung bình hàng năm cần đào tạo để bổ sung cho ngành Bia – Rượu – Nước giải khát 2500 lao động, trong đó, cán bộ kỹ thuật và quản lý (đại học và trên đại học) khoảng 500 người; trung cấp và công nhân kỹ thuật khoảng 1300 người. Các doanh nghiệp phải chủ động phối hợp với các trường đại học trong và ngoài nước, trung tâm dạy nghề để đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật, công nhân lành nghề theo nhu cầu của đơn vị.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có kế hoạch đào tạo lại lao động theo định kỳ, kể cả đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề để có đủ trình độ tiếp thu, vận hành công nghệ, thiết bị mới, thích nghi với điều kiện cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Do hiện nay vấn đề chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đang được quan tâm hàng đầu do dó cần tăng cường phổ biến các kiến thức về chất lượng VSATTP để đây trở thành ý thức thường trực trong người lao động.
Doanh nghiệp cử các cán bộ đi đào tạo tại các trường và trung tâm nổi tiếng thế giới của một số quốc gia có nền công nghiệp bia, rượu, nước giải khát phát triển; cần nghiên cứu xây dựng hệ thống đánh giá và đãi ngộ xứng đáng, có cơ chế thu hút và giữ người tài.
1.1.3. Giải pháp về phát triển nguyên liệu cho ngành
Nguyên liệu là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng các sản phẩm và chi phí sản xuất. Quy hoạch phát triển nguyên liệu cho ngành không những tạo điều kiện để nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn giúp cho quy hoạch phát triển ngành hợp lý hơn và nâng cao hiệu quả hoạt động. Tuy nhiên, việc đảm bảo nguyên liệu cho sản xuất bia, rượu, nước giải khát thời gian qua còn nhiều hạn chế. Trong thời gian tới cần có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu để đảm bảo chất lượng và ổn định cho sản xuất.
Đối với ngành bia, trong thời gian qua chúng ta phải nhập khẩu một lượng lớn đại mạch nên cần có kế hoạch xây dựng vùng nguyên liệu này để hạn chế nhập khẩu. Do giống đại mạch hiện có không thích hợp với khí hậu nước ta nên cần tăng cường phối hợp với các nhà khoa học để tìm ra các giống đại mạch mới phù hợp hơn. Việc xây dựng vùng nguyên liệu đòi hỏi nhiều vốn và độ rủi ro lại khá cao vì vậy nên để những doanh nghiệp có tiềm lực mạnh thực hiện. Cụ thể là các Tổng công ty như SABECO, HABECO sẽ phối hợp với các địa phương để nghiên cứu trồng đại mạch trong nước.
Các doanh nghiệp sản xuất rượu vang cần chủ động xây dựng vùng nguyên liệu cho chính mình. Cần có sự liên kết chặt chẽ với các hộ nông dân, các địa phương để tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung có chất lượng cao, ổn định lâu dài cho doanh nghiệp.
Đối với công nghiệp sản xuất nước giải khát, do nhu cầu nước giải khát có nguồn gốc từ tự nhiên đang rất lớn nên cần ưu tiên phát triển vùng nguyên liệu, áp dụng khoa học kỹ thuật vào khâu chọn giống, chăm sóc, thu hoạch, bảo quản, sơ chế để có được vùng nguyên liệu tập trung, năng suất cao, chất lượng phù hợp yêu cầu chế biến của ngành. Doanh nghiệp cần liên kết chặt chẽ với các nhà khoa học, nhà nông, phát huy các lợi thế sẵn có để phát triển các vùng nguyên liệu cho sản xuất nước giải khát. Đẩy mạnh công tác thăm dò và đánh giá chất lượng các nguồn nước khoáng ở các địa phương để có thể khai thác, phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của xã hội.
1.1.4. Giải pháp nâng cao công tác quản lý chất lượng sản phẩm
Trong thời gian qua, công tác quản lý chất lượng sản phẩm còn yếu, chưa theo kịp được sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát. Điều này đã tạo điều kiện cho các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát chất lượng kém xuất hiện một cách phổ biến, ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành và xã hội. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm, ngoài các biện pháp về cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nguyên liệu như đã nói ở trên, công tác quản lý chất lượng sản phẩm cũng cần phải được cải thiện.
Muốn vậy, trước hết phải có được một khuôn khổ pháp lý đầy đủ và có hiệu lực tạo cơ sở cho công tác quản lý. Thực tế hiện nay các tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm bia, rượu, nước giải khát còn thiếu. Chẳng hạn như đối với rượu, đến nay mới chỉ có ba tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) cho ba loại là rượu trắng, rượu màu và rượu mùi, các loại rượu khác vẫn chưa có...Do vậy trong thời gian tới, cơ quan quản lý ngành cần phối hợp với các bộ ngành liên quan như Bộ Y tế, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng...để xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng về bia, rượu, nước giải khát sao cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và các cam kết cũng như xu hướng chung của thế giới. Đồng thời với việc xây dựng các tiêu chuẩn, cơ quan quản lý ngành cũng cần tiếp tục có sự phối hợp với các cơ quan khác như Cục quản lý thị trường, Cục vệ sinh an toàn thực phẩm...trong việc theo dõi, kiểm soát thực hiện.
Ngoài ra, dựa trên vai trò và chức năng của mình, cơ quan quản lý ngành cần thúc đẩy phong trào nâng cao chất lượng sản phẩm thông qua các hoạt động như tôn vinh các doanh nghiệp hay sản phẩm có chất lượng tốt, tổ chức các hoạt động bình chọn...để khuyến khích doanh nghiệp tự giác cải thiện chất lượng sản phẩm.
1.2. Giải pháp về thị trường, xây dựng và bảo vệ thương hiệu
1.2.1. Giải pháp về thị trường
Do thị trường luôn biến động nên các doanh nghiệp trong ngành Bia – Rượu – Nước giải khát cần xây dựng chiến lược kinh doanh, tổ chức nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu và thị hiếu khách hàng. Đặc biệt đối với sản phẩm của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát, thói quen và “gu” tiêu dùng rất quan trọng trong việc lựa chọn sản phẩm, do vậy cần nghiên cứu kỹ những yếu tố này để có giải pháp hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu, giữ vững và phát triển thị phần.
Doanh nghiệp nên xây dựng và phát triển tốt hệ thống đại lý và tiêu thụ sản phẩm, phát huy vai trò của các chi nhánh nhằm tăng tính chủ động trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần tham khảo, học hỏi các mô hình phân phối hiện đại của các tập đoàn hàng đầu thế giới. Chẳng hạn như ở Việt Nam hiện nay, Tổng Công ty Cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gòn (SABECO) đã tổ chức được hệ thống sản xuất và phân phối theo hướng chuyên môn hóa: các nhà máy chuyên về sản xuất sản phẩm, hệ thống 9 công ty thương mại, 1000 nhà phân phối chuyên về phân phối bán hàng, đồng thời đang có kế hoạch đưa mảng marketing về hệ thống này. Đây chính là một trong những lý do thành công trong việc giữ vững và mở rộng thị phần của SABECO.
Nghiên cứu phương thức quảng bá hình ảnh của sản phẩm và doanh nghiệp một cách hiệu quả cũng là việc rất cần thiết. Tích cực tham gia các giải thưởng, các hội chợ triển lãm trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm là một trong những hoạt động quảng bá có hiệu quả.
Các doanh nghiệp chủ động mở rộng thị trường, tích cực tìm hiểu, tìm cơ hội xuất khẩu vào các thị trường mới, có tiềm năng. Bên cạnh đó, tích cực tận dụng vai trò của thương nhân Việt Nam ở nước ngoài để đẩy mạnh việc đưa các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát thâm nhập thị trường, nhất là những khu vực có cộng đồng người Việt sinh sống.
Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát cần tổ chức tốt mạng lưới thông tin dự báo tình hình thị trường, giá cả, cung cầu hàng hóa để cung cấp cho các hội viên và doanh nghiệp.
1.2.2. Giải pháp về xây dựng và bảo vệ thương hiệu
Trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh gay gắt, thương hiệu chính là tài sản vô hình nhưng rất lớn của doanh nghiệp. Thực tế phát triển thời gian qua cho thấy, các doanh nghiệp không có thương hiệu rất khó phát triển và tồn tại. Tuy nhiên xây dựng được thương hiệu nổi tiếng và có uy tín vô cùng khó khăn, nó không chỉ đòi hỏi nhiều chi phí, thời gian mà còn nhiều điều kiện khác nữa. Bởi vậy các doanh nghiệp cần phải xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển thương hiệu cho các sản phẩm của mình.
Đối với các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát, thói quen và thị hiếu chi phối mạnh đến quyết định tiêu dùng sản phẩm. Bởi vậy, xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm này nên dựa trên cơ sở truyền thống, bản sắc dân tộc và thói quen tiêu dùng của người Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đặc biệt chú trọng đến chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Đối với các thương hiệu Việt đã nổi tiếng, có uy tín trong nước như Bia Sài Gòn, bia Hà Nội, rượu vodka Hà Nội, Lúa mới, vang Thăng Long, vang Đà Lạt, nước khoáng Lavie, Vĩnh Hảo…cần có chiến lược phát triển lâu dài trên cơ sở nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng cải tiến mẫu mã, đa dạng sản phẩm, mở rộng sản xuất để giữ vững và phát triển thị phần. Củng cố và phát triển hệ thống tiêu thụ sản phẩm bảo đảm tin cậy, thuận lợi, uy tín với khách hàng. Đặc biệt các doanh nghiệp cần chủ động đưa ra các biện pháp để chống lại việc bị làm giả, làm nhái sản phẩm của mình như cải tiến mẫu mã sản phẩm, dán tem chống hàng giả…Kinh nghiệm đối với sản phẩm nước uống tinh khiết Joy của Coca Cola, với việc đầu tư dây chuyền sản xuất chai có dập chữ nổi lên vỏ chai, sản phẩm này đã ít bị làm giả và làm nhái đi rất nhiều.
Các giải pháp cải thiện quy hoạch phát triển ngành
2.1. Giải pháp về quản lý quy hoạch ngành
Quy hoạch phát triển hợp lý là yêu cầu để phát triển bền vững các ngành kinh tế nói chung và ngành Bia – Rượu – Nước giải khát nói riêng. Do quy hoạch ngành trong thời gian qua còn nhiều bất cập nên thời gian tới cần có các biện pháp để cải thiện công tác này.
Trước hết cần nâng cao vai trò của Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát, tăng cường phối hợp hoạt động giữa Hiệp hội với cơ quan quản lý ngành để có các giải pháp đồng bộ và hiệu quả.
Về quy hoạch ngành, trên cơ sở hiện trạng phân bố năng lực sản xuất của các tiểu ngành bia, rượu, nước giải khát theo vùng kinh tế; quy hoạch phát triển sản phẩm đến từng thời kỳ; quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước phân theo 6 vùng kinh tế; khả năng thu hút đầu tư ở mỗi vùng; các điều kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội để phát triển ngành một cách hợp lý.
Đối với ngành bia, quy hoạch phát triển sản xuất sẽ tập trung cao tại vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. Đây là những nơi có sẵn tiềm năng về sản xuất sản phẩm bia với chất lượng cao đồng thời là những nơi tiêu thụ nhiều bia nhất. Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn và Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Hà Nội đóng ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội vẫn là những đơn vị nòng cốt. Vùng Duyên hải miền Trung với điều kiện khí hậu nóng, địa hình trải dài, sức tiêu thụ tại địa phương là rất lớn. Tiếp theo là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nhu cầu cũng đang tăng khá nhanh nên cần phải chú ý các phương án đầu tư nâng công suất hoặc đầu tư mới một cách hợp lý trong các vùng này.
Quy hoạch phát triển sản xuất rượu sẽ tập trung cao tại vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ và Duyên hải miền Trung. Đây là những nơi có sẵn tiềm năng về sản xuất rượu đồng thời là những nơi tiêu thụ rượu nhiều nhất. Vùng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc sẽ là những vùng phát triển mạnh rượu vang từ hoa quả. Đặc biệt là vùng Tây Nguyên, sẽ có những dự án lớn trồng nho và sản xuất rượu vang đặc sản. Vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phát triển các loại nước uống lên men. Các vùng còn lại chủ yếu sẽ phát triển rượu trắng và rượu pha chế kết hợp với tinh chế các sản phẩm rượu truyền thống ở địa phương.
Việc bố trí các cơ sở sản xuất nước giải khát cũng phải dựa trên nhu cầu thị trường và các điều kiện sản xuất. Trong thời gian tới, sẽ phải tập trung phát triển sản xuất tại vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Duyên hải miền Trung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là những nơi có tiềm năng về sản xuất và là nơi tiêu thụ nhiều nước giải khát. Trong các vùng, vùng Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, Duyên hải miền Trung và Trung du miền núi phía Bắc có điều kiện để phát triển nước giải khát từ hoa quả. Nước khoáng và nước tinh lọc thì nhu cầu đang lớn và có điều kiện để phát triển ở tất cả các vùng.
Trên thực tế, Nhà nước muốn kiểm soát không phải về sản lượng mà về quy hoạch theo vùng và phát triển ở những vùng chưa có nhà máy, tính đến hiệu quả kinh tế chứ không chỉ riêng hiệu quả tài chính, tránh xây dựng thêm nhà máy bia ở các thành phố lớn. Ví dụ như Chính phủ đã cho phép Tổng công ty cổ phần Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn xây dựng thêm một nhà máy bia công suất 100 triệu lít/năm ở khu vực Đông Nam Bộ, nhưng nhà máy đặt tận Củ Chi chứ không phải ở TP. Hồ Chí Minh.
Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp nhỏ trong ngành quá nhiều, công nghệ, thiết bị lạc hậu, vệ sinh thực phẩm và môi trường không đảm bảo nên trong tương lai không cấp giấy chứng nhận đầu tư cho các dự án nhỏ, công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. Cần đẩy mạnh việc sắp xếp lại các nhà máy sản xuất bia, rượu, nước giải khát thuộc sở hữu nhà nước hoạt động không hiệu quả theo các hình thức sáp nhập, cổ phần hoá, chuyển hướng sản xuất kinh doanh, bán, khoán, cho thuê và các hình thức khác.
Để tăng cường công tác quản lý quy hoạch, tránh đầu tư tràn lan theo phong trào, gây mất cân đối và lãng phí trong đầu tư, đối với dự án ngành bia từ 50 triệu lít trở lên phải có ý kiến của Bộ Công Thương và trên 150 triệu lít phải có ý kiến của Chính phủ. Đối với dự án ngành rượu, vì là mặt hàng hạn chế kinh doanh nên dự án có công suất từ 10 triệu lít trở lên phải có ý kiến của Bộ Công Thương và trên 50 triệu lít phải có ý kiến của Chính phủ.
2.2. Giải pháp về vốn đầu tư
Vốn đầu tư của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát trong thời gian qua còn hạn chế dẫn đến sự xuất hiện của quá nhiều các cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, công suất thấp, công nghệ lạc hậu. Điều này không chỉ là nguyên nhân dẫn đến sự phân hóa về quy mô trong bức tranh quy hoạch ngành mà còn là nguyên nhân dẫn đến chất lượng sản phẩm thấp.
Trước hết, các doanh nghiệp trong ngành Bia – Rượu – Nước giải khát cần có các biện pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động như cơ cấu lại tổ chức, áp dụng các công nghệ mới để nâng cao năng suất lao động…tạo điều kiện tăng quy mô vốn của doanh nghiệp.
Đẩy mạnh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước kể cả các tổng công ty nhà nước. Khuyến khích các công ty cổ phần thực hiện việc niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Do nhu cầu đầu tư còn lớn nên trong trong thời gian tới cần tiếp tục thu hút vốn đầu tư vào ngành bằng cách đa dạng hoá hình thức đầu tư và phương thức huy động vốn, khuyến khích huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu, liên doanh, liên kết.
Cung cấp thông tin về các dự án và có chính sách đãi ngộ hợp lý để huy động vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài.
Một số kiến nghị với Chính phủ
Về công tác quản lý
Do thực tế hiện nay, các tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm bia, rượu, nước giải khát vẫn còn chưa đầy đủ. Vì vậy, để tạo cơ sở thống nhất trong việc đảm bảo và kiểm tra chất lượng cho sản phẩm, Nhà nước cần bổ sung và điều chỉnh các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm phù hợp với điều kiện trong nước và thông lệ quốc tế; tăng cường các hoạt động chứng nhận, đảm bảo và công nhận lẫn nhau về chất lượng.
Bên cạnh đó, cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan để xây dựng những biện pháp, những rào cản thương mại hợp lý, phù hợp với các quy định của WTO và các Hiệp định quốc tế mà Việt Nam đã ký kết nhằm bảo vệ sản xuất bia, rượu, nước giải khát trong nước như quy định về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm…
Cần tạo một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thị trường bia, rượu, nước giải khát bằng cách tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát biên giới và thị trường trong nước, hoàn thiện hệ thống hải quan để chống hàng lậu, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường. Hiện nay, chế tài xử lý đối với các vi phạm còn nhẹ. Theo Nghị định số 06/2009/NĐ-CP (về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sản xuất, kinh doạn rượu và thuốc lá), đối với vi phạm sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh khi không có giấy phép sẽ bị phạt tiền từ 100.000 đồng đến 500.000 đồng; xử phạt từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi nhập lậu rượu có giá trị đến 5.000.000 đồng…Thậm chí có trường hợp sản xuất nước uống tinh khiết từ nước giếng trái phép cũng chỉ bị phạt 500.000 đồng. Với mức xử phạt nhẹ sẽ không đủ sức răn đe, do đó cần nghiên cứu điều chỉnh tăng mức xử phạt sao cho hiệu quả hơn.
Các cơ quan chức năng của Nhà nước như Cục Sở hữu trí tuệ trực thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cần tăng cường giám sát bảo hộ thương hiệu, nhãn mác, kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm…đấu tranh chống hàng nhái, hàng giả.
Vì việc phát triển sản xuất rượu công nghiệp trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn do rượu tự nấu giá rẻ nên phải có các biện pháp hữu hiệu để hạn chế rượu tự nấu. Tăng cường bộ máy kiểm soát ở địa phương, thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu tự nấu. Yêu cầu có giấy phép đối với sản xuất rượu thủ công nhằm mục đích kinh doanh…
Đặc biệt, trong chính sách thuế, phải có lộ trình điều chỉnh thuế hợp lý. Trước khi ban hành các chính sách có tác động lớn đến ngành, cần tham khảo ý kiến doanh nghiệp, công khai, minh bạch các chính sách.
2. Hỗ trợ về thị trường
Cần có sự phối hợp giữa các bộ ban ngành, tổ chức thường niên hội chợ triển lãm trong nước để các doanh nghiệp tham gia giới thiệu, quảng bá sản phẩm; hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, giới thiệu quảng bá sản phẩm ở nước ngoài theo chương trình xúc tiến thương mại quốc tế.
Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin thị trường trong nước và ngoài nước cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3. Hỗ trợ về phát triển vùng nguyên liệu
Việc nghiên cứu và phát triển vùng nguyên liệu thường đòi hỏi vốn lớn và có độ rủi ro khá cao. Do đó, Nhà nước cần có những hỗ trợ về vốn, các trung tâm nghiên cứu, đất đai…trong việc nghiên cứu, thử nghiệm phát triển vùng nguyên liệu.
KẾT LUẬN
Ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển từ cuối thế kỷ XIX đến nay và ngày càng trở thành một ngành kinh tế quan trọng. Không chỉ đáp ứng nhu cầu về các sản phẩm bia, rượu, nước giải khát cho người dân, ngành còn có đóng góp đáng kể vào giá trị sản xuất, giá trị tăng thêm và vào ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó ngành Bia – Rượu – Nước giải khát cũng đã tạo được công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động và góp phần thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế. Trong thời gian tới, bên cạnh các cơ hội để phát triển ngành còn phải chịu khá nhiều thách thức. Chính những hạn chế của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát sẽ cộng hưởng với các thách thức làm cho ngành gặp rất nhiều khó khăn trong những năm tới. Việc tìm ra giải pháp để phát triển ngành là hoàn toàn cần thiết và chính là lý do để tôi thực hiện đề tài “Một số giải pháp phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam đến năm 2015”.
Trong khuôn khổ chuyên đề này, đề tài đã cố gắng làm rõ các nội dung:
Thứ nhất: Đặc điểm và những nhân tố tác động đến sự phát triển của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát
Thứ hai: Sự cần thiết phải phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam
Thứ ba: Những thành tựu cũng như hạn chế và nguyên nhân của chúng trong quá trình phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở Việt Nam thời gian qua
Các nội dung trên nhằm phục vụ mục tiêu cuối cùng của đề tài đó là tìm ra các giải pháp để phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát ở nước ta đến năm 2015.
Các nhóm giải pháp mà chuyên đề đưa ra bao gồm:
- Nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành. Trong nhóm này có các giải pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm và các giải pháp về xây dựng, bảo vệ thương hiệu và mở rộng thị trường.
- Nhóm giải pháp nhằm cải thiện quy hoạch phát triển ngành. Trong nhóm này gồm các giải pháp tăng cường công tác quản lý quy hoạch ngành và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành Bia – Rượu – Nước giải khát.
Để phát triển được, ngoài nỗ lực của ngành Bia – Rượu – Nước giải khát cần có sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Ở đây chuyên đề cũng đã đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ như cần tăng cường hoạt động quản lý, có những hỗ trợ về thị trường cũng như tạo điều kiện để phát triển vùng nguyên liệu cho ngành Bia – Rượu – Nước giải khát.
Với mục tiêu là tìm ra các giải pháp để phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát đến năm 2015 nhưng do hạn chế về mặt thời gian và kiến thức thực tế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo, các cô chú, anh chị tại cơ quan thực tập để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Khương Bình (2006), WTO với doanh nghiệp Việt Nam. Những cơ hội và thách thức hậu gia nhập WTO, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Bộ Công nghiệp (2003), Báo cáo Hội nghị công nghiệp chế biến toàn quốc.
3. Bộ Công nghiệp (2005), Báo cáo Tổng kết tình hình phát triển công nghiệp năm 2001-2005 và định hướng kế hoạch 5 năm 2006-2010.
4. Bộ Công Thương (2008), Báo cáo Tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành công thương.
5. Hiệp hội Bia Rượu Nước giải khát Việt Nam (2003), Ngành Bia – Rượu – Nước giải khát từ truyền thống đến hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia.
6. GS.TS. Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), Giáo trình Kinh tế phát triển, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội.
7. Quyết định Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam đến năm 2010.
8. Tổng cục Thống kê (2000-2007), Số liệu điều tra doanh nghiệp, Số liệu điều tra dân số và lao động.
9. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp – Bộ Công Thương (2008), Báo cáo tổng hợp dự án “Quy hoạch phát triển ngành Bia – Rượu – Nước giải khát Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025”.
10. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Trung tâm Thông tin – Tư liệu, Đầu tư và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập.
Một số trang web: -
-
-
PHỤ LỤC 1
Các doanh nghiệp sản xuất bia có công suất từ 50 triệu lít/năm trở lên năm 2007
TT
Tên công ty, nhà máy
Công suất (triệu lít)
1
Tổng công ty Bia Rượu Nước giải khát Hà Nội (HABECO)
200
2
Công ty TNHH nhà máy bia Hà Tây
100
3
Công ty bia Huế
100
4
Tổng công ty Bia Rượu NGK Sài Gòn (SABECO)
200
5
Công ty LD NM Bia Việt Nam
230
6
Công ty TNHH TMDV Tân Hiệp Phát
150
7
Công ty CP Bia và NGK Việt Hà
75
8
Công ty LD bia Đông Nam Á
60
9
Công ty CP Bia Hà Nội – Hải Phòng
55
10
Công ty Bia Sài Gòn – Phủ Lý
50
11
Công ty CP Bia NGK Hạ Long Quảng Ninh
50
12
Công ty SXKD XNK Hương Sen
50
13
Công ty Bia Thanh Hóa
70
14
Công ty Foster’s Đà Nẵng (công ty VBL Đà Nẵng)
50
15
Công ty Bia Sài Gòn – Bình Dương
50
16
Nhà máy bia Sanmiguel
50
17
Nhà máy bia Sài Gòn – Cần Thơ
50
18
Công ty Foster’s Tiền Giang (công ty VBL Tiền Giang)
50
19
Công ty bia Sài Gòn – Nghệ Tĩnh
50
PHỤ LỤC 2
Các doanh nghiệp sản xuất rượu có công suất từ 0,5 triệu lít/năm trở lên năn 2007
TT
Tên công ty, nhà máy
Công suất (triệu lít)
1
Công ty CP rượu Hà Nội
10
2
Công ty CP Thăng Long
5
3
Công ty Rượu Đồng Xuân
5
4
Công ty kỹ nghệ TP Phú Yên
5
5
Công ty CP rượu quốc tế
13
6
Nhà máy Quang Hùng (Cần Thơ)
6
7
Công ty TNHH Rượu từ thiện
2
8
Công ty CP rượu Việt Nam
3
9
Công ty TNHH Thiên Phước
2
10
Công ty XNK Nam Hà Nội
1,6
11
LD rượu Việt Pháp
1,2
12
Công ty PT CN Châu Âu (Hưng Yên)
0,5
13
Công ty rượu La Martinniquaice
1
14
Công ty TP Huế
1,5
15
Công ty Thành Đô (Quảng Ngãi)
1
16
Công ty CP TP Lâm Đồng
1
17
Công ty CP Rượu Bia Đà Lạt
0,5
18
HTX Nhơn Lộc (Bình Định)
0,5
19
Công ty Bia Thanh Hóa
1
PHỤ LỤC 3
Các doanh nghiệp sản xuất NGK có công suất từ 35 triệu lít trở lên năm2007
TT
Tên công ty, nhà máy
Công suất (triệu lít)
1
Pepsico
220
2
Nước quả Ninh Bình
156
3
Cty Đường Quảng Ngãi
115
4
Cty TNHH San Miguel VN (Đồng Nai)
110
5
Cty TNHH TMDV Tân Hiệp Phát (Bình Dương)
70
6
Cty TNHH Uni President VN (Bình Dương)
60
7
Cocacola Ngọc Hồi
52,5
8
Nhà máy Coca cola Non Nước
50
9
LD nước khoáng LA
50
10
Cty Bia NGK Sài Gòn – miền Tây
50
11
Cty TNHH 1TV NK&TMDV Quảng Ninh
48
12
Cty San Miguel Việt Nam
44
13
Nước giải khát Chương Dương
40
14
Nước khoáng Quảng Ngãi
36
15
Cty DONA NEWTOWER
35
16
Redbul – Bình Dương
35
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21873.doc