Chuyên đề Một số giải pháp phát triển thị trường cho công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội

Trải qua gần 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có rất nhiều thăng trầm và biến động. Ngày nay TTCK đã được phát triển rộng khắp cả nước với sự ra đời của 2 sàn giao dịch HNX và HOSE cùng sự khởi động của thị trường UPCOM. TTCK đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế. Để tạo thuận lợi cho việc huy động vốn, các nhà đầu tư mua bán chứng khoán thì cần thiết có sự tham gia của các trung gian tài chính, các CTCK – một định chế tài chính sẽ giúp thúc đẩy thị trường hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả. Đây là một tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, họ sẽ giúp đỡ các chủ thể khác thực hiện công việc mà không tốn kém nhiều thời gian, công sức, tiền bạc nếu họ tự mình làm. Chính vì vậy mà các CTCK đã ra đời. Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HBBS) trong gần 5 năm hoạt động cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể với các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng, chính sách khách hàng hợp lý Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, để nâng cao sức cạnh tranh của công ty đối với thị trường trong nước và hướng tới hội nhập quốc tế cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp phù hợp.

doc61 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1619 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp phát triển thị trường cho công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.2.6 Số lượng tài khoản giao dịch đóng mở tại HBBS Đơn vị : Tài khoản Tháng Tài khoản mở Tổng Mở Tài khoản đóng Tổng đóng Cá nhân Tổ chức Cá nhân Tổ chức Trong nước Nước ngoài trong nước nước ngoài trong nước nước ngoài Trong nước Nước ngoài T10/08 60 2 0 0 162 0 0 0 0 0 T11/08 28 0 0 0 228 0 0 0 0 0 T12/08 21 0 1 0 122 1 0 0 0 1 T1/09 0 0 1 0 81 1 0 0 0 1 T2/09 13 0 0 0 113 6 0 0 0 6 T3/09 3 0 0 0 73 2 0 0 0 2 T4/09 0 1 1 0 82 3 0 0 0 3 T5/09 39 0 1 0 140 1 0 0 0 1 T6/09 70 1 1 0 372 6 0 0 0 6 T7/09 38 0 0 0 238 9 0 0 0 9 T8/2009 20 0 3 0 223 6 0 0 0 6 T9/09 09 0 1 0 110 4 0 0 0 4 T10/09 30 0 2 0 832 1 0 0 0 1 T11/09 53 0 1 0 854 1 2 0 0 1 T12/09 252 1 3 0 1256 1 0 0 0 2 Tổng 866 6 4 0 4886 2 2 0 0 44 Nguồn: Báo cáo KQKD của HBBS năm 2008 và năm 2009 Biểu 3 Số lượng tài khoản mở qua các năm Số bảng trên thể hiện sự biến động của thị trường nói chung tác động đến lòng tin của nhà đầu tư. Họ bắt đầu mở các tài khoản giao dịch nhiều hơn. Năm 2008 số lượng tài khoản tăng có vẻ châm chạp, càng về sau thì càng tăng lên khi mà nền kinh tế đang phục hồi dần. Tháng 12/2009 có thể xem là đỉnh điểm của thời gian giao dịch trong năm. Mọi người bắt đầu tin tưởng nhiều hơn vào nền kinh tế và có những động thái tích cực hơn, thể hiện số lượng tài khoản giao dịch lên đến con số 1256. Số lượng tài khoản mở tại HBBS tăng dần theo thời gian. Tính đến thời điểm cuối năm, số lượng tài khoản chứng khoán được mở tại công ty đã đạt gần 5000 tài khoản, tăng lên rất nhiều so với năm 2008, đây quả thực là một thành công lớn của công ty trong việc thu hút các nhà đầu tư. Số lượng tài khoản giao dịch chứng tỏ uy tín của công ty trên thị trường, là thành quả xứng đáng cho thái độ làm việc miệt mài, tận tâm và hiệu quả của toàn bộ cán bộ nhân viên công ty trong thời gian qua. Tự doanh: Mua bán chứng khoán, đầu tư, tài trợ cho các dự án: HBBS trực tiếp mua và bán chứng khoán cho chính mình và thực hiện việc đầu tư vào các doanh nghiệp cổ phần hoá, các dự án đầu tư khác. Thực hiện tư vấn, làm đại lí hoặc bảo lãnh phát hành chứng khoán cho các tổ chức, doanh nghiệp và dự án. Công ty thực hiện kinh doanh chứng khoán bằng chính nguồn vốn của công ty nhằm thu lợi cho chính mình. Các danh mục đầu tư của công ty luôn được nghiên cứu kỹ, thay đổi hợp lý phù hợp với chiến lược kinh doanh của công ty và diễn biến của thị trường. Đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, các tổ chức phát hành Mua bán các loại công trái, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty và các loại chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết Mua bán kỳ hạn chứng khoán chưa niêm yết (repo OTC): Dịch vụ cho giao dịch mua bán chứng khoán chưa niêm yết có kỳ hạn, CTCK mua chứng khoán chưa niêm yết từ khách hàng và cam kết bán lại chứng khoán cho khách hàng với giá thoả thuận từ thời điểm CTCK mua. Trong hoạt động tự doanh, HBBS thực hiện theo nguyên tắc an toàn và hiệu quả trong đó tính an toàn được đặt lên hàng đầu. Do đó theo quyết định 27/2007/QĐ-BTC để đảm bảo an toàn trong hoạt động tự doanh, CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh không được: Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của CTCK; Đầu tư từ 20% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết; Đầu tư từ 15% trở lên tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết. Ngoài ra, công ty đã đưa ra quy định nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động tự doanh. Cụ thể là - Quy định điểm giới hạn lỗ: Người quản lý chứng khoán sẽ phải đặt bán loại chứng khoán khi mà giá trị trường của nó giảm quá điểm giới hạn lỗ (15% giá trị vốn đầu tư). Trong trường hợp giữ lại thì phải lập một tờ trình và chỉ được giữ lại khi Giám đốc chấp thuận. - Giám đốc hoặc trưởng phòng tự doanh sẽ trực tiếp quy định với từng cán bộ tự doanh về tỷ lệ vốn tối đa được đầu tư vào một loại cổ phiếu trên tổng số vốn được phân bổ. - Tỷ trọng, danh mục đầu tư các loại chứng khoán được phép giao dịch trong từng thời kỳ do Giám đốc quy định dựa trên ý kiến của Hội đồng đầu tư. Sau nhiều năm hoạt động, phòng tự doanh của HBBS đã gặp rất nhiều khó khăn về nhân sự cũng như sự hợp tác với các bộ phận khác trong công ty. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của đội ngũ lãnh đạo chuyên nghiệp, giàu kinh nghiệm, bộ phận tự doanh đã vượt qua những khó khăn ban đầu đó để đạt được những kết quả rất khả quan: Bảng 2.2.7 : Kết quả hoạt động của HBBS Đơn vị : nghìn đồng Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Vốn đầu tư 245,014,357 31,881,748 69,096,197 Doanh thu 198,461,629 19,129,049 53,895,034 Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh Năm 2007 là một năm hoạt động đầy thăng trầm của TTCK Việt Nam khi trải qua những biến động lên xuống thất thường: giai đoạn thị trường bùng nổ trong 3 tháng đầu năm, thị trường bắt đầu hạ nhiệt và điều chỉnh mạnh vào 5 tháng giữa năm, tiếp đến là một đợt phục hồi trước khi đi vào thoái trào trong 4 tháng cuối, do đó kết quả hoạt động của hoạt động đầu tư tự doanh cũng bị ảnh hưởng đáng. Biến động cuối năm 2007 làm ảnh hưởng đến quyết định đầu tư 2008, giá trị đầu tư giảm xuống chỉ còn hơn 31 tỷ đồng. Đến năm 2009, giá trị này lại tăng lên mạnh, gấp đôi năm 2008, đây là dấu hiệu đáng mừng cho hoạt động tự doanh của công ty. Doanh thu của hoạt động tự doanh nhìn chung tăng đều qua các năm. Năm 2008, do ảnh hưởng của khủng hoảng nên hiệu quả tự doanh giảm nhẹ so với năm 2007. So sánh chỉ tiêu doanh thu vốn đầu tư có thể thấy năm 2007 hoạt động tự doanh mang lại hiệu quả hơn. Danh mục đầu tư của HBBS trên cả thị trường niêm yết và chưa niêm yết luôn bảo đảm tính an toàn cao và tuân thủ nghiêm túc điểm giới hạn lỗ là 15%. Trên thị trường niêm yết, công ty chú trọng đầu tư vào những cổ phiếu có tính thanh khoản cao và tránh đầu tư vào những cổ phiếu có rủi ro cao. Còn trên thị trường OTC, Habubank Securities chỉ tập trung đầu tư vào những cổ phiếu các công ty thuộc những ngành có tốc độ tăng trưởng ổn định và an toàn như ngành ngân hàng, viễn thông, điện lực... Song song với quá trình tự doanh cổ phiếu, CTCK Habubank cũng đã đẩy mạnh giao dịch tự doanh trái phiếu thông qua việc tìm kiếm nguồn vốn có lãi suất phù hợp trong điều kiện thị trường tài chính đang rất nóng. Bên cạnh việc đẩy mạnh tìm kiếm nguồn vốn ủy thác đối ứng để thu chênh lệch. Ngoài kinh doanh trái phiếu niêm yết, công ty đã mở rộng sang kinh doanh trái phiếu chưa niêm yết, sử dụng các giấy tờ có giá để làm tài sản đảm bảo quay vòng vốn. Ngoài ra, thông qua hoạt động tự doanh, HBBS đã bước đầu xây dựng được một mạng lưới khách hàng là tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện kinh doanh chứng khoán với công ty. Việc xây dựng được một mạng lưới khách hàng đã giúp cho HBBS có được nhiều cơ hội đầu tư, giảm bớt rủi ro trong hoạt động đầu tư. Tư vấn đầu tư chứng khoán: Tư vấn đầu tư là hoạt động tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán và các diễn biến của thị trường. Người tư vấn sử dụng kiến thức của mình để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Lời tư vấn dựa trên sự phân tích những diễn biến của thị trường trong quá khứ, có thể đúng có thể sai, vì vậy khách hàng vẫn là người quyết định cuối cùng, thông tin người tư vấn đưa ra chỉ nên mang tính chất tham khảo. Trong hoạt động này, đạo đức nghề nghiệp của nhân viên tư vấn luôn được đề cao, tránh việc xảy ra xung đột về lợi ích giữa khách hàng và công ty. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên nhiều kinh nghiệm và tận tâm với nghề, đa phần là tốt nghiệp chuyên ngành chứng khoán của các trường Đại học khối Kinh tế, hoạt động tư vấn ở công ty được bảo đảm phù hợp với nhu cầu đầu tư và mục tiêu đầu tư đa dạng của các nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu tư có tổ chức. Lưu ký, thanh toán và làm đại lý cho các cổ đông: Công ty cũng tham gia lưu giữ, bảo quản chứng khoán, các giấy tờ có giá khác của khách hàng một cách an toàn và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán (quyền bỏ phiếu, mua cổ phiếu, quyền nhận cổ phiếu thưởng, nhận cổ tức, ...) do vậy khách hàng có thể tiết kiệm thời gian, có thể bảo quản các giấy tờ của mình an toàn, tin cậy và hiệu quả nhất. Ngoài ra HBBS còn cung cấp các dịch vụ bổ trợ như: Cho khách hàng được ứng trước tiền bán chứng khoán và cổ tức. Nhận cầm cố giấy tờ chứng khoán có giá. Cho vay mua chứng khoán theo tài khoản bảo chứng. Bảo lãnh đặt lệnh mua chứng khoán. Và có các dịch vụ dành riêng cho pháp nhân như: Tư vấn cổ phần hoá. Tư vấn cho vay mua cổ phiếu (mua cổ phiếu của chính mình). Quản lý cổ đông. Tư vấn niêm yết. Tư vấn tài chính và quản trị. Đánh giá kết quả hoạt động của công ty Đánh giá tình hình hoạt động qua các năm Thông qua chỉ số doanh thu, lợi nhuận Bảng 2.2.8 : Doanh thu, lợi nhuận qua các năm Đơn vị: nghìn đồng Năm Doanh thu Lợi nhuận 2007 427,719,027 104,216,449 2008 108,073,723 11,402,565 2009 169,481,239 142,980,232 Biểu 4: Doanh thu và lợi nhuận qua các năm 104,2 11,4 143 427,7 108,1 169,5 0 100 200 300 400 500 600 2007 2008 2009 Năm Doanh thu Lợi nhuận Nguồn: Báo cáo tài chính Năm 2007, 2008 doanh thu thu được cao, nhưng lợi nhuận lại qua thấp. Năm 2007, lợi nhuận chỉ bằng 1/4 số doanh thu thu về. Năm 2008 còn kém hơn, lợi nhuận chỉ bằng 1/10 doanh thu. Qua báo cáo kết qur kinh doanh có thể thấy, chi phí cho hoạt động kinh doanh chứng khoán trong 2 năm này là quá lớn, năm 2007 là hơn 300 tỷ, năm 2008 là hơn 72 tỷ. Sang năm 2009, con số này giảm đi đáng kể chỉ còn hơn 11 tỷ, từ đó lợi nhuận thu về là một con số không nhỏ chiếm tới 84% doanh thu. Sở dĩ có kết quả này là do trong năm 2009, HBBS đã đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị kỹ thuật hiên đại phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh chứng khoán. Từ đó, các nghiệp vụ kinh doanh diễn ra dễ dàng hơn, giảm rủi ro, giảm chi phí quản lý. Cơ cấu doanh thu qua các hoạt động nghiệp vụ Bảng 2.2.9 Cơ cấu doanh thu Đơn vị: nghìn đồng Hoạt động Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Doanh thu % Doanh thu % Doanh thu % Môi giới 171,943,049 40,2 65,924,971 61 76,605,520 45,2 Tự doanh 198,461,629 46,4 19,129,049 17,7 53,895,034 31,8 Bảo lãnh 46,193,655 10,8 18,156,385 16,8 29,489,736 17,4 Tư vấn 11,120,695 2,6 4,863,318 4,5 9,490,949 5,6 Tổng 427,719,027 100 108,073,723 100 169,481,239 100 Nguồn báo cáo tài chính của HBBS Biểu 5 Cơ cấu doanh thu năm 2009 Nhìn chung, cơ cấu doanh thu biến động qua cá năm, tùy vào từng thời gian cụ thể mà vị trí tỷ trọng doanh thu của mỗi nghiệp vụ lại khác nhau. Hoạt động tự doanh và môi giới chứng khoán luôn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu của công ty. Hoạt động bảo lãnh và tư vấn đầu tư chứng khoán chiếm một tỷ lệ nhỏ, nhất là hoạt động tư vấn. Trên cơ sở nhứng cái đã đạt được, công ty cần phải phát triển hơn nữa những hoạt động còn lại để đa dạng hóa các dịch vụ, thu hút được đông đảo các thành phần khách hàng tham gia tại công ty, góp phần tăng doanh thu lợi nhuận của công ty. Đánh giá chung Những thành tựu đã đạt được Qua những kết quả trên, chúng ta có thể thấy doanh thu, lợi nhuận của công ty phụ thuộc rất nhiều vào tình hình của TTCK. Cùng với sự biến động của thị trường, công ty cũng không tránh khỏi những khó khăn. Tuy nhiên công ty đã đạt được một số kết quả trong các hoạt động nghiệp và ngày càng chiếm được lòng tin của khách hàng. Thứ nhất, trong tình hình kinh tế chung có nhiều biến động, công ty không những duy trì tốt quá trình kinh doanh mà còn kinh doanh có lãi. Thứ hai, các hoạt động kinh doanh của công ty vẫn duy trì và kinh doanh ngày càng phát triển. Điển hình là các hoạt động : môi giới, tự doanh,.. Thứ ba, công ty có đội ngũ cán bộ nhân viên môi giới trẻ, tâm huyết, nhiệt tình, năng động, trách nhiệm và có kiến thức chuyên môn nghiệp vụ về thị trường chứng khoán sâu rộng. Đa phần đều là cử nhân tốt nghiệp chuyên ngành thị trường chứng khoán của các trường thuộc khối ngành Kinh tế. Thứ tư, với kết quả kinh doanh có được, thị phần của công ty ngày càng tăng, tiếng nói của HBBS trên TTCK ngày được nâng lên. Qua đó vốn điều lệ của công ty cũng được nâng lên nhiều so với khi thành lập. Hạn chế Thứ nhất, việc phát triển, hoàn thiện các hoạt động nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Thứ hai, cấu trúc vốn của công ty còn nhiều bất cập. Thứ ba, Sức cạnh tranh của công ty so với một số công ty khác vẫn còn thua kém. Mặc dù công ty luôn quan tâm đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ, cung cấp các sản phẩm tiện ích cho khách hàng nhưng việc cung cấp còn chưa nhanh nhậy với thị trường các sản phẩm cần phải đa dạng hơn có nhiều dịch vụ tiện ích hơn mới hấp dẫn nhà đầu tư lớn. Thứ tư, các hoạt động nghiệp vụ đôi khi còn sai sót, làm mất uy tín của công ty đến khách hàng, ảnh hưởng đến chiến lược phát triển của công ty. Nguyên nhân của những tồn tại Thứ nhất, hạn chế xuất phát từ những bất cập của các quy định pháp luật hiện hành. Các luật, nghị định, thông tư liên tục thay đổi làm cho viêc kinh doanh không ổn định. Thứ hai, do nguồn vốn pháp định điều lệ của công ty còn thấp, nhìn chung chỉ ở mức thấp trên toàn thị trường. Thứ ba, cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng công nghệ thông tìn vào các nghiệp vụ còn thấp. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHO CÔNG TY CHỨNG KHOÁN HABUBANK SECUIRITIES (HBBS) Mục tiêu Là một CTCK ra đời muộn hơn so với các CTCK khác trên thị trường, HBBS thừa kế được những kinh nghiệm của các công ty đi trước và đã có những bước đi khá bài bản. Trong thời gian tới HBBS đặt ra những mục tiêu như sau: - Tiếp tục hoàn thiện và ban hành các quy chế quy trình hoạt động. - Chú trọng công tác nghiên cứu và triển khai trương trình về marketing đặc biệt trong lĩnh vực triển khai sản phẩm mới để đảm bảo đáp ứng nhu cầu của thị trường, thâm nhập được thị trường, khai thác được các nhu cầu tiềm ẩn nhưng cũng đảm bảo được hiệu quả trong hoạt động của từng nghiệp vụ. - Nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ và đẩy mạnh công tác phân tích và tư vấn đầu tư. - Tổ chức các khoá đào tạo chuyên sâu để nâng cao kiến thức cho các bộ phận nhân viên đặc biệt các nội dung về phân tích cơ bản và kỹ thuật. - Khảo sát, thăm dò lựa chọn và xúc tiến mua các phần mềm hỗ trợ phân tích cơ bản, phân tích kỹ thuật, định giá công ty và quản lý danh mục đầu tư nhằm nâng cao hơn nữa tính chuyên nghiệp trong hoạt động của công ty - Tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin. Mục tiêu chiến lược xuyên suốt quá trình hoạt động của HBBS là: “Phát triển và phát triển bền vững”. Hiện tại, công ty đã qua giai đoạn hình thành (2006-2007) và bước vào giai đoạn kiện toàn công ty (2008-2010), trong giai đoạn này, HBBS sẽ tích luỹ kinh nghiệm trong kinh doanh chứng khoán, cẩn trọng, bảo toàn vốn, góp phần làm sôi động TTCK và khẳng định uy tín của HBBS trên TTCK. Đến giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn phát triển công ty. Một số giải pháp Tăng quy mô vốn Hiện tại, nhìn về tương quan có thể thấy, CTCK Habubank có quy mô nhỏ so với toàn thị trường. Điêu này ít nhiều ảnh hưởng đến các hoạt động của công ty. Vì vậy một giải pháp quan trọng lúc này là công ty cần phải tăng quy mô vốn. Giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư Theo báo cáo thực tế tình hình kinh doanh của công ty từ khi thành lập cho đến nay HBBS luôn làm ăn có lãi. Để có thể mở rộng quy mô vốn của công ty, từ đó đa dạng hóa hình thức kinh doanh công ty nên giữ lại một phần lợi nhuận để đầu tư phát triển. Việc giữ lại lợi nhuận để đầu tư trong thời gian ngắn sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của cổ đông. Do vậy để có thể giữ lại lợi nhuận trước hết công ty phải có chiến lược đầu tư tốt trong tương lai, đồng thời phải được các cổ đông thông qua. Nguồn vốn từ lợi nhuận giữ lại này là nguồn vốn quan trọng và có chi phí thấp hơn so với phát hành cổ phiếu. Trong bối cảnh nền kinh tế đang dần phục hồi sâu khủng hoảng, chiến lược đầu tư mở rộng quy mô là rất cần thiết nhưng phải thật thận trọng. Phát hành trái phiếu Đây là một công cụ huy động vốn chưa được phổ biến trên thị trường, tuy nhiên nó lại là một công cụ hữu hiệu. Với sự đa dạng về các loại trái phiếu như trái phiếu có lãi suất thả nổi, lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi kèm quyền mua cổ phiếu hay trái phiếu có thể thu hồi… HBBS có thể lựa chọn loại trái phiếu phù hợp với đặc điểm, tình hình của công ty để phát hành. Hơn nữa với việc huy động vốn bằng trái phiếu, ngoài việc tăng quy mô vốn cho chính công ty đồng thời còn góp phần tạo thêm sự đa dạng hàng hóa trên thị trường. Tái cấu trúc vốn Thị trường luôn biến đổi từng ngày, vì vây, sẽ không có một mô hình cụ thể, chính xác cho mọi cấu trúc vốn, cho mọi công ty. Do đó, tái cấu trúc công ty là một việc làm cần thiết và tỏ ra hết sức hữu hiệu. Thay đổi hình thái sở hữu HBBs là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu của ngân hàng mẹ Habubank. Vì vậy, trong quá trình hoạt động công ty cũng gặp phải những trở ngại nhất định như việc tăng quy mô vốn trong tương lai, về việc hoạch định chiến lược phát triển phải phụ thuộc vào chiến lược phát triển chung của ngân hàng mẹ; về các quyết định phân cấp trong các quyết định hoạt động của công ty. Có thể hiện nay việc tăng quy mô vốn của HBBS có vẻ dễ dàng do được sự hỗ trợ từ ngân hàng mẹ, nhưng về lâu dài thì với việc tồn tại dưới hình thức là công ty TNHH sẽ là một hạn chế cho công cụ huy động vốn. Khiến nghị của bản thân cho rằng, để có thể chủ động trong việc lựa chọn công cụ tăng thêm vốn khi cần thiết, HBBS nên chuyển đổi sang hình thái công ty cổ phần. Đẻ đảm bảo được lợi ích của ngân hàng mẹ khi chuyển đổi sang công ty cổ phần, ngân hàng mẹ vẫn giữ tỷ lệ sở hữu trên 50%, hay nói cách khác chỉ bán đi 49% cổ phiếu ra bên ngoài giống như các doanh nghiệp nhà nước hiện nay chuyển sang công ty cổ phần nhưng vẫn nắm giữ tỷ lệ cổ phiếu chi phối. Tái cấu trúc vốn Nguồn vốn cho quá trình hoạt động kinh doanh cua HBBS hiện nay chủ yếu dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu, và một phần vay ngắn hạn ngân hàng, nguồn vốn nợ dài hạn vẫn bằng không. Do đó, có thể thấy được sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn của công ty. Trong khi nguồn vốn chủ sở hữu còn thấp, nếu chỉ dụng nguồn vốn nợ ngắn hạn thì vốn đáp ứng cho quá trình sản xuất kinh doanh sẽ bị thiếu và bên cạnh đó còn là không ổn định. Với việc chưa sử dụng nguồn vốn dài hạn là một trong những yếu tố làm cho công ty không thể trở thành nhà tạo lập thị trường, vì với nguồn vốn nợ dại hạn công ty mới có thể chủ động mua bán chứng khoán thường xuyên để đảm đương vai trò nhà tạo lập thị trường. Như vậy có thể thấy nguồn vốn nợ dài hạn là rất quan trọng, quyết định đến quá trình phát triển của công ty. Trên cơ sở đó công ty cần có kế hoạch huy đồng vốn bằng công cụ trái phiếu hoặc vay dài hạn ngân hàng để đạt được cơ cấu vốn đã đề ra. Tái cấu trúc hoạt động Công ty cần đánh giá các hoạt động trong thời gian qua của mình. Xem xét xem hoạt động nào mang lại nhiều doanh thu, lợi nhuận cho công ty, hoạt động nào kém hiệu qủa… Trên cơ sở đó tiến hành tái cấu trúc hoạt động hoặc thu hẹp hoặc mở rộng tùy vào kết quả kinh doanh và tình hình kinh tế chung. Nền kinh tế đang từng bước phục hồi sau những làn sóng khủng hoảng. Đây là thời điểm HBBS nên cân nhắc việc mở rộng các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty có thể tiếp tục đầu tư vào các hoạt động kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận như tự doanh, môi giới. Bên cạnh đó nên có những bước đi mạnh dạn hơn nữa trong việc đầu tư vào tư vào các hoạt động khác như tư vấn tài chính doanh nghiệp,…khi mà những năm tiếp theo đây hoạt động cổ phần hóa của doanh nghiệp sẽ là làn sóng mạnh mẽ. Mặt khác công ty cần xây dựng quy trình nghiệp vụ chặt chẽ cho các hoạt động cụ thể. Việc xây dựng quy trình cho các hoạt động nghiệp vụ phải dựa vào tính chất của từng hoạt động và điều kiện hỗ trợ thực hiện các hoạt động. Một quy trình cho một hoạt động nghiệp vụ có thể dược coi là hoàn thiện, chuẩn khi các bước trong quy trình phải tạo ra được sự logic trong công việc và thời gian thực hiện mỗi bước phù hợp với từng giai đoạn cụ thể của công ty. Bên cạnh việc có được một quy trình hợp lý, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là việc thực hiện đúng theo các bước trong quy trình. Ứng dụng công nghệ thông tin HBBS là một công ty có mức vốn trung bình có thể xem là nhỏ, vì vậy mà việc đầu tư vào công nghệ còn khiêm tốn. Do đó nguy cơ tiềm ẩn từ hệ thống mạng máy khá lớn như rủi ro về sự cố đùng truyền, rủi ro về hacker,…Bên cạnh đó, vấn đề bảo mật về thông tin cá nhân về nhà đầu tư cũng như chính công ty chưa cao. Vì vậy công ty cần có các chính sách đầu tư vào trang thiết bị, ứng dụng những công nghệ thông tin hiện đại hơn nữa. Đầu tư vào công nghệ thông tin không chỉ là đầu tư vào máy móc, trang thiết bị mà HBBS còn cần phải nghiên cứu đầu tư vào các phần mêm ứng dụng phục vụ cho quá trình phân tích ra quyết định của chính công ty, cung cấp các dịch vụ tiện ích cho khách hàng là các nhà đầu tư. Để có được hệ thống trang thiết bị hiện đại phục vụ cho hoạt động, công ty cần xây dụng chiến lược phát triển hệ thống công nghệ thông tin dựa trên khả năng tài chính và chiến lược phát triển chung của công ty. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Yếu tố con người luôn là vấn đề trọng tâm quyết định sừ thành bại trong bất kỳ lĩnh vực nào. Đối với lĩnh vực chứng khoán và TTCK thì yêu cầu về trình độ nghiệp vụ chuyên môn và thực tế lại càng đòi hỏi cao hơn so với nhiều lĩnh vực kinh doanh khác. Và HBBS cũng không là đối tượng ngoại lệ. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, HBBS cần chú trọng tới vấn đề tuyển dụng, đào tạo và chế độ đãi ngộ lương thưởng cho nhân viên. Xây dựng kế hoạch và tuyển dụng cán bộ có trình độ năng lực, đạo đức nghề nghiệp. Trước hết công ty cần xây dựng kế hoạch nguồn nhân lực của công ty trong một khoảng thời gian từ 5 đến 10 năm. Trong khoảng thời gian đó công ty phải xác định được nhu cầu về số lượng nhân viên cho từng hoạt động nghiệp vụ để từ đó có kế hoạch tuyển dụng, tránh tình trạng tuyển dụng ồ ạt, chất lượng nhân viên thấp. Đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo. Không chỉ tuyển dụng mà công tác đào tạo cũng phải được chú trọng. Công ty cần kết hợp giữa hình thức đào tạo trong công việc với đào tạo theo chuyên đề. Với hình thức đào tạo trong công việc một mặt sẽ tiết kiệm được chi phí đào tạo mà tăng được hiệu quả trong công việc, mặt khác lại tạo được sự gắn kết giữa các thành viên trong công ty. Cũng theo hình thức dào tạo này định kỳ công ty nên tiến hành các buổi sinh hoạt chuyên môn để các nhân viên chia sẻ kinh nghiệm, kiến thức với nhau, đối với những người được công ty cử đi dự các khóa học ngắn hạn trong hoặc ngoài nước đây là cơ hội để họ chia sẽ những điều đã tiếp thu được cho những người còn lại. Theo hình thức đào tạo chuyên đề, bản thân công ty hiện nay cũng có những chương trình tự đào tạo, bồi dưỡng nhân viên hành nghề của công ty bằng cách gửi đi các khóa học ngắn ngày ở nước ngoài, học ở các trường đại học, các lớp ngắn hạn trong nước, hoặc mời chuyên gia trong và ngoài nước về giảng. Tuy nhiên, HBBS đang tiến hành đạo tạo một cách riêng lẻ theo khả năng của mỗi công ty. Do đó, để tiết kiện được chi phí mà vẫn hiệu quả trong đào tạo, công ty nên bắt tay với các CTCK khác trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực. Với cách đào tạo này vừa tiết kiệm, công ty vừa tránh được tình trạng chảy máu chất xám của công ty mình sang công ty khác. Xây dựng chệ độ đãi ngộ phù hợp. Một trong những chính sách giữ chân những người có năng lực và không để xảy ra tình trạng chảy máu chất xám là chế độ lương thưởng. Công ty nên áp dụng hình thức trả lương theo năng lực, không nên áp dụng mức lương trên cùng một mặt bằng, như vậy sẽ dấn đến tình trạng chây lười, kém phấn đấu trong công việc của nhân viên. Với chính sách thưởng, ngoài chính sách thưởng chung cho toàn bộ công ty vào những dịp lễ tết, những dịp đặc biệt, công ty cần công khai mức thưởng, điều kiện được thưởng để mỗi cá nhân phấn đấu và phải khen thưởng, tuyên dương kịp thời. Ngoài ra, môi trường làm việc thoải mái, năng động cũng sẽ là động lực để mỗi cá nhân phát hutoàn bộ công ty vào những dịp lễ tết, những dịp đặc biệt, công ty cần công khai mức thưởng, điều kiện được thưởng để mỗi cá nhân phấn đấu và phải khen thưởng, tuyên dương kịp thời. Ngoài ra, môi trường làm việc thoải mái, năng động cũng sẽ là động lực để mỗi cá nhân phát huy hết khả năng sáng tạo, cống hiến sức lực và tâm huyết với công việc. Các giải pháp nguồn lực để thực hiện mục tiêu Để tạo ra được đà bứt phá, song song với các hoạt động tăng cường phát triển, quản lý, giám sát thị trường, giai đoạn 2010-2015 tới đây. UBCKNN đã và sẽ tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại, tích cực tham gia các hoạt động chung của thị trường khu vực và huy động mọi nguồn tài trợ cho phát triển thị trường. Hoạt động xây dựng các chính sách đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế Với chức năng là cơ quan quản lý ngành chứng khoán, UBCKNN cũng là cơ quan đại diện cho ngành khi tham gia vào việc xây dựng các chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế. Cụ thể là: Hội nhập WTO  Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO, yêu cầu về đẩy mạnh và phát triển chiều sâu của các quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chứng khoán ngày càng trở nên cấp thiết. Đặc biệt, việc thực hiện các cam kết về dịch vụ chứng khoán trong biểu cam kết gia nhập WTO là yếu tố quan trọng tạo động lực cho việc mở cửa thị trường, thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư và các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán nước ngoài vào TTCK Việt Nam. Ngày càng nhiều tổ chức nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán có nhu cầu mở các văn phòng đại diện hoạt động tại Việt Nam để thực hiện chức năng liên lạc, nghiên cứu thị trường, thúc đẩy, xúc tiến các hoạt động hợp tác quốc tế, hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2009, UBCKNN đã tổ chức triển khai thực hiện Quy chế thành lập và hoạt động của văn phòng đại diện tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam và Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam. UBCKNN thường xuyên tham gia ý kiến với Bộ Tài chính, Bộ HBBS, Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế để xây dựng các chính sách liên quan tới việc thực hiện các cam kết WTO liên quan tới ngành dịch vụ tài chính, trong đó có việc tham gia xây dựng và triển khai Chương trình hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết 16/NQ/2007/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) Giai đoạn 2007 – 2012 bao gồm Kế hoạch triển khai thực hiện các cam kết WTO thuộc lĩnh vực tài chính và Kế hoạch triển khai các hoạt động để thực hiện có hiệu quả các cam kết WTO. Hội nhập ASEAN Hoạt động hội nhập ASEAN trong lĩnh vực TTCK được triển khai trên hai lĩnh vực: tham gia Diễn đàn Thị trường Vốn ASEAN (ACMF) và tham gia các chương trình trong khuôn khổ các hiệp định thương mại ASEAN, ASEAN+3… ACMF là diễn đàn của các cơ quan quản lý TTCK các nước ASEAN, thường nhóm họp 2 lần/năm và báo cáo trực tiếp Hội nghị Thứ trưởng tài chính ASEAN. Chức danh Chủ tịch Diễn đàn ACMF được thực hiện theo cơ chế luân phiên. Hiện nay, Thái lan đang nắm vị trí Chủ tịch ACMF. UBCKNN Việt Nam hiện đang tích cực tham gia diễn đàn này với tư cách là thành viên chính thức. Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 13 (AFMM 13) tại Thái Lan vào tháng 4/2009 đã thông qua bản Kế hoạch hội nhập thị trường vốn ASEAN 2015 do ACMF đệ trình. Kế hoạch này là một chương trình hội nhập khu vực tổng thể sẽ được các nước trong khu vực ASEAN triển khai trong thời gian tới. Các sáng kiến chủ đạo của Kế hoạch bao gồm: Hài hòa hóa và công nhận lẫn nhau; Liên kế các sở giao dịch chứng khoán khu vực ASEAN và tăng cường quản trị; Củng cố các sản phẩm mới và xây dựng khu vực ASEAN trở thành một loại tài sản đầu tư; Củng cố thị trường trái phiếu; Xây dựng kế hoạch phát triển thị trường vốn trong nước nhằm hỗ trợ hội nhập khu vực; Đẩy mạnh các tiến trình công tác ASEAN. Từ phía UBCKNN, trong quá trình triển khai sửa đổi Luật Chứng khoán và các văn bản dưới luật dự kiến trong năm 2010-2011 và xây dựng Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020, UBCKNN sẽ có kế hoạch đề ra lộ trình thực hiện Kế hoạch. Trong triển khai các chương trình hội nhập TTCK khác trong khu vực ASEAN, UBCKNN đã tích cực tham gia với Bộ Tài chính, Bộ HBBS, Uỷ ban Quốc gia Hợp tác Kinh tế Quốc tế xây dựng và triển khai các phương án đàm phán tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN +. Xây dựng và quản lý các Dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế dành cho UBCKNN Trong giai đoạn này, UBCKNN đã và đang tiếp tục chủ động trong việc định hướng việc khai thác các nguồn tài trợ của Chính phủ các nước cũng như nguồn tài trợ phi chính phủ để xây dựng và triển khai các dự án hỗ trợ cho UBCKNN trong việc phát triển TTCK. Các dự án từ nguồn tài trợ của Chính phủ các nước. Dự án SECO do Bộ Kinh tế Thụy Sỹ tài trợ: UBCKNN đã hoàn tất các thủ tục để đưa dự án “Hỗ trợ năng lực cho UBCKNN do Bộ Kinh tế Thụy Sỹ - SECO tài trợ” đi vào hoạt động. Đây là dự án đào tạo giảng viên kiêm nhiệm của UBCKNN, tổ chức giành cho đối tượng là các cán bộ có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực TTCK hiện đang tham gia giảng dạy cho các chương trình đào tạo về TTCK của UBCKNN. Đây là một chương trình đào tạo có quy mô, có hệ thống đầu tiên trong lĩnh vực này được tổ chức tại Việt Nam. Dự án Lux – Development do Chính phủ Luxembur tài trợ: Dự án này có mục tiêu tăng cường sự phát triển của thị trường vốn ở Việt Nam; xây dựng công cụ và hệ thống giám sát dựa trên rủi ro đối với thị trường vốn và các thể chế tài chính bằng việc hỗ trợ quản lý của UBCKNN trong lĩnh vực quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, tổ chức tài chính, thực hành trên thị trường, quản trị công ty và các dịch vụ qua biên giới. Các dự án từ nguồn tài trợ phi chính phủ Dự án do Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) tài trợ: Đối với Hỗ trợ Kỹ thuật “Hỗ trợ Phát triển Thị trường Vốn và Tăng cường năng lực tài chính” (TA 7087), UBCKNN thực hiện cấu phần tăng cường năng lực giám sát TTCK. Các chuyên gia tư vấn của ADB từ Hoa Kỳ và Australia đã triển khai các hoạt động tư vấn cho UBCKNN bao gồm: (i) khóa đào tạo ngắn hạn xây dựng năng lực giám sát thị trường và giám sát giao dịch, (ii) chương trình khảo sát về thanh tra, giám sát TTCK tại Hoa Kỳ. Đối với các cấu phần khác do Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính chủ trì, UBCKNN đã tham gia đóng góp ý kiến tích cực cho các báo cáo của Dự án, như báo cáo của cấu phần giám sát tài chính, báo cáo của cấu phần trái phiếu. Giải pháp cho các hoạt động nghiệp vụ Hoạt động môi giới Xây dựng chiến lược khách hàng toàn diện hợp lý Chính sách khách hàng là yếu tố hết sức quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty. Với mục tiêu trở thành một trong những công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam vào năm 2015 thì một giải pháp về chính sách khách hàng đúng đắn sẽ là yếu tố quyết định vị trí của công ty trong việc cạnh tranh giành thị phần với các công ty khác. Trong đó, việc phân loại khách hàng từ đó có những chính sách ưu đãi và cung cấp các dịch vụ phù hợp là rất quan trọng. Nâng cao chất lượng sản phẩn dịch vụ Đây là công vịêc quan trọng mà các công ty chứng khoán cần phải tiến hành nhằm giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh lâu dài. Công ty cần nghiên cứu cung cấp các sản phẩm dịch vụ mang tính chất trọn gói, trong đó sản phẩm và dịch vụ mới cung cấp là tập hợp của nhiều sản phẩm trước đó như: tư vấn chứng khoán kết hợp với môi giới giao dịch kèm theo các nghiệp vụ phụ trợ như ứng trước tiền bán chứng khoán cho khách hàng. Những sản phẩm dịch vụ trọn gói này đòi hỏi nhân viên môi giới phải biết kết hợp nhiều kỹ năng khác nhau thì mới có thể cung cấp cho khách hàng những gói sản phẩm theo đúng nghĩa trọn gói. Triển khai mạng lưới phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, khu công nghiệp. Với sự sôi động TTCK đang dần trở lại, nhu cầu của nhà đầu tư ngày càng tăng lên. Do vậy, công chúng đầu tư sẽ nằm ở khắp mọi nơi trên cả nước. Để phát triển hoạt động nghiệp vụ của mình HBBS cần phải triển khai đại lý nhân lệnh rộng rãi hơn nữa. Hoạt động tự doanh Cần xây dựng chiến lược đầu tư cả dài hạn lẫn hắn hạn. Trên cớ sở chiến lược đầu tư, công ty cần thiết lập một danh mục đầu tư hợp lý. Danh mục đầu tư này phải đảm bảo hình thức đa dạng hóa. Đối với chiến lược đầu tư dài hạn thì danh mục đầu tư sẽ có tính ổn định hơn so với chiến lược đầu tư ngắn hạn. Trong chiến lược đầu tư ngắn hạn, danh mục đầu tư cần điều chỉnh theo cơ chế thị trường. Tạo nguồn vốn lớn cho tự doanh Nguồn vốn cho hoạt động tự doanh khá lớn, nhưng củ yếu lại là từ ngân hàng mẹ Habubank. Việc phụ thuộc vào ngân hàng mẹ sẽ làm giảm tính linh hoạt trong cơ cấu vốn. Về lâu dài công ty cần tìm một nguồn vốn khác cho hoạt động tự doanh, vì nguồn vốn hiện tại nhỏ, và việc tích lũy vốn phải cần một thời gian dài và không thu được là bao. Phân công giao trách nhiệm cụ thể cho từng nhân viên tự doanh Vấn đề phân cấp trong quyết định đầu tư sẽ tạo ra sự chủ động hoặc sẽ tạo ra tâm lý sowk trách nhiệm của các nhân viên thực hiện tự doanh. Vì vây, việc giao trách nhiệm cho từng nhân viên tự doanh là rất cần thiết. Với mỗi nhân viên tự doanh sẽ được giao với một loại chứng khoán nhất định và toàn quyền quyết định trong phạm vi được giao. Bên cạnh đó là trách nhiệm với những kết quả mà mình giao dịch được. Hoạt động tư vấn chứng khoán Đa dạng hóa các hình thức tư vấn đầu tư chứng khoán Triển khai mạnh hoạt động tư vấn đầu tư trực tiếp. Để có thể triển khai tốt hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán theo hình thức trực tiếp thì việc bố trí cho bộ phận này trong công ty là rất quan trọng. Để mang lại hiệu quả cho các nhà đầu tư bộ phận này nên đặt gần sàn giao dịch của công ty. Cần nhận thức rõ mức độ cạnh tranh Hoạt động tư vấn không chỉ là cạnh tranh giữa công ty với các CTCK khác mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức khác không phải là CTCK nhưng được Bộ tài chính cấp phép . Do vậy, mức độ cạnh tranh đối với hoạt động tư vấn sẽ gay gắt hơn cá hoạt động khác. HBBS cần xác định vị trí của mình để từ đó đưa các chiến lược cạnh tranh phù hợp. Hoạt động bảo lãnh phát hành Mở rộng đối tượng được bảo lãnh Không chỉ là các doanh nghiệp đã niêm yết mới được bảo lãnh phát hành, công ty nên bảo lãnh phát hành cho cả các công ty chưa niêm yết. Cần tham gia vào quá trình bình ổn giá chứng khoán sau khi phát hành Đây là hoạt động tạo sự yên tâm cho tổ chức phát hành cũng như nhà đầu tư. Qua đó nâng cao được uy tín của HBBS trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Mặt khác, điều này cũng làm cho giá chứng khoán sau khi phát hành có xu hướng rõ rệt hoặc là tăng liên tục hoặc là giảm liên tục. Xây dựng chiến lược phát triển công ty HBBS chưa có chiến lược rõ ràng cho sự phát triển rõ ràng, cụ thể cho công ty trong dài hạn, mà mới chỉ dừng lại ở chiến lược phát triển trong ngắn hạn. Để có thể chủ động trong kinh doanh, việc xây dựng chiến lược, và các bước cụ thể hóa chiến lược bằng kế hoạch là việc làm cần thiết giúp cho công ty ngày càng phát triển trong tương lai cũng như hiện tại. Một số kiến nghị Để CTCK HBBS thực sự trở thành một định chế tài chính trung gian hoạt động có hiệu quả trên TTCK, phát huy tích cực vai trò của mình trong việc thúc đẩy sự phát triển của TTCK nói riêng và của nền kinh tế nói chung, chí với sự nỗ lực của bản thân công ty thì chưa đủ mà cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành có thẩm quyền liên quan. Dĩ nhiên, sự quan tâm của chính phủ cũng rất cần thiết. Trên cơ sở những tồn tại và những hạn chế nhữgn nhu cầu chưa được đáp ứng của công ty trong qúa trình hoạt động , bài viết xin được đưa ra một số kiến nghị đối với cổ phiếu, Uỷ ban chứng khoán nn cũng như các bộ ngành liên quan nhằm tạo điều kiện cho công ty phát triển một cách toàn diện. Kiến nghị với Chính phủ. (kiến nghị với bộ tài chính không được – bộ tài chính ko đc sửa luật) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý. TTCK là một thể chế đặc biệt bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến thực trạng phát triển kinh tế-xã hội của một đất nước khi có những biến động. Với cơ chế vận hành phức tạp, nên các quá trình từ phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp cho đến các giao dịch trên thị trường thứ cấp đòi hỏi phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của luật pháp về chứng khoán và TTCK. Ngoài các quy định nêu trên, hoạt động của TTCK còn chịu sự chi phối của các văn bản luật khác trong các lĩnh vực thương mại, dân sự, đầu tư nước ngoài, phá sản...vv. Hoạt động của TTCK nói chung, bên cạnh những đặc tính ưu việt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, còn chứa đựng những hạn chế, khuyết tật có thể dẫn tới những hậu quả khó lường. Vì vậy, sự điều chỉnh, hoàn thiện hệ thống luật pháp trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK này nhằm tạo ra những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của nền kinh tế thị trường và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình hoạt động thị trường. Giữa các chủ thể của thị trường hình thành những mối quan hệ kinh tế-xã hội đan xen. Công ty chứng khoán là một chủ thể quan trọng của thị trường, hoạt động kinh doanh của công ty có hiệu quả tốt hay không, một mặt phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường. Nhìn tổng thể, tuy chưa có một đạo luật chung về phát hành và kinh doanh chứng khoán như một số nước trên thế giới, nhưng trên thực tế, khung pháp luật về chứng khoán với ba bộ phận cấu thành tối thiểu của nó đã được hình thành, bao gồm: Những quy định về tiêu chuẩn hàng hoá và điều kiện phát hành, điều kiện và thể thức kinh doanh, quản lý Nhà nước và giám sát về chứng khoán và TTCK. Tuy nhiên, về mặt nội dung, các quy định hiện có còn bộc lộ nhiều hạn chế cần khắc phục: Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK hầu hết là các văn bản dưới luật, có giá trị thấp. Các văn bản thiếu tính hệ thống, còn chắp vá, thiếu tính đồng bộ và còn chồng chéo giữa các quy định. Còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề thuộc về chứng khoán và nhiều quan hệ trong TTCK chưa được luật pháp quy định, điều chỉnh. Hầu hết các quy định được xây dựng trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức TTCK của nước ngoài mà chưa được hay còn ít được kiểm nghiệm qua thực tế tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét, sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh và các văn bản ở các ngành, lĩnh vực liên quan khác nhằm tạo nên sự thống nhất cao và ổn định trong hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự vận hành và phát triển của TTCK Việt Nam. Chính phủ cần nhanh chóng hoàn thiện những văn bản quy định, hướng dẫn hoạt động của TTCK cũng như các công ty chứng khoán để phù hợp với tình hình phát triển thực tế của TTCK Việt Nam. Mặt khác, với tình hình và xu hướng của thị trường hiện nay, Chính phủ cũng cần có các quy định cụ thể về giao dịch điện tử trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Điều này rất quan trọng vì đó là cơ sở pháp lý cho các giao dịch sẽ rất phổ biến trong tương lai này. Ưu đãi thuế cho hoạt động chứng khoán Ưu đãi thuế cho TTCK là chính sách quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các công ty chứng khoán. Hiện nay ngoài việc hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong hai năm hoạt động, các công ty chứng khoán còn được giảm 50% số thuế doanh nghiệp trong hai năm tiếp theo. Tuy nhiên, quy định ưu đãi thuế như vậy đối với các công ty chứng khoán vẫn chưa thoả đáng do các công ty này mới đi vào hoạt động, doanh số chưa nhiều, TTCK chưa sôi động, chưa phát triển nên hiệu quả hoạt động còn thấp. Chắc chắn các công ty chứng khoán đều bị lôc trong những năm đầu hoạt động. Do vậy, hết thời hạn được giảm thuế như trên các công ty chứng khoán sẽ gặp nhiều khó khăn khi tính đến hiệu quả kinh doanh. Chính vì thế cần phải có chính sách ưu đãi hơn nữa cho các công ty chứng khoán mới có thể khuyến khích sự tham gia tích cực của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước vào TTCK. Cụ thể, mức ưu đãi trong thời gian tới nên là miễn thuế cho 5 năm đầu hoạt động và giảm thuế còn 50% trong 3 hoặc 5 năm tiếp theo. Đối với thuế giá trị gia tăng, mặc dù Bộ tài chính đã cam kết sẽ chính thức đưa hoạt động kinh doanh chứng khoán vào diện không chịu thuế VAT được ghi tại điều 4 luật thuế này, nhưng các công ty chứng khoán đã không mấy hứng khởi vì việc đưa vào diện không chịu thuế VAT đồng nghĩa với việc sẽ không được khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Cho nên, các công ty chứng khoán nên được áp dụng thuế suất VAT đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán là 0%. Với thuế suất này, các công ty sẽ được hoàn thuế đầu vào đối với các chi phí bỏ ra và đây chính là điều mà không chỉ IBS mà các công ty chứng khoán khác đều mong đợi. Kiến nghị với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện một cách công bằng, trung thực, công khai, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và công chúng tham gia đầu tư, các chủ thể kinh doanh chứng khoán còn phải chấp hành về đạo đức kinh doanh, quy định về hạn mức áp dụng đối với kinh doanh... do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và trung tâm giao dịch chứng khoán quy định. Giám sát và quản lý vốn khả dụng đối với công ty chứng khoán NOCR = NOC x 100% >= 100 Tổng rủi ro Trong đó: NOC: chỉ tiêu vốn hoạt động ròng NOC = Tài sản ròng (Tổng tài sản - Tổng nợ) -Tổng các khoản gia tăng + Tổng các khoản giảm trừ. Tổng rủi ro = Rủi ro thị trường + Rủi ro đối tác + Rủi ro cơ bản + Rủi ro tập trung tín dụng - Phần bù rủi ro Quy định về việc trích lập dự phòng vốn điều lệ: Quy định này yêu cầu công ty chứng khoán trong quá trình hoạt động phải trích 5% lãi ròng hàng năm để lập quỹ dự phòng, bổ sung vốn điều lệ cho đến mức bằng 10% vốn điều lệ của công ty. Việc thực hiện quỹ này được thực hiện theo những quy định hiện hành đối với các loại hình công ty cổ phần và TNHH. Quy định về chế độ báo cáo và công khai hoá thông tin Quy định này được áp dụng ở các TTCK trên thế giới, theo đó các công ty chứng khoán phải công khai hoá các thông tin về hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công chúng, phải tuân thủ chế độ báo cáo định kỳ cho các cơ quan quản lý ngành và Sở giao dịch chứng khoán nếu công ty là thành viên. Ngoài báo cáo định kỳ, công ty chứng khoán phải có trách nhiệm báo cáo đột xuất khi có sự kiện bất thường ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh xảy ra. Đặc biệt là các báo cáo hàng quý của công ty chứng khoán phải được công ty kiểm toán đã được cơ quan quản lý Nhà nước ngành chứng khoán chấp nhận xác nhận. Mặt khác, thông tin về TTCK là cơ sở hoạt động của TTCK, là yếu tố để các nhà đầu tư định giá mua bán chứng khoán. ở nhiều nước trên thế giới việc công bố thông tin đã trở thành một thứ văn hoá kinh doanh, bởi vì cổ đông và những người có quyền lợi liên quan đến công ty cần được thông tin kịp thời và chính xác về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình quản lý, điều hành công ty. Các thông tin sai lệch trên TTCK có thể gây nên những biến động lớn trong hoạt động của thị trường cũng như sự hoảng loạn trong tâm lý của các nhà đầu tư, đẩy thị trường đến những đột biến giá, tạo nên các cơn sốc đối với hệ thống tài chính quốc gia, và do vậy ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Trong giai đoạn toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, thông tin không minh bạch có thể gây nên sự xáo trộn thị trường, dẫn đến phản ứng xấu của TTCK và nền kinh tế quốc gia. Chính vì vậy, công khai hoá thông tin được coi là nguyên tắc quan trọng nhất của TTCK. Ngay từ đầu xây dựng TTCK tại Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã luôn coi trọng nguyên tắc này, và có những quy định cụ thể về việc bắt buộc công khai thông tin trên TTCK. Các quy định của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đối với việc công bố thông tin của các tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ, các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán là tương đối chặt chẽ, phù hợp với thông lệ quốc tế về thông tin trên thị trường. Vấn đề còn lại chính là tính tự giác của các tổ chức có trách nhiệm phải công bố thông tin. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen và chưa sẵn sàng công bố công khai thông tin về tình hình hoạt động của mình. Để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước đối với Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi, cụ thể hoá các quy định về thông tin như thời điểm, cách thức và nội dung công bố thông tin, đặc biệt liên quan tới những vấn đề như phát hành cổ phiếu mới, thay đổi chế độ kế toán, hợp nhất báo cáo tài chính, công bố ấn phẩm thường niên, công bố trên báo... Những quy định này cần cụ thể và phù hợp với thực tế để tạo điều kiện cho các công ty niêm yết thực hiện được tốt. Đồng thời Uỷ ban chứng khoán Nhà nước và Trung tâm giao dịch chứng khoán cần tăng cường thông tin về thị trường để định hướng người đầu tư, bác bỏ những thông tin sai lệch, gây hoang mang hoặc gây nhiễu. Cần sớm xây dựng một tờ thông tin chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, bên cạnh tờ tin của Trung tâm giao dịch chứng khoán cùng với việc cập nhật trang Web thông tin để đưa ra những quan điểm chính thức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước về những vấn đề chứng khoán và TTCK, tạo điều kiện cho công chúng đầu tư và những người muốn tìm hiểu lĩnh vực này có được những thông tin đáng tin cậy. Tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK Việc tuyên truyền và quảng bá rộng rãi kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng là điều hết sức quan trọng và không nên xem nhẹ vì người ta chỉ có thể tham gia “cuộc chơi” khi mà họ tin rằng đã hiểu “luật chơi” và biết cách tự mình giành chiến thắng trong cuộc chơi đó. Theo số liệu điều tra của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, công chúng cho rằng tuy TTCK còn là lĩnh vực mới mẻ, chứa đựng nhiều rủi ro nhưng cũng không phải là ít tiềm năng đáng trông đợi. Đa số các nhà đầu tư là tổ chức, cho dù có hay không ý định huy động vốn thông qua TTCK đều mong muốn có được hiểu biết về chứng khoán và TTCK. Đối với nhà đầu tư cá nhân, phần lớn đều chưa qua đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK mà chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và các buổi nói chuyện đề nên hiểu biết của họ còn hạn chế. Điều này phản ánh thực tế là công tác thông tin tuyên truyền và đào tạo kiến thức về chứng khoán và TTCK chưa được triển khai mạnh mẽ và hiệu quả. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cần phối hợp với Bộ giáo dục và đào tạo và các cơ quan chức năng trong chương trình đào tạo về chứng khoán và TTCK theo một chuẩn nhất định để tranh thủ sự liên kết giữa ngành chứng khoán với các trường đại học hoặc các trung tâm đào tạo khác góp phần tuyên truyền và đào tạo một cách có hiệu quả nhất. KẾT LUẬN Trải qua gần 10 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có rất nhiều thăng trầm và biến động. Ngày nay TTCK đã được phát triển rộng khắp cả nước với sự ra đời của 2 sàn giao dịch HNX và HOSE cùng sự khởi động của thị trường UPCOM. TTCK đóng vai trò quan trọng trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế. Để tạo thuận lợi cho việc huy động vốn, các nhà đầu tư mua bán chứng khoán thì cần thiết có sự tham gia của các trung gian tài chính, các CTCK – một định chế tài chính sẽ giúp thúc đẩy thị trường hoạt động có trật tự, công bằng và hiệu quả. Đây là một tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, họ sẽ giúp đỡ các chủ thể khác thực hiện công việc mà không tốn kém nhiều thời gian, công sức, tiền bạc nếu họ tự mình làm. Chính vì vậy mà các CTCK đã ra đời. Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HBBS) trong gần 5 năm hoạt động cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể với các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng, chính sách khách hàng hợp lý… Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần phải khắc phục. Trong nền kinh tế ngày càng phát triển, để nâng cao sức cạnh tranh của công ty đối với thị trường trong nước và hướng tới hội nhập quốc tế cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp phù hợp. Trong quá trình tham gia thực tập tại công ty, em mạnh dạn nêu ra một số giải pháp và kiến nghị thông qua chuyên đề “Một số giải pháp phát triển thị trường tại công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội “. Do trình độ hiểu biết và thời gian thực tập có hạn, chắc chắn chuyên đề sẽ không thể tránh khỏi những sai lầm trong nhận thức. Em rất mong nhận được các đóng góp và chỉ bảo của thầy và các cán bộ nhân viên trong công ty. Em xin chân thành cảm ơn ! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Thị trường chứng khoán, Đại học Kinh tế Quốc dân Giáo trình thị trường chứng khoán, Ủy ban chứng khoán nhà nước Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, Đại học Kinh tế Quốc dân Báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm của Công ty TNHH chứng khoán NHTMCP Nhà Hà Nội. Tạp chí: Tạp chí Đầu tư chứng khoán Tạp chí kinh tế Tạp chí Chứng khoán Việt Nam Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ Tạp chí Ngân hàng Các website: -       -       -       -       -       -       Các văn bản pháp luật có liên quan: Nghị định 144/2003/NĐ-CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán Quyết định 04/1998/QĐ-UBC K3 của UBCKNN về việc ban hành quy chế về tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán. Quyết định số 55/2004/QĐ-BTC của bộ trưởng Bộ tài chính Một số tài liệu khác MỤC LỤC DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU Biểu 1 : Số lượng CTCK qua các năm 18 Biểu 2 :Sơ đồ cơ cấu tổ chức 28 Bảng 2.2.1: Tình hình nhân sự của HBBS 29 Bảng 2.2.2: Cơ cấu nhân sự các phòng ban của HBBS 29 Số lượng nhân viên (người) 29 Bảng 2.2.3 : Cơ cấu nhân sự theo trình độ của HBBS 30 Số lượng nhân viên( người) 30 Bảng 2.2.4 : mức phí giao dịch tại HBBS 31 Bảng 2.2.5 Thị phần giá trị giao dịch khớp lệnh của HBBS 31 so với toàn thị trường 31 Bảng 2.2.6 Số lượng tài khoản giao dịch đóng mở tại HBBS 32 Biểu 3 Số lượng tài khoản mở qua các năm 33 Bảng 2.2.7 : Kết quả hoạt động của HBBS 35 Bảng 2.2.8 : Doanh thu, lợi nhuận qua các năm 37 Biểu 4: Doanh thu và lợi nhuận qua các năm 37 Bảng 2.2.9 Cơ cấu doanh thu 38 Biểu 5 Cơ cấu doanh thu năm 2009 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25655.doc
Tài liệu liên quan