Chuyên đề Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam

Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, trong thời gian qua đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN của Nhật Bản để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó, để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiến triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư.

doc60 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng giảm… Cho đến nay Nhật Bản đã mất gần một thập kỷ để tìm kiếm giải pháp nhằm thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế và duy trì ở mức tăng trưởng kinh tế ở mức 2-3%. Tuy đã thực thi nhiều chính sách để khôi phục kinh tế nhưng Nhật Bản cũng không thể nào đạt được mức tăng trưởng kinh tế như giai đoạn trước đây mà chỉ đạt ở mức khiêm tốn là 3%. Để thoát khỏi tình trạng xuống dốc của nền kinh tế, vừa qua chính phủ Nhật Bản đã có những quyết định kịp thời, đó là việc đưa ra những chính sách kinh tế lớn. Theo các nhà phân tích kinh tế thì nếu các biện pháp và chính sách này được thực thi một cách triệt để thì nó sẽ là nhân tố quan trọng thúc đẩy kinh tế Nhật Bản tăng trưởng và sớm thoát khỏi suy thoái cũng như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á. Sang năm 2000, đầu tư Nhật Bản vào Việt Nam có vẻ khả quan hơn. Tính đến hết tháng 10-2000, Nhật Bản đã có 19 dự án đầu tư với số vốn là 56,348 triệu USD, nâng tổng số vốn đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam lên 3.825 triệu USD ( Nghiên cứu Nhật Bản số 1(31) 2/2001 ). Mức độ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam đã dần tăng lên, tuy nhiên so sánh với thời kỳ trước htì có lẽ đây mới chỉ là bước khởi đầu trở lại của tiến trình đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Có thể năm 2000 là năm đánh dấu trở lại của làn sóng đầu tư mới của Nhật Bản vào Việt Nam . Khối lượng vốn FDI của Nhật Bản xét trong tổng quan FDI của nước ngoài vào Việt Nam và xét trong tổng quan vốn FDI của Nhật Bản ra nước ngoài: Tính đến hết tháng 10 – 2000, vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam là 3.825 triệu USD (Nghiên cứu Nhật Bản số1(31) 2/2001 ). Đây quả là con số khá lớn đối với Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, nhưng nếu xét trong tổng thể khối lượng vốn FDI của nước ngoài vào Việt Nam và FDI của Nhật Bản ra nước ngoài thì con số này khá nhỏ. Năm 1996, năm trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, mức đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam chỉ chiếm 0,2% khối lượng vốn đầu tư của Nhật Bản ra nước ngoài và chiếm 0,7% đầu tư của Nhật Bản vào Châu á Nhìn một cách tổng quát, khối lượng vốn đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam gia tăng một cách mạnh mẽ, nhất là vào nửa đầu thập kỷ 90. Mặc dù cuối thập kỷ 90 có giảm sút, nhưng khối lượng vốn đầu tư của Nhật Bản là một trong những nguồn lực lớn giúp Việt Nam phát triển kinh tế. Tuy nhiên lượng vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam còn nhỏ và ít so với khả năng tài chính của Nhật Bản, so với các đối tác nước ngoài khác và so với nhu cầu của thị trường Việt Nam. 2. Cơ cấu, quy mô đầu tư. 2.1.Cơ cấu vốn đầu tư của Nhật Bản *Cơ cấu theo ngành: Nhìn chung cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào một quốc gia thường phụ thuộc vào hai vấn đề: Thứ nhất: Điều kiện tự nhiên xã hội và chính sách của chính phủ của nước sở tại. Thứ hai: Mục đích đầu tư của nhà đầu tư. Đầu tư trực tiếp củanb vào Việt Nam cũng không nằm ngoài hiện tượng này. Trong thời gian Nhật Bản quan tâm nhiều đến các dự án về khai thác tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ Thứ nhất: Nhật Bản là một quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, trong khi đó có lợi thế về vốn va công nghệ hiện đại. Do đó Nhật đầu tư vao Việt Nam nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên , đồng thời có thể thay đổi được chiến lược kinh doanh: nhập nguyên vật liệu, xuất hạng công nghiệp chế tạo có trình độ cao. Thứ hai: Việt Nam là một quốc gia giàu thiên nhiên, đặc biệt là dầu khí của Việt Nam rất phù hợp với các cơ sở sản xuất điện của Nhật Bản. trong khi đó, Việt Nam lại mới mở cửa, điều kiện cơ sở hạ tầng còn kém, trình độ quản lý, tay nghề công nhân còn thấp, chưa thể đáp ứng được những dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp chế tạo, dự án có công nghệ hiẹn đại. Thứ ba: Đây là thời kỳ đầu Việt Nam mới mở cửa, do đó để tạn thu được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên chúng ta có phần ít chú ý đến việc lựa chọn các dự án sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế. Thời gian sau,Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện nhiều, trình độ quản lý và tay nghề công nhân được nâng cao. Đồng thời, chính phủ Việt Nam chú trọng phát triển các ngành sản xuất hướng xuất khẩu và sản xuất thay thế xuất nhập khẩu. Về phía Nhật Bản, nhằm khai thác lợi thế nguồn nhân lực nhiều va rẻ ở Việt Nam , khai thác thị trường tiềm năng ở Việt Nam và khai thác lợi thế về vốn và công nghệ, Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam cũng có chiều hướng tăng các ngành công nghiệp chế tạo. Do đó, đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam cũng có thay đổi lớn. Nhìn chung, cơ cấu đầu tư theo ngành của Nhật Bản đến giai đoạn này đã có sự chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam . *Cơ cấu FDI theo lãnh thổ. Cơ cấu lãnh thổ đầu tư của Nhật Bản cũng có sự thay đổi trong thời kỳ gần đây. ở thời kỳ đầu, đầu tư của Nhật Bản tập trung chủ yếu vàocác tỉnh phía Nam , đặc biệt là các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu chế xuất tại thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu với các dự án khai thác dầu khí. Đây cũng là xu thế chung của dòng FDI vào Việt Nam, đầu thập kỷ 90, các tỉnh Đông Nam Bộ chiếm gần 62% tổng FDI cả nước. Đến giai đoạn gần đây Nhật Bản chú ý nhiều hơn vào các tỉnh phía bắc, điều này nằm trong xu hướng điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung của các đối tác nước ngoài vào Việt Nam. tính đến năm 1996 , riêng Hà Nội, Nhật Bản có 31 dự án đầu tư với 342 triệu USD ( đứng thứ hai về dự án, thứ 5 về vốn so với các đối tác nước ngoài đầu tư vào Hà Nội). Đến 30-09-1999, đầu tư của Nhật Bản được thực hiện trong 25 tỉnh, Đồng Nai đứng đầu về tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp bằng 22% số vốn so với 27 dự án, Hà Nội chiếm 21% về số vốn với 57 dự án. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có số dự án lớn nhất (106 dự án) nhưng chỉ chiếm 19% lượng vốn( nghiên cứu Nhật Bản số 1(25), 2/2000). ở Hà Nội, Nhật Bản có khá nhiều dự án lớn như dự án liên doanh với công ty công viên nhằm xây dựng “ làng văn hoá du lịch Nhật- Việt “ với tổng vốn đầu tư 14,425 triệu USD, khu công nghiệp Sài Đồng , dự án liên doanh sản xuất xe máy Sirius với 24,25 triệu USD, liên doanh khách sạn Nikko HaNoi với số vốn là 58,5 triệu USD …ở thành phố Hồ Chí Minh, Nhật Bản có nhiều dự án trong lĩnh vực sản xuất ô tô như Mekong Motors Co với 35,995 triệu USD, Isuzu Việt Nam với 50 triệu USD …Sự chuyển biến trên đây là do nhà nước đã có sự điều chỉnh chính sách, biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng cần được đầu tư và đặc biệt là có sự cải thiện đáng kể môi trường đầu tư ở các địa phương trong cả nước. Mặt khác, các địa phương đã biết khai thác những thế mạnh riêng của mình để thu hút vốn đầu tư. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ của Nhật Bản phản ánh rõ xu hướng tập trung các dự án vào những khu vực địa phương có môi trường thuận lợi, cơ sở hạ tầng khá tốt và nguồn lực lao động có đào tạo như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội… Trong khi đó, cơ cấu đầu tư vào nông nghiệp và các tỉnh miền núi, miền Trung còn quá ít. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do chúng ta chưa có quy hoạch chi tiết về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, định hướng còn chung chung, nhiều điểm không phù hợp với tình hình thực tế đã có nhiều thay đổi. Mắt khác các chính sách ưu đãi có phân biệt chưa đủ hấp dẫn, lôi kéo được nhà đầu tư theo sự sắp xếp của nước chủ nhà. Nhìn chung cơ cấu đầu tư trực tiếp của Nhật Bản trong thời kỳ qua đã từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư nói chung, phù hợp với cơ cấu đầu tư nói chung, phù hợp với nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế trong những năm qua và trong thời gian tới. *Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư. Nhật Bản tham gia đầu tư vào Việt Nam dưới 3 hình thức: xí nghiệp liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thời gian đầu, hình thức liên doanh được Nhật Bản ưa chuộng nhất bởi vì các nhà đầu tư Nhật Bản muốn phía Việt Nam cùng chia sẻ rủi ro với họ nếu có. Liên doanh với một đối tác bản địa, các nhà đầu tư sẽ yên tâm và mạnh dạn hơn trong kinh doanh vì họ có một người bạn đồng hành được nhà nước bảo trợ( hầu hết bên đối tác liên doanh của Việt Nam là các doanh nghiệp của nhà nước). Hình thức này cũng cho phép Nhật Bản có khả năng thuận lợi để mở rộng phạm vi và lĩnh vực kinh doanh khi họ đã hiểu rõ về thị trường Việt Nam. Đến năm 1994, đầu tư theo hình thức nàychiếm tới 69% về số dự án, tuy nhiên những năm gần đây, hình thức này đang có xu hướng giảm và hình thức 100% vốn nước ngoài lại có xu hướng tăng lên. Năm 1997, vốn đầu tư của Nhật Bản vào hình thức liên doanh là 140 dự án (chiếm 53,5% về số dự án) với 2190,2 USD ( chiếm 63,6% về số vốn). Sang năm 1998, hình thức liên doanh chiếm 52% về số dự án và 60% về số vốn. Tính đến 30-09-1999, con số này là 50,5% về số dự án(140 dự án) và 60% về số vốn(2.245,9 triệu USD ), như vậy là có sự giảm dần (Bảng 2). Hình thức liên doanh giữa Nhật Bản và Việt Nam chủ yếu liên quan tới các dự án chế biến nông – lâm nghiệp, công nghiệp nhẹ, dịch vụ, sản xuất xe máy … Bảng 2: Vốn đầu tư của Nhật Bản theo loại hình kinh doanh Tính đến 31/12/1997 Số dự án Số vốn (triệu USD ) Tỷ lệ theo dự án (%) Tỷ lệ theo vốn đầu tư (%) 1. Loại hình xí nghiệp liên doanh 2. Loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài 3. Loại hình hợp đồng hợp tác kinh doanh Tổng cộng 140 107 15 262 2.190,2 854.3 401.2 3.445,7 53.5 40.8 5.7 100 63.6 24.8 11.6 100 Tính đến 28/02/2002 1. Loại hình xí nghiệp liên doanh 2. Loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài 3. Loại hình hợp đồng hợp tác kinh doanh Tổng cộng 908 1844 130 2882 17860 11906.58 3669.61 33436.19 31.5 63.98 4.5 100 53.4 35.61 10.98 100 Nguồn: Vụ quản lý dự án, Bộ kế hoạch đầu tư Hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài ngày càng được các nhà đầu tư Nhật Bản quan tâm. Năm 1997, loại hình này chiếm 40,8% về số dự án(107dự án) và chiếm 24,8% về số vốn (853,3 triệu USD), năm 1998 tăng lên 42% về số dự án và tính đến hết 30/09/1999 con số này là 44,8% về số dự án (124 dự án), 28% về số vốn (1057,1 triệu USD ). Các doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm một phần khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư của Nhật Bản và chủ yếu tập trung trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí. Về số dự án, hình thức này chiếm 5,7% và về vốn là 11,6% tính đến hết năm 1997, và đến 30/09/1999 chỉ còn chiếm 4.5% về số dự án và 10.98% về vốn đầu tư. Nhìn một cách tổng quát ta thấy loại hình đầu tư liên doanh có xu hướng giảm dần và thay vào đó là loại hình xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, điều này cho ta thấy, người Nhật ưa thích loại hình đầu tư 100% vốn nước ngoài hơn. Sở thích của người Nhật Bản còn được khẳng định hơn khi ta so sánh tỷ lệ dự án và vốn của Nhật Bản theo các hình thức kinh doanh với mức trung bình ở Việt Nam. Hiện nay, hình thức liên doanh chiếm tới 61% số dự án và 70% số vốn trong tổng nguồn vốn FDI vào Việt Nam (con số tương ứng của Nhật Bản là 50,5% và 60%). Trong khi đó, hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 30% số dự án FDI vào Việt Nam (con số tương ứng của Nhật Bản là 44,8%). Xu hướng tăng lên này phản ánh một thực tế các nhà đầu tư Nhật Bản muốn tẹ chủ trong điều hành, quản lý xí nghiệp, họ không muốn lệ thuộc vào nước chủ nhà ngoài thì con số này khá nhỏ. 2.2.Quy mô dự án. Một vấn đề cần chú ý khi bàn đến đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đó là qui mô của dự án đầu tư. Bảng 7 sẽ cho chúng ta hiểu rõ hơn về qui mô của một dự án đầu tư của Nhật Bản so với qui mô dự án đầu tư chung của nước ngoài vào Việt Nam: Bảng 3: Quy mô dự án FDI của Nhật Bản vào Việt Nam Năm FDI nói chung vào Việt Nam (1) FDI của Nhật Bản vào Việt Nam (2) Dự án Vốn Vốn/dự án Dự án Vốn Vốn/dự án 1988 37 371.8 10.05 0 1989 68 562.5 8.3 1 0,6 0,6 1990 108 839 7.77 6 10,2 1,7 1991 151 1322.3 8.76 6 8 1,3 1992 197 2165 10.99 12 116,7 9,73 1993 269 2900 10.78 18 76,9 4,27 1994 343 3765.6 10.98 25 204,1 8,16 1995 411 6610 16.08 50 1303,2 26,06 1996 326 8538 26.19 56 777,8 13,89 1997 330 4500 13.64 54 606 11,2 1998 260 4058.6 15.6 17 177,5 10,4 1999 304 1566 5.15 13 46,97 3,6 2000 243 662.60 2.7 9 56,348 6.2 2001 470 2464.6 5.24 40 159,31 3.98 2/2002 31 13,02 0.42 Nguồn: (1) Tạp chí thị trường giá cả, tháng7/2000, (2) JETRO (không tính các dự án do chi nhánh của công ty Nhật Bản đăng ký ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam , riêng năm 1997 – 2 / 2002 là số liệu của Vụ QLDA - Bộ kế hoạch và đầu tư) Biểu đồ 2:Quy mô dự án FDI của Nhật Bản vào Việt Nam so với mức trung bình Nhìn vào bảng 3 và biểu đồ 2, ta thấy qui mô một dự án đầu tư của Nhật Bản luôn nhỏ hơn nhiều so với mức chung bình. Riêng năm 1995, năm bùng nổ vốn đầu tư của Nhật Bản, qui mô một dự án đầu tư của Nhật Bản tăng vọt lên 26,06 triệu USD/dự án gấp 1,5 lần mức trung bình (17,78 triệu USD/dự án). Tuy nhiên Nhật Bản cũng có nhiều dự án có số vốn lớn như liên doanh kính Asahi – 125 triệu USD, Fujitsu Việt Nam - 198,8 triệu USD, liên doanh Toyota – 90 triệu USD, xe máy Hon Da – 104 triệu USD … Bảng 4: Một số dự án đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam. Tên dự án Địa phương Mặt hàng sản xuất Vốn đầu tư (Triệu USD) Khu công nghiệp Bắc Thăng Long Hà Nội Xây dựng cơ sở hạ tầng 54 Liên doanh Toyota Việt Nam Vĩnh Phúc Xe ô tô 90 Liên Doanh Sony Việt Nam Tân Bình Hàng điện tử 17 Liên doanh Thăng Long-Ton Hà Nội Xây dựng nền móng 3,5 Fujitsu Việt Nam Đồng Nai Linh kiện điện tử, máy tính 198,8 Goshi Thăng Long Hà Nội Phụ tùng xe máy 13,7 Liên doanh Yamaha CO Hà Nội Lắp ráp xe gắn máy 80 Nguồn: VIR; Bộ kế hoạch và đầu tư Việt Nam năm 2002. Phần lớn các dự án của Nhật Bản có qui mô vừa và nhỏ, thường là các dự án dễ thu hồi vốn và sử dụng nhiều lao động. Các dự án của Nhật Bản có mức vốn nhỏ hơn 5 triệu USD chiếm 55,1% tổng số dự án FDI của Nhật Bản vào Việt Nam, dự án từ 5-10 triệu USD chiếm 19,3%, dự án trên 10 triệu USD chiếm 25,6%.(Nghiên cứu Nhật Bản số1,2,3/2002) Như vậy ta có thể thấy, người Nhật Bản vẫn quan tâm nhiều đến nguồn lao động rẻ và sẵn có khi đầu tư vào Việt Nam, và có lẽ các dự án qui mô vừa và nhỏ phản ánh việc các nhà đầu tư Nhật Bản vẫn chưa thực sự tin tưởng vào sự ổn định vào thị trường Việt Nam. Một số nhà đầu tư Nhật Bản lại cho rằng cơ sở hạ tâng của Việt Nam còn lạc hậu, trình độ quản lý, tay nghề công nhân caòn thấp do đó Việt Nam chưa đủ điều kiện để tiếp nhận các dự án đầu tư có qui mô lớn của Nhật Bản, thường là các dự án có công nghệ cao hiện đại. Đây là vấn đề quan trọng chúng ta cần đặc biệt quan tâm tới nhằm tăng sức hấp dẫn đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam. 3. Một vài đánh giá về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. 3.1.Những ưu điểm : Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi quá trình tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình đổi mới toàn diện được bắt đầu từ năm 1986 đã làm cho nền kinh tế thay đổi một cách cơ bản. Những thành tựu đạt được mới là bước đầu, nhưng rất quan trọn g, nó sẽ là sự mở đầu tốt đẹp cho một quá trình cải cách và xây dựng đất nước lâu dài để có thể bắt kịp với nền kinh tế chung của khu vực và thế giới. Những khó khăn trong quá trình đổi mới sẽ không thể vượt qua được nếu chỉ dựa vào những nỗ lực của bản thân chính phủ và nhân dân Việt Nam. Nỗ lực của bản thân tất nhiên là nhân tố chính nhưng cũng cần có sự hợp tác và viện trợ quốc tế. Mặt tích cực, đầu tư trực tiếp Nhật Bản đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng đi vào ổn định và phát triển kinh tế ,đóng góp đáng kể vào sự thành công của công cuộc đổi mới. Nó cung cấp cho thị trường một lượng hàng hoá lớn, nhất là những hàng hoá thay thế nhập khẩu như xi măng, sắt thép, điện tử, điện dân dụng, hàng tiêu dùgn ... góp phần bình ổn cung cầu và igá cả thị trường. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản chủ yếu đầu tư và khu vực công nghiệp, dầu khí, dịch vụ, khách sạn góp phần nâng cao tỷ trọng của các khu vực này trong nền kinh tế. Đặc biệt nhờ có đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, nhiều ngành mũi nhọn của nền kinh tế đã xuất hiện như thăm dò, khai thác dầu khí, sản xuất, lắp rắp ô tô, xe máy... Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế. Nhiều công nghệ mới đã được nhập vào nước ta như chế tạo máy và sản phẩm cơ khí điều khiển theo chương trình; dây chuyền tự động lắp ráp hàng điện tử, mạch điện tử. Nhìn chung, phần lớn các trang thiết bị đã có trong nước là thuộc loại phổ cập ở các nước công nghiệp trong khu vực. Hoạt động chuyển giao công nghệ đã tạo ra nhiều sản phẩm tốt, kiểu dáng đẹp, chất lượng đều đạt tiêu chuẩn Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản không chỉ góp phần phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất mà còn hình thành quan hệ sản xuất mới : đó là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn. Sự xuất hiện này đã thúc đẩy sự hợp tác và nâng cao sức cạnh tranh của các thành phần kinh tế. Nó còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động , tham gia phát triển nguồn nhân lực, nâng cao sức mua trong nước, cải thiện mức sống của người lao động : lương trung bình cao hơn 30% đến 50% so với công nhân trong các lĩnh vực không có đầu tư, tạo cho lao động Việt Nam có điều kiện được đào tạo nâng cao tay nghề, tiếp cận với kỹ năng công nghệ và quản lý tiên tiến, rèn luyện về kỷ luật và tác phong lao động công nghiệp. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản cũng làm tăng thêm nguồn thu từ xuất khẩu các mặt hàng điện tử, hàgn thuỷ sản, nông lâm sản. 3.2. Những tồn tại : Bên cạnh đó, còn một số hạn chế của đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam như về công tác quy hoạch còn nhiều yếu kém , nhiều ngành công nghiệp do quy hoạch chạm và dự toán chưa chính xác nên đã cấp nhiều nhiều dự án đầu tư trực tiếp làm cho công suất khai thác đạt mức thấp so với công suất thiết kế (như các dự án lắp ráp ô tô, xe máy...) gây ảnh hưởng sản xuất trong nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý như tập trung quá nhiều vào các ngành công nghiệp trong khi đầu tư trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản còn quá nhỏ bé so với nhu cầu đầu tư và tiềm năng phát triển. Thị trường về dịch vụ tài chính, ngân hàng còn chưa thực sự mở đối với đầu tư trực tiếp của Nhật Bản. 3.3.Nguyên nhân của các tồn tại : Vấn đề nào cũng có mặt mạnh, mặt yếu. Với lĩnh vực đầu tư thì càng không thể tránh khỏi quy luật này. Tuy nhiên, nếu biết vận dụng nó một cách hợp lý sẽ làm tăng mặt tích cực và giảm thiểu các mặt hạn chế. Quan trọng hơn cả là khi chúng ta có thể tìm hiểu và rút ra được nguyên nhân của những tồn tại đó thì sẽ hạn chế được những vấn đề đã và đang tồn tại. Những nguyên nhân đó là: chúng ta đã nhiều lần sửa đổi luật đầu tư,ban hành không ít những chính sách hỗ trợ song trên thực tế môi trương kinh doanh của chúng ta vẫn chưa đủ sức hút. Hiện nay chúng ta đang đứng thứ 7 trong xếp hạng môi trường đầu tư ơ 10 quốc gia thuộc ASEAN. Cái yếu nhất trong môi trường kinh doanh của chúng ta so với các nước trong khu vực là hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính ,sau nữa là hệ thống thuế. Hai nhân tố gắn liền với bộ máy nhà nước. Từ đây có thể thấy gia tăng đầu tư nước ngoài ở việt nam nói chung , FDI của NHât Bản nói riêng,đột phá chính là cải cách bộ máy nhà nước , cả ở khâu hoạch định chính sách lẫn khâu điều hành thực hiện theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả. IV. NHỮNG KHÓ KHĂN CẦN THÁO GỠ. 1. Phía Nhật Bản. Bên cạnh những điểm thuận lợi từ đầu tư trực tiếp của Nhật Bản, vẫn là tồn tại một số khó khăn mà cả hai bên phải từng bước tháo gỡ. Thứ nhất, việc đồng yên lên xuống giá thất thường sẽ gây cản trở cho các công ty đẩy mạnh đầu tư. Đồng yên lên giá làm cho các công ty Nhật Bản tăng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài bởi vì sự tăng giá của đồng yên hiện làm thay đổi triển vọng dài hạn của các công ty Nhật Bản, làm cho giá tài sản tài chính và bất động sản ở nước ngoài sẽ thấp, giá thành sản xuất ở nước ngoài cũng thấp nếu tính bằng đồng yên, trong khi đó giá hàng xuất khẩu sản xuất tại Nhật sẽ cao nếu tính theo đồng đô la Mỹ. Như vậy, nếu đồng yên giảm giá so với đồng đô la Mỹ thì các nhà đầu tư Nhật Bản cũng sẽ ngừng đầu tứ hoặc đầu tư ít hơn. Việc phụ thuộc vào đồng yên sẽ làm cho phía Việt Nam cần phải thận trọng hơn trong việc nhận đầu tư. Thứ hai, đó là chuyển giao công nghệ. Rất nhiều quốc gia lên tiếng phản ánh về tốc độ chuyển giao chậm và thái độ không sẵn sàng chuyển giao công nghệ của Nhật Bản. ở Việt Nam, hợp tác kinh tế với Nhật Bản mới phát triển gần đây nhưng cũng đã xuất hiện sự kêu ca, phàn nàn về thái độ không sẵn sàng trong chuyển giao công nghệ của Nhật Bản. Trong quá trình phát triển của mình Việt Nam không những muốn mua máy móc thiết bị mới mà còn muốn tiếp nhận công nghệ mới. Việt Nam mong muốn là vậy nhưng đối với các công ty Nhật Bản, họ cho rằng họ không coi chuyên gia công nghệ là một phần của mục tiêu đề ra. Lấy ví dụ ở Malixia, mặc dù có mặt từ hơn một thập kỷ qua và đa phần các sản phẩm của họ được tiêu thụ ở ngay thị trường nội địa nhưng các công ty này vẫn chưa thực sự cố gắng chuyển giao những quy trình cơ bản nhất của công nghệ chế tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân nước này. Những người được cử đi đào tạo chỉ được học công nghệ sáng chế trong các quy trình cơ bản, các kỹ thuật thay thế là những công nghệ tiên tiến hơn so với những kỹ thuật đã được sử dụng nhưng chúng lại không có sẵn ở nước sở tại. Thậm chí những kỹ thuật hiện đại đang được sử dụng của các công ty cũng phải phụ thuộc vào công ty mẹ ở Nhật Bản về tất cả bí quyết sản xuất như kỹ năng quản lý, bằng sáng chế và quy trình chế tạo. Từ ví dụ trên cho thấy việc chuyển giao công nghệ của Nhật Bản rất hạn chế. Để có thể tiếp nhận nhiều hơn công nghệ tiên tiến của Nhật, Việt Nam cần đề ra những chính sách hấp dẫn với các nhà đầu tư, thu hút được luồng chuyển giao công nghệ của họ hiệu quả nhất. Thứ ba, các dự án ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam. Đây là một lĩnh vực hiện nay chưa được chú ý thích đáng. Nhiều công ty Nhật Bản bị đánh giá gây ô nhiễm ở Nhật Bản nên để tránh vấn đề này, họ đã chuyển các ngành sản xuất gây ô nhiễm sang các nước khác hoạt động kinh doanh chạy đua với tốc độ nhanh hơn nhiều so với những cố gắng nhằm kiểm soát sự ảnh hưởng bất lợi đối với môi trường, giống như sản xuất ô tô đang phát triển với tốc độ cao trong khi việc xây dựng đường xá đang tiến triển hết sức chậm chạp, đường sắt ít gây ô nhiễm thì lại quá tốn kém còn tầu điện trong thành phố thì đã bị dỡ bỏ đề dẹp đường cho ô tô và xe máy. 2. Phía Việt Nam. Theo nhận xét của các nhà đầu tư Nhật Bản, Việt Nam còn tồn tại các vướng mắc sau : Về luật pháp, Việt Nam có những thủ tục hành chính phiền hà, sự mơ hồ của luật pháp Việt Nam, thêm nữa là Việt Nam không chỉ thiếu luật mà họ còn thay đổi luật một cách thường xuyên và rất nhanh chóng. Ông Shunzo thuộc công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất thép Vinakyoci Steel, một liên doanh sản xuất thép đã phải chờ gần 3 năm mới được chính phủ Việt Nam cáp giấy phép để thành lập công ty, cho biết : ”Để bắt đầu một dự án mới, một công ty nước ngoài buộc phải gửi đơn đi rất nhiều bộ chủ quản, sau đó các bộ này đưa ra ý kiến rất khác nhau và thường xuyên thay đổi quyết định của họ”. Trong một cuộc điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keidanren thực hiện, các nhà kinh doanh Nhật Bản đã yêu cầu phải điều chỉnh các luật lệ về tỷ giá hối đoái, hải quan, thuế quan và sửa đổi các bộ luật về thương mại, gồm có luật công ty, luật chống tơ rớt, luật dân sự và luật về tài sản trí tuệ; thực hiện thống nhất một cơ quan cấp phép đầu tư; các đơn vị xin cấp phép đầu tư không nên làm bằng tiếng Anh, mà nên bằng cả một sô thứ tiếng khác nhằm giảm bớt khó khăn cho những nhà đầu tư không nói tiếng Anh; giảm bớt những trở ngại đối với những đối tác địa phương trong quá trình thiết lập các liên doanh. Về cơ sở hạ tầng công nghiệp và xã hội trong tình trạng yếu kém. Nhà nước chưa đảm bảo được cơ sở hạ tầng bên ngoài hàng rào cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các khu công nghiệp. Cũng trong văn bản điều tra do các nhà tổ chức thuộc uỷ ban kinh tế Nhật - Việt và Keitanren thực hiện nêu : cần phải phát triển và ổn định nguồn cung cấp điện nhằm đáp ứng nhhu cầu ngày càng tăng trong tương lại, xoá bỏ hệ thống hai giá do nhà nước thực hiện . Sự thật vấn đề này khi triển khai làm thủ tục rất phiền hà, phức tạp. Chủ đầu tư phải đi lại làm việc nhiều lần nhưng không được trả lới rõ. Phần lớn các doanh nghiệp muốn có điện nước dùng tiến độ đều phải ứng vốn trước đề làm hạ tầng. Giá thuê đất và văn phòng cao là một vần đề mà các nhà đầu tư Nhật Bản cũng như các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm trong hoạt động của họ ở Việt Nam. Theo ngày Shingi kubota, một nhà tư vấn Nhật Bản tại thành phố Hồ Chính Minh hoặc 8000 USD để thuê 100m2 chung cư ở Hà Nội. Giá đất và giá nhà ở Việt Nam bị đánh giá là cao hơn nhiều so với ở Singapor, Đài Bắc, Newyork. Thủ tục cấp đất còn phức tạp, kéo dài, nhiều khi vài ba năm, thậm chí có dự án đến 5 năm ; thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh chưa hợp lý. Về thuế trong đó có thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế thu nhập cá nhân. Đối với thuế xuất khẩu , nhập khẩu đánh vào linh kiện, phụ tùng, phụ kiện, nguyên vật liệu đến tiến hành sản xuất trong nước thấp hơn không đáng kể, thậm chí cao hơn thuế xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Do vậy, không khuyến khích người sản xuất vì làm thương mại có lời hơn. Việc đánh thuế doanh thu vào hàng xuất khẩu tại chỗ làm cho thuế chống thuế, đội giá thành sản xuất, làm cho sản phẩm xuất khẩu thiếu sức cạnh tranh. Thời hạn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập vào để sản xuát hàng xuất khẩu chỉ có 90 ngày là quá ngắn. Hơn nữa, thủ tục hoàn trả thuế phức tạp, chưa rõ ràng làm cho doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Nếu được hoàn trả thì doanh nghiệp cũng không được nhận lại tiền mà thường để khấu trừ vào các khoản phải nộp sau. Công ty Fugitsu chẳng hạn, họ không được hoàn trả thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu hư hỏng hoặc nguyên liệu nhập về không phù hợp với nhu cầu sản xuất phải huỷ bỏ cũng như vật liệu tiêu hao hoàn toàn trong sản xuất hàng xuất khẩu như hoá chất phủ bề mặt, chất tẩy khuôn. Thuế thu nhập cá nhân còn cao, bất hợp lý đối với cả người nước ngoài và người Việt Nam. Theo quy định hiện hành, thuế suất, thuế thu nhập cá nhân mức cao nhất tới 50% đối với người nước ngoài và 60% đối với người Việt Nam. Mức thu nhập khởi điểm phải chịu thuế thu nhập là 5triệu đồng/ tháng với người nước ngoài và 2 triệu đồng/tháng đối với người Việt Nam. Một số doanh nghiệp phản ánh về việc tại Việt Nam vì sự bất hợp lý trong việc đánh thuế thu nhập cá nhân. Việc chậm quy định chính sách nội địa hoá làm cho các nhà đầu tư lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư cho sản xuất. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD, CKD , IKD (tiêu chuẩn riêng có ở Việt Nam) không rõ ràng và rất phức tạp, gây khó khăn cho việt tính thuết đối với phụ tùng linh kiện nhập khẩu, đặc biệt là những phụ tùng, linh kiện nhập khẩu để lắp ráp ô tô, xe máy, ti vi, hàng điện gia dụng là những sản phẩm mới có ở Việt Nam, Hải quan có thể áp dụng nhiều mức thuế khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước được mức thuế phải chịu để tính giá thành sản xuất và ký hợp đồng bán sản phẩm mới có ở Việt Nam. Trên đây là một số nhận xét của các doanh nghiệp đầu tư Nhật Bản ở Việt Nam. Nó có thể chưa đầy đủ nhưng là một số vấn đề cấp bách để phía Việt Nam nhanh chóng điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp và đề ngày càng có môi trường đầu tư hấp dẫn hơn không chỉ với các doanh nghiệp Nhật Bản mà cả với các doanh nghiệp ĐTNN nói chung. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾPCỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM VÀO VIỆT NAM. Nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư , củng cố niềm tin của các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN), tạo điều kiện để thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi, góp phần nhiều hơn vào phát triển kinh tế , góp phần thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới . Ngày 28-8-2001, Chính phủ đã ban hành nghị quyết số 09/2001/NQ-CP về “Tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005”. Tiếp theo đó Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 19/2001 tổ chức thực hiện Nghị quyết 09 của Chính phủ, nêu rõ các công việc phải thực hiện của các Bộ, ngành. Hoạt dộng đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005 phải đạt các mục tiêu: -Vốn dăng ký của các dự án cấp giấy phép mới: khoảng 12 tỷ USD. -Vốn thực hiện: khoảng 11 tỷ USD. -Đến năm 2005 đóng góp khoảng 15% GDP, 25% tổng kim ngạch xuất khẩu và 10% tổng thu ngân sách của cả nước (không kể dầu khí). Định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút ĐTTTNN vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công gnhiệp phục vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn; Các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới,viễn thông, sản xuất phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và các ngành mà Việt Nam có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục thu hút ĐTTTNN vào những địa bàn có nhiều lợi thế để phát huy vai trò của các vùng đông lực, tạo điều kiện liên kết phát triển các vùng khác. Khuyến khích và dành ưu đãi tối đa cho ĐTTTNN vào những vùng và địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Tập trung thu hút ĐTTTNN vào các khu công nghiệp tập trung đã hình thành theo quy hoạch được phê duyệt. Khuyến khích các nhà ĐTTTNN từ tất cả các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt nam, nhất là các nhà ĐTNN có tiềm năng lớn về tài chính và nắm công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, công ty lớn đầu tư vào VIệt Nam, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. II. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài Danh mục dự án quốc gia thời kỳ 2001-2005 (công bố trong năm 2001) và danh mục dự án của ngành, địa phương. Các dự án đựoc lựa chọn đưa vào danh mục phải có sự thống nhất trước về chủ trương và quy hoạch, được bố trí vốn làm dự án tiền khả thi. Các Bộ ngành xây dựng và điều chỉnh quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 và kế hoạch 2001-2005; Xác định rõ nhu cầu từng loại nguồn vốn trong đó có vốn ĐTTTNN. 2. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài. a). Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng: - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài ; áp dụng một số quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng, lĩnh vực trong từng thời kỳ. - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới; nghiên cứu và thực hiện thí điểm các hình thức đầu tư như công ty hợp doanh, công ty quản lý vốn; Sửa đổi Nghị định 103/1999/NĐ-CP của Chính phủ thưo hướng cho phép các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài mua, nhận khoán kinh doanh, quản lý, thuê doanh nghiệp trong nước, nghiên cứu mô hình kinh tế mở. - Mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như thị trường bất động sản; Xây dựng kinh doanh nhà ở, phát triển đô thị mới; dịch vụ khoa học, công nghệ, thông tin, chuyển giao công nghệ, phát triển nhân lực, du lịch. b). Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. c). Đổi mới và hoàn thiện chính sách tiền tệ liên quan tới đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tiếp tục giảm dần, tiến tới xoá bỏ việc bắt buộc kết hối ngoại tệ khi có đủ điều kiện. d). Tiếp tục cải cách hệ thống thuế theo hướng dơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thuế chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xây dựng chính sách thuế khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sản phẩm. Bảo hộ có thời hạn hợp lý và hiệu quả đối với một số sản phẩm quan trọng. e). Giải quyết kịp thời những khó khăn vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng. Thí điểm cho phép tư nhân trong nước cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất (đã được cấp quyền sử dụng lâu dài). 3. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước: Các cơ quan cấp giấy phép đầu tư phải có những biện pháp thích hợp, tháo gỡ kịp thời khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, như các vấn đề liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, các nghĩa vụ thuế, đền bù giải phóng mặt bằng... Kiểm soạt chặt chẽ việc thành lập mới các khu công nghiệp (KCN). Đánh giá tình hình triển khai các khu công nghiệp đã có quyết định thành lập. Sửa đổi Quy chế KCN, khu chế xuất, khu công nghệ cao theo hướng: Thu hẹp khoảng cách và tiến tới thống nhất cơ chế, chính sách đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài; bổ sung mô hình KCN nhỏ; điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào; tách việc cho thuê đát nguyên thổ và kinh doanh hạ tầng. Tiếp tục phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài cho UBND cấp tỉnh: có cơ chế xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm luật pháp, chính sách, quy hoạch trong việc thực hiện chủ trương phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài. 4. Cải tiến các thủ tục hành chính. Nghiên cứu xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý theo hướng một cửa, một đầu mối ở Trung ương và ở địa phương. Để tạo bước chuyển căn bản về thủ tục hành chính, trong năm 2001 cần thực hiện các giải pháp sau: -Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương; phân rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan; thực hiện giao ban định kỳ giữa các Bộ, ngành Trung ương với các địa phương; duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Cải tiến mạnh thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết. - Quy định rõ ràng, công khai các thủ tục hành chính; Kiên quyết xử lý nghiêm khắc các trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực và vô trách nhiệm của cán bộ công quyền. 5. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư. - Đổi mới về nội dung và phương thức vận động, xúc tiến đầu tư. Triển khai các chương trình xúc tiến đầu tư theo ngành, lĩnh vực, địa bàn với các dự án và đối tác cụ thể. Chuẩn bị kỹ một số dự án đầu tư quan trọng, lựa chọn, mời trực tiếp một vài tập đoàn lứon tham gia đàm phán. - Chú trọng cả xúc tiến đầu tư để thu hút các dự án ĐTTTNN mới và hỗ trợ các dự án đang hoạt động. Đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua các hoạt động đối ngoại; sử dụng tổng hợp các phương tiện xúc tiến đầu tư qua truyền thông đại chúng, mạng internet, tiếp xúc trực tiếp... - Bố trí nguồn tài chính cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong kinh phí ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. - Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách đầu tư ra nước ngoài của các nước, các tập đoàn và công ty lớn để có chính sách thu hút đầu tư cho phù hợp. - Xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin về ĐTTTNN làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách,quản lý hoạt động ĐTTTNN.ư 6. Chú trọng tăng cường: công tác cán bộ và đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. III. MỘT SỐ CÔNG VIỆC CẤP BÁCH CẦN THỰC HIỆN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC BỘ, NGÀNH. Cùng với việc đề ra sáu nhóm giải pháp, chỉ thị 19/2001 của Thủ tướng Chính phủ còn nêu rõ trách nhiệm của các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các công việc cụ thể trong năm 2001. 1. Bộ kế hoạch và đầu tư có trách nhiệm: - Xây dựng các đề án: Hoàn thiện các văn bản pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng tạo lập một mặt bằng pháp lý và chính sách chủ yếu đối với đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài; Mở rông lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; thí điểm chuyển đổi doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần; Sửa đổi một số quy định để đẩy nhanh việc hình thành, triển khai dự án BOT. - Xây dựng và công bố danh mục sự án quốc gia kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2001-2005. - Bổ sung, sửa đổi NĐ36/cp về quy chế KCN,KCX, khu công nghệ cao. - Trình Chính phủ quy chế phối hợp trong quản lý hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó có việc thành lập Tổ công tác liên ngành rà soát có hệ thống tất cả các giấy phép, quy định có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, bãi bỏ những quy định, giấy phép không cần thiết; và xây dựng cơ chế quản lý và tổ chức quản lý một cửa, một đầu mối ở Trung ương và địa phương. 2. Bộ Thương mại ban hành quy định về đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định 24/2000/NĐ-CP của Chính phủ. Trình Thủ tướng Chính phủ đề án thu hẹp danh mục hàng hoá không thuộc đối tượng doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài mua để xuất khẩu. 3. Bộ xây dựng trình Chính phủ Đề án Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 60/CP về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị và Nghị định 61/CP về mua bán và kinh doanh nhà ở. 4. Bộ Giáo dục và đào tạo, Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội hướng dẫn thi hành Nghị định 06/2000/NĐ-CP của Chính phủ về hợp tác đầu tư với nước ngoài trong lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học; Xây dựng Đề án đào tạo cán bộ, đào tạo nghề cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài . Ban Vật giá Chính phủ trình Thủ tướng Đề án điều chỉnh giá, phí để thống nhất một mặt bằng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài; công bố những loại giá, phí có thể áp dụng thống nhất trong năm 2001. 6. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm: --Xây dựng các đề án: Cải cách chính sách tiền tệ liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài; khả năng về điều kiện cho phép một số doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài được thế chấp giá trị quyền sử dụng đâts đai tổ chức tín dụng hoạt động ở nước ngoài. - Ban hành trong năm 2001 các quy định hướng dẫn cá Nghị định của Chính phủ về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh đối với doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài vay tín dụng. 7. Bộ tài chính có trách nhiệm: - Xây dựng đề án cải cách hệ thống thuế có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Ban hành chính sách khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam; và quy định về việc kê khai nộp thuế và căn cứ vào kết quả kiểm toán để quyết toán thuế (năm 2001). - Bố trí kinh phí cho hoạt động xúc tiến đầu tư trong ngân sách chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, ngành, địa phương. Tổng cục địa chính ban hành (năm 2001) các văn bản hướng dẫn cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đáat cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất; Xây dựng Đề án nghiên cứu cho phép tư nhân được thí điểm cho nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thuê lại đất; hướng dẫn xử lý đối với đất góp vốn liên doanh trong trường hợp phấ sản, giải thể hoặc chuyển đổi hình thức đầu tư. 9. Các Bộ, ngành kinh tế kỹ thuật xây dựng, điều chỉnh và công bố quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu trong 6 tháng đầu năm 2002. Tổng công ty Điện lực Việt Nam hoàn trả số vốn hợp thức, thực tế bỏ ra xây dựng công trình thuỷ điện ngoài hàng rào cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trước tháng 6/2002. Các Bộ, UBND cấp tỉnh xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài của Bộ, ngành, địa phương; công bố công khai các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài . 10. Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ xây dựng Quy chế cán bộ VIệt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ theo dõi, tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết theo sự phân công của Thủ tướng Chính phủ IV. CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA NHẬT BẢN VÀO VIỆT NAM. Để phát huy thế mạnh trong nước , thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả, hiện nay chính phủ Việt Nam đã và đang tích cực điều chỉnh và dần hoàn thiện các mặt yếu kém nhất là về luật pháp, thuế của mình. Ngày 25/3 dưới sự chủ toạ của Phó thủ tướng, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, đã có cuộc đối thoại với các nhà đầu tư nước ngoài, công bố quyết định và biện pháp nhằm khuyến khích và tạo thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Đó là : 1. Từ ngày 1/7/1999 tiến tới thực hiện chính sách một giá dịch vụ đối với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) cũng như doanh nghiệp đầu tư trong nước, dùng tiền đồng Việt Nam để thanh toán dịch vụ, phí về lệ phí, trừ một số trường hợp có quy định riêng. Chính phủ đã quyết định từ ngày 1/7/1999 giá bán điện cho sản xuất giảm từ 8,5 cent/kwh xuống 7,5 cent, giá cước viễn thông quốc tế gọi từ Việt Nam sẽ giảm bình quân 10% và năm 2000 đã quyết định giảm giá thêm. 2. Thay lệ phí trước bạ quá cao và lệ phí đặt văn phòng đại diện đồng thời giảm hoặc bãi bỏ các phí, lệ phí do các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố, Ban quản lý khu công nghiệp ban hành không đúng. 3. Quy định và trả bằng tiền Đồng Việt Nam đối với mức lương tối thiểu và lương của lao động Việt Nam trong DNĐTNN. Điều chỉnh địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu ở các địa phương khó khăn về kinh tế - xã hội sẽ thấp hơn, áp dụng với các dự án đầu tư nước ngoài cấp giấy phép đầu tư sau ngày quuyết định của thủ tướng chính phủ. 4. Cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài làm việc trong DNĐTNN nhanh và thủ tục đơn giản hơn. Sở lao động - thương binh - xã hội tỉnh và Ban quản lý khu công nghiệp sẽ được uỷ quyền cấp. 5. DNĐTNN được trực tiếp tuyển dụng lao động nếu sau 30 ngày các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam không đáp ứng được. 6. DNĐTNN và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) được tạm chưa phải nộp thuế VAT đối với nguyên liệu vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu thiết bị máy móc phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyển công nghệ : vật tư xây dựng trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế VAT đối với DNĐTNN và bên tham gia BCC được miễn thuế nhập khẩu theo Nghị định 12/CP và nghị định 10/1998/NĐ-CP. 7. Các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thuế đất với giá thấp nhất, được miễn giảm các loại thuế để xây dựng nhà ở cho công nhân và các công trình ngoài hàng rào. 8. Bổ xung những ưu đãi khuyễn khích đầu tư vào xuất khẩu, nông nghiệp vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, sử dụng nguyên nhiên liệu trong nước, sản xuất linh kiện, phụ tùng gia tăng hàm lượng nội địa hoá. Giám hoặc miễn tiền thuê đất tương ứng với thời gian tạm ngừng xây dựng hoặc ngừng hoạt động cho các doanh nghiệp có khó khăn. Với 8 biện pháp cụ thể đã công bố trên, phần nào đã làm an tâm các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và cũng tạo điều kiện kinh doanh cho các nhà doanh nghiệp Nhật Bản. Cùng với 8 biện pháp trên còn có Nghị định số 10/1998/NĐ- CP sẽ là các văn bản pháp lý để các doanh nghiệp Nhật Bản áp dung vào công việc kinh doanh của mình được tốt và nó cũng thể hiện mối quan tâm của chính phủ Việt Nam trong việc cải thiện môi trường đầu tư để môi trường đầu tư Việt Nam ngày càng tốt hơn. KẾT LUẬN Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đến nay được hơn 10 năm nhưng tốc độ đầu tư đã diễn ra khá nhanh. Trên thực tế, trong thời gian qua đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam đã góp phần đáng kể trong việc cải tạo cơ sở hạ tầng, tạo công ăn việc làm cho người lao động Việt Nam và thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế Là một nước thành viên của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) Việt Nam cần tranh thủ chính sách tăng cường quan hệ với các nước ASEAN của Nhật Bản để thu hút vốn từ cường quốc kinh tế này, phục vụ yêu cầu phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới và nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực, đồng thời học tập và rút ra bài học kinh nghiệm của các nước láng giềng trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và quá trình thu hút và sử dụng vốn đầu tư. Có thể nói quan hệ với Nhật Bản là cần thiết cho sự nghiệp phát triển kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam. Do đó, để thu hút nhiều hơn nữa vốn đầu tư trực tiếp, Việt Nam cần phát huy tối đa chính sách kết hợp sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất hướng vào xuất khẩu hiện nay nhằm mở rộng cơ hội đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển, chắc chắn trong tương lai quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản sẽ tiến triển hơn nữa nhất là trong lĩnh vực đầu tư. Trong thời gian thực tập tại Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc á, được sự sự hướng dẫn tận tình của các thầy cô giáo, các cô chú trong Trung tâm giúp đỡ tận tình, tôi đã mạnh dạn đưa ra Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam. Do chưa có điều kiện đi sâu sát từng dự án cụ thể, nên không tránh khỏi những sai sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và người đọc để có thể nâng đề tài này lên cao hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ảnh hưởng của Nhật Bản trong khu vực Thái Bình Dương GordonGame - Firacial Timé Survey 21/10/2001 2. Báo đầu tư năm 2001 - 2002 3. Các nền kinh tế đang phát triển và Nhật Bản - SaBuRôOlota Viện kinh tế Thế giới - Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội 2000 4/ Chân dung nước Nhật ở Châu Á NigelHollanay & Philip Bouring - NXB Thông tin lý luận 1999 5. Đầu tư nước ngoài của Nhật Bản và sự phụ thuộc kinh tế Trung tâm Châu Á - Thái Bình Dương - Shosihô ToRuNag Chủ biên - NXB khoa học xã hội - Hà Nội 1999. 6/ Đổi mới kinh tế và chính sách phát triển ở Việt Nam. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, trường Đại học kinh tế Stockholm, cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ Điển Hà Nội 2000. 7. Kinh nghiệm trực tiếp đưa đầu tư nước ngoài vào của các nước ASEAN và những gợi ý về vấn đề đối với Trung Quốc Thẩm Hồng Phương - Viện Mác Lê 2002 8. Nhật Bản đường đi tới 1 siêu cường Lê Văn Sang - Lưu Ngọc Trịnh - Viện Kinh tế Thế Giới NXB khoa học - Xã hội 2001. 9. Những bài giảng về lịch sử kinh tế Nhật Bản hiện đại Quỹ thư viện Quốc tế LTCB (Nhật Bản) Giáo sư Nakamura Takafusa - NXB Chính Trị Quốc Gia 10. Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam NXB Chính trị quốc gian - 2002 11. Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển. Đỗ Đức Thịnh - NXB Khoa Học - Xã hội Hà Nội 2002. 12. Hai nhăm năm quan hệ Việt Nam - Nhật Bản 1973 - 1998 Dương Phú Hiệp - Ngô Xuân Bình - Trần Anh Phương. Chủ biên NXB khoa học - Xã học Hà Nội 1999. 13. Một số vấn đề về kinh tế đối ngoại của các nước đang phát triển ở Châu á Lê Hồng Phục - Đỗ Đức Định. Viện kinh tế Thế Giới NXB khoa học xã hội Hà Nội 2000. 14. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản Số 3/2000 Số 1,2,4,6/2001 Tạp chí kinh tế Châu á - Thái Bình Dương Số 2,3/2000 Số 1,2,4/2002 Số 1/2001 Số 1/1999 Tạp chí Ngoại thương số 5/2001 Tạp chí Việt Nam và Đông Nam á số 20/2001 15. Báo cáo tình hình 10 năm thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài và những vướng mắc hiện nay của các nhà đầu tư. Bộ kế hoạch và đầu tư. Vụ quản lý dự án đầu tư nước ngoài. 16. Việt Nam trong lịch sử Thế Giới NXB chính trị quốc gia - Furuta Motoo Mục lục: Lời nói đầu. Chương I: Một số lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 I. Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 Quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 II. Những nhân tố thúc đẩy đầu tư và nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài 5 III. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 9 Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản ở Việt Nam 11 I. Vài nét về quan hệ kinh tế Việt Nam và Nhật Bản 11 II. Những yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam 13 1. Về phía Việt Nam 13 1.1. Yếu tố kinh tế 14 1.2. Yếu tố chính trị 15 1.3. Yếu tố pháp luật 15 2. Về phía Nhật Bản 16 2.1. Sự thay đổi tỷ giá hối đoái 16 2.2. Tránh xu hướng bảo hộ mậu dịch 16 2.3. Sự khan hiếm tài nguyên thiên nhiên của Nhật Bản 16 2.4. Tình trạng khan hiếm lao động 16 2.5. Yếu tố tài chính 17 III. Thực trạng đầu tư trực tiếp Nhật Bản ở Việt Nam những năm qua 17 1. Tốc độ đầu tư 17 2. Cơ cấu quy mô đầu tư 26 2.1. Cơ cấu vốn đầu tư của Nhật Bản 26 2.2 Quy mô dự án 31 3. Một vài đánh giá về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 35 3.1 Những ưu điểm 35 3.2. Những tồn tại 36 3.3. Nguyên nhân của các tồn tại 37 IV. Những khó khăn cần tháo gỡ 37 1. Về phía Nhật Bản 37 2. Về phía Việt Nam 39 Chương III: Định hướng và các thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 43 I. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam 43 II. Các nhóm giải pháp thực hiện 44 Xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài 44 Tiếp tục làm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài 44 Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước 45 Cải tiến các thủ tục hành chính 46 Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư 46 Chú trọng tăng cường công tác cán bộ 47 III. Một số công việc cấp bách cần thực hiện và trách nhiệm của cán bộ ngành 47 IV. Các giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 50 Kết luận. 53 Danh mục tài liệu tham khảo 55

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29878.doc
Tài liệu liên quan