Vận động xúc tiến đầu tư là một trong những nội dung quan trọng giữ vai trò quyết định sự thành công của các KCN, KCX trong thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI. Đây là một hình thức chủ động trong hoạt động thu hút đầu tư. Nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với trạng thái thu hút FDI bị động. Do đó, để tăng cường công tác vận động và xúc tiến FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian tới thì cần phải tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, giải quyết, xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng và đang sản xuất kinh doanh, đây là một biện pháp xúc tiến vận động đầu tư mang lại hiệu quả cao. Sự thành công của những doanh nghiệp này là minh chứng đầy thuyết phục đối với các nhà đầu tư nước ngoài khác đang có ý định đầu tư vào các KCN, KCX của vùng.
Thứ hai, chính quyền địa phương cần phối hợp với các Bộ, ngành trong công tác vận động và xúc tiến đầu tư; xây dựng rõ các danh mục dự án kêu gọi đầu tư và làm cơ sở cho việc vận động và xúc tiến đầu tư.
Thứ ba, đổi mới về nội dung vận động, xúc tiến đầu tư. Tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có tiềm lực tài chính mạnh để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút các công ty trực thuộc hoặc các công ty hoặc các công ty có quan hệ với tập đoàn đầu tư vào các KCN, KCX của vùng. Kết hợp với các ngân hàng trong vùng để vận động các khách hàng của họ thực hiện đầu tư tai các KCN, KCX của vùng. Thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, kịp thời cung cấp những thông tin về các dự án đang cần mời gọi đầu tư, các chính sách ưu đãi mới đối với đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX. Thông qua những cuộc tiếp xúc, chính quyền các cấp sẽ thấy được những khó khăn, vướng mắc của các chủ đầu tư, từ đó có biện pháp kịp thời giải quyết, tạo nên hình ảnh tốt đẹp, tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất vùng đồng bằng sông Cửu Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước ngoài như: Kiên Giang, Hậu Giang. Đây là một xu hướng không tốt, vì lâu dần, sẽ phân hóa ngày càng mạnh mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội, sự giầu nghèo giữa các địa phương.
Thứ ba, lĩnh vực đầu tư chủ yếu là lĩnh vực công nghệ lạc hậu, vốn ít, lao động nhiều.
Lĩnh vực đầu tư chủ yếu vào các KCN, KCX trong vùng là chế biến nông – thủy sản, chế biến thức ăn chăn nuôi, giầy da, may mặc thu hút nhiều lao động, hàm lượng công nghệ thấp. Các dự án sản xuất hang điện tử, hang công nghệ cao còn rất hiếm.
Thứ tư, nhiều dự án FDI chậm triển khai
Việc sử dụng vốn đăng ký của khu vực FDI cao hơn nhiều so với khu vực có vốn đầu tư trong nước. Song vẫn có tới 44 dự án chưa được triển khai, trong đó nhiều dự án được cấp phép hơn một năm mà vẫn chưa được triển khai thực hiện. Tình hình này ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất trong các KCN, KCX, các dự án không được triển khai thì nguồn vốn đầu tư sẽ không tạo ra được những giá trị của nó, đất đai bị bỏ không, chi phí cơ hội của nó là rất lớn.
2.3.4. Nguyên nhân của những tồn tại
Tình hình thu hút FDI vào các KCN, KCX trong vùng ĐBSCL còn tồn tại nhiều hạn chế, xuất phát từ những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, do địa hình của vùng ĐBSCL.
Hệ thống sông ngòi chằng chịt là một lợi thế để phát triển nông nghiệp, phát triển nuôi trồng thuỷ sản, nhưng cũng là một điểm bất lợi cho xây dựng và phát triển công nghiệp. Sông rạch dày đặc, chia cắt đất đai thành nhiều khu đất với diện tích nhỏ, vì vậy, việc thành lập một khu công nghiệp với diện tích lớn sẽ bị hạn chế. Mặt khác, về mùa nước nổi, có một phần lớn diện tích của vùng thường xuyên ngập nước, địa chất công trình với nền đất yếu nên không thuận lợi cho xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp, chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cũng cao hơn nhiều so với các vùng khác. Các vùng đất thường xuyên bị ngập nước đã ảnh hưởng rất lớn tới tiến độ và chất lượng xây dựng, việc xây dựng gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi phải đâu tư nhiều vào việc xử lý nền móng. Do đó, việc triển khai cơ sở hạ tầng trong vùng thường chậm chạp, tốn nhiều kinh phí, ảnh hưởng tới khả năng thu hút đầu tư của các KCN, KCX.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng của vùng còn yếu kém:
CSHT bên trong hàng rào KCN, KCX chậm được hoàn thiện, hệ thống CSHT bên ngoài hang rào KCN, KCX thì còn nhiều hạn chế, điều này ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thu hút đầu tư của vùng. Cơ sở hạ tầng giao thông chậm phát triển và không đồng bộ ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Hệ thống giao thông đường bộ liên vùng và trong địa phương kém phát triển, không thuận lợi cho di chuyển bằng đường bộ. Hệ thống đường quốc lộ đạt tiêu chuẩn cấp III, IV. Mặt đường của hệ thống quốc lộ đã được thảm bê tông, nhựa và nhựa hóa, chỉ còn một số tuyến mới được nâng cấp từ đường tỉnh lên đường quốc lộ và đường huyện lên đường tỉnh thì mặt đường đang được cứng hóa nhưng nhìn chung tỷ lệ vẫn còn thấp so với các vùng khác trong cả nước, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Mật độ đường ở các tỉnh phân bố không đồng đều, có sự chênh lệch đáng kể giữa tỉnh có mật độ đường cao nhất và thấp nhất (Cà Mau: 0.437kn/km2, Long An: 1.109km/km2).
Với mạng lưới sông ngòi dày đặc, vận tải đường thủy hiện là phương tiện vận tải quan trọng nhât trong việc kết nối vùng với khu vực bên ngoài, tỷ lệ hang hóa được vận chuyển bằng đường thủy là 66% . Tuy nhiên, các luồn qua cửa sông lớn chưa được cải tạo, nâng cấp để tàu biển chở hang có trọng tải thông dụng vào thẳng ĐBSCL,do đó, 70% hàng hóa phải trung chuyên qua cảng ở thành phố Hồ Chí Minh và các cảng vùng Đông Nam Bộ, làm tăng chi phí vận chuyên từ 7 – 10 USD/ tấn
Vùng ĐBSCL có 4 cảng hang không là Trà Nóc (Cần Thơ), Rạch Sỏi (Kiên Giang), Cà Mau, Dương Đông (Phú Quốc). Quy mô của các cảng hang không này đạt từ cấp 3C đến cấp 4E, do hạn chế về đường cất cánh nên chỉ dừng ở mức khai thác là máy bay ATR72 hoặc tương đương.
Ngoài ra, ở ĐBSCL các hệ thống truyền tải điện, nước có công suất lớn đáp ứng nhu cầu cho các nhà máy sản xuất công nghiệp còn hạn chế, chưa tạo được sự tin tưởng đối với các nhà đầu tư. Mạng lưới bưu chính viễn thông, thông tin liên lac còn yếu kém, ở mức thấp hơn so với bình quân cả nước.
CSHT là một kiều kiện hết sức quan trọng để thu hút đầu tư, khi xây dựng các KCN, KCX thì không chỉ không chỉ quan tâm tới việc xây dựng CSHT bên trong hang rào mà cần phải đầu tư xây dựng CSHT bên ngoài hang rào KCN, KCX, CSHT thuận lợi, đồng bộ thì các nhà đầu tư mới tin tưởng để bỏ vốn vào đầu tư.
Thứ ba, vùng không có nguồn tài nguyên thiên nhiên đáng kể làm đòn bẩy phát triển các ngành công nghiệp khai thác, thúc đẩy các ngành công nghiệp khác phát triển theo.
Với một địa phương mà nguồn vốn còn hạn hẹp, thì việc có tài nguyên khoáng sản phong phú để phát triển các ngành công nghiệp khai thác làm đòn bẩy phát triển ngành công nghiệp là một lợi thế. Vùng ĐBSCL lại rất hạn chế về tài nguyên khoáng sản, dầu khí, đá vôi, đã granit, sét, gạch, sỏi … là những khoáng sản mà vùng có được nhưng trữ lượng thấp, nên ngành công nghiệp khai thác của vùng không phát triển mạnh. Nền công nghiệp phát triển thì mới thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài, vì sẽ tạo được niềm tin đối với họ. Với vùng đất mà tỷ trọng công nghiệp vẫn chiếm một tỷ trọng rất thấp thì sẽ hạn chế rất nhiều sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, dân số vùng tuy đông, đứng thứ hai so với các vùng khác trong cả nước nhưng chất lượng nguồn nhân lực không cao.
Với 17524 nghìn dân, trong đó trên 50% là ở trong độ tuổi lao động, ĐBSCL có khả năng cung cấp một lực lượng lao động rất lớn cho phát triển kinh tế - xã hội . Tuy nhiên, theo thống kê của Bộ lao động – thương binh – xã hội thì hiện tại gần 9 triệu lao động của vùng mới chỉ có 10.2%số lao động này được đào tạo nghề, số còn lại đều là lao động phổ thông. Vùng ĐBSCL là một trong những vùng có tỷ lệ học sinh theo học nghề thấp nhất cả nước,năm 2006, chỉ có 18 ngàn học sinh.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp xa so với bình quân cả nước do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân từ trình độ thấp là quan trọng, rất nhiều lao động chưa qua trinh độ tiểu học. Một doanh nghiệp may mặc ở khu công nghiệp Cần thơ cho biết, muốn tuyển 200 công nhân phải hạ tiêu chuẩn trình độ văn hóa xuống cấp tiểu học mà vẫn không tìm ra. Theo VCCI Cần Thơ, cứ 3 lao động hiện nay ở ĐBSCL thì có 1 lao động chưa qua cấp I.
Ngay cả 10.2% số lao động đã qua đào tạo nghề cũng chưa chắc đã có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của nhà máy, xí nghiệp, do thiếu kiến thức thực tế về nghề nghiệp chuyên môn vì chỉ được đào tạo trên lý thuyết, cho nên dù đã qua đào tạo nhưng vẫn không sử dụng được; bên cạnh đó do trình độ văn hóa kém và môi trường sống, khả năng xử lý tình huống công việc rất kém. Bên cạnh đó, các lĩnh vực phụ trợ quan trọng như ngoại ngữ thì phần lớn lao động ĐBSCL chưa đáp ứng được nhu cầu công việc ở môi trường doanh nghiệp nước ngoài hoặc làm ăn với người nước ngoài. Người có nghiệp vụ thì không biết ngoại ngữ, người giỏi ngoại ngữ thì lại không có chuyên môn nghiệp vụ. Theo Bộ lao động – thương binh – xã hội, hiện tại ĐBSCL có 182 cơ sở dạy nghề gồm 19 trường đại học, cao đẳng, trung học có dạy nghề, 23 trường dạy nghề, 69 trung tâm dạy nghề và 75 cơ sở đào tạo khác có tham gia dạy nghề. Có một nghịch lý khó chấp nhận nhưng vẫn tồn tại lâu nay: một địa bàn hơn 17 triệu dân, gần 9 triệu lao động nhưng chỉ có 2600 giáo viên dạy nghề, đạt 35 học sinh/giáo viên, với quy mô như hiện nay để đạt chuẩn 25học sinh/giáo viên thì vẫn còn thiếu khoảng 900 giáo viên.
Trong xu thế hiện nay, nhân công giá rẻ không còn giá trị hấp dẫn với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư với dự án công nghệ cao. Chất lượng nguồn nhân lực thấp chính là một hạn chế trong hoạt động thu hút FDI của vùng ĐBSCL.
Thứ năm, xuất phát điểm của vùng thấp, cơ cấu kinh tế lạc hậu, sức mua của toàn vùng còn thấp so với quy mô dân số do thu nhập chủ yếu của người dân trong vùng là từ sản xuất nông nghiệp, mức sống của người dân trong vùng còn thấp.
Sức mua của người dân ảnh hưởng nhiều tới khả năng thu hút đầu tư. Mức sống của người dân còn nhiều khó khăn nên hạn chế các ngành nghề sản xuất đồ cao cấp, đồ xa xỉ phát triển, vì sẽ khó khăn hơn trong việc tiêu thụ. Vì vậy, hạn chế các nhà đầu tư trong các lĩnh vực này đầu tư vào các KCN, KCX trong vùng.
Thứ sáu, do tư tưởng nóng vội của ban lãnh đạo địa phương, ban quản lý các KCN, KCX nên đã cấp phép cho cả những dự án đầu tư có trình độ công nghệ lạc hậu, những dự án không được chấp nhận ở những khu công nghiệp khác.
Để tăng tỷ lệ lấp đầy của các KCN, KCX trong vùng, có thời kỳ, ban lãnh đạo các địa phương, ban quản lý các KCN, KCX đã ồ ạt cấp giấy phép cho cả các dự án có trình độ công nghệ hạn chế, lạc hậu. Thường đó là các dự án không được chấp nhận ở các KCN, KCX vùng Đông Nam Bộ.
Cuối cùng, ĐBSCL chưa xây dựng được hình ảnh của địa phương trong mắt những nhà đầu tư nước ngoài, chưa quảng bá được những tiềm năng, thế mạnh của vùng
Việc thu hút FDI của vùng chủ yếu là ở trạng thái bị động, chờ đợi các nhà đầu tư tới tìm hiểu, đầu tư vào các KCN, KCX chứ không chủ đông xúc tiến tìm kiếm các nhà đầu tư. Công tác quảng bá hình ảnh của vùng chưa được chú trọng, nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài chưa biết hết được tiềm năng thế mạnh của vùng,. Theo ông Lê Thành An – Giám đốc trung tâm xúc tiến đầu tư thành phố Cần Thơ nhìn nhận vì sao chúng ta “ì ạch”: “nhiều nhà đầu tư khi đến vùng đất của chúng ta khảo sát, họ trầm trồ và rất ngỡ ngàng vì sao chúng ta lại phí phạm những tiềm năng. Họ thú thật rằng chưa biết gì nhiều về vùng đất ĐBSCL, có chăng chỉ là những thông tin về nước ngập, chạy lũ mà các phương tiện truyền thông thế giới ghi nhận”. Đó là một thực tế thật đáng buồn, nếu quảng bá được những tiềm năng, thế mạnh của vùng thì khả năng thu hút FDI sẽ lớn hơn nhiều.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL tới năm 2020
3.1. Cơ hội và thách thức đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
3.1.1. Thách thức
Thứ nhất, Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ và châu Âu đã biến thành cuộc khủng hoảng toàn cầu. Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, không có một quốc gia nào có thể thoát khỏi tác động của nó. Mức độ tác động sẽ thay đổi theo từng quốc gia, nhưng cuối cùng đều dẫn đến hậu quả là giảm nguồn thu và kim ngạch xuất khẩu, cũng như giảm nguồn vốn đầu tư nhất là đầu tư nước ngoài. Đối với Việt Nam, tuy rằng ngành tài chính Việt Nam không bị ảnh hưởng nhiều, bởi chưa hội nhập nhiều vào thì trường tài chính thế giới, nhưng chúng ta cũng không tránh khỏi những tác động của cuộc khủng hoảng này. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam sẽ có thể giảm sút trong thời gian khủng hoảng này. Tuy nhiên, cả thế giới đang nỗ lực để hạn chế những tác động xấu của cuộc khủng hoảng này, và tìm mọi biện pháp để sớm đẩy lùi được nó. Vì vậy, sự giảm sút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ là tạm thời, và có thể chỉ diễn ra trong một thời gian không dài, chúng ta có thể tin rằng Việt Nam sẽ thu hút được lượng FDI rất đáng kể ngay cả trong cuộc khủng hoảng và nhất là khi cuộc khủng hoảng đã qua đi.
Thứ hai, Ngày nay, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư ngày càng diễn ra quyết liệt giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là Ấn Độ, Trung Quốc, các nước ASEAN. Tự do hóa FDI sẽ dẫn đến những khó khăn cho Việt Nam trong quá trình cạnh tranh đối với các nước khác trong việc thu hút FDI. Bởi vì:
- Chế độ FDI của Việt Nam tuy đã được điều chỉnh nhiều lần theo hướng tự do hoá nhưng vẫn còn nhiều rào cản và so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới mức độ tự do hoá FDI của Việt Nam chưa cao.
- Ngay cả khi môi trường luật pháp, chính sách FDI của Việt Nam có thể cạnh tranh được với các nước khác thì nhiều yếu tố khác của môi trường FDI của Việt Nam như CSHT, các ngành công nghiệp phụ trợ… vẫn còn kém hấp dẫn so với nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Gia nhập WTO sẽ tạo ra một mặt bằng pháp lý chung trong khu vực để điều chỉnh FDI. Việc tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và thuận lợi sẽ khiến cho các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào một nước để chiếm lĩnh thị trường nước này, có thể dầu tư mới hoặc mở rộng cơ sở đầu tư đã có ở một quốc gia khác trong khu vực thuận lợi hơn để xuất khẩu hàng hóa sang nước kia mà vẫn được hưởng các ưu đãi về đầu tư. Điều này sẽ làm cho luồng vốn FDI vào khu vực tăng.
- Việt Nam nằm trong khu vực hầu hết các nước đều cạnh tranh gay gắt để thu hút FDI. Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Myanma,… đang nỗ lực cải thiện môi trương FDI. Đặc biệt, do rút ra bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tề châu Á,các nước Đông Nam Á. Hàn Quốc, Trung Quốc nhanh chóng điều chỉnh chính sách thu hút FDI theo hướng ngày càng tự do hơn nhằm tăng sức hấp dẫn đối với dòng vốn này.
- Việt Nam có một số lợi thế cạnh tranh trong thu hút FDI nhưng các lợi thế này thuộc cấp thấp (lợi thế tĩnh: tài nguyên tự nhiên không có khả năng tái sinh, tiền lương thấp). Trong khi đó, nhiều nước chú trọng chuẩn bị cho mình các lợi thế cạnh tranh cấp cao (lợi thế động: vốn lớn, công nghệ hiện đại, người lao động có chuyên môn tay nghề cao, dịch vụ tốt…). thấp, tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề cao còn hạn chế). Ngoài những lợi thế trên, nhiều yếu tố về môi trường đầu tư của Việt Nam bị đánh giá là kém hấp dẫn như: chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính – ngân hàng chưa hoàn thiện, kết cấu hạ tầng chưa phát triển, thủ tục giấy phép còn nhiều phiền hà, lợi thế so sánh về chi phí lao động rẻ, chi phí sản xuất thấp, giá thành sản phẩm hạ đang mất dần…
Thứ ba, công tác xúc tiến đầu tư của Việt Nam còn kém hiệu quả. Mặc dù trong một vài năm qua, Việt Nam đã tổ chức nhiều diễn đàn giữa doanh nghiệp và Chính phủ, thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xúc tiến đầu tư ở nước ngoài, xong những công tác này vẫn chưa đạt được những kết quả như mong muốn. Điều này cũng ảnh hưởng quan trọng tới khả năng thu hút FDI vào Việt Nam.
3.1.2. Cơ hội
Bên cạnh những thách thức như đã kể trên, Việt Nam cũng có rất nhiều cơ hội để có thể lạc quan trong công tác thu hút nguồn vốn FDI.
Thứ nhất, khủng hoảng tài chính thế giới ảnh hưởng không nhỏ đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong thời điểm này, các nhà đầu tư trên toàn thế giới sẽ phải xem xét danh mục đầu tư và địa điểm đầu tư của mình, nếu Việt Nam tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư thì vẫn có thể thu hút được lượng FDI đáng kể. Là một quốc gia có tình hình kinh tế chính trị được đánh giá là ổn định nhất trong khu vực, đó là một điều kiện hết sức thuận lợi để thu hút FDI, bên cạnh đó, đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam đã có những bước đi rất khôn ngoan để giảm những tác động của nó, nền kinh tế Việt Nam vẫn được duy trì khá ổn định và đạt được tốc độ tăng trưởng khả quan, điều đó sẽ tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam vẫn là một điểm đến đầu tư hấp dẫn.
Thứ hai, gia nhập WTO là một cơ hội cho Việt Nam trong việc thu hút FDI. Bởi vì:
- Khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam bắt buộc phải cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, đồng thời bãi bỏ sự phân biệt đối xử theo chế độ đãi ngộ tối huệ quốc, đối xử quốc gia. Việc phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa và tính dự báo các quy định, chính sách, thể chế thương mại giúp các nhà đầu tư yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam cũng phải cam kết mở cửa
- Khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam cũng phải cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, điều này sẽ kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế như phân phối, bảo hiểm, ngân hàng, vận tải và viễn thông…
- Đối với vấn đề thuế quan, các nước gia nhập WTO đều phải cam kết không tăng thuế vượt một mức nhất định đối với phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Việt Nam nay đã chào 99.7% số dòng thuế của biểu thuế 8 số (có tổng số 10 800 dòng thuế) với mức thuế bình quân là 18% và lộ trình cắt giảm hầu hết các mặt hàng từ 3 đến 5 năm.
Do đó, việc gia nhập WTO sẽ tăng khả năng thu hút FDI của Việt Nam. Lượng vốn FDI sẽ tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Chúng ta sẽ có nhiều cơ hội hơn để được chọn lọc các dự án FDI, làm sao để thu hút được những công nghệ tiên tiến, công nghệ cao của các nước khác. Đối tượng đầu tư cuãng phải là những công ty xuyên quốc gia, có tiềm lực về tài chính và công nghệ.
3.2. Phương hướng phát triển KCN, KCX vùng ĐBSCL đến năm 2020
3.2.1. Phương hướng phát triển ngành công nghiệp vùng ĐBSCL đến năm 2020
Vùng ĐBSCL là vùng có tiềm năng lớn về phát triển nông nghiệp, cho phép sản xuất nông nghiệp hàng hóa với quy mô lớn, cung cấp nguồn nguyên liệu tập trung cho phát triển công nghiệp. Ở vùng biển Tây – Nam có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí thiên nhiên là cơ sở cho phát triển công nghiệp năng lượng và hóa chất. Ngoài ra trong vùng còn có trữ lượng đá vôi đáng kể có thể đảm bảo cho phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng. Vùng ĐBSCL có một lực lượng lao động dồi dào có thể cung cấp cho phát triển công nghiệp… Với những lợi thế đó, dự kiến phương hướng phát triển công nghiệp trong tương lai như sau:
Dự báo tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp của vùng đạt 14.5 – 15.5%/năm trong giai đoạn 2009 – 2010, 14% trong giai đoạn 2011 – 2015, và khoảng 13% giai đoạn 2016 – 2020.
Trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng sản phẩm ở từng địa phương, của toàn vùng, hướng ưu tiên phát triển tập trung vào các ngành công nghiệp sau: Khai thác và chế biến dầu khí, điện; Công nghiệp chế biên nông – lâm – thủy sản; Công nghiệp hóa chất, phân bón; Công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và chế biến nông, lâm thủy sản.
Phát triển công nghiệp với nhịp độ cao, bền vững, hiệu quả làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, trước hết là trong KCN, KCX nông nghiệp, nông thôn.
3.2.2. Phương hướng phát triển và phân bố các KCN, KCX vùng ĐBSCL đến năm 2020
Trên cơ sở phương hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL, phương hướng phát triển công nghiệp của vùng, phương hướng phát triển và phân bố các KCN, KCX trong vùng được xác định như sau:
Giai đoạn 2009 – 2010:
Hoàn thiện đầu tư hạ tầng và kêu gọi đầu tư phát triển công nghiệp tại các khu công nghiệp hiện có; tăng tỷ lệ cho thuê diện tích khu công nghiệp lên khoảng 50 – 60%;
Thành lập mới khoảng 600 ha diện tích khu công nghiệp; thu hút thêm khoảng trên 100 – 120 triệu USD vốn đầu tư cơ sở hạ tầng và khoảng 600 triệu USD vốn đầu tư cho phát triển sản xuất công nghiệp;
Chuẩn vị các điều kiện hà tầng cần thiết chuẩn bị cho phát triển các khu công nghiệp mới ở giai đoạn tiếp theo
Về phân bố các khu công nghiệp:
Thứ nhất, đầu tư hoàn chỉnh cụm công nghiệp khí – điện – đạm Cà Mau theo hướng hình thành một khu liên hợp công nghiệp lớn của vùng.
Thứ hai, phát triển một số khu công nghiệp ở tỉnh Long An, tạo điều kiện thu hút đầu tư, hợp lý hóa bố trí sản xuất công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh
Thứ ba, hình thành một số khu tại các tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng… khi có đủ điều kiện
Giai đoạn 2011 – 2015
Dự kiến đến năm 2015 đầu tư thêm một số khu công nghiệp đưa tổng diện tích các khu công nghiệp tập trung lên khoảng 8000– 8500ha
Phấn đấu đến năm 2015 về cơ bản hoàn chỉnh đầu tư hạ tầng các khu công nghiệp dự kiến; thu hút khoảng 500 triệu vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và khoảng trên 3 tỷ USD vốn đầu tư phát triển sản xuất các khu công nghiệp
Về phân bố: Các khu công nghiệp được phân bố dọc theo trục quốc lộ 1 A, kết hợp mạng lưới cảng biển và cảng sông, gắn với việc bố trí phát triển mạng lưới đô thị trong vùng.
Giai đoạn 2015 đến 2020:
Dự kiến đến năm 2020 đầu tư thêm một số khu công nghiệp đưa tổng diện tích các khu công nghiệp tập trung lên khoảng 12.000 – 13.000ha
Phấn đấu đến 2020 thu hút thêm khoảng 700 – 750 triệu USD vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và khoảng trên 4 – 5 tỷ USD vốn đầu tư phát triển sản xuất tại các khu công nghiệp
3.3. Phương hướng thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL tới năm 2020
3.3.1. Quan điểm chung về thu hút FDI:
Trong thời gian tới để tăng cường thu hút FDI vào các KCN, KCX của Vùng ĐBSCL cần quán triệt những quan điểm sau đây:
Một là, thống nhất quan điểm: FDI là một bộ phận quan trọng góp phần bổ sung vào nguồn vốn phát triển của Vùng. Thấy được tầm quan trọng của KCN, KCX trong chiến lược thu hút FDI. Từ đó có sự tính toán trong chiến lược thu hút đầu tư nói riêng và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Vùng ĐBSCL nói chung.
Hai là, việc xây dựng chiến lược thu hút FDI cần xuất phát trên cơ sở chiến lược, quy hoạch của địa phương, của Vùng; đồng thời cần đứng trên góc độ của chủ đầu tư, để tạo sự bình đẳng, thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư khi tiến hành triển khai các dự án của mình.
Ba là, do có sự gắn kết và mặt địa lý, bổ trợ về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, giao thông liên lạc,… nên các địa phương trong Vùng cần phải có sự thống nhất quan điểm, biện pháp, các chính sách ưu đãi trong việc thu hút FDI, tránh tình trạng các địa phương ban hành những chính sách, biện pháp mâu thuẫn, cạnh tranh không lành mạnh, dẫn đến những hậu quả không hay cho các địa phương đó.
Bốn là, đảm bảo tính bền vững trong việc thu hút FDI. Thu hút FDI cần phải tính đến hiệu quả kinh tế - xã hội, lấy việc nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao đời sống của người dân, đảm bảo an ninh xã hội, môi trường sinh thái làm mục tiêu cơ bản chủ đạo. Đối với ĐBSCL, việc thu hút FDI phải hỗ trợ cho mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Năm là, kết hợp có hiệu quả nguồn vốn FDI với các nguồn vốn khác, tạo nên sự đồng bộ, bổ trợ cho nhau trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư vào tất cả các lĩnh vực ngoại trừ những lĩnh vực thuộc về an ninh quốc gia, những lĩnh vực mà pháp luật ngăn cấm, đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực mà địa phương, vùng đang ưu tiên phát triển, lĩnh vực có công nghệ kỹ thuật cao, an toàn với môi trường…; chính quyền địa phương phải đầu tư vào những ngành nghề bổ trợ quan trọng nhưng mà nhà đầu tư không muốn thực hiện do lợi nhuận thấp, rủi ro cao.
3.3.2. Mục tiêu cụ thể của việc thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL đến năm 2020
Theo đề án “Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể các KCN, KCX đến năm 2020”, thì tới năm 2020 cả nước sẽ tăng tổng diện tích các KCN, KCX thêm 110000ha tới 120000ha, bao gồm cả việc thành lập mới và mở rộng thêm một số KCN, KCX . Trong đó, vùng ĐBSCL dự kiến sẽ mở rộng và thành lập mới khoảng 5000 – 6000 ha diện tích các KCN, KCX tập trung, nâng tổng diện tích các KCN, KCX trong vùng tới năm 2020 khoảng 12000 – 13000 ha.
Để phát triển các KCN, KCX đã thành lập, các KCN, KCX dự kiến được thành lập mới và mở rộng thì cần một khối lượng vốn rất lớn, trong đó, nguồn vốn FDI là rất quan trọng.
Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu vốn FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL theo từng giai đoạn
Giai đoạn
2009 – 2010
2011 – 2015
2016 – 2020
Lượng vốn
(triệu USD)
288
1450 - 1470
2300 - 2600
Như vậy, có thể thấy trong thời gian tới, do mục tiêu nâng cao tỷ lệ lấp đầy của các KCN, KCX đã thành lập, cùng với việc thành lập và mở rộng thêm nhiều KCN, KCX nên nhu cầu thu hút vốn FDI là rất lớn, bao gồm cả việc thu hút FDI vào xây dựng CSHT và thu hút FDI vào sản xuất kinh doanh. Với thực trạng thu hút FDI hiện nay, thì trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu trên, cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ và thật sự hiệu quả.
3.4. Những giải pháp thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian tới
3.4.1. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách thu hút FDI vào các KCN, KCX
Trong thời gian qua, một số địa phương vì muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư nên đã lạm dụng chính sách ưu đãi đầu tư, dẫn đến những tác động tiêu cực tới sự phát triển các KCN, KCX. Vì vây, trong thời kỳ tiếp theo, để thu hút FDI có hiệu quả, chính quyền các cấp cần ban hành hệ thống chính sách thu hút đầu tư trên cơ sở những quy định chung và định hướng phát triển đất nước, và phải hoàn thiện hơn nữa chính sách ưu đãi đầu tư phát triển các KCN, KCX như:
Xác định mặt bằng chính sách chung cho các KCN, KCX để tránh tình trạng các địa phương cạnh tranh lẫn nhau, đưa ra các chính sách ưu đãi vượt khung trái với Luật đầu tư. Mặt bằng chính sách này cần phải xác định dựa trên cơ sở các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương tự nhau của địa phương. Các điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi cho phát triển kinh tế sữ được hưởng ưu đãi ít hơn so với các địa bàn khó khăn.
Trong KCN, KCX cần thực hiện bình đẳng trong ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp. Thực hiện chế độ ưu đãi đầu tư riêng biệt đối với doanh nghiệp trong và ngoài nước là cần thiết để đảm bảo sự tự chủ của khu vực kinh tế trong nước. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng trong doanh nghiệp của các thành phần kinh tế dẫn đến mâu thuẫn, tiêu cực và ảnh hưởng tới nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Do đó, cần thực hiện hệ thống chính sách ưu đãi đầu tư thực sự công bằng ở các KCN, KCX nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh cùng sản xuất hàng hóa. Tiến tới giảm sự phân biệt trong chính sách giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.
Đảm bảo sự đồng bộ và thiết thực trong hệ thống chính sách với mục tiêu phát triển lâu dài, đặc biệt với các chính sách ưu đãi đầu tư với các văn bản pháp luật đã ban hành. Để tìm hiều mong muốn nguyện vọng của các nhà đầu tư và kiểm tra sự phù hợp của chính sách ưu đãi đầu tư nên duy trì mỗi năm 1 – 2 lần doanh nghiệp đối thoại với lãnh đạo địa phương và ban quản lý các KCN, KCX
Việc hoàn thiện cơ chế chính sách thể hiện cụ thể ở một số chính sách sau:
Về cơ chế “một cửa, tại chỗ”:
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế này để đạt được hiệu quả tốt hơn. Chuyển từ mô hình ủy quyền sang mô hình phân cấp và tương ướng là mở rộng quy mô phân cấp về vốn, đặc biệt các dự án không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện nhằm tạo sự năng động và chịu trách nhiệm của Ban quản lý và chính quyền địa phương. Mặt khác, các Ban quản lý đã có một thời gian hoạt động theo nguyên tắc ủy quyền đã tích lũy được kinh nghiệm quản lý, sẽ phát huy năng lực của mình tốt hơn.
Về chính sách đất đai:
Kiến nghị với Chính phủ ban hành các văn bản dưới Luật cụ thể hóa 3 quyền của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đó là: quyền chuyển nhượng, quyền cho thuê, quyền thuế chấp.
Phối hợp chặt chẽ với chủ đầu tư trong việc đền bù, giải phóng mặt bằng, đặc biệt đối với các dự án hiện đang còn ách tắc trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đất đai.
Tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài được thuê đất trong một khoảng thời gian dài tương đương với các nước trong khu vực. Xem xét mức tiền thuê đất cho phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài của địa phương. Bảo đảm mức tiền thuê hợp lý, có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Về chính sách thị trường và công nghệ:
Có chính sách khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ hiện đại vào Việt Nam; có biện pháp ngăn chặn nhập công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, đem lại năng suất thấp và hiệu quả thấp. Thực hiện ưu đãi đặc biệt đối với nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào những lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao. Tích cực cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu tại những quốc gia có nền khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng tiên tiến; tạo nguồn lực có chất lượng tốt phục vụ cho mục tiêu phát triển đất nước.
3.4.2. Đảm bảo sự đồng bộ giữa hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX
CSHT là một yếu tố rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư. Để thu hút đầu tư hiệu quả thì cần phải đảm bảo sự đồng bộ giữa CSHT bên trong và bên ngoài hàng rào KCN, KCX. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy trong quá trình triển khai thực hiện các quy hoạch thường không đồng bộ tạo ra những khó khăn nhất định trong quá trình phát triển, làm giảm khả năng thu hút FDI và giảm tính hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn thu hút được. Do đó, để nâng cao khả năng thu hút FDI ở các KCN, KCX thì trước hết phải thực thi các biện pháp phát triển và hoàn thiện hệ thống hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN, KCX.
3.4.2.1. Đối với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào KCN, KCX
Thứ nhất, đảm bảo mặt bằng để đầu tư phát triển KCN, KCX
Trên cơ sở các danh mục các KCN, KCX đã được quy hoạch và dự kiến phát triển theo từng giai đoạn thì căn cứ theo các quy định của pháp luật hiện hành, UBND các tỉnh cần xây dựng các biện pháp bảo tồn, duy trì, có kế hoạch cụ thể để đảm bảo sử dụng hiệu quả mặt bằng đất trước khi giao đất cho phát triển KCN, KCX, đảm bảo cung cấp mặt bằng đúng tiến độ và với chi phí giải phóng mặt bằng thấp nhất.
Tăng cường hiệu lực của các quy định pháp luật về chính sách đất đai, đảm bảo hiệu lực của các cơ quan, các cấp chính quyền trong việc thực thi pháp luật liên quan đến quản lý đất đai và tài nguyên môi trường.
Nghiên cứu xây dựng cơ chế giá đền bù, giải phóng mặt bằng phù hợp với thực tiễn của từng địa phương trong vùng nhưng vẫn phải đảm bảo các quy tắc chung theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, Đổi mới nội dung và phương thức thu hút đầu tư phát triển hạ tầng.
Việc thu hút được vốn đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng là một vấn đề quan trọng cần được quan tâm. Việc đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp thu hút đầu tư có vị trí và tác dụng đặc biệt quan trọng đối với thu hút đầu tư phát triển CSHT trong KCN, KCX. Do đó, cần phải:
- Có các biện pháp công khai thông tin phát triển các KCN, KCX để thu hút được sự chú ý của tất cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước, thuộc mọi thành phần kinh tế
- Xây dựng quy trình nghiên cứu, lựa chọn quy trình nghiên cứu, lựa chọn các nhà đầu tư hạ tầng một cách thuận tiện và nhanh chóng hướng tới lựa chọn các nhà đầu tư có tiềm năng cho phát triển các KCN, KCX.
- Khai thác tối đa các phương tiện thông tin để cung cấp đầy đủ thông tin về phát triển các KCN, KCX trên địa bàn từng tỉnh như: xây dựng và quản lý, vận hành và cập nhật thông tin trên một website về phát triển các KCN, KCX trên địa bàn từng tỉnh, quảng bá trên các trang báo của địa phương…
Thứ ba, tạo nguồn vốn phát triển các KCN, KCX
Ở những nơi có điều kiện thu hút đầu tư vào các KCN, KCX, nhất là nhà đầu tư nước ngoài thì việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX có thể cho các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân cả trong và ngoài nước đầu tư xây dựng, nhưng phải trên cơ sở quy hoạch chung của các cấp chính quyền địa phương và Trung ương.
Ở những địa phương có CSHT yếu kém, xa trung tâm cần có sự hỗ trợ nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định để đầu tư hoàn chỉnh một số hạ tầng thiết yếu bên trong và đấu nối với bên ngoài hàng rào KCN, KCX.
Thành lập “quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển CSHT KCN, KCX” ở các tỉnh, thành phố. Vốn của quỹ được huy động từ nhiều nguồn vốn như: Ngân sách cấp lần 1 và bổ sung hàng năm, vốn vay tín dụng ưu đãi…
Ngoài các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước hoặc các nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, còn cần có nguồn vốn chủ lực cho việc đầu tư phát triển hạ tầng KCN, KCX dưới hình thức xã hội hóa vốn đầu tư như: cổ phần hóa các công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX, bán cổ phiếu, trái phiếu để người dân có điều kiện tham gia góp vốn đầu tư xây dựng KCN, KCX
Khuyến khích người dân có đất trong các khu quy hoạch bị giải tỏa để xây dựng KCN, KCX góp vốn cổ đông bằng tiền đền bù giá trị quyền sử dụng đất dưới các hình thức cổ phiếu, trái phiếu…
3.4.2.2. Đối với hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN, KCX
Không chỉ CSHT bên trong hàng rào KCN, KCX thuận lợi, mà CSHT bên ngoài KCN, KCX cũng cần phải đầy đủ thì mới thu hút được các nhà đầu tư. Vì vậy, cần phải chú trọng xây dựng CSHT không chỉ bên trong mà cả bên ngoài KCN, KCX.
Việc xây dựng CSHT bên ngoài hàng rào KCN, KCX cần có sự quan tâm đặc biệt của Trung ương, các cấp Chính quyền địa phương. Vùng ĐBSCL với mạng lưới sông ngòi dày đặc, nền đất yếu, thường xuyên bị ngập lụt, thuận lợi cho giao thông đường thủy nhưng việc xây dựng mạng lưới giao thông đường bộ lại gặp nhiều khó khăn, tốn nhiều kinh phí, nên rất cần sự quan tâm của Chính phủ. Cần phải giành một nguồn ngân sách đáng kể để đầu tư phát triển hạ tầng giao thông của vùng ĐBSCL, đó chính là một trong những chiếc chìa khóa để thu hút vốn đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội.
Việc xây dựng CSHT không chỉ dựa vào nguồn Ngân sách của Nhà nước và địa phương mà đồng thời, cần phải có chính sách khuyến khích và chính sách ưu đãi đối với các thành phần kinh tế trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng CSHT. Xây dựng những quy chế ưu đãi cụ thể đủ sức hấp dẫn đối với các dự án BOT, BTO, BT vào lĩnh vực xây dựng và phát triển CSHT, góp phần giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước.
Thực tiễn cho thấy, ngay khi cầu Rạch Miễu nối 2 bờ sông Tiền phá thế cô lập của tỉnh Bến Tre còn đang được xây dựng thì lượng vốn đầu tư đổ vào tỉnh Bến Tre đã tăng lên đáng kể, năm 2004 tỉnh chỉ thu hút được 5 triệu USD, đến năm 2006 tỉnh đã thu hút được 23 triệu USD, vốn đầu tư vào tỉnh Bến Tre vẫn tiếp tục tăng trong những năm gần đây. Điều đó cho thấy rằng, giao thông là một yếu tố cực kỳ quan trọng đối với việc thu hút đầu tư. Vì vậy, các tỉnh trong vùng cần phải liên kết với nhau để quy hoạch xây dựng một hạ tầng giao thông đồng bộ. Vùng cần đầu tư các công trình giao thông nhằm phá thế đọc đạo của một số tuyến quốc lộ hiện nay vốn đang kìm hãm sự phát triển kinh tế của cả vùng trong thời gian qua như các dự án: tuyến N2 từ Chơn Thânh đến Vòm Cống (Đồng Tháp), tuyến N1 đoạn từ Châu Đốc đi Tịnh Biên (An Giang), đường Hồ Chí Minh đoạn Mỹ An đi Cao Lãnh, đường Hồ Chí Minh đoạn Năm Căn đi Đất Mũi (Cà Mau), tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp nối Cần Thơ – Cà Mau, tuyến hành lang ven biển phía Nam.
Chú trọng nâng cấp và hiện đại hóa mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện nước, giao thông, sân bay, bến cảng, kho tàng. Cảng hàng không Cần Thơ cần phải tiếp tục được thiết lập tới các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên và cần được cần được mở thêm các đường bay đi các nước Đông Nam Á như Singapore, Thái Lan, Campuchia, đi các nước ở vùng lãnh thổ ở Đông Bắc Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan. Với những điều kiện thuận lợi mà vùng có được, vùng cần phát triển hệ thống cảng sông cảng biển để có thể đón tiếp các tàu lớn, không cần phải trung chuyển qua các cảng của thành phố Hồ Chí Minh để giảm chi phí vận chuyển hàng hóa, tăng lợi cạnh tranh của hàng hóa trong vùng. Cửa Định An (Trà Vinh), là cửa ngõ nối hệ thống cảng của 13 tỉnh, thành phố ĐBSCL với biển Đông, liên tục bị phù sa bồi lắng nên những tàu có trọng tải từ 5000 tấn trở lên không vào cửa Định An được, do đó, hạn chế rất lớn sự lưu thông của tầu thuyền, hạn chế sự phát triển của các doanh nghiệp tại ĐBSCL. Vì vậy, cần phải khẩn trương khơi thông luồng Định An, việc nạo vét cửa Định An trong giai đoạn hiện nay và duy tu để sử dụng lâu dài là cần thiết. Phải thực hiện nạo vét quy mô lớn tại đoạn thường xuyên bị bồi lắng ở cửa biến Định An, tiến hành nạo vét bề ngang đáy luồng cộng với mái dốc khoảng 300m cho luồng tàu hai chiều và duy trì độ sâu 5m cộng với biên độ thủy triều 3/8 – 4m, khối lượng khoảng 1 triệu m3/ năm thì có thể đảm bảo cho tàu trọng tải 10.000 tấn ra vào an toàn.
Các chuyên gia kinh tế đã nhận định rằng: hạ tầng giao thông yếu kém là một trong những nguyên nhân kiềm chế tốc đọ phát triển của vùng ĐBSCL. Việc hàng hóa phải đi vòng và ách tắc nhiều nơi chính là một hạn chế lớn của khu vực nhiều tiềm năng kinh tế này. Vì vậy, việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông ở vùng ĐBSCL là một vấn đề bức xúc cần được quan tâm giải quyết.
Cải thiện chất lượng hệ thống dịch vụ hiện tại và phát triển mạng lưới dịch vụ rộng khắp, có chất lượng cao như y tế, giáo dục, dịch vụ giải trí. Tăng cường và phát triển các loại hình dịch vụ tư vấn về đầu tư, xuất nhập khẩu, nghiên cứu thị trường, luật pháp quốc tế.
3.4.3. Phát triển nguồn nhân lực
Vấn đề đào tạo và phát triển nguồn nhân lực vừa có tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài. Để đáp ứng yêu cầu phát triển trong vùng, cần có:
Thứ nhất, Quy hoạch và có sự kết hợp chặt chẽ giữa các địa phương trong vùng để phát triển nguồn nhân lực theo hướng tập trung, ưu tiên đào tạo lao động cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến hàng nông – thủy sản xuất khẩu, may mặc, lắp ráp điện tử, lao động dịch vụ thương mại và du lịch. Chỉ khi thực hiện được sự liên kết thì mới có thể đào tạo trên quy mô lớn và giảm chi phí nhất là những nghề đòi hỏi phải đầu tư lớn như chế biến thủy sản.
Thứ hai, Xã hội hóa đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những giải pháp quan trọng để nhanh chóng nâng cao số lượng và chất lượng nhân lực của vùng.
Ngoài hệ thống giáo dục và đào tạo của Nhà nước, cần khuyến khích nhân đóng góp xây dựng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của địa phương, của vùng, hình thành các cơ sở đào tạp dân lập, tư thục, trong đó có các trường đại học.
Hàng năm, nên tổ chức Lễ Vinh danh cá nhân – tổ chức đã có đóng góp cho sự phát triển nền giáo dục đào tạo của vùng. Vinh danh các tổ chức, cá nhân tiêu biểu trong hoạt đọng phát triển hệ thống giao thông nhằm tôn vinh, đồng thời tìm kiếm những cá nhân, tập thể thông qua các hoạt động nghiên cứu, đầu tư, phát triển kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo. Bên cạnh đó, hoạt động vinh danh còn nhằm công nhận, tôn vinh các giá trị đóng góp của các cá nhân, tập thể, giúp công chúng hiểu đowcj và đánh giá, động viên kịp thời những sáng tạo, những nỗ lực đóng góp của các tổ chức, cá nhân vào hoạt động phát triển giáo dục đào tạo của vùng. Thông qua hoạt động vinh danh còn góp phần tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, thành tích nổi bật đến với công chúng, tạo động lực khích lệ tinh thần lao động sáng tạo, cống hiến tri thức, trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển vùng ĐBSCL nói riêng và đất nước nói chung trên bước đường phát triển và hội nhập. Động viên, khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, tham gia đầu tư phát triển hệ thống giáo dục đào tạo ngày càng nhiều hơn, với những thành tích cao hơn nữa.
Thứ ba, Có tầm nhìn chiến lược, tạo mối liên kết đa chiều trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Các tỉnh, thành phố trong vùng ĐBSCL cần liên kết với nhau để xây dựng một số trường đại học, cao đẳng, đặc biệt là về lĩnh vực chuyên môn là thế mạnh của vùng như nông nghiệp, thủy hải sản. Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa trường đại học, cao đẳng và các doanh nghiệp để sinh viên có cơ hội được vừa học vừa thực hành, nâng cao kiến thức chuyên môn và nâng cao tay nghề của mình, đồng thời giúp cho doanh nghiệp có thể tìm kiếm được các nhân tài; tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa trường học và bà con nông dân, phổ biến tới bà con nông dân, những người sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản… những cây giống, con giống tốt, những phương pháp nuôi trồng khoa học, có hiệu quả cao,… Mở thêm các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề ở các trung tâm đô thị tập trung đông dân cư và có nhiều KCN, KCX tập trung. Liên kết với các doanh nghiệp trong vùng để đào tạo đúng ngành, đúng nghề, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của các doanh nghiệp, giải quyết được vấn đề đầu ra của các sinh viên, học viên. Tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa người dân – trường đào tạo – doanh nghiệp sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho các đối tượng đó.
Không chỉ cần sự liên kết giữa các tỉnh trong vùng trong việc đào tạo nguồn nhân lực, mà cần có lên kết chặt chẽ với các có sở đào tạo khác trong cả nước. Đó là yếu tố rất quan trọng, là nền tảng để phát huy tiềm năng, thế manh, nắm bắt cơ hội và hạn chế tối đa cạnh tranh cục bộ, sao cho cùng phát triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ, đủ về số lượng và có cơ cấu phù hợp. đạt chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực vùng ĐBSCL hiện nay cần chú trọng hợp tác phát triển đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực biên giới Tây Nam.Vì trước xu thế hội nhập, không gian phát triển của ĐBSCL không còn bó hẹp trong vùng hay chỉ là mối liên kết với thành phố Hồ Chí Minh và vùng Đông nam Bộ, mà còn mở rộng ra không gian rộng lớn của khu vực ASEAN với 600 triệu dân, và rộng hơn nữa. Do đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực ở ĐBSCL không chỉ trong nội vùng mà còn khai thác các khu vực của Campuchia, Lào, vì vậy nên có hướng mở cao hơn.
Thứ tư, Đào tạo nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Từ thực tế tồn tại tình trạng chưa có sự cân đối trong cung cấp và sử dụng nguồn nhân lực, vừa thừa vừa thiếu, cho nên cần thiết có sự điều chỉnh sao cho phù hợp. Vif thế, việc đào tạo phải bắt gặp với nhu cầu sử dụng lao động của nên kinh tế, của xã hội. Cơ sở đào tạo cần quan tâm tìm hiểu, nắm bắt nhu cầu xã hội mà có kế hoạch đào tạo hợp lý. Giữa các cơ sở đào tạo và cơ sở sản xuất kinh doanh, tổ chức sử dụng lao đọng cần có mối liên hệ mật thiết với nhau: cơ sở sử dụng lao động có thể đặt hàng, cơ sở đào tạo có sản phẩm theo đúng yêu cầu sử dụng. Cơ quan quản lý giáo dục đào tạo cần nắm bắt chắc chắn nhu cầu tổng thể của xã hội để phân bổ chỉ tiêu đào tạo hợp lý cho các cơ sở đào tạo. Đồng thời các cơ sở đào tạo còn phải thường xuyên và nhanh chóng đổi mới chương trình, nội dung, đào tạo thật khoa học, thật hiện đai, luôn cập nhật những thông tin, tri thức mới nhất; đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, thiết bị tiên tiến, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực. Trong quá trình đào tạo cần thiết coi trọng việc thực tập, ứng dụng, thực hành. Điều này sẽ khắc phục dần biểu hiện học vẹt, lý thuyết suông, kém hiểu biết thực tiễn, thiếu kỹ năng thực hành của sinh viên, học viên.
Thứ năm, Đảm bảo nhu cầu chỗ ở và nơi làm việc cho người lao động để họ yên tâm sản xuất. Việc xây dựng nhà ở cho công nhân phải là sự kết hợp giữa chính quyền địa phương, nhân dân và doanh nghiệp theo hướng xã hội hóa trong việc tạo quỹ nhà. Nhà nước phải có đất “sạch” (đất đã giải tỏa) giao cho doanh nghiệp, có thể Nhà nước tự bỏ tiền để bồi thường giải phóng mặt bằng hoặc thu hồi những khu đất không để giao cho doanh nghiệp xây dựng. Đây là một vấn đề cốt yếu để hình thành nhà giá thấp. Nếu để doanh nghiệp tự thu hồi đất theo giá thị trường thì dù có miễn tiền sử dụng đất thì giá thành vẫn bị đẩy lên cao. Các chủ đầu tư dự án nhà ở cho công nhân và nhà ở giá thấp sữ được hưởng rất nhiều ưu đãi như: miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với diện tích đất trong phạm vi dự án nhà ở cho công nhân thuê và nhà ở giá thấp; các chủ đầu tư dự án được phép điều chỉnh tăng mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất 1.5 lần so với quy định hiện hành để góp phần giảm giá thành; chủ đầu tư dự án được áp dụng thuế VAT 0% đối với các hợp đồng thuê nhà ở công nhân và hợp đồng bán nhà ở giá thấp; được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế, giảm 50% thu nhập doanh nghiệp trong chín năm tiếp theo và được áp dụng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong suốt thời gian hoạt động…
Có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nhiều nhân công lao động như: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong một thời gian nhất định, hỗ trợ quỹ đất, miễn giảm tiền sử dụng đất đối với diện tích đất dùng để xây nhà ở cho công nhân… Hoặc các doanh nghiệp này hợp đồng với các tổ chức, cá nhân kinh doanh nhà trọ nhằm giải quyết tốt vấn đề chỗ ở cho công nhân theo nguyên tắc cộng đồng cùng chịu trách nhiệm và cùng có lợi.
Bên cạnh việc đầu tư của Nhà nước, bằng các đòn bẩy kinh tế tạo thuận lợi cho nhân dân xây dựng nhà cho thuê, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng nhà ở cho công nhân thuê với giá thấp hoặc bán trả góp.
3.4.4. Tăng cường công tác vận động xúc tiến các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các KCN, KCX của vùng ĐBSCL
Vận động xúc tiến đầu tư là một trong những nội dung quan trọng giữ vai trò quyết định sự thành công của các KCN, KCX trong thu hút đầu tư, đặc biệt là thu hút FDI. Đây là một hình thức chủ động trong hoạt động thu hút đầu tư. Nó sẽ mang lại hiệu quả cao hơn so với trạng thái thu hút FDI bị động. Do đó, để tăng cường công tác vận động và xúc tiến FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian tới thì cần phải tập trung vào những vấn đề sau:
Thứ nhất, giải quyết, xử lý, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đang xây dựng và đang sản xuất kinh doanh, đây là một biện pháp xúc tiến vận động đầu tư mang lại hiệu quả cao. Sự thành công của những doanh nghiệp này là minh chứng đầy thuyết phục đối với các nhà đầu tư nước ngoài khác đang có ý định đầu tư vào các KCN, KCX của vùng.
Thứ hai, chính quyền địa phương cần phối hợp với các Bộ, ngành trong công tác vận động và xúc tiến đầu tư; xây dựng rõ các danh mục dự án kêu gọi đầu tư và làm cơ sở cho việc vận động và xúc tiến đầu tư.
Thứ ba, đổi mới về nội dung vận động, xúc tiến đầu tư. Tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có tiềm lực tài chính mạnh để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm tạo điều kiện cho việc thu hút các công ty trực thuộc hoặc các công ty hoặc các công ty có quan hệ với tập đoàn đầu tư vào các KCN, KCX của vùng. Kết hợp với các ngân hàng trong vùng để vận động các khách hàng của họ thực hiện đầu tư tai các KCN, KCX của vùng. Thường xuyên tiếp xúc với cộng đồng các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài, kịp thời cung cấp những thông tin về các dự án đang cần mời gọi đầu tư, các chính sách ưu đãi mới đối với đầu tư nước ngoài trong các KCN, KCX. Thông qua những cuộc tiếp xúc, chính quyền các cấp sẽ thấy được những khó khăn, vướng mắc của các chủ đầu tư, từ đó có biện pháp kịp thời giải quyết, tạo nên hình ảnh tốt đẹp, tạo sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường bộ phận xúc tiến đầu tư tại các cơ quan đại diện của Việt Nam ở một số nước và địa bàn trọng điểm để chủ động vận động, xúc tiến đầu tư đối với từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng, đặc biệt đối với các nhà đầu tư châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản. Xây dựng hoặc kết hợp với các cơ quan đại diện, chi nhánh của các đơn vị kinh tế tại nước ngoài thành lập những trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư. Khai thác những quan hệ của Việt Kiều tại các quốc gia có tiềm lực tài chính trong việc mời gọi các đối tác đầu tư, tạo nên những đầu nối cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX trong vùng.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trong quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về tình hình thu hút FDI vào các KCN, KCX vùng ĐBSCL trong thời gian vừa qua, em xin có một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, vùng ĐBSCL cần phải tích cực trong khâu quảng bá hình ảnh của vùng, của địa phương mình, chỉ ra được những thế mạnh, những tiềm năng của vùng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tận dụng được những cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội của vùng, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, thu hút FDI vào các KCN, KCX trong vùng, bên cạnh việc đa dạng hóa các ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ cũng cần chú ý phát huy tiềm năng thế mạnh về nông – thủy sản của vùng, các doanh nghiệp trong KCN, KCX chính là thị trường đầu ra của các sản phẩm nông nghiệp thủy sản, đồng thời giúp hoàn thiện hơn nữa dây chuyền công nghệ khai thác/nuôi trồng – chế biến – xuất khẩu nông – thủy sản, góp phần vào công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn.
Thứ ba, chính quyền cấp Trung ương và địa phương cần phải quan tâm hơn nữa tới đầu tư CSHT cho vùng. Đây là vùng có nhiều tiềm năng, xong do địa hình nhiều sông ngòi chia cắt, giao thông vận tải chưa thuận tiện nên đã bỏ lỡ nhiều cơ hội thu hút đầu tư. Hoàn thiện CSHT của vùng là một trong những yếu tố quan trọng nhất để thu hút đầu tư nói chung và thu hút FDI nói riêng.
Thứ tư, việc đào tạo đội ngũ lao động và nâng cao trình độ dân trí cũng là một vấn đề rất cần được quan tâm của các cấp chính quyền. Xây dựng trường học các cấp, đồng thời phải tuyên truyền, giải thích tầm quan trọng của việc học tập cho người dân biết. Tích cực hợp tác giữa các doanh nghiệp với các trường đại học, trung cấp, trung tâm dạy nghề để có kế hoạch đào tạo theo nhu cầu lao động của các doanh nghiệp, tránh tình trạng “vừa thiếu vừa thừa” lao động.
KẾT LUẬN
Là một vùng quan trọng đối với cả nước trong việc đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, ĐBSCL cần phải phát huy được những thế mạnh của mình để phát triển tương xứng với tiềm năng mà vùng có được. Việc phát triển các KCN, KCX cần phải tính toán sao cho có thể hỗ trợ cho sự phát triển các tiềm năng thế mạnh của vùng, đồng thời góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Quá trình thu hút FDI vào các KCN, KCX đã mang lại những bài học kinh nghiệm quý giá cho sự phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, KCX của vùng, làm cơ sở cho Chính phủ hoạch định và hoàn chỉnh chính sách phát triển KCN, KCX nói riêng và chính sách thu hút FDI nói chung.
Các KCN, KCX trên địa bàn đã thực sự bổ sung nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm năng lực sản xuất mới đáp ứng phần nào nhu cầu trong nước và xuất khẩu, tạo thêm việc làm cho người lao động, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế, tạo tiền đề cho nhiều ngành công nghiệp mới ra dời.
Bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình thu hút FDI vào các KCN, KCX vủa vùng cũng bộc lộ những bất cập về công tác quy hoạch, kinh doanh CSHT trong và ngoài KCN, KCX; vấn đề đất đai, giải phóng mặt bằng;…
Để phát triển các KCN, KCX của vùng, cần phải tiến hành những giải pháp đồng bộ từ các cấp chính quyền, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo quy hoạch và đáp ứng xu thế hội nhập quốc tế, như vậy thì các KCN, KCX mới thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để thu hút FDI nhằm thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Gs. Ts Vũ Thị Ngọc Phùng_chủ biên (2006), “Giáo trình Kinh tế phát triển”, Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tr.248-251, Nhà xuất bản lao động – xã hội.
Bộ Kế hoạch và đầu tư (2008), Đề án “Rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển các KCN, KCX đến năm 2020”.
Viện chiến lược phát triển (2008), Đề án “ Dự báo tác động của hợp tác tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng đến phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020”.
Trường Đại học Kinh tế quốc dân, bộ môn Kinh tế đầu tư, “Giáo trình Kinh tế đầu tư”.
Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện chiến lược phát triển(2006), Báo cáo “Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL đến năm 2020”.
…
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22079.doc