Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình

Sự phát triển của kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình thời gian qua đã khơi dậy tiềm năng của đất nước và của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ kinh tế xã hội với các vùng trong cả nước và cả với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, vốn, sức lao động, tài nguyên, Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động vốn đầu tư trong xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tham gia sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân còn phát triển nhỏ lẻ, kinh tế cá thể vẫn còn một lượng đông đảo, loại hình doanh nghiệp tuy phát triển mạnh nhưng chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ. Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này đã có những đổi mới cơ bản, bước đầu đã tạo môi trường kinh doanh cho các cơ sở kinh tế tư nhân hoạt động tương đối thuận lợi. Tuy vậy, vẫn còn nhiều trở ngại đối với phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là môi trường pháp luật, chính sách chưa ổn định, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu lực, biện pháp hỗ trợ chưa thoả đáng. Do vậy, Đảng, Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có những chính sách, dành nhiều sự quan tâm hơn nữa đến khu vực kinh tế này.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1558 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng mại trong tỉnh để làm vốn lưu động với lãi suất còn cao, cùng với đó phải có tài sản thế chấp và chỉ được vay lượng vốn bằng 65- 70% giá trị tài sản thế chấp. Mặt bằng sản xuất kinh doanh đang là một trở ngại lớn đối với các cơ sở kinh tế tư nhân. Các doanh nghiệp rất cần mặt bằng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh đã quy hoạch 7 khu công nghiệp, 18 cụm công nghiệp với tổng diện tích là 618,9 ha; nhưng thủ tục thuê đất của các doanh nghiệp vào khu công nghiệp hay cụm công nghiệp còn qua nhiều đầu mối, mất nhiều thời gian, nếu hoàn tất được thủ tục cũng phải mất từ 2 – 3 tháng, thậm chí còn tới 5 tháng. Hầu hết các hộ kinh tế cá thể phải sử dụng nhà ở, đất ở của gia đình trong khu dân cư làm mặt bằng sản xuất kinh doanh gây nên những vấn đề về môi trường và cũng khó khăn mở rộng sản xuất. Về công nghệ, nhìn tổng thể, máy móc thiết bị và công nghệ của kinh tế tư nhân phần lớn còn lạc hậu, chắp vá, chậm đổi mới. Có khoảng trên 30% doanh nghiệp sử dụng các thiết bị máy móc có tuổi thọ trên 20 năm trở lên, nhiều doanh nghiệp thành lập mới nhưng sử dụng công nghệ thải loại từ doanh nghiệp Nhà nước. Đối với những hộ kinh tế cá thể, quy mô vốn đầu tư của mỗi hộ vào sản xuất kinh doanh là nhỏ, đổi mới công nghệ đòi hỏi phải đầu tư lớn về vốn, vì vậy, đổi mới công nghệ là rất khó. Do đó, năng suất, chất lượng sản phẩm còn thấp, ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh, thị trường tiêu thụ sản phẩm quyết định đến sự tồn tại của sản phẩm và doanh nghiệp. Thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp ở Thái Bình còn nhiều hạn chế. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ : mây tre đan, chiếu cói; các mặt hàng dệt may, … chủ yếu là xuất khẩu qua các tổng công ty xuất khẩu và các doanh nghiệp ở nước ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ,thương mại và dịch vụ đều thực hiện trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp, các sản phẩm của ngành nông nghiệp là chủ yếu như lương thực, hàng nông sản thực phẩm; việc chế biến để xuất khẩu là rất khó khăn. Chế biến hàng nông, lâm, thủy sản ở Thái Bình vẫn bằng các phương tiện thủ công là chủ yếu, do đó rất khó để đảm bảo các tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn về sản xuất nên khả năng thâm nhập và cạnh tranh về thị trường yếu. Cái yếu của kinh tế tư nhân ở Thái Bình còn thể hiện rất rõ ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp ở các tỉnh lân cận và với cả nước. Do quy mô nhỏ, yếu, kinh tế tư nhân của tỉnh vừa khó đương đầu với cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường trong nước và quốc tế, vừa dễ bị tổn thương trước các biến động của thị trường. Hầu hết các doanh nghiệp ở tỉnh ta mới ra đời sau khi Luật doanh nghiệp 1999 được thi hành nên họ còn rất thiếu kinh nghiệm thương trường, chưa đủ thời gian để trưởng thành, trong khi đã phải đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn và khốc liệt. Trình độ quản lý của kinh tế tư nhân còn nhiều yếu kém, phần lớn các chủ doanh nghiệp dựa vào kinh nghiệm để quản lý, trình độ chuyên môn đa phần không được đào tạo cơ bản; hiểu biết về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn ít; thiếu kiến thức về pháp luật, kinh tế, thông tin về thị trường, khả năng tiếp thị trong và ngoài nước còn hạn chế… Thái Bình vốn là một tỉnh thuần nông, lao động trong khu vực kinh tế tư nhân chủ yếu là từ nông nghiệp chuyển sang. Vì vậy mà tay nghề của người lao động còn yếu, phần lớn chưa qua đào tạo. Các doanh nghiệp thường xuyên phải mất nhiều thời gian để đào tạo nghề cho người lao động. Nguồn nhân lực có kỹ thuật đang là yêu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. 1.2. Môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn và thiếu bình đẳng Môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp tuy đã thuận lợi hơn trước rất nhiều, song cũng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các quy định pháp luật, chính sách của Nhà nước. Tình trạng này khiến cho môi trường kinh doanh luôn là thách thức nằm ngoài khả năng kiểm soát của các doanh nghiệp. Việc gia nhập thị trường tuy đã được cải thiện nhiều do Luật doanh nghiệp nhưng vẫn còn đòi hỏi chi phí cao về tiền của và thời gian, do vậy vẫn còn khó khăn cho nhiều người khi muốn thành lập thêm doanh nghiệp mới. Hiện nay, ngoài khâu đăng ký kinh doanh là nhanh chóng và ít tốn kém nhất, các doanh nghiệp mới ra đời còn phải qua 3 khâu (khắc dấu, đăng ký mã số thuế, mua hoá đơn) trước khi bắt đầu hoạt động với thời gian từ 50 – 60 ngày, va chi phí khoảng 3 – 5 triệu đồng (tương đương gần 50% thu nhập bình quân đầu người trong 1 năm ở tỉnh). Kinh tế tư nhân trong quá trình hoạt động còn gặp những rào cản lớn về pháp lý và hành chính; hệ thống luật pháp và chính sách của nước ta còn thiếu nhất quán, thiếu ổn định, khó tiên liệu. Một số chính sách trong quá trình triển khai thực hiện đã bộc lộ nhiều vấn đề phải xem xét, bổ sung sửa đổi. Hiện nay ,mặc dù luật doanh nghiệp 2005 đã đặt các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cùng kinh doanh trên một sân chơi bình đẳng, cùng hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, nhưng trong thực tế, kinh tế tư nhân vẫn còn lép vế so với các thành phần kinh tế khác. Doanh nghiệp tư nhân khó tiếp cận được với các nguồn lực cần thiết và họ phải bỏ ra chi phí cao để có thể tiếp cận được với các nguồn lực đó. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được tiếp cận dễ dàng hơn, với những điều kiện ưu đãi và chi phí thấp hơn rất nhiều. Thực tế này gây bất bình đẳng lớn cho các doanh nghiệp tư nhân, làm cho họ mất đi nhiều cơ hội thị trường, tăng rủi ro và làm giảm khả năng đầu tư của họ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên ở các cấp, các ngành chưa nhận thức đầy đủ về chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước, của tỉnh đối với kinh tế tư nhân; do vậy chưa thống nhất trong lãnh đạo, chỉ đạo, còn có những cản trở trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân. Việc kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng còn chồng chéo khiến cho hoạt động của doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Môi trường kinh doanh còn là thách thức lớn đối với kinh tế tư nhân của tỉnh trong tiến trình phát triển kinh tế đất nước và hội nhập với thế giới. Thái Bình với xuất phát từ nền kinh tế thuần nông, kinh tế tư nhân chỉ mới phát triển nên khả năng cạnh tranh yếu hơn so với các doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, môi trường kinh tế quốc tế luôn chứa đựng nhiều điều kiện không thuận lợi cho các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển như nước ta. Các rào cản thuế và phi thuế, các hàng rào kỹ thuật… gây trở ngại khó khăn cho xuất khẩu. Trong điều kiện như vậy, sự hạn chế của kinh tế tư nhân trong tỉnh do thiếu thông tin, hiểu biết, kinh nghiệm, kỹ năng, phương tiện trong kinh doanh quốc tế càng đẩy các doanh nghiệp của tỉnh vào thế khó khăn hơn. 1.3. Kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước Việc chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước ở nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa được thực hiện tốt. Các doanh nghiệp luôn chấp hành không tốt các vấn đề về lao động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ làm việc cho người lao động… Hiểu biết về pháp luật của đại đa số chủ doanh nghiệp còn ít, thậm chí một số không nhỏ trong họ chưa quan tâm nghiên cứu pháp luật, hoặc chưa có ý thức thực hiện kinh doanh theo quy định của pháp luật mà chủ yếu chú ý tới kinh doanh có lợi nhuận bằng “mọi giá”. Nhiều doanh nghiệp không báo cáo tài chính hàng năm theo quy định của Luật doanh nghiệp, hầu hết các doanh nghiệp không báo cáo tài chính với cơ quan đăng ký kinh doanh, thậm chí có doanh nghiệp thành lập xong sau một thời gian dài mới đăng ký mã số thuế. Một số doanh nghiệp thay đổi trụ sở giao dịch, mở thêm chi nhánh trong tỉnh không báo cáo với cơ quan đăng ký kinh doanh - điều này khó khăn cho việc quản lý doanh nghiệp. Ngoài ra một số doanh nghiệp ngừng hoạt động hàng năm, hoặc kinh doanh thua lỗ cũng không làm thủ tục giải thể theo quy định của pháp luật. Hiện tượng trốn thuế, kê khai không đúng vẫn còn rất phổ biến trong các doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp thành lập mà không hoạt động sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp ma), doanh nghiệp đăng ký thành lập chỉ nhằm mục đích mua hoá đơn giá trị gia tăng hay nhằm các mục đích khác. Đã có không ít doanh nghiệp lợi dụng sơ hở của quản lý Nhà nước cố tình làm ăn bất chính, vi phạm pháp luật. 2. Nguyên nhân Thái Bình vốn là một tỉnh thuần nông, xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, tích luỹ của nền kinh tế ở mức thấp nên phát triển kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân gặp rất nhiều khó khăn. Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp là chủ yếu nên lao động ở tỉnh phần lớn là lao động chưa qua đào tạo nghề, trình độ tay nghề, kỹ thuật còn thấp nên gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc phải đào tạo nghề cho người lao động. Kinh tế tư nhân mới phát triển, chưa thực sự vững vàng và đủ sức mạnh để cạnh tranh trong môi trường kinh doanh ngày càng khốc liệt lại gặp những khó khăn vướng mắc về pháp lý và tâm lý xã hội hoạt động của kinh tế tư nhân chưa đạt được hiệu quả cao. Thủ tục hành chính còn rườm rà, chậm cải cách, nhiều đầu mối làm mất nhiều thời gian và cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Một số văn bản cần thiết hướng dẫn thi hành Luật của các Bộ ,ngành, Trung ương vẫn chưa được ban hành kịp thời gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế tư nhân. Việc phổ biến và tổ chức thực hiện pháp luật về sản xuất và kinh doanh của các cấp Đảng uỷ và chính quyền địa phương chưa đựơc quan tâm đúng mức. Như vậy, kinh tế tư nhân ở tỉnh Thái Bình tuy đã có sự phát triển nhưng vẫn không tránh khỏi những khiếm khuyết chung của loại hình kinh tế tư nhân. Bên cạnh những lý do khách quan còn những lý do chủ quan. Kinh tế tư nhân không chỉ có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển mà còn là lực lượng kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, đường lối, chính sách phát triển kinh tế tư nhân của Nhà nước và tỉnh là yếu tố quyết định quan trọng đối với sự phát triển kinh tế tư nhân. Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình cần có quan điểm, đường lối, chính sách phù hợp, đúng đắn để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Chương 3 : Một số giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian tới của tỉnh Thái Bình I - Định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình 1. Quan điểm, chiến lược phát triển của tỉnh Thái Bình đối với phát triển kinh tế tư nhân 1.1. Quan điểm, chiến lược của Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta Nhà nước đã có những định hướng, chiến lược phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương khoá IV (tháng 8 – 1979) khi đất nước lâm vào tình trạng khó khăn trầm trọng. Hội nghị đã khẳng định sự cần thiết kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp thị trường có kế hoạch với thị trường không có kế hoạch, nhìn nhận tích cực hơn với kinh tế tư nhân. Và đến Đại hội VI đã thừa nhận sự cần thiết của kinh tế tư bản tư nhân. Đại hội lần thứ VII (tháng 6 – 1991) quy định : “ kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước, trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức”. Đến Đại hội VIII của Đảng ( tháng 6 – 1996) quyết định : “kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài”. Quan điểm của Nhà nước về kinh tế tư nhân đựơc thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. Hội nghị đã ra nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Hội nghị đã khẳng định : Trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành trung ương Đảng khoá X đã nêu rõ những chủ trương, chính sách lớn để kinh tế phát triển, đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của các doanh nghiệp : “Nhà nước tạo môi trường thụân lợi và khuyến khích mọi người đầu tư vào sản xuất kinh doanh, tăng nhanh số lượng và chất lượng các loại hình doanh nghiệp. Hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn chính sách, đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao kỹ năng quản trị kinh doanh. Tạo thuận lợi bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp cận các nguồn vốn, đất đai, công nghệ, thông tin thị trường, các chương trình xúc tiến thương mại. Đẩy nhanh việc lập quỹ bảo lãnh tín dụng và phát triển loại hình ngân hàng thương mại chuyên phục vụ doanh nghiệp vừa và nhỏ.” Chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta trong Chiến lược 10 năm 2001 – 2010 là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu. Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ… Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp tư nhân, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động. Có thể khẳng định rằng, về vấn đề phát triển kinh tế tư nhân, Đảng ta đã hoàn toàn đúng và sáng suốt khi đưa ra chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà ở đó, mọi thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc, kinh tế tư nhân là bộ phận hợp thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược… Có thể nói, đó là quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta về phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Với quan điểm này, khi một lần nữa nhìn nhận lại tiến trình phát triển của thành phần kinh tế tư nhân trong bối cảnh của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là sự phát triển của nó trong những năm gần đây, Đảng ta đã khẳng định, trong chiến lược phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, “kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. 1.2. Quan điểm chỉ đạo của tỉnh về phát triển kinh tế tư nhân Quán triệt quan điểm Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) : Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, kinh tế tư nhân có,vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Phát triển kinh tế tư nhân để từng bước tạo mối quan hệ liên doanh, liên kết của kinh tế tư nhân giúp cho kinh tế hộ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển; thúc đẩy nhanh quá trình chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, phát triển nghề và làng nghề; từng bước chuyển một bộ phận nông dân sang sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ, phân công lại lao động ở nông thôn. Quan điểm phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái Bình được xác định cụ thể : - Phát triển kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhằm khai thác tối đa nguồn lực còn tiềm ẩn, chưa được sử dụng hết trong xã hội. Phần lớn các nguồn vốn tự có, vốn tự bổ sung, tự huy động của các doanh nghiệp tư nhân đều được huy động, khai thác, sử dụng có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Trong khi nguồn vốn của Nhà nước còn hết sức hạn chế, lại phải tập trung đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế trọng điểm hoặc các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác thì việc huy động các nguồn vốn ngoài Nhà nước thông qua hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân là hết sức hữu ích. Các doanh nghiệp tư nhân thu hút được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đưa vào sản xuất, có doanh nghiệp còn thu hút số lượng ngoại tệ của Việt kiều, thân nhân ở nước ngoài, đồng thời xuất hiện sự liên doanh liên kết với doanh nghiệp nước ngoài, khẳng định vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, các doanh nghiệp tư nhân còn là nơi tận dụng, sử dụng tiềm năng chất xám, khoa học kỹ thuật, công nghệ, lao động có tay nghề cao, học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề mà doanh nghiệp Nhà nước và các cơ quan Nhà nước chưa có điều kiện sử dụng. - Phát triển kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhằm nâng cao tính năng động, hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có cạnh tranh trong kinh doanh mới tiêu thụ được sản phẩm, từ đó mới tận dụng và phát triển được năng lực sản xuất và nâng cao hiệu quả để có nguồn tích luỹ và cải thiện đời sống. Phát triển kinh tế tư nhân dựa trên công nghệ phù hợp, không đòi hỏi nhất thiết phải có nhiều vốn đầu tư, tạo ra nhiều công ăn việc làm và nhanh thu hồi vốn. - Phát triển kinh tế tư nhân cần đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn, bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước cần tạo ra một sân chơi bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, xoá bỏ mọi phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, cần thiết phải có một hệ thống pháp luật toàn diện, không phân biệt các hình thức sở hữu. Mặt khác, cần giữ vững ổn định an ninh chính trị xã hội, đảm bảo các cân đối vĩ mô, các điều kiện cần thiết của thị trường, cần thống nhất tất cả các hệ thống kinh tế tài chính, chính trị và tiếp tục cải thiện các yếu tố thị trường nhằm tạo điều kiện ổn định, thuận lợi cho các nhà sản xuất, các doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài trong một môi trường pháp lý trong sạch và tự do, nhằm nâng cao hiệu quả trong mối quan hệ giữa hợp tác và cạnh tranh. Với quan điểm phát triển kinh tế tư nhân ở Thái Bình nằm trong chiến lược phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước, Uỷ ban nhân dân tỉnh và các Sở, ban, ngành luôn quan tâm, chú trọng tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân trong tỉnh có thể phát triển và mở rộng. Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo và hướng dẫn các Sở, ban, ngành, các huyện, xã thực hiện đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, của tỉnh về phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển không hạn chế về số lượng; chuẩn bị các điều kiện thuận lợi về đất đai, kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực, chính sách ưu đãi, hỗ trợ để kinh tế tư nhân phát triển. 2. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2010 – 2020 2.1. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2010 – 2020 - Tập trung mọi nguồn lực đầu tư, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách bền vững, thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển với các tỉnh của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và với cả nước. - Đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, phát triển giáo dục đào tạo, coi trọng phát triển nhân tố con người, giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội bức xúc, nhất là giải quyết việc làm, giảm nghèo; từng bước tăng cường cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và tạo các tiền đề cần thiết khác để đi vào giai đoạn phát triển cao hơn. - Phát triển kinh tế đi đôi với xử lý và bảo vệ môi trường. - Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an ninh vững mạnh, sẵn sang đối phó với mọi tình huống. 2.2. Định hướng phát triển kinh tế tư nhân của tỉnh Thái Bình giai đoạn 2010 – 2020 Trên cơ sở mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tỉnh đã xác định, kinh tế tư nhân là có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh, và đề ra định hướng phát triển kinh tế tư nhân giai đoạn 2010 – 2020 : - Ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp có thị trường ổn định, hiệu quả kinh tế cao, các ngành công nghiệp có thể mạnh về nguồn nguyên liệu và sử dụng nhiều lao động. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp thực phẩm có nguồn nguyên liệu tại chỗ; phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đã và đang tìm được chỗ đứng trên thị trường trong nước và xuất khẩu. - Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư theo chiều sâu nhằm trang bị công nghệ hiện đại, tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. - Phát triển công nghiệp tập trung ở các khu và cụm công nghiệp, củng cố phát triển lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề. - Đẩy mạnh sản xuất, phát huy và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực cho mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. - Nâng cao hiệu quả kinh tế, khuyến khích những ngành hàng, mặt hàng sản xuất, kinh doanh có lợi thế của tỉnh; tiếp tục đầu tư và thu hút đầu tư nguồn nhân lực từ bên ngoài, tăng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng qua chế biến, sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước, địa phương, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ. - Mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu, chú trọng xuất khẩu hàng nông sản thực phẩm, dệt may, sản phẩm nghề và làng nghề; lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm, tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỷ trọng hàng gia công, tăng tỷ trọng những mặt hàng có hàm lượng công nghệ chất xám và giá trị gia tăng cao. II - Một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hoá tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với cả nước, khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Thái Bình đã có bước phát triển, số lượng các doanh nghiệp và số vốn đầu tư phát triển kinh doanh tăng lên qua các năm, tạo thêm được hàng vạn chỗ làm mới, đóng góp tích cực vào tăng nguồn thu cho ngân sách. Tuy vậy, kinh tế tư nhân còn có rất nhiều khó khăn, hạn chế trong quá trình phát triển như thiếu những nguồn lực cần thiết, môi trường kinh doanh còn nhiều khó khăn, thiếu bình đẳng, kinh tế tư nhân chưa thực hiện tốt những chính sách, pháp luật của Nhà nước… Vì vậy, Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh. Các giải pháp cần tập trung vào các lĩnh vực : - Đổi mới cơ chế, chính sách, từ luật, chính sách của Nhà nước Trung ương và địa phương, từ ban hành đến triển khai thực hiện, từ chính sách chung đến chính sách cụ thể của từng ngành và lĩnh vực. - Đổi mới cơ cấu tổ chức và chức năng bộ máy quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân - Thực hiện các biện pháp hỗ trợ có hiệu quả để kinh tế tư nhân phát triển, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn nhân lực, hoàn thiện các yếu tố thị trường. Từ mục tiêu trên và những kết quả nghiên cứu đề tài đưa ra các giải pháp cụ thể sau : 1. Quán triệt và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và của về phát triển kinh tế tư nhân Tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết Trung ương 5 (Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX) trong toàn đảng bộ và nhân dân trong tỉnh, tạo ra sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động, đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân theo đường lối của Đảng. Quan điểm về phát triển kinh tế tư nhân đã được ghi rõ trong Nghị quyết đại hội IX của Đảng, nhưng khi đưa vào thực hiện tại tỉnh vẫn còn những vấn đề chưa thống nhất trong nhận thức và hành động. Đó là cần thống nhất về các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân : kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài nhằm góp phần nâng cao nội lực của đất nước nói chung và của tỉnh Thái Bình nói riêng. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Chăm lo, bồi dưỡng giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện triệt để nội dung và tinh thần Luật doanh nghiệp, thực hiện tốt các chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế tư nhân của Nhà nước và của tỉnh. Tiếp tục tuyên truyền phổ biến Luật doanh nghiệp trong đội ngũ cán bộ, công chức có liên quan thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, thành phố; quán triệt đầy đủ nội dung Luật doanh nghiệp, nhất là các nội dung về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, của cơ quan Nhà nước có liên quan. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và người kinh doanh được hưởng các chính sách ưu đãi hiện hành của Nhà nước. Đi đôi với việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, hoạt động sản xuất, phải quản lý chặt chẽ, xử lý nghiêm những vi phạm của các doanh nghiệp. Hỗ trợ thúc đẩy mạnh việc thành lập các hiệp hội, các ngành hàng để tăng cường thông tin, liên doanh, liên kết hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, hạn chế được sự cạnh tranh thiếu lành mạnh. Làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển kinh tế tư nhân. 2. Soát xét lại, nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp và ban hành một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển 2.1.Chính sách đất đai và phát triển cơ sở hạ tầng: Hoàn thiện việc tiếp cận đất đai, tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Đất đai và nhà xưởng là các nhân tố không thể thiếu đối với tất cả các doanh nghiệp. Nếu không có các quy định rõ ràng và ổn định về quyền sử dụng dài hạn, quyền sở hữu hoặc thuê đất đai và nhà xưởng, thì không có doanh nghiệp công nghiệp hoặc nông nghiệp nào có thể tiến hành sản xuất hoặc kinh doanh. Do đó, việc giảm bớt các quy định về loại đất đai và nhà xưởng nào được cấp quyền hợp pháp hay được nhận sẽ trở thành một yếu tố quan trọng trong việc đẩy nhanh tốc độ thực hiện các dự án và doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào Luật đất đai và quy đinh phân cấp quản lý đất đai của Chính phủ, tỉnh tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có nhu cầu mặt bằng được thuê đất theo điều kiện cụ thể của địa phương, bảo đảm phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh. Việc sửa đổi, bổ sung chính sách đất đai và phát triển cơ sở hạ tầng cần quy đinh rõ về hạn mức diện tích thuê đất, thời gian thuê đất, chuyển nhượng đất thuê. Ban hành các quy định về nghĩa vụ của người sử dụng đất,các chế tài xử phạt hoặc thu hồi đất đối với những doanh nghiệp không thực hiện đúng các cam kết trong hợp đồng thuê đất. Quy định các thủ tục rõ ràng và công bằng để giải quyết các vụ tranh chấp và kiện tụng nhằm giải quyết vấn đề quyền sở hữu và quyền sử dụng trong trường hợp không có những tài liệu cần thiết. Nhà nước đưa ra các quy định cụ thể trình tự, thủ tục đăng ký thuê đất đơn giản và gọn hơn nữa và giảm đầu mối tiến tới thực hiện “một cửa, một dấu” trong thủ tục thuê đất, trước mắt thực hiện cho các dự án đầu tư tại khu công nghiệp và cụm công nghiệp. Tỉnh xem xét, hỗ trợ một phần kinh phí đền bù, giải phóng và san lấp mặt bằng trên diện tích được thuê cho các doanh nghiệp đầu tư. Các doanh nghiệp đang sản xuất kinh doanh trong nội đô thị (thành phố, thị trấn) nếu phải di dời vào các khu công nghiệp hay cụm công nghiệp theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh thì được xem xét hỗ trợ một phần kinh phí. Đầu tư, xây dựng hệ thống đường bộ, đường thuỷ, xây dựng hệ thống truyền dẫn : cấp điện, cấp nước, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống tài chính,kho bạc, ngân hàng, … Hoạt động kinh doanh không thể có hiệu quả nếu không có hệ thống kết cấu hạ tầng, hạ tầng càng phát triển thì kinh doanh càng phát triển thuận lợi, càng hiệu quả. Giá cước vận tải, nhất là vận tải hàng không, mức thu phí qua đường bộ, qua cầu, qua phà cao, giá cước bưu chính viễn thông của ta hiện nay còn nhiều và cao hơn so với các nước trong khu vực làm tăng chi phí của các doanh nghiệp, đẩy giá thành sản phẩm tăng, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh các sản phẩm có giá trị kinh tế thấp. Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước cần có các chính sách vận dụng giá thu phí, giá cước ưu đãi cụ thể từng nhóm hàng, từng ngành kinh doanh, từng vùng cụ thể để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động và tạo môi trường hấp dẫn cho nhà đầu tư. 2.2. Chính sách thuế : Tiếp tục cải cách thuế bằng cách đơn giản hoá thủ tục, sắc thuế và tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế Thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế là nghĩa vụ của các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể. Việc mở rộng ưu đãi về thuế cho các doanh nghiệp chủ yếu là thuế trực thu. Trên tinh thần đó, hướng sửa đổi bổ sung chính sách ưu đãi về thuế cần tạo điều kiện để các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh cá thể chấp hành nghiêm chỉnh luật thuế và đáp ứng điều kiện theo quy định được tiếp cận với các chính sách ưu đãi về thuế. Nước ta đã xây dựng thành công một hệ thống thuế toàn diện cho nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, có nhiều vấn đề nảy sinh cần phải giải quyết, các mức thuế có xu thế quá cao so với các nước trong khu vực, để khuyến khích đầu tư hoặc các hoạt động kinh tế ưu đãi khác nhiều trường hợp miễn giảm thuế và nhiều mức thuế suất đã được áp dụng. Đặc điểm này đã làm cho hệ thống thuế trở nên phức tạp và dẫn đến việc phân biệt đối xử với những người nộp thuế. Cần phải tiếp tục đơn giản hoá thuế thu nhập công ty và mở rộng diện tính thuế bằng cách loại bỏ các trường hợp miễn thuế và thống nhất thuế suất cho tất cả các doanh nghiệp. Mặc dù thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng nguyên tắc thuế suất duy nhất, nhưng các luật thuế khác như Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước lại quy định một loạt trường hợp miễn giảm thuế rắc rối, mhiều mức thuế suất và các ưu đãi thuế khác để khuyến khích đầu tư và các hoạt động kinh tế ưu đãi khác. Việc thực hiện những ưu đãi về thuế là phức tạp đối với Nhà nước và người nộp thuế. Ban hành chính sách thuế phù hợp, nhất là đối với doanh nghiệp mới thành lập, nghiên cứu sản phẩm mới để tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích tụ vốn nhanh, đầu tư sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường; đồng thời có giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo sự minh bạch hơn nữa thông qua in ấn và phổ biến các quy định về thuế (mức thuế, các khoản chi được phép tính, …). 2.3. Chính sách tài chính, tín dụng : Hoàn thiện sự tiếp cận tài chính, tín dụng Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác; bảo đảm kinh tế tư nhân tiếp cận và được hưởng các ưu đãi của Nhà nước cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho đầu tư vào các mục tiêu mà Nhà nước khuyến khích. Hoàn thiện việc tiếp cận tín dụng ngân hàng trung và dài hạn bình đẳng để tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp đi vay đều tuân thủ những thể lệ giống nhau và được hưởng những ưu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nước như nhau. Sửa đổi và ban hành các Luật và quy định nhằm xây dựng một khung pháp luật toàn diện và hiện đại để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho người vay vốn thực hiện và thực thi tài sản cầm cố thế chấp, việc hoàn thiện các quy định trong lĩnh vực này sẽ tạo ra sự bảo đảm tốt hơn đối với những người cho vay và do vậy sẽ khuyến khích họ cho các doanh nghiệp vay nhiều hơn. Hầu hết các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể khi thành lập, triển khai sản xuất, kinh doanh, vốn tự có rất hạn chế nên đều có nhu cầu vốn rất lớn (trong đó có vốn vay). Tỉnh sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể tiếp cận với các nguồn vốn Nhà nước thông qua các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị xã hội và các tổ chức khác. Công bố công khai danh mục các ngành nghề được vay vốn, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư từ Quỹ hỗ trợ phát triển. Hàng năm, tỉnh sẽ dành một phần ngân sách để hỗ trợ lãi suất tiền vay, đầu tư xây dựng của các doanh nghiệp. Uỷ ban nhân dân tỉnh đầu tư vốn ngân sách xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm : Hệ thống cấp điện, nước, hệ thống xử lý nước thải trung tâm, đường giao thông đến chân hàng rào các khu công nghiệp; đầu tư kinh phí xây dựng quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các thị tứ, làng nghề, xã nghề… 2.4. Chính sách về lao động và đào tạo Trước hết, kinh tế tư nhân phải thực hiện đúng các quy định của Bộ luật lao động. Tất cả các đơn vị sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động, mức tiền lương, thời gian làm việc, thực hiện đúng các quy định về bảo hiểm xã hội; bảo đảm các điều kiện vệ sinh môi trường và an toàn lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động (từ 100 lao động trở lên); các dự án thuộc diện ưu đãi đầu tư sử dụng từ 50 lao động trở lên mà doanh nghiệp tự đào tạo sẽ được tỉnh xét hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo lần đầu. Ưu tiên sử dụng lao động tại các nơi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng các Khu công nghiệp và Cụm công nghiệp. Nhà đầu tư và các doanh nghiệp có nghĩa vụ ưu tiên tiếp nhận lao động là con em trong các hộ gia đình có đất bị thu hồi để chuyển giao cho doanh nghiệp đầu tư với điều kiện số lao động đáp ứng các tiêu chuẩn tuyển dụng của doanh nghiệp. Chấn chỉnh, củng cố và đầu tư thích đáng cho hệ thống các trường đào tạo nghề và hướng nghiệp trong tỉnh để có đủ điều kiện cơ sở vật chất và chương trình đào tạo lao động thích hợp với yêu cầu thị trường lao động. Mở các lớp miễn phí đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, trình độ chuyên môn kỹ thuật, năng lực kinh doanh cá thể. Khuyến khích hình thức dạy nghề, truyền nghề, phát triển nghề và làng nghề. 2.5. Chính sách về khoa học và công nghệ Định hướng phát triển lĩnh vực này phải nhằm thu hẹp khoảng cách lạc hậu công nghệ, tạo bước nhảy vọt về năng suất chất lượng, hiệu quả; ứng dụng rộng rãi công nghệ ở các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phù hợp với khả năng, điều kiện tỉnh; phát triển và ứng dụng một số công nghệ cao (tin học, sinh học, tự động hoá) nhằm thực hiện tốt chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá để có thể dễ dàng hội nhập vào môi trường khoa học – công nghệ của khu vực và Thế giới. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp khấu hao nhanh máy móc và thiết bị với một khoản khấu trừ khi xác định thuế lợi tức. Khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, thuê mua và bán trả góp để các doanh nghiệp có thể tiếp cận hoặc nâng cấp máy móc, thiết bị mới một cách tốt hơn, các văn bản pháp luật cần tạo điều kiện thuận lợi để các thoả thuận thuê tài chính, thuê mua và các hợp đồng trả góp được thực hiện dễ dàng. Tiếp tục loại bỏ những trở ngại về pháp luật và chính sách đối với việc chuyển giao công nghệ - bao gồm yêu cầu đòi hỏi về sự phê duyệt từng trường hợp chuyển giao công nghệ - và cho phép việc chuyển giao công nghệ tuân theo các hợp đồng được thực hiện trên cơ sở tự do thoả thuận. Tiếp tục đơn giản hoá các thủ tục và giảm bớt các phí tổn đối với thị thực nhập cảnh đặc biệt là đối với các cán bộ kỹ thuật, các nhà khoa học và những người điều hành kinh doanh nước ngoài, bởi họ là những phương tiện chuyển giao công nghệ, thông qua việc đào tạo và thực hiện mà họ cung cấp cho nhà quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân Việt Nam. Xây dựng quỹ phát triển khoa học – công nghệ, quỹ khen thưởng, chính sách sử dụng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ tại địa phương. 2.6. Chính sách hỗ trợ về thông tin và xúc tiến thương mại Cần có cơ chế và phương tiện bảo đảm cho khu vực kinh tế tư nhân có những thông tin cần thiết. Khuyến khích và hỗ trợ các hộ kinh doanh, các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại. Tập trung vào việc cập nhập các văn bản pháp quy về kinh doanh cho các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau. Hỗ trợ kinh phí để bổ sung các loại sách báo về pháp luật, trong đó có pháp luật về kinh tế, sách khoa học kỹ thuật cho các điểm Bưu điện văn hoá xã để mọi người dân có điều kiện tìm hiểu. Hỗ trợ một phần tiền thuê mặt bằng cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm trong tỉnh, hội chợ triển lãm trong nước và quốc tế. 3. Tăng cường các biện pháp quản lý, cải tiến các thủ tục hành chính của Nhà nước có liên quan đến kinh tế tư nhân Xác định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân để nắm cho được tình hình đăng ký kinh doanh và hoạt động của các hộ kinh doanh và doanh nghiệp. Uỷ ban nhân dân tỉnh giao cho các Sở, ngành quản lý theo chuyên ngành, giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư làm cơ quan đầu mối để phối hợp theo dõi, tổng hợp tình hình, phát hiện và đề xuất những biện pháp tháo gỡ khó khăn và chủ động uốn nắn những sai phạm của kinh tế tư nhân. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả công tác cải cách hành chính : Tiếp tục sắp xếp, tổ chức lại bộ máy, khắc phục cho được tình trạng bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực,xác định cải cách hành chính, thể chế hành chính là nội dung quyết định thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cần nâng cao tinh thần trách nhiệm, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ đối với cán bộ, công chức, viên chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ trực tiếp làm việc với dân và doanh nghiệp, chấn chỉnh việc thi tuyển công chức, viên chức, đặc biệt là ở cấp tỉnh, cấp huyện; thực hiện tiêu chuẩn hoá công chức, viên chức, từng bước sắp xếp lại hệ thống đào tạo, giáo dục để có được một đội ngũ công chức, viên chức có năng lực đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý Nhà nước hiện nay cũng như thực hiện chế độ cải cách tiền lương, để công chức, viên chức yên tâm công tác. Xử lý nghiêm minh, bình đẳng, công bằng mọi vi phạm của các công chức, viên chức. Thực hiện sớm cải cách hành chính theo mô hình “ một cửa, một dấu” ở những công việc liên quan đến doanh nghiệp trong lĩnh vực : đầu tư, đất đai, xây dựng thuộc các Sở, ngành : Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Địa chính, Khoa học – công nghệ và môi trường và các Sở chuyên ngành khác. Kiện toàn cơ cấu tổ chức, chức năng bộ máy, tiến tới thành lập mới một cơ quan hoặc một tổ chức của Chính phủ để chịu trách nhiệm chính trong việc trợ giúp Chính phủ đề ra chính sách phát triển kinh tế tư nhân và phối hợp thực hiện chính sách giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, cụ thể là hoạch định các chính sách và đề ra chiến lược, để tạo môi trường thuận lợi cho việc thành lập, phát triển và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân và các cơ quan quản lý Nhà nước, giải quyết có hiệu quả các vấn đề thực hiện chính sách pháp luật; phân công cho một cơ quan chuyên trách thực hiện những trách nhiệm và chức năng tương tự ở cấp tỉnh và địa phương bao gồm các trách nhiệm truyền đạt và phối hợp với cơ quan hoặc tổ chức phát triển kinh tế tư nhân hiện có hoặc mới được thành lập, được phân công ở cấp Trung ương. Thành lập cơ sở dữ liệu, tập trung thông tin về các doanh nghiệp, công ty đã đăng ký kinh doanh : Tập trung tất cả các thông tin về các doanh nghiệp và công ty đã đăng ký thành lập vào một hệ thống cơ sở dữ liệu duy nhất và hình thành cơ chế cung cấp những thông tin này một cách dễ dàng và nhanh chóng cho công chúng cũng như cho các cơ quan Nhà nước. Điều này cho phép các cơ quan Nhà nước có được những thông tin cơ bản về mọi doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường và hình thức pháp lý của các doanh nghiệp, cung cấp công khai những thông tin đó sẽ làm tăng sự minh bạch của các doanh nghiệp và ngăn ngừa tình trạng lừa đảo. Quan tâm đầu tư môi trường văn hoá – xã hội : Tiếp tục củng cố an ninh trật tự từ cơ sở để các doanh nghiệp an tâm đầu tư, sản xuất, kinh doanh; tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về kinh tế tư nhân để nhân dân hiểu rõ. Tỉnh tạo mọi điều kiện để người dân và doanh nghiệp được hưởng các chính sách văn hoá – xã hội như các tỉnh, vùng khác. Đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới : - Tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận ngoại tệ. Ngoại tệ là huyết mạch của hoạt động ngoại thương và đầu tư trong phạm vi mà máy móc, thiết bị, linh kiện sản xuất, công nghệ, phụ tùng và các sản phẩm trung gian khác phải nhập khẩu từ nước ngoài. Nhà nước cần có những chính sách cần thiết tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận dễ dàng hơn với ngoại tệ để tham gia hoạt động thương mại quốc tế, đầu tư và các giao dịch chuyển giao công nghệ. Nhà nước duy trì việc kiểm soát ngoại tệ nhưng cho phép các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường không chính thức để huy động ngoại tệ trong khu vực tư nhân vào mục đích sản xuất. Nhà nước cần thay đổi chính sách quản lý ngoại tệ đang có những ảnh hưởng tiêu cực tới thị trường tiền tệ và hoạt động đầu tư trong nước. - Hoàn thiện môi trường, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân tiếp cận, cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Kinh tế tư nhân với những hạn chế của mình, khó có thể tự mình cạnh tranh trên thị trường thế giới nếu thiếu những hỗ trợ tích cực của Nhà nước, nhất là về thông tin và hỗ trợ xuất khẩu, đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực. 4. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, phát huy vai trò Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đối với việc phát triển kinh tế tư nhân 4.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền địa phương Các cấp uỷ đảng, chính quyền tăng cường quán triệt và phổ biến rộng rãi trong Đảng và nhân dân về chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tích cực lãnh đạo triển khai và kiểm tra việc thực hiện của các cấp các ngành. Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên trong các doanh nghiệp của tư nhân có điều kiện. Đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng, phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc, tổ chức công đoàn và các đoàn thể nhân dân khác, bảo đảm phát huy tác dụng thiết thực. Cấp uỷ, chính quyền, các cơ quan chức năng có liên quan ở các cấp thường xuyên theo dõi nắm chắc tình hình, tổ chức gặp mặt động viên, lắng nghe ý kiến, tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. 4.2. Khuyến khích thành lập các hiệp hội, hội doanh nghiệp - Khuyến khích thành lập các lập các hiệp hội, hội, xây dựng chiến lược,kế hoạch và nội dung hoạt động của hiệp hội, trên cơ sở đó, kiện toàn tổ chức bộ máy lãnh đạo hiệp hội, bổ sung cán bộ có năng lực, uy tín, nhiệt tình; tăng cường năng lực, tính chuyên nghiệp, chuyên nghiệp, chuyên môn, tính thiết thực và hiệu quả trong hoạt động của hiệp hội. - Thường xuyên tập hợp các kiến nghị của doanh nghiệp về luật pháp,cơ chế chính sách, về cách thức quản lý, điều hành của cơ quan Nhà nước các cấp, về thái độ của đội ngũ công chức; phân tích, tổng hợp và đề bạt các kiến nghị đó đến các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có liên quan, các cơ quan thông tin đại chúng và các hiệp hội khác; theo dõi, đánh giá sự “tiếp thu” của cơ quan Nhà nước, nguyên nhân của “tiếp thu” và “không tiếp thu” để có giải pháp tiếp theo. - Tuyên truyền, giáo dục thành viên xây dựng văn hoá kinh doanh tiến bộ, kinh doanh trung thực, có ý thức chấp hành luật pháp và trách nhiệm cộng đồng cao. - Nâng cao chất lượng cung cấp thông tin; nâng cao chất lượng và đa dạng hoá hình thức trao đổi kinh nghiệm và cơ hội kinh doanh; hỗ trợ lẫn nhau trong phát triển kinh doanh. - Thực hiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trước những can thiệp hành chính trái pháp luật của các cơ quan Nhà nước hoặc trước các sự việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế, dân sự. - Nâng cao ý thức kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp : Thực sự cầu thị và nâng cao ý thức xây dựng văn hoá kinh doanh, đạo đức kinh doanh của doanh nhân Việt Nam : kinh doanh trung thực, chấp hành đúng pháp luật, ý thức trách nhiệm cộng đồng cao, chăm lo đời sống của người lao động; xây dựng và củng cố uy tín, sự tín nhiệm của khách hàng, … Từng bước học tập xây dựng chiến lược và kế hoạch kinh doanh, cải tiến nâng cao chất lượng, tính thiết thực và hữu ích của chiến lược, kế hoạch trong quản lý hoạt động và quá trình phát triển của công ty. Xây dựng ý thức thường xuyên cải thiện nâng cao tính minh bạch trong quản trị nội bộ công ty góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh chung của cả nước. 4.3. Thực hiện khen thưởng và xử lý vi phạm Thực hiện công tác thi đua khen thưởng một cách nghiêm túc, công bằng đối với các doanh nghiệp và cả các tổ chức cá nhân Nhà nước có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp như quy định tại điều 119, 120, 121 của Luật doanh nghiệp; khen thưởng kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, trong việc nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, có đóng góp lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ phát triển kinh tế đất nước, đều được khen thưởng theo quy định của pháp luật. Xử lý nghiêm túc, công bằng các hành vi vi phạm Luật doanh nghiệp như : cấp giấy đăng ký kinh doanh cho người không đủ điều kiện hoặc từ chối cấp giấy đăng ký kinh doanh cho người đủ điều kiện; vi phạm các quy định về kiểm tra, thanh tra hoạt động của doanh nghiệp; thực hiện kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp mà không đăng ký kinh doanh, hoặc tiếp tục đăng ký kinh doanh khi bị thu hồi giấy phép; kê khai không trung thực, không chính xác, không kịp thời nội dung, thay đổi nội dung hồ sơ đăng ký kinh doanh; cố ý định giá tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế; …. Các vi phạm này đều phải xử lý và tuỳ theo mức độ và tính chất vi phạm, người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. 5. Điều kiện thực hiện Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức chỉ đạo Sở Kế hoạch và Đầu tư kết hợp với các cấp, các ngành xây dựng kế hoạch và chương trình cụ thể để triển khai Đề án tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Các huyện, thành phố tiến hành kiểm điểm, đánh giá tình hình thực hiện và có kế hoạch tăng cường chỉ đạo hoạt động kinh tế tư nhân ở địa phương đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ và các cơ quan thông tin đại chúng có kế hoạch phổ biến, tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Cổ vũ biểu dương kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Sở Kế hoạch và Đầu tư, văn phòng Tỉnh uỷ theo dõi việc triển khai, tổ chức thực hiện và thường xuyên báo cáo kết quả về Ban thường vụ tỉnh uỷ. KẾT LUẬN Sự phát triển của kinh tế tư nhân tỉnh Thái Bình thời gian qua đã khơi dậy tiềm năng của đất nước và của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn tiềm năng này bao gồm trí tuệ, kinh nghiệm, năng lực quản lý, khả năng kinh doanh, quan hệ kinh tế xã hội với các vùng trong cả nước và cả với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, vốn, sức lao động, tài nguyên, … Phát triển kinh tế tư nhân đã góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Khu vực kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, huy động vốn đầu tư trong xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo được nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, tăng thu ngân sách cho Nhà nước, tham gia sản xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu, tác động tích cực đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở tỉnh. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân còn phát triển nhỏ lẻ, kinh tế cá thể vẫn còn một lượng đông đảo, loại hình doanh nghiệp tuy phát triển mạnh nhưng chủ yếu vẫn là quy mô nhỏ. Quản lý Nhà nước đối với khu vực kinh tế này đã có những đổi mới cơ bản, bước đầu đã tạo môi trường kinh doanh cho các cơ sở kinh tế tư nhân hoạt động tương đối thuận lợi. Tuy vậy, vẫn còn nhiều trở ngại đối với phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh, chủ yếu là môi trường pháp luật, chính sách chưa ổn định, bộ máy quản lý còn cồng kềnh, kém hiệu lực, biện pháp hỗ trợ chưa thoả đáng. Do vậy, Đảng, Nhà nước và Uỷ ban nhân dân tỉnh cần có những chính sách, dành nhiều sự quan tâm hơn nữa đến khu vực kinh tế này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá IX: Về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội Luật doanh nghiệp năm 2005 – NXB Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình hoạt động kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình năm 2008 và phương hướng năm 2009 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình thời kỳ 2001 – 2005 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Báo cáo đánh giá 5 năm thi hành Luật doanh nghiệp tỉnh Thái Bình năm 2005 Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình : Báo cáo tình hình hoạt động của các doanh nghiệp năm 2008 và phương hướng phát triển năm 2009 Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình : Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình từ 2005 – 2020 Cục thống kê tỉnh Thái Bình : Khái quát về cuộc điều tra hoạt động sản xuất kinh doanh các loại hình sản xuất doanh nghiệp năm 2005 Website của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Bình : www.thaibinh.gov.vn MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21439.doc
Tài liệu liên quan