Xuất phát từ thực tiễn hoạt động và qua quá trình nghiên cứu luận văn em xin được nêu ra một số biện pháp nhằm đảm bảo thực công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp có hiệu quả thiết thực trong thời gian tới. Song, muốn thực hiện tốt các biện pháp đã nêu trên thì ngoài sự nỗ lực của riêng ngành BHXH còn phải có sự hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan, đặc biệt là có được cơ chế quản lý và hệ thống chế độ, chính sách đồng bộ. Đó sẽ là tiền đề cho việc thực hiện tốt công tác chi trả BHXH nói riêng và hoạt động của ngành BHXH nói chung. Từ đó, phát huy hơn nữa mục đích cao đẹp của BHXH: vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
93 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp thực hiện công tác chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của BHXH các tỉnh, thành phố và cũng chính là một trong những thuận lợi cơ bản để cơ quan BHXH chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH không bị gián đoạn trong thời gian mới thành lập của ngành.
- Công tác chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của hàng triệu đối tương, vì vậy, cơ quan BHXH luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo và giúp đỡ của các cấp Uỷ Đảng và Chính quyền từ Trung ương đến địa phương, của các Ban, Ngành chức năng liên quan cũng như sự cộng tác chặt chẽ của các đại lý chi trả ở xã, phường, thị trấn của các đơn vị sử dụng lao động và của đối tượng hưởng BHXH.
Mặt khác, công việc cải cách hành chính trong lĩnh vực BHXH đã có nhiều tiến bộ, đã giảm thiểu được phần nào sự công bằng phức tạp để cho người lao động dễ dàng tham gia hơn cũng như tạo thuận lợi hơn trong công tác chi tiêu. Hiện nay, đối tượng tham gia BHXH ngày càng mở rộng, điều đó có nghĩa là làm quỹ BHXH tăng lên từ đó tạo thuận lợi cho công tác chi trả.
Hiện nay, mức sống của người dân cũng như trình độ của họ được nâng lên, vì thế, yêu cầu về bảo hiểm cũng tăng lên. Khi họ tham gia kí kết hợp đồng với chủ sử dụng lao động, họ rất quan tâm đến vấn đề bảo hiểm. Như thế, trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với người lao động cũng tăng lên. Điều này sẽ làm giảm tình trạng nợ đọng BHXH tạo thuận lợi cho công tác chi trả.
2. Những khó khăn.
Mặc dù các hoạt động BHXH đã được tập trung vào một đầu mối là BHXH Việt nam, nhưng về tổ chức chi trả trong toàn ngành lại chưa có sự thống nhất, thời kỳ đầu chỉ có 13 tỉnh, thành phố có quyết định thành lập phòng Quản lý chi BHXH (Quảng nam- Đà nẵng, Hà tĩnh, Hà tây, Hải Phòng, Nam Hà, Thanh hoá, Hải Hưng, Thái Bình, Vĩnh Phú, Nghệ An, TP. HCM, Hà Bắc và Quảng Ninh) số tỉnh còn lại chưa được thành lập. Đến 6/12/1996 BHXH Việt nam có Công văn số 2127 BHXH/TCCB quyết định hợp nhất csác phòng Quản lý chi BHXH ở các tỉnh, thành phố đã nhập với phòng Kế hoạch tài chính thành phòng Kế hoạch tài chính. Từ thời gian này, trên cơ quan BHXH Việt nam có Ban quản lý chi BHXH nhưng dưới địa phương không có phòng Quản lý chi BHXH, phòng KHTC cùng một lúc chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của 2 Ban, điều này đã gây không ít khó khăn cho việc chỉ đạo của Ban quản lý chi BHXH cũng như các công việc có liên quan đến nghiệp vụ chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố.
- Cán bộ làm công tác chi trả của BHXH các tỉnh, thành phố phần lớn chưa được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ BHXH và quản lý tài chính, mặt khác, lại đang hoạt động trong một cơ chế bao cấp, cơ chế mà trong đó nhiệm vụ chi trả được thực hiện độc lập với các hoạt động BHXH khác, nay chuyển sang hoạt động trong một cơ chế mới trong đó có quyền lợi về BHXH luôn gắn với nghĩa vụ đóng BHXH của người lao động và đơn vị sử dụng lao động. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ làm công tác chi trả ngoài việc phải có ý thức trách nhiệm cao trong việc phục vụ đối tượng, còn phải có nghiệp vụ về BHXH, về quản lý tài chính để phân tách và đánh giá hiệu quả của công tác chi trả các chế độ BHXH. Đây thực sự là một chuyển đổi khó khăn cả về nhận thức và trình độ chuyên môn mà không phải cán bộ nào cũng có khả năng thích ứng ngay được.
- Đối tượng hưởng các chế độ BHXH đông (riêng số nhận bàn giao từ ngành Lao động Thương binh & Xã hội là: 1781858 người, ngoài ra trong 3 năm qua cơ quan BHXH đã xét duyệt trên 74.000 người hưởng các chế độ BHXH thường xuyên và hàng năm khoảng 1 triệu lượt người nghỉ hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN). Mặt khác lại phân bổ không đều ở các tỉnh, thành phố, ở các quận, huyện, thị xã và ở các xã phường, thị trấn trong phạm vi toàn quốc, đối tượng tập trung chủ yếu ở trung tâm các tỉnh, thành phố và các khu công nghiệp lớn, trong khi đó ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa lại rất ít. Điều này đòi hỏi BHXH các tỉnh, thành phố phải rất linh hoạt khi áp dụng các biện pháp trong công tác chi trả, nếu không sẽ ảnh hưởng đến thời gian nhận tiền của đối tượng.
- Phương tiện đi lại và đảm bảo an toàn tiền mặt trong qúa trình chi trả hầu như chưa được trang bị, trong khi đó hàng tháng BHXH các tỉnh, thành phố vãn phải đảm bảo chi trả gần 500 tỷ đồng tiền mặt, vì vậy BHXH các tỉnh, thành phố mà trước hết là các cán bộ làm công tác chi trả đã gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhất là ở các tỉnh miền núi.
- Lệ phí chi trả thấp, chưa khuyến khích được cán bộ làm công tác chi trả ở các đại lý chi trả, nhất là ở các xã có ít đối tượng và các xã vùng sâu , vùng xa. Vì vậy, trên thực tế ở nhiều xã thuộc các tỉnh miền núi không thành lập được các đại lý chi trả.
- Từ 1/1/1995 hoạt động BHXH được thực hiện theo cơ chế mới, nhưng việc chuẩn bị hồ sơ và chứng từ khi xét duyệt, thanh toán các chế độ BHXH của nhiều đơn vị sử dụng lao động vẫn theo như ở thời kỳ bao cấp, nhất là trong việc xét duyệt và chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho cơ quan BHXH và cũng là một trong những nguyên nhân chính để có những ý kiến cho rằng cơ quan BHXH gây phiền hà cho người lao động.
- Do đặc thù của đối tượng hưởng BHXH và yêu cầu quản lý quỹ BHXH nên cùng một lúc cơ quan BHXH phải sử dụng 2 nguồn kinh phí để chi trả. Nguồn từ NSNN chi trả cho các đối tượng về nghỉ hưởng BHXH trước ngày 1/1/1995 và nguồn từ quỹ BHXH chi trả cho đối tượng nghỉ BHXH từ ngày 1/1/1995 trở đi. Với cơ chế sử dụng nguồn kinh phí chi trả như trên, cơ quan BHXH chỉ có thể chủ động được nguồn kinh phí chi trả từ quỹ BHXH, nguồn do NSNN cấp đôi khi còn bị chậm và chưa được cấp bổ sung kịp thời mỗi khi có những chế độ, chính sách liên quan đến quyền lợi của người được hưởng các chế độ BHXH. Ngoài ra, hai nguồn kinh phí này, hàng năm, phải được hạch toán riêng biệt, do vậy cũng tạo nên những khó khăn nhất định cho công tác chi trả và quản lý của ngành.
Hơn nữa, nhiều chính sách về BHXH do nhà nước ban hành chưa đồng bộ, còn nhiều điều chưa hợp lý, đồng thời trong quá trình thực hiện chế độ chính sách đối với người lao động còn nhiều bất cập gây khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc thực hiện xét duyệt và chi trả BHXH cho người lao động. Do điều kiện thanh toán BHXH cho các chế độ BHXH chưa chặt chẽ nên có kẽ hở cho người lao động và chủ sử dụng lao động vận dụng gây thiệt hại đến quỹ BHXH.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hàng loạt các doanh nghiệp Nhà nước đang bươn trải và cố gắng duy trì để sản xuất và tồn tại. Nhiều đơn vị làm ăn thua lỗ hoặc thay đổi cơ chế quản lí đã không thể hoặc không có tiền nộp BHXH cho người lao động theo qui định trước đây. Đây chính là vấn đề khó khăn đối với cơ quan BHXH trong việc giải quyết nợ đọng quỹ BHXH,thực hiện chế độ chính sách cho người lao động, BHXH không có khả năng kiểm tra, kiểm soát hết được, nhất là các ngành công nghiệp phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp như các công ty chè, xí nghiệp chế biến nông sản và các nông trường, lâm trường
Trong khi đó việc thanh toán trợ cấp BHXH nhất là các chế độ ngắn hạn chưa gắn được trách nhiệm của chủ sử dụng lao động với việc thực hiện đúng chính sách BHXH. Đặc biệt có những chủ sử dụng lao động còn tạo điều kiện khuyến khích cho công nhân viên chức của mình làm đủ thủ tục để thanh toán hết quyền lợi của người lao động theo cách hiểu là được hưởng bình quân 1năm theo chế độ Nhà nước đã qui định.
Tiếp nữa là điều kiện phân cấp quản lí: Việc thay đổi về cơ chế quản lí trước đây cho công đoàn quản lí ba chế độ trên cơ sở cân đối thu chi và cố gắng giành lại một phần cho nghỉ ngơi dưỡng sức đã gắn liền trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, cơ sở y tế, công đoàn trong việc phối hợp quản lí quỹ BHXH.
Trên đây là những thuận lợi cũng như những khó khăn của công tác chi trả BHXH, vậy chúng ta phát huy những thuận lợi và khắc phục khó khăn như thế nào? Đó là một câu hỏi mà chúng ta cần quan tâm.
II. Dự báo về nhu cầu BHXH ở Việt Nam.
1. Dự báo về nhu cầu tham gia BHXH Việt Nam.
Hiện nay ở nước ta, đối tượng của hệ thống BHXH mới chỉ chiếm 10% lực lượng lao động, còn đa số người lao động ở nhiều khu vực không có quan hệ lao động (chủ- thợ) hoặc các doanh nghiệp có dưới 10 lao động vẫn chưa được tham gia BHXH mặc dù nhiều người trong số họ có nhu cầu về BHXH. Trên cơ sở thống kê về nguồn lao động và mục tiêu mở rộng đối tượng tham gia BHXH, dự báo số người tham gia BHXH đến năm 2010 như sau:
Bảng số 11: Số người tham gia BHXH
Đơn vị :1000 người
Chỉ tiêu
2005
2010
1/-Dân số
82000
87000
2/-Số người trong độ tuổi lao động
510650
55575
3/-Số người tham gia BHXH bắt buộc
6500
9000
4/-Số người tham gia BHXH tự nguyện
4400
8000
Nguồn: BHXH Việt nam
Như vậy giai đoạn 2005 đến 2010 đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là khu vực ngoài quốc doanh. Vì vậy bên cạnh các giải pháp tuyên truyền sâu rộng để cho mọi người hiểu và cùng thực hiện, cần có các giải pháp mang tính cưỡng chế, bắt người lao động phải thực hiện theo luật.
Đối với các đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, mục tiêu đến năm 2005phải có số người tham gia BHXH tự nguyện xấp xỉ số người tham gia BHXH bắt buộc. Vì vậy cũng cần có những biện pháp hấp dẫn và phải phối hợp với Bảo Việt, Bảo minh cùng tiến hành làm BHXH tự nguyện, hạn chế cho các tổ chức nước ngoài hoạt động trên thị trường Việt Nam.
2. Dự báo quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn 2005-2010
2.1. Dự báo thu BHXH
Căn cứ dự báo
- Số người dự kiến tham gia BHXH giai đoạn 2005-2010
- Mức lương làm căn cứ đóng BHXH bình quân 1 người của năm 2004, từ năm 2005 trở đi tính bù giá vào lương ( tính bình quân tỷ lệ trượt giá 5%/ năm).
- Tỷ lệ đóng BHXH: chủ sử dụng lao động đóng 19%, người lao động đóng 6%.
Bảng số 12: Dự báo thu bảo hiểm trong 1 năm
Đơn vị: triệu đồng
2005
2010
- Thu bảo hiểm bắt buộc
10.862.631
19.195.992
- Thu bảo hiểm tự nguyện( cả đối tượng phường, xã)
1.528.348
3.502.220
Tổng cộng
12.390.979
22.698.212
Nguồn: BHXH Việt nam
2.2. Dự báo chi quỹ BHXH
Căn cứ dự báo
- Tổng số người dự kiến nghỉ hưu giai đoạn 2005- 2010 do quỹ BHXH chi trả. Dự kiến mỗi năm số người về hưu khoảng 9 vạn người.
- Lương hưu bình quân 1 người có cộng thêm tỷ lệ trượt giá (bình quân 5%/ năm).
- Tỷ lệ chết của số người về hưu hàng năm là 5% so với tổng người nghỉ hưu trí.
- Chi cho ốm đau thai sản là 4% trên tổng số lương làm căn cứ đóng BHXH
- Bảo hiểm y tế của số người về hưu tính trên mức lương hưu có cộng thêm trượt giá.
- Chi quản lý bộ máy bằng 5% tổng thu trong năm.
- Tiền mai táng phí, tuất 1 lần, tuất định suất cộng thêm tỷ lệ trượt giá.
Bảng 13: Dự báo chi quỹ BHXH mỗi năm
Đơn vị
2005
2010
1/- Số người hưởng lương hưu từ quỹ BHXH
Người
640.000
1.090.000
2/-Tổng số tiền dự kiến chi từ quỹ BHXH.
Trong đó:
- Chi lương hưu
- Chi BHYT
- Chi ốm đau, thai
sản, TNLĐ- BNN
- Chi tiền tuất
- Chi quản lý bộ máy
- Chi thất nghiệp
- Chi trợ cấp một lần đối tượng bắt buộc
- Chi trợ cấp một lần đối tượng tự nguyện
Triệu đồng
-
-
-
-
-
-
-
-
6.518.426
3.208.654
96.259
1.738.020
243.922
619.548
87.803
465.634
58.586
13.645.168
6.974.547
209.236
3.071.358
498.102
1.134.910
155.161
822.852
179.002
Nguồn: BHXH Việt nam
3. Cân đối quỹ BHXH
Bảng 14: Cân đối thu- chi hàng năm
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
Tổng số thu BHXH
Tổng số chi BHXH
Số dư
2005
2006
2007
2008
2009
2010
12.390.979
14.143.196
16.039.661
18.090.412
20.306.141
22.698.212
6.518.426
7.614.573
8.832.422
10.400.645
11.528.562
13.045.168
5.872.553
6.528.623
7.207.239
7.689.767
8.777.579
9.653.044
Nguồn: BHXH Việt nam
IV. Một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH ở Việt Nam
1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện.
Hiện nay ở các địa phương trong cả nước đang áp dụng hai mô hình chi trả các chế độ BHXH chủ yếu là: chi trả trực tiếp và chi trả gián tiếp đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Điều đó chứng tỏ thực hiện hai mô hình này là phù hợp với điều kiện của nước ta. Mặc dù vậy, hai mô hình này ngoài những ưu điểm còn có những điểm hạn chế cần bàn, cần được tiếp tục củng cố và hoàn thiện hơn để đáp ứng được yêu cầu của công tác chi trả ngày một tốt hơn.
2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả bảo hiểm.
Người cán bộ bảo hiểm nói chung và người cán bộ làm công tác chi trả bảo hiểm nói riêng đều đòi hỏi có một trình độ chuyên môn nhất định để đáp ứng đòi hỏi của công việc. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các lĩnh vực, hệ thống vi tính được nối mạng trong toàn quốc thậm chí trên toàn thế giới, vì vậy người cán bộ ngoài yêu cầu về trình độ chuyên môn để đảm bảo nguyên tắc: “chi đúng, chi đủ, kịp thời” còn cần về trình độ vi tính, ngoại ngữ...
Như chúng ta đã biết, BHXH mang tính xã hội rất cao thể hiện bản chất cao đẹp của chủ nghĩa xã hội mà bộc lộ rõ nhất là qua công tác chi trả các chế độ BHXH. Nếu người cán bộ làm công tác chi trả BHXH vô trách nhiệmhoặc nếu là người rất nhiệt tình với công việc nhưng không có hiểu biêt về BHXH dẫn đến chi sai, không đủ, không kịp thời.. thì người gánh chịu những thiệt thòi sẽ là ai? chắc chắn là người lao động và những người thân của họ. Khi đó tính công bằng của BHXH có còn được đảm bảo hay không? Vì vậy, trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và lòng nhiệt tình với công việc là yếu tố không thể thiếu đối với người cán bộ làm công tác chi trả bảo hiểm.
3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả.
Công cuộc cải cách hành chính về BHXH trong những năm qua với trọng tâm là tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi cho các đơn vị sử dụng lao động và gần triệu người tham gia và hưởng BHXH. Việc cải cách thủ tục hành chính đã thu được những hiệu quả thiết thực. Tuy nhiên, những quy định về BHXH trong đó có công tác chi trả bảo hiểm còn rất nhiều bất cập. Nhiều quy định còn phức tạp, rườm rà, chưa rõ ràng, còn rất nhiều khe hở có thể lợi dụng gây khó khăn cho cả cơ quan BHXH, người lao động và người sử dụng lao động. Vấn đề đặt ra là cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả, hướng tới mục tiêu vì người lao động.
4. Đẩy mạnh việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả.
` Để giúp cho công tác chi trả một cách nhanh chóng, thuận tiện, an toàn cần có một quy trình và thủ tục chi trả chặt chẽ, có khoa học, hiệu quả, tránh sự rườm rà trong thủ tục cũng như quy trình chi trả các chế độ BHXH. Điều đó có nghĩa là: cần phải đẩy mạnh hơn nữa trong việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả.
5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền.
Công tác thông tin, tuyên truyền cho các Ngành, các cấp và các đối tượng tham gia BHXH về các vấn đề liên quan đến các tổ chức quản lý và thực hiện các chế độ chi trả các chế độ BHXH là công việc thật sự cần thiết. Mục đích của công tác thông tin tuyên truyền là giúp cho mọi người lao động, chủ sử dụng lao động hiểu rõ được các chính sách chế độ BHXH để từ đó họ thấy được trách nhiệm và quyền lợi trong việc tham gia BHXH. BHXH là một chính sách lớn của Đảng, thực hiện chính sách này là vì lợi ích chung của toàn xã hội, vì vậy đây không phải là trách nhiệm của riêng một ai, một ngành nào mà là trách nhiệm của toàn xã hội.
6. Đầu tư phương tiện tin học, nối mạng trong toàn ngành BHXH để quản lý các hoạt động BHXH.
Đầu tư cho tin học, ứng dụng công nghệ tin học vào trong hoạt động cả ngành BHXH là một xu thế tất yếu. Vấn đề này càng được quan tâm đúng mức, kịp thời bao nhiêu thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi bấy nhiêu cho hoạt động của ngành bảo hiểm trong đó có công tác chi trả bảo hiểm. Khi có hệ thống mạng được kết nối trong toàn ngành sẽ tiết kiệm chi phí, thời gian, giảm tiêu cực trong công tác chi trả bảo hiểm...
7. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH.
Đây là vấn đề không thể không nhắc đến, bởi vì chỉ khi quỹ BHXH đủ lớn thì công tác chi trả BHXH mới được đảm bảo và khi đó vấn đề công bằng mới phát huy được tác dụng. Nguyên tắc của BHXH là “số đông bù số ít”, quỹ BHXH được hình thành bởi sự đóng góp của rất nhiều người để chi trả cho một số ít người gặp rủi ro, tuy nhiên, mức đóng góp là không lớn. Hơn nữa việc chi trả BHXH cho người thụ hưởng là có thể xảy ra (ốm đau, thai sản, TNLĐ- BNN) nhưng lại chắc chắn xảy ra (hưu trí, chết) với mỗi người. Thực tế, chi trả lương hưu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu chi trả các chế độ. Để thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH đòi hỏi có một nguồn quỹ đủ mạnh. Quỹ BHXH lớn không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ bảo hiểm đặc biệt trong khâu chi trả BHXH.
8. Tăng cường giám sát hoạt động công đoàn cơ sở trong thực hiện chính sách BHXH.
Vấn đề tiêu cực trong công tác chi trả BHXH luôn là vấn đề bức xúc đối với ngành BHXH nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng. Do luật về BHXH chưa được hoàn thiện còn rất nhiều khe hở có thể lợi dụng cả về phía người lao động, người sử dụng lao động, cơ quan BHXH, cơ sở y tế... ở các cấp, các ngành, các vùng, địa phương... Hiện nay có rất nhiều trường hợp gian lận gây khó khăn cho hoạt động BHXH. Vì vậy, công tác kiểm tra, giám sát thật sự cần thiết nhất là tại các cơ sở, cần tăng cường giám sát hoạt động hơn nữa trong thực hiện chính sách BHXH.
9. Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả.
Hiện nay, phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt vẫn chưa được quan tâm đúng mức nhất là tại các tỉnh, thành phố còn chưa phát triển. Khối lượng tiền mặt lớn là mục tiêu của các băng nhóm trộm, cướp... Với khối lượng chi trả rất lớn bằng tiền mặt mà lại không có phương tiện đi lại, không có biện pháp đảm bảo an toàn tiền mặt (như két bạc) quả là khó đối với cán bộ làm công tác chi trả BHXH, vì vậy, vấn đề này cần được xem xét sớm bao nhiêu, tốt bấy nhiêu.
10. Có kế hoạch hợp tác với các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện.
Với mô hình tổ chức quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương, hoạt động BHXH cần có sự phối, kết hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành. Sự giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau giữa các cấp, các ngành tạo điều kiện hết sức to lớn trong việc tổ chức thực hiện các chế độ BHXH đảm bảo được nguyên tắc: chi đúng đối tượng, đủ số, đủ kỳ, chính xác, kịp thời. Hơn nữa, sự phối hợp có hiệu quả sẽ hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng gian lận trong hoạt động của ngành BHXH nói chung và trong công tác chi trả nói riêng.
11. Hoàn thiện công tác cấp sổ BHXH.
Mục đích của BHXH là vì người lao động. Để đảm bảo tính công bằng giữa mức đóng và hưởng cho người lao động thì cần hoàn thiện nhanh chóng công tác cấp phát sổ BHXH. Đối với những người chuyển nơi làm việc, sổ bảo hiểm sẽ đảm bảo cho lợi ích của họ. Sổ bảo hiểm, hơn nữa, là công cụ nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng BHXH, là cơ sở giải quyết tranh chấp phát sinh giữa người lao động và người sử dụng lao động.
V. Các giải pháp cụ thể
Có thể nói : chi trả là kết quả của quá trình thực hiện chính sách BHXH, là khâu cuối cùng của công tác giả quyết các chính sách BHXH liên quan đối với người lao động bị suy giảm sức lao động của mình- chế độ TNLĐ- BNN, chế độ ốm đau, thai sản... cho đối tượng hưởng lương hưu và các loại trợ cấp BHXH khi đã hoàn thành nghĩa vụ.
Để đảm bảo tốt công tác chi trả BHXH, tôi xin đưa ra một số giải pháp cụ thể như sau:
1. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang được thực hiện.
Hiện nay, có hai mô hình chi trả chủ yếu đang được áp dụng ở các điạ
phương trong cả nước. Tuy nhiên, cho dù áp dụng mô hình chi trả nào cũng phải đáp ứng hai yêu cầu:
- Quản lý chặt chẽ đối tượng
- Chi trả kịp thời, chính xác cho đối tượng và phù hợp với điều kiện của mỗi địa phương
Qua nghiên cứu thực tế các loại hình mà các địa phương trong toàn quốc đang áp dụng, thấy rằng mỗi loại hình chi trả đều có những ưu điểm và hạn chế của nó, vì vậy, cần linh hoạt trong việc phối hợp giữa các hình thức chi trả. Đối với những địa bàn tập trung nên thực hiện hình thức chi trả trực tiếp, nên phải có sự giám sát của chính quyền cơ sở trong quá trình tổ chức điều chỉnh tăng, giảm đối tượng hàng tháng do đại lý chi trả thực hiện song mức phụ cấp trách nhiệm có thể thấp hơn so với đại lý đảm nhận hình thức chi trả gián tiếp.
Đối với những địa bàn có số lượng, đối tượng rải rác, có địa hình phức tạp cần hợp đồng với đại lý là cán bộ xã, phường, vừa đảm nhận công tác chính quyền cơ sở, vừa tham gia làm đại lý. Có như vậy mới phát huy được trách nhiệm của đại lý, nâng cao vai trò của chính quyền cơ sở, nơi trực tiếp quản lý đối tượng sinh sống. Đồng thời với việc sử dụng linh hoạt các hình thức chi trả, việc quy định trách nhiệm của các bên liên quan cũng phải được định ra một cách cụ thể, rõ ràng trong các hợp đồng ký kết.
* Đối với đại lý: thực hiện chi trả toàn bộ tiền lượng hưu và trợ cấp hàng tháng đầy đủ, kịp thời, tận tay người hưởng, không được chi trả chậm hoặc chiếm dụng tiền làm ảnh hưởng đến đời sống của người hưởng. Khi có vướng mắc liên quan đến chế độ, chính sách mà đại lý không thể giải quyết được theo chức năng của mình thì báo cáo hoặc kiến nghị với BHXH huyện, thị xã để giải quyết thường xuyên nắm chắc tình hình diễn biến của đối tượng, lý do tăng giảm để báo cáo kịp thời với cơ quan BHXH( nếu có). Mở sổ sách đầy đủ để ghi chép theo và kiểm tra việc chi trả cho đối tượng.
* Đối với BHXH huyện thị xã: Thường xuyên tổ chức kiểm tra, rà soát chặt chẽ, cụ thể từng trường hợp ở danh sách chi trả và phiếu nhận tiền, nếu phát hiện chưa đầy đủ chữ ký của đối tượng thì kiên quyết không chấp nhận hồ sơ quyết toán của đại lý. Đồng thời, báo cáo kịp thời cho UBND xã, phường cùng xử lý. Các trường hợp chi trả không đúng đối tượng thì BHXH huyện, thì xã phải thu hồi hoặc trừ lại tiền khi cấp ứng cho các đại lý. Trường hợp đại lý không chấp hành thủ tục hồ sơ, chứng từ thì không giải quyết thanh toán các khoản lệ phí chi trả và có biện pháp xử lý kịp thời theo quy định và hợp đồng đã ký kết. Thông qua kiểm tra, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của đối tượng nhằm giải thích kịp thời những vướng mắc về chế độ chính sách BHXH cho đối tượng hiểu và cùng thực hiện, đồng thời báo cáo lên cơ quan cấp trên về những trường hợp không thuộc quyền xử lý (Nếu có).
* Đối với BHXH tỉnh: Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện củng cố và kết hợp hài hoà giữa hai hình thức chi trả, thường xuyên tổ chức kiểm tra công tác chi trả ở huyện, thị xã và đại lý xã, phường để sửa chữa, khắc phục những thiếu sót và tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý chi trả, quản lý tiền mặt đảm bảo an toàn, thuận lợi góp phần thực hiện tốt công tác chi trả tại các địa phương và cơ sở trong toàn tỉnh. Mặt khác, nghiên cứu phân bổ hợp lý lệ phí chi trả, có ưu tiên vùng sâu, vùng xa nhằm góp phần bù đắp một phần chi phí sức lao động và động viên đại lý chi trả hoàn thành nhiệm vụ.
Chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH là nhiệm vụ trung tâm, là khâu cuối cùng của việc giải quyết chính sách cho đối tượng. Vì vậy, công tác chi trả BHXH phải tranh thủ được sự giúp đỡ của các cấp và các ngành trên địa bàn tỉnh.
Như vậy, cần tiếp tục củng cố và hoàn thiện các mô hình chi trả đang thực hiện ở địa phương để công tác chi trả BHXH ở địa phương ngày càng hoàn thiện hơn, với phương châm đảm bảo thuận lợi nhất cho đối tượng cũng như việc đảm bảo các yêu cầu quản lý tài chính của ngành.
2. Đào tạo, nâng cao tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn cán bộ làm công tác quản lý chi trả.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) nêu rõ: “ Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. ở bất kỳ lĩnh vực hay ngành nghề nào, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức của người cán bộ là một yêu cầu vô cùng quan trọng. Đối với BHXH cũng vậy nhất là trong khâu chi trả phục vụ người lao động thì tinh thần trách nhiệm, sự tâm huyết với nghề nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của người cán bộ bảo hiểm là hết sức cần thiết để đảm bảo nguyên tắc “ chi đúng, chi đủ, chính xác, kịp thời, an toàn”.
Ta hãy đánh giá sơ bộ thực trạng đội ngũ cán bộ công chức của ngành BHXH nói chung cũng như cán bộ làm công tác chi trả BHXH nói riêng từ khi thành lập đến nay; đội ngũ cán bộ công chức có những mặt mạnh và hạn chế sau:
* Mặt mạnh:
- Được giáo dục rèn luyện, kinh qua thực tiễn công tác thể hiện bản lĩnh vững vàng, cán bộ công chức ngành BHXH đã kế thừa những kinh nghiệm sẵn có, nắm vững chính sách, pháp luật BHXH trước đây, nhanh chóng nghiên cứu nắm bắt những chíng sách BHXH đổi mới, chuyển đổi thích ứng với nhiệm vụ trong một tổ chức thống nhất, hoạt động theo cơ chế mới.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật các chế độ BHXH đối với các đối tượng tham gia BHXH.
- Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, của công tác quản lý BHXH theo cơ chế mới, nhiều cán bộ cao cấp đã cố gắng vươn lên, chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu những kiến thức mới về quản lý, về khoa học và công nghệ, tin học, ngoại ngữ,... để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
- Đội ngũ cán bộ công chức có độ tuổi trung bình trẻ, năng động, đoàn kết. Số công chức mới tuyển dụng phần đông được đào tạo cơ bản, dễ tiếp thu, thích ứng với cơ chế mới, thông qua chế độ thi tuyển chặt chẽ tạo thành lực lượng nòng cốt của ngành trong tương lai.
- Đội ngũ cán bộ công chức được hình thành sớm và tiếp tục được tăng cường bổ sung, về cơ bản bảo đảm được những tiêu chuẩn quy định về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý... đáp ứng nhiệm vụ chính trị giao.
* Hạn chế
Bên cạnh những mặt mạnh, đội ngũ cán bộ công chức cũng bộc lộ những tồn tại, bất cập với nhiệm vụ, tập trung ở những điểm chính dưới đây:
- Đội ngũ cán bộ công chức tập hợp chủ yếu do bàn giao từ hệ lao động thương binh và xã hội và Tổng LĐLĐ Việt Nam và tiếp nhận bổ sung từ nhiều nguồn khác nhau về ngành, không đồng đều về trình độ chuyên môn và năng lực; một số hẫng hụt về trình độ, năng lực, kiến thức quản lý... Phần lớn CBCC chưa được đào tạo có hệ thống, trưởng thành do tích luỹ kinh nghiệm lâu năm trong ngành, quen với cách làm việc theo cơ chế tập trung, bao cấp.
- Đội ngũ CBCC nhìn chung trình độ học vấn chưa cao (tỷ lệ học đại học chỉ chiếm 30%); số có trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ đáng kể, thiếu số CBCC hiểu biết sâu về chế độ chính sách, lao động tiền lương, tài chính.
- Đội ngũ cán bộ chủ chốt chưa đầy đủ đã phải dàn trải để đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh chuyển đổi cơ chế, chuyển đổi tổ chức, không có thời gian chuẩn bị đội ngũ, nhưng phải bảo đảm hoạt động liên tục, không ách tắc trong việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH đối với đối tượng tham gia BHXH.
Một số cán bộ quản lý bộc lộ trình độ chuyên môn, năng lực quản lý bất cập với nhiệm vụ. Cho đến nay, các chức danh cán bộ quản lý ở cả ba cấp chưa đầy đủ, còn thiếu ở hầu hết các đơn vị.
- Chế độ tiền lương, chính sách đãi ngộ của ngành chưa thoả đáng nên không tuyển chọn được CBCC giỏi về công tác tại ngành và chưa động viên được tinh thần làm việc, ý thức trách nhiệm, gắn bó với ngành và khuyến khích việc học tập nâng cao trình độ....
Số công chức mới tuyển dụng thì thâm niên, năng lực quản lý chưa đáp ứng được để đưa vào dự nguồn. Ngành đang bị hẫng hụt một thế hệ chuyển tiếp giữa thế hệ dày dạn kinh nghiệm và thế hệ trẻ trong công tác cán bộ.
Vì vậy, đào tạo đội ngũ cán bộ bảo hiểm nói chung và cán bộ bảo hiểm làm công tác chi trả nói riêng có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao là một vấn đề cấp thiết.
Biện pháp:
* Xây dựng giáo trình chuyên ngành về BHXH
* Đưa chương trình giảng dạy BHXH vào các trường đại học, cao đẳng, trung học thuộc khối kinh tế
* Cần tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hệ thống BHXH từ khâu quy hoạch, thi tuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá sử dụng, quản lý đến việc xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ, chế độ chính sách đặc thù, cải thiện thu nhập... theo hướng dưới đây:
- Rà soát lại các văn bản cán bộ, công chức của ngành, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung để hoàn thiện phù hợp với các văn bản pháp quy của Nhà nước mới ban hành và phù hợp với thực tế quản lý điều hành của ngành.
- Căn cứ vào chiến lược phát triển của ngành để xây dựng quy hoạch cán bộ, đặc biệt là cán bộ từ TW đến địa phương nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ đủ về số lượng, dồi dào về năng lực chuyên môn, năng lực quản lý, đáp ứng yêu cầu phát triển ngành trong giai đoạn mới.
- Xuất phát từ tính chất đặc thù của ngành, cần xúc tiến việc nghiên cứu xây dựng và đề nghị với cơ quan chức năng Nhà nước ban hành hệ thống tiêu chuẩn nghiệp vụ đầy đủ riêng cho công chức nghành BHXH làm căn cứ pháp lý để tuyển dụng, bố trí công chức làm đúng ngành nghề, đúng việc, đúng nhu cầu của ngành và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của ngành.
- Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cả nội dung chương trình lẫn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, hướng trọng tâm vào các kiến thức cơ bản chuyên ngành BHXH, nâng cao chất lượng lý luận chính trị, quản lý hành chính Nhà nước, quản lý ngành trong cơ chế mới, pháp luật, tin học, ngoại ngữ và các kỹ năng hành chính nghiệp vụ khác. Sớm xây dựng giáo trình đào tạo chuyên ngành BHXH.
- Triển khai thực hiện đề án khoán chi phí hoạt động bộ máy, quỹ lương và biên chế khi được Chính phủ phê duyệt nhằm tạo động lực, đổi mới hoạt động của ngành theo cơ chế mới.
- Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt chế độ, chính sách đặc thù đối với công chức ngành BHXH phù hợp với tính chất đặc thù trong hoạt động của ngành nhằm tạo động lực khuyến kích động viên cán bộ, công chức nâng cao chất lượng thực thi công vụ, tránh bình quân trong hưởng thụ. Xây dưng chính sách phù hợp để có thể thường xuyên thay thế số cán bộ, công chức trình độ, năng lực hạn chế, bất cập với yêu cầu, nhiệm vụ của ngành hoặc thoái hoá, sa sút phẩm chất, đạo đức, kém ý thức tổ chức kỷ luật... và để tuyển chọn được những người có đức, có tài vào ngành.
Đặc biệt đối với những cán bộ, công chức làm công tác chi trả BHXH cần có những chính sách khuyến khích như: tăng lệ phí chi trả, ưu tiên những cán bộ làm công tác chi trả ở các xã vùng sâu, vùng xa.
3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong công tác chi trả.
- Trước hết tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung các mẫu biểu có liên quan đến công tác chi trả, đến việc thanh, quyết toán của các đại lý chi trả với cơ quan BHXH, tạo điều kiện để các đại lý chi trả dễ thực hiện nhưng đồng thời vẫn đảm bảo yêu cầu quản lý của ngành.
- Chính sách BHXH phải có những thay đổi cho phù hợp với tình hình hiện nay:
+ Đối với chế độ trợ cấp ốm đau:
Nên chăng, ngành BHXH cần quy định chặt chẽ về thời hạn giải quyết trợ cấp ốm đau, đối với các đơn vị sử dụng lao động và người lao động phải được giải quyết dứt điểm trong tháng hoặc trong quý: quy định thời gian tối thiểu đóng BHXH trước khi được hưởng; thời hạn tối đa là 12 tháng hoặc 24 tháng được hưởng trợ cấp cho chế độ trợ cấp ốm đau dài ngày, không thể quy định như hiện nay. Sau điều trị, nếu chưa đủ điều kiện hưởng hưu, nên có chế độ trợ cấp tàn phế cho những người mất sức lao động từ 81% trở lên, mức trợ cấp tính theo lương tối thiểu và cao hay thấp tuỳ thuộc vào số năm đóng BHXH nhiều hay ít. Chế độ trợ cấp nghỉ thực hiện biện pháp dân số kế hoạch hoá gia đình nên chuyển sang cho chế độ trợ cấp thai sản quản lý.
Ngoài ra, nên quy định rõ tối đa số lần được nghỉ ốm.
+ Đối với chế độ thai sản: Chế độ thai sản nên quy định thời gian dự bị (thời gian đóng BHXH trước khi hưởng chế độ nghỉ đẻ). Người lao động chỉ được hưởng trợ cấp thai sản khi đã đóng BHXH từ 12 tháng trở lên. Việc quy định thời gian nghỉ từ 4-6 tháng phụ thuộc vào điều kiện làm việc nặng nhọc hay bình thường là không phù hợp với nguyên tắc đóng- hưởng.
+ Đối với chế độ TNLĐ- BNN: Cần bổ sung điều kiện về thời gian tham gia BHXH ít nhất là 6 tháng trước khi xảy ra tai nạn mới được hưởng trợ cấp tai nạn lao động. Trong khoảng 6 tháng này, nếu xảy ra tai nạn lao động thì chủ lao động phải chịu toàn bộ chi phí điều trị và phải trả trợ cấp tai nạn lao động cho người lao động. Có như vậy mới ràng buộc người sử dụng lao động trong việc sắp xếp, bố trí công việc cho người lao động mới vào làm việc một cách phù hợp và thực hiện tốt công tác huấn luyện an toàn vệ sinh lao động. Đồng thời nên loại bỏ quy định khi bị tai nạn lao động trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc được xác định là tai nạn lao động nhằm loại bỏ kẽ hở dễ lợi dụng: cố tình nhầm lẫn TNGT với tai nạn lao động vì chế độ BHXH hiện nay không chỉ giới hạn trong cán bộ công chức, viên chức Nhà nước mà đã mở rộng đến người lao động làm việc có tham gia BHXH ở các thành phần kinh tế.
+ Đối với chế độ hưu trí:
Nên chăng:
-) Nâng cao tuổi nghỉ hưu của lao động nữ làm việc trong khối HCSN nhưng trên tinh thần tự nguyện nhằm phát huy hết được khả năng cũng như kinh nghiệm của họ; đối với lao động nữ làm việc trong khối lao động trực tiếp thì có thể giữ nguyên tuổi nghỉ hưu nhưng nếu họ có yêu cầu ở lại khi đến tuổi quy định thì cũng nên xem xét tạo điều kiện cho họ.
-) Tiền lương làm cơ sở đóng BHXH phải căn cứ vào cơ chế tiền lương ở từng khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp liên doanh... để xác định cho hợp lý. Có thể quy định mức sàn đóng và mức trần đóng BHXH cụ thể đối với từng ngành nghề, khu vực, loại hình, đặc điểm, tính chất, công việc để đảm bảo khoảng cách hợp lý với những người hưởng lương hưu.
-) Về cách tính lương hưu nên sửa đổi lại theo hướng tính tiền lương bình quân của cả quãng đời công tác, vừa đảm bảo công bằng giữa đóng BHXH đồng thời đảm bảo an toàn cho quỹ.
+ Đối với chế độ tử tuất: Nên chăng:
-) Quy định tiền trợ cấp tuất theo thứ tự ưu tiên. Như ở các nước trợ cấp tuất danh ưu tiên cho người vợ quá cố và cô nhi là chủ yếu. Nước ta cũng nên xem lại và thực hiện theo hướng như ở nước này sẽ vừa đảm bảo được sự công bằng vừa có ý nghĩa thực tế hơn Khi đã xác định thứ tự ưu tiên thì không nên khống chế số xuất tuất là 4 xuất như hiện nay. Với điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta, tiền lương của người nghỉ hưu còn thấp do đó việc xác định trợ cấp tuất một mặt dựa trên tiền lương hưu, mặt khác cũng nên dựa vào mặt bằng chung để đảm bảo mức sống tối thiểu cho những thân nhân đủ điều kiện hưởng chế độ.
-) Đối với trợ cấp tuất một lần: do trợ cấp tuất một lần mang tính xã hội góp phần giảm mức khó khăn ban đầu khi người nghỉ hưu chết. Vì vậy nó đã thể hiện phần nào tính bồi hoàn khi người hưởng hưu chưa hưởng hết số tiền mình đáng được hưởng. Để đảm bảo hơn tính công bằng trong thụ hưởng, ta có thể tính toán lại số tiền trợ cấp một lần trên cơ sở thời gian đóng BHXH và số thời gian đã hưởng trợ cấp của người nghỉ hưu cho phù hợp hơn.
-) Trong khi chưa có sự thay đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về thủ tục hồ sơ và chứng từ có liên quan đến việc thanh toán chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt nam và các tỉnh, thành phố phải chủ động làm việc với Bộ Y tế và các sở y tế để có những hướng dẫn và quy định tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động và các đơn vị sử dụng lao động khi thanh toán chế độ ốm đau, thai sản.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục nghiên cứu, cải tiến, tiếp tục hoàn thiện quy định đối với công tác chi trả BHXH theo hướng đơn giản hoá, giảm bớt thủ tục hành chính phiền hà nhưng đảm bảo quản lý có hiệu quả, với mục tiêu phục vụ người lao động tốt hơn.
4. Đẩy mạnh việc cải tiến quy trình và thủ tục chi trả
Đối với việc thành lập đại lý chi trả, BHXH tỉnh, thành phố cần trao đổi để có hợp đồng trực tiếp với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, thay cho việc lý hợp đồng với các cá nhân được chính quyền địa phương giới thiệu như hiện nay, sau đó tuỳ thuộc vào đối tượng hưởng BHXH có ở xã, phường, thị trấn vào sự thảo thuận với cơ quan BHXH, Uỷ ban nhân dân sẽ lựa chọn người và ký với họ để thành lập đại lý chi trả.
- Trong 2 chế độ ốm đau, thai sản cần hạn chế đến mức thấp nhất việc chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho đơn vị sử dụng lao động, nên chi trả bằng hình thức chuyển khoản thông qua tài khoản của đơn vị để đảm bảo nguyên tắc quản lý tài chính cũng như số tiền chi trả đến được đúng đối tượng.
- Danh sách chi trả nhất thiết phải được in và chuyển từ BHXH tỉnh, thành phố xuống BHXH các quận huyện, thị xã, sau khi đã điều chỉnh sự tăng giảm đối tượng thông qua khâu xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH của cơ quan BHXH, qua việc cắt giảm đối tượng đã hết thời hạn hưởng và qua tình hình giảm đối tượng của các đại lý chi trả. Tránh hiện tượng danh sách chi trả được lập từ xã lên.
5. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền.
Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển ngành BHXH từ nay đến năm 2010 nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng, phải đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền rộng rãi đến mọi người lao động, các Ngành, các cấp.
* Nội dung tuyên truyền: Cần tuyên truyền các nội dung chính sau đây:
- Tuyên truyền mục đích của BHXH, sự khác nhau giữa BHXH với bảo hiểm thương mại (BHTM). BHTM lấy lợi nhuận làm mục đích cho các hoạt động của mình, còn hoạt động BHXH là những hoạt động không phải vì mục đích lợi nhuận mà vì sự an toàn, an sinh con người, vì con người, đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong suốt cuộc đời con người: từ khi còn trong bụng mẹ, đến khi về già.
- Tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH. Đây là nội dung tuyên truyền rất quan trọng, làm cho người lao động hiểu rõ chế độ chính sách BHXH, từ đó họ tự giác tham gia BHXH, vì họ hiểu rõ trách nhiệm và quyền lợi của mình trong việc tham gia BHXH.
- Thông tin tuyên truyền về các hoạt động BHXH Việt nam, kinh nghiệm hoạt động BHXH của nước ngoài.
* Biện pháp tuyên truyền:
- Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng ở TW và địa phương như: Đài truyền hình TW, Báo Nhân dân, Báo Quân đội nhân dân, các báo ngành và các cơ quan thông tin, báo chí ở địa phương.
- BHXH phát hành các tài liệu tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH như: in sách giới thiệu về BHXH, in tờ gấp, khẩu hiệu, áp phích...
- Tuyên truyền trên tờ Tạp chí BHXH phát hành hàng tháng.
Muốn thực hiện tốt công tác tuyên truyền cần các điều kiện sau:
- Phải đảm bảo kinh phí cho hoạt động thông tin tuyền truyền.
- Đầu tư cán bộ có trình độ hiểu biết về BHXH chuyên trách làm công tác tuyên truyền từ TW đến cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
- Đầu tư đầy đủ phương tiện làm việc để bảo đảm cho hoạt động thông tin, tuyên truyền.
6. Đầu tư phương tiện tin học, nối mạng trong toàn ngành BHXH để quản lý các hoạt động BHXH.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị, dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất; Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự kiểm soát và tính toán khoa học khi lưu trữ, xây dựng được sự tin cậy đối với các đối tượng tham gia quan hệ BHXH... từ đó nâng cao chất lượng phục vụ.
Đối với việc quản lý hồ sơ đối tượng BHXH, được quản lý, lưu trữ chi tiết các tiêu thức theo hồ sơ gốc của hàng triệu đối tượng trong toàn quốc, sẽ tạo tiền đề cho việc quản lý thống nhất trong toàn hệ thống. Số liệu có tính nhất quán và chính xác cao do được áp dụng thống nhất phương pháp tính toán ở tất cả các đơn vị. Phát hiện nhanh chóng các sai sót trong tính toán mức hưởng đối với các hồ sơ cũ. Quản lý chặt chẽ biến động, giúp loại trừ khả năng giả mạo hồ sơ và kê khống đối tượng hưởng. Cung cấp thông tin nhanh chóng cho yêu cầu quản lý.
Đưa công nghệ thông tin vào quản lý tài chính quỹ BHXH từ các khâu: kế hoạch, thực hiện thanh quyết toán thu- chi, hệ thống sổ sách biểu mẫu kế toán, thống kê phân tích tài chính và dự báo xu thế... sẽ tiết kiệm thời gian, công sức tiền bạc và số người tham gia làm công tác quản lý tài chính, giúp các đơn vị thấy rõ tình hình tài chính ở nhiều góc độ khác nhau.
Đối với công tác chi trả BHXH, việc áp dụng công nghệ quản lý bằng máy vi tính sẽ góp phần quan trọng vào mục đích nâng cao hiệu quả quản lý.
Rõ ràng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH nói chung và công tác chi trả BHXH nói riêng là một hướng phát triển tất yếu, đã và sẽ đem lại hiệu quả rất cao.
Để ngày càng ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào nghiệp vụ quản lý BHXH, cần coi trọng hơn nữa quan hệ giữa các yếu tố cần thống nhất trong nghiệp vụ thu- chi, kế toán, chế độ chính sách. Từ đó cùng với những đổi mới về kỹ thuật, công nghệ xây dựng được hệ thống xử lý số liệu BHXH có chất lượng và hiệu quả. Muốn vậy, phải có sự phối hợp đồng bộ từ TW đến địa phương, giữa các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố với nhau. Để có một mạng máy tính mạnh cho hệ thống BHXH, chúng ta phải mạnh dạn ứng dụng kỹ thuật hiện đại bằng việc quan tâm đầu tư, trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho toàn hệ thống, đào tạo đội ngũ đáp ứng yêu cầu. Điều quan trọng và cần làm trước hết là xây dựng cho được hệ thống các tiêu chuẩn trong các nghiệp vụ BHXH. Chẳng hạn: chuẩn hoá các mã quản lý, danh mục các báo biểu, các chỉ tiêu thống kê và phương pháp tính... Ngoài ra, còn phải đầu tư cho các phần mềm đáp ứng nhu cầu tự động hoá cao có khả năng thích ứng với sự thay đổi về chế độ chính sách.
7. Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH
Như chúng ta đã biết, thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ sẽ là nhân tố thúc đẩy hiệu quả thu, ngược lại, công tác thu thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chi trả. Như vậy tất yếu đặt ra vấn đề: Bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH, bởi vì quỹ BHXH tăng trưởng thì công tác chi trả cho các chế độ mới được thuận lợi và đảm bảo.
Để tăng nguồn thu cho quỹ BHXH cần có những biện pháp sau đây:
* Mở rộng đối tượng tham gia
Đối tượng tham gia BHXH là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc đảm bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Hầu hết các nước trên thế giới đều quan tâm đến các giải pháp tăng số lượng người tham gia.
- Mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc: Chẳng hạn các doanh nghiệp sử dụng từ 5 lao động trở lên.
- Thực hiện BHXH tự nguyện.
Trong tương lai tiến tới thực hiện BHXH toàn dân để mọi người không còn lo lắng, yên tâm làm việc hơn vì đã có chính sách BHXH quan tâm.
* Tiếp tục lấy nguyên tắc hạch toán cân đối thu chi quỹ làm căn bản trong trong chính sách BHXH. Trên cơ sơ nguyên tắc này, cần xác định mức đóng và mức trợ cấp hợp lý theo từng thời kỳ phù hợp với sự biến động của giá cả, khả năng đầu tư tăng trưởng nguồn quỹ.
* Đầu tư nguồn quỹ nhàn rỗi
Với mục tiêu hoạt động của BHXH là tự cân đối thu- chi, do đó quỹ BHXH luôn phải có một lượng tiền tích luỹ để chi các chế độ trợ cấp dài hạn như: hưu trí, tử tuất, thương tật. Lượng tiền tích luỹ này phải được hoạt động đầu tư để bảo tồn giá trị và tăng trưởng. Quỹ BHXH nhằm để đảm bảo chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng, nó liên quan đến lợi ích của rất nhiều người. Vì vậy, đầu tư quỹ BHXH có những đặc điểm và nguyên tắc nhất định đó là: Tính hiệu quả; độ an toàn cao; khả năng thanh toán và có lợi ích cho xã hội. Hiệu quả của đầu tư (lãi đầu tư) là sự tăng lên toàn bộ giá trị đầu tư được tính trong một giai đoạn nhất định (thường là 1 năm). Lãi đầu tư làm tăng thu cho quỹ BHXH đồng thời cho phép hạ tỷ lệ đóng góp hoặc không làm tăng tỷ lệ đóng góp BHXH.
Để đảm bảo an toàn cho quỹ BHXH thì phải lựa chọn cách đầu tư và lĩnh vực đầu tư để giảm thiểu rủi ro. Quỹ BHXH phải chi thường xuyên, nhất là chi trả các trợ cấp BHXH dài hạn, do đó, khi đầu tư phải lưu ý khả năng có thể rút được tiền ngay, đặc biệt là tiền mặt. Điều này đòi hỏi các nhà đầu tư bảo hiểm phải cân nhắc lĩnh vực đầu tư không nhất thiết phải là lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao nhất nhưng rủi ro lớn hoặc lĩnh vực có nhiều lợi nhuận nhưng vốn lại bị “ găm” lâu như bất động sản.
ở Việt nam, do tình hình kinh tế chưa phát triển, các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn và môi trường cạnh tranh còn nhiều bất cập, nên trước mắt chỉ nên đầu tư vào lĩnh vực mua trái phiếu và bất động sản. Khi thị trường chứng khoán ổn định thì có thể tham gia nhưng phải có sự bảo lãnh đặc biệt. Ngoài ra, quỹ BHXH có thể liên doanh với một số công ty mạnh đầu tư vào lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng.
8. Tăng cường giám sát hoạt động công đoàn cơ sở trong thực hiện chính sách BHXH.
Đây cũng là một nhiệm vụ rất cần thiết để thực hiện tôt công tác chi trả BHXH. Bởi vì , hiện nay, trong công tác chi trả BHXH còn rất nhiều khe hở có thể lợi dụng.
Biện pháp:
Công đoàn tổ chức kiểm tra, giám sát hoặc phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước để thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong việc thực hiện đóng đầy đủ, đúng kỳ tiền BHXH cho cơ quan BHXH theo quy định và đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và cung cấp đầy đủ hồ sơ, tư liệu cần thiết làm cơ sở cho việc thực hiện các ché độ BHXH.
- Giám sát hoạt động BHXH các cáp trong việc chi trả các chế độ BHXH, bảo đảm đầy đủ, kịp thời và thuận tiện.
- Xây dựng chương trình phối hợp giữa công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn và BHXH các cấp để thực hiện tốt nội dung giám sát của công đoàn đối với hoạt động của BHXH.
- Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan quản lý Nhà nước và BHXH các cấp giải quyết những vướng mắc, khiếu nại của người lao động về chế độ chính sách BHXH.
9. Đầu tư cho phương tiện đi lại và công tác đảm bảo an toàn tiền mặt trong quá trình chi trả
Đây là một tồn tại mà cho đến nay về cơ bản cơ quan BHXH vẫn chưa khắc phục được, trong khi đó hàng tháng các tỉnh và thành phố vẫn phải đảm bảo chi trả an toàn gần 500 tỷ đồng tiền mặt. Trừ một số tỉnh, thành phố lớn có điều kiện giao thông đi lại thuận tiện thì phương tiện vận chuyển tiền từ Kho bạc và Ngân hàng xuống các đại lý chi trả chủ yếu dùng ôtô, các tỉnh còn lại, phương tiện vận chuyển chủ yếu là bằng xe máy và xe đạp. Ngoài ra ở các xã, phường nếu không chi hết tiền trong ngày, cũng không có két bạc chuyên dùng để bảo vệ tiền mặt đến ngày chi trả sau.
Tồn tại trên nếu không sớm được khắc phục, sẽ là một trong những nguyên nhân làm mất hoăc thất thoát tiền của đối tượng trong quá trình chi trả.
10. Có kế hoạch hợp tác với các ngành, các cấp trong việc tổ chức thực hiện.
ở TW: BHXH VN phải kết hợp chặt chẽ với các ngành đặc biệt là các ngành: Tài chính, Lao động- Thương binh- Xã hội, Liên đoàn Lao động VN. Tranh thủ sự chỉ đạo của lãnh đạo các bộ, các ngành trong việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH.
ở địa phương: BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc TW phải tranh thủ lãnh đạo và chỉ đạo các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, hợp đồng kết hợp chặt với các ngành trong địa phương. Sự kết hợp với các ngành trong công tác tổ chức thực hiện các hoạt động BHXH phải được xây dựng thành kế hoạt hàng năm để chủ động trong sự phối kết hợp.
11. Hoàn thiện công tác cấp sổ BHXH.
Mục đích của công tác cấp sổ BHXH nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng BHXH giúp cho người lao động có cơ sở pháp lý kiểm tra giám sát kết quả đóng và thực hiện các chế độ BHXH của người sử dụng lao động. Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo sự công bằng cho người lao động khi chuyển nơi làm việc vẫn duy trì được quyền lợi BHXH... Ngoài ra, sổ BHXH còn là cơ sở giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH.
Yêu cầu:
Việc cấp sổ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Tính trung thực trong việc kê khai thời gian làm việc, thời gian đóng BHXH.
- Việc cấp sổ BHXH phải được thực hiện tại đơn vị cơ sở.
- Phải được ghi chép chính xác, đầy đủ theo hồ sơ gốc của mỗi người đã xác định trong tờ khai cấp sổ BHXH.
- Trong sổ không được tẩy, xoá và sửa chữa tuỳ tiện, không được sử dụng sai mục đích.
Trên đây là một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng trong tương lai gần, công tác chi trả BHXH nói riêng và của ngành BHXH nói chung phát triển hơn nữa đáp ứng được nhu cầu của người tham gia BHXH, tạo được sự tin cậy của người lao động vào chính sách BHXH.
kết luận
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước , chi trả trợ cấp BHXH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan BHXH và của cơ quan quản lý tài chính nhà nước . Việc chi trả trợ cấp BHXH có kịp thời, đầy đủ và chính xác cho đối tượng hưởng BHXH hay không, có đáp ứng được nhu cầu phục vụ ngày càng cao của đối tượng hưởng BHXH hay không, có phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn của từng địa phương, đơn vị hay không là những vấn đề luôn được các cấp, các ngành cũng như người lao động và người sử dụng lao động quan tâm.
Để giải quyết tốt vấn đề đó cần phải đưa ra các giải pháp hữu hiệu phù hợp cả về lý luận và thực tiễn, có tính khả thi trong điều kiện cho phép.
Xuất phát từ thực tiễn hoạt động và qua quá trình nghiên cứu luận văn em xin được nêu ra một số biện pháp nhằm đảm bảo thực công tác chi trả các chế độ BHXH. Hy vọng rằng đây sẽ là những giải pháp có hiệu quả thiết thực trong thời gian tới. Song, muốn thực hiện tốt các biện pháp đã nêu trên thì ngoài sự nỗ lực của riêng ngành BHXH còn phải có sự hỗ trợ của các ngành, các cấp có liên quan, đặc biệt là có được cơ chế quản lý và hệ thống chế độ, chính sách đồng bộ. Đó sẽ là tiền đề cho việc thực hiện tốt công tác chi trả BHXH nói riêng và hoạt động của ngành BHXH nói chung. Từ đó, phát huy hơn nữa mục đích cao đẹp của BHXH: vì dân sinh hạnh phúc, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Qua thời gian học tập tại trường học viện tài chính và thực tập tại Vụ Hành chính sự nghiệp thuộc Bộ Tài chính em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo: LAN cô Chu Thị Hoát, chú Vũ Văn Thao ,chị Hiền cùng toàn thể cán bộ trong Vụ Hành chính sự nghiệp đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Tuy nhiên với trình độ có hạn, mặc dù bản thân em đã có nhiều cố gắng nhưng chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy cô trong khoa và các cán bộ trong Vụ Hành chính sự nghiệp thông cảm và chỉ bảo để em có thể hiểu hơn nữa về vấn đề này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33894.doc