Chuyên đề Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu bảo hiểm xã hội ở Bảo hiểm xã hội Quận Ba Đình

Cần áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ tin học vào trong quản lý nghiệp vụ sự nghiệp BHXH như : Quản lý đối tượng tham gia và hưởng BHXH, quản lý thu chi BHXH, quản lý tài chính thống kê kế toán BHXH . Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động thu BHXH ở BHXH quận Ba Đình . Mặc dù các biện pháp chưa phải là tối ưu nhất nhưng em mong rằng sẽ đóng góp được một phần nào đó trong quá trình thu BHXH những năm tới .

doc68 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu bảo hiểm xã hội ở Bảo hiểm xã hội Quận Ba Đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị lao động thực trả cho người lao động nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Mức quy định rõ ràng như sau : + Đối với người sử dụng lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu 15% quỹ tiền lương của người lao động tham gia BHXH. + Đối với người lao động góp 5% lương tháng của mình. + Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết. Căn cứ vào các quy định trên BHXH đã tiến hành thu quỹ BHXH trên cơ sở quỹ tiền lương của đơn vị tham gia. Đây là công việc cơ quan đặt lên hàng đầu tập trung làm việc để hoàn thành kế hoặch. Cụ thể được thể hiện như sau : Bảng 4 : Kết quả thu BHXH 1997 – 2002 Năm Số tiền thu (Triệu đồng) Lượng tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (Triệu đồng) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (%) 1997 33 672 - - 1998 34 646 + 97 1,02 1999 35 870 + 1 224 1,03 2000 48 148 +12 278 1,34 2001 59 055 +10 907 1,22 2002 65 096 + 6 041 1,10 (Nguồn BHXH Ba Đình) Theo bảng 4: Năm 1997 số tiền BHXH thu được là 33.672 triệu đồng nhưng đến năm 2002 số tiền thu quỹ BHXH tăng lên gấp đôi đến 65.096 triệu đồng. Mức tăng được thể hiện tăng dần qua các năm đặc biệt tăng mạnh vào năm 2000 với lượng tăng là 12.278 triệu đồng và tốc độ tăng của năm 2000 so với năm 1999 là 1,34% đây là tốc độ tăng mạnh nhất trong 6 năm. Đạt được thành tích trên là do những nguyên nhân sau: Công tác thu BHXH là một công việc hết sức mới mẻ của ngành BHXH nói chung, của BHXH Ba Đình nói riêng. Nhưng do nhận thức đúng đắn về công tác thu BHXH nên ngay từ đầu khi mới thành lập BHXH quận Ba Đình được sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH Thành phố Hà Nội, BHXH Ba Đình đã tổ chức triển khai thực hiện bắt đầu từ việc hướng dẫn các cơ quan đơn vị đóng trên địa bàn quận, lập danh sách lao động đăng ký đóng BHXH theo diện bắt buộc, thực hiện thu BHXH theo đúng quy định. Hàng tháng, người sử dụng lao động có trách nhiệm nộp cùng lúc 20% vào quỹ BHXH. Các cán bộ được phân công theo dõi đóng BHXH của từng đơn vị và đến từng người lao động. Thực hiện rà soát kỹ lưỡng danh sách lao động và tiền lương biến động từ khi mới thành lập đến nay để làm cơ sở thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động theo đúng quy định của pháp luật, lập một hệ thống danh sách hoàn chỉnh và chính xác nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động. Như phần trên đã nói tiền lương đóng BHXH tăng hay giảm là phụ thuộc vào quỹ lương của đơn vị tham gia. Quỹ lương tăng tiền đóng BHXH của đơn vị đó cũng tăng theo. Trong 7 năm qua do đối tượng tham gia BHXH quận Ba Đình được mở rộng nên quỹ lương đã tăng dần theo từng năm như sau: Bảng 5: Số quỹ lương và số thu BHXH năm 1997 tt Khối đơn vị Số đơn vị Số lao động (người) Quỹ tiền lương (đồng) Số tiền BHXH phải thu ( đồng) 1 DN trung ương 98 12 922 50.386.645.070 11.647.124.136 2 DN thành phố 32 7 247 27.011.114.888 5.937.653.966 3 DN quận 5 433 1.537119.120 437.467.739 4 HCSN trung ương 130 10 309 57.932.548.595 11.646.231.459 5 HCSN thành phố 20 2 035 9.959.060.054 1.984.617.506 6 HCSN quận 52 2 582 10.781.826.124 2.018.835.394 7 Khối ngoài QD 0 0 0 0 8 Khối ngoài công lập 0 0 0 0 Cộng 337 35 528 157.590.313.840 33.671.948.350 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Ba Đình) Bảng 6: Số quỹ lương và số thu BHXH năm 2002 TT Khối đơn vị Số đơn vị Số lao động (người) Quỹ tiền lương (đồng) Số tiền quỹ BHXH phải thu (đồng) 1 DN trung ương 126 17 142 97.339.434.490 20.542.201.267 2 DN thành phố 33 8 566 47.117.474.220 12.054.601.480 3 DN quận 5 286 1.720.032.300 344.356.720 4 HCSN trung ương 185 12 936 100.233.935.894 20.567.147.109 5 HCSN thành phố 25 2 206 15.272.563.145 3.057.305.977 6 HCSN quận 93 3 164 20.5660178.118 4.176.283.622 7 Khối xã phường 12 66 251.377.936 49.476.239 8 Khối ngoài QD 135 3 055 17.819.536.389 4.079.092.074 9 Khối ngoài công lập 7 151 621.887.950 134.852.680 Cộng 621 47 329 301.002.420.442 65.095.299.168 (Nguồn: Bảo hiểm xã hội Ba Đình) Nhìn vào số liệu của Bảng 5 và Bảng 6 ta thấy số đơn vị tham gia BHXH sau 6 năm tăng như sau: Số đơn vị tăng: 284 đơn vị Số người tham gia BHXH tăng:12.071 người Quỹ tiền lương tăng: 143.412.106.602 đồng Số tiền thu BHXH tăng: 31.387.280.818 đồng Như vậy thì số đơn vị tham gia đóng BHXH tại thời điểm tháng 12/2002 tăng gần gấp 2 lần so với năm 1997, quỹ tiền lương và số tiền BHXH phải thu cũng đồng thời tăng gần gấp đôi. Nguyên nhân tăng số thu BHXH là do số đơn vị tham gia tăng. Theo bảng 5 năm 1997 số đơn vị ngoài quốc doanh và ngoài công lập không có đơn vị nào tham gia. Nhưng đến năm 2002 thì đã có 135 đơn vị ngoài quốc doanh và 7 đơn vị ngoài công lập tham gia đóng góp BHXH. Do vậy quỹ tiền lương mới tăng lên tỷ lệ thuận với nhau. Nhưng phần tăng này chỉ là số ít, bởi vì tuy số đơn vị tham gia tăng gần gấp đôi nhưng số đối tượng lao động tham gia BHXH chỉ tăng 1/3 so với năm 1997. Nguyên nhân chính làm tăng quỹ lương hàng năm là do Nhà nước đIều chỉnh mức lương tối thiểu tăng dần qua các năm. Cụ thể như sau: Mức 120.000 đồng áp dụng từ tháng 1/1994 đến tháng12/1996 Mức 144.000 đồng áp dụng từ tháng1/1997 đến tháng12/1999 Mức 180.000 đồng áp dụng từ tháng1/2000 đến tháng12/2000 Mức 210.000 đồng áp dụng từ tháng1/2001 đến tháng12/2002 Mức 290.000 đồng áp dụng từ tháng1/2003 đến nay. Vì vậy nếu giữ nguyên mức lương tối thiểu năm 1997 là 140.000 đồng thì quỹ lương toàn quận lúc này là 288.472.620.341 đồng. Trong bảng 6 thì năm 2002 tổng quỹ lương toàn quận là 301.002.420.442 đồng tăng so với mức lương tối thiểu cũ là73.529.800.101 đồng làm cho tổng thu quỹ BHXH tăng. Nhiệm vụ năm 2001 đặt ra cho năm 2002 là thu đạt 62,5 tỷ đồng và thực tế cuối năm 2002 thu đạt được là 65. 095.299.168 đồng hoàn thành 104% kế hoạch, duy trì tốt công tác chi trả đảm bảo an toàn tuyệt đối. Cụ thể như sau: Bảng 7: Chỉ tiêu BHXH Ba Đình và BHXH thành phố Hà Nội Năm 2002 TT Các chỉ tiêu BHXH Thành phố BHXH Ba Đình 1 Số đơn vị đăng ký đóng BHXH 5 989 612 2 Số lao động ( người) 562 411 47 329 3 Số tiền BHXH phải thu năm 2002 (tỷ đồng) 768 62,5 4 Số tiền BHXH đã thu năm 2002 ( tỷ đồng) 795,8 65,1 5 Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch (%) 103,6 104 (Nguồn BHXH Ba Đình) Căn cứ vào bảng 7, thành phố Hà Nội nếu chia đều số đơn vị, số lượng lao động, số tiền toàn thành phố cho 12 quận, huyện ta thấy như sau : Số đơn vị bình quân một quận huyện quản lý : 499 đơn vị Số lao động bình quân một quận huyện quản lý : 46.867 người Số tiền phải thu bình quân một quận, huyện : 64 tỷ đồng Như vậy nếu so sánh chỉ tiêu số tiền phải thu BHXH ở mức bình quân đầu người quận huyện thì BHXH Ba Đình phải thu tăng gấp 1,1 lần . Đạt được những kết quả như vậy là do những cố gắng chủ yếu sau : - Công tác quản lý thu đã từng bước đi vào nề nếp ổn định. Công tác thu BHXH ở các quận ngày một hoàn thiện hơn. - Trình độ cán bộ viên chức của cơ quan được nâng cao không ngừng hoàn thiện làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình vì sự nghiệp chung vì người lao động. - Với một số lớn đối tượng tham gia và tiền thu BHXH đã từng bước áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thu BHXH. - Tiến hành phân loại các đối tượng lao động và các khoản tiền lương phụ cấp và tổ chức việc thu BHXH theo đúng chính sách. -Trong quá trình thực hiện đối chiếu, đôn đốc tiến độ nộp BHXH Ba Đình đã thực hiện đầy đủ, kip thời xử lí tình trạng nộp chậm, bằng nhiều biện pháp có hiệu quả như: + Cử các cán bộ trực tiếp xuống các đơn vị cơ sở để kiểm tra thúc giục các chủ sử dụng lao động thực hiện nghĩa vụ của người tham gia + Tăng cường việc rà soát số lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc theo luật định. + Xử lý kịp thời những vi phạm vừa có tác dụng quảng cáo những trường hợp tương tự nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu. + Thường xuyên đôn đốc đối chiếu số thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đồng thời phối hợp chặt chẽ với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện công tác thu BHXH tại địa bàn quận. + Tổ chức chương trình tập huấn hội thảo về thu BHXH. + Thông qua trực tiếp các cán bộ thu BHXH thường xuyên cử họ đến các cơ quan đơn vị, doanh nghiệp để hướng dẫn, giải thích chính sách đôn đốc kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH. + Các cán bộ lãnh đạo đôn đốc kiểm tra đối chiếu thường xuyên để thu đúng thu đủ kịp thời số tiền BHXH phát sinh theo quỹ lương hàng tháng, hàng năm. + Kết hợp công tác thu với giải quyết các chế độ chính sách phù hợp và chặt chẽ. Thời gian và phương thức đóng BHXH Thời gian và phương thức đóng BHXH là một trong những yếu tố cần thiết giúp cho công tác thu BHXH nhanh và gọn hơn. Theo quy định ngay sau khi ngày trả lương tháng, nếu trả lương tháng 2 kỳ thì đóng BHXH vào sau ngày trả lương kỳ 2 trong tháng. Nếu đóng chậm tháng nào phải nộp lãi suất tiền gửi Ngân hàng ở thời điểm nộp chậm (Quy định thông tư 58/TC-HCSN ngày 24-5-1995 của Bộ Tài Chính). Phương thức đóng BHXH là các đơn vị tham gia không trực tiếp nộp bằng tiền mặt mà thanh toán bằng chuyển khoản qua Ngân hàng hoặc Kho bạc. Vì vậy buộc các đơn vị tham gia BHXH phải mở tài khoản ở Ngân hàng hoặc kho bạc ở địa bàn thành phố. Hàng tháng, đến thời điểm nộp BHXH các cán bộ BHXH Ba Đình nhắc nhở các đơn vị tham gia BHXH nộp, các đơn vị này sẽ làm việc với các Ngân hàng, kho bạc mà có tài khoản của mình biết tiếp theo Ngân hàng, Kho bạc thành phố sẽ báo cho BHXH cấp quận là đơn vị đó đã nộp tiền. Vì vậy BHXH các cấp được yêu cầu Ngân Hàng, Kho bạc trích tiền từ tài khoản của đơn vị sử dụng lao động để nộp tiền BHXH và tiền phạt chậm BHXH( nều có) mà không cần có sự chấp nhận thanh toán của đơn vị sử dụng lao động. Do có sự liên hệ chặt chẽ giữa 3 bên này mà BHXH quận Ba Đình luôn dẫn đầu trong công tác thu quỹ BHXH so với các quận khác. Mức thu BHXH qua từng chế độ giai đoạn 1997- 2002 3.1. Tình hình thu quỹ BHXH ngắn hạn 1997 –2002 ( Bao gồm các chế độ : ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp ) Chế độ ốm đau : Chế độ này giúp cho người lao động có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc do ốm đau . Việc thực hiện chế độ này như hiện hành đã tránh được những hiện tượng lạm dụng và bình quân hoấ trong khi xét trợ cấp . Đảm bảo công bằng giữa đóng hưởng BHXH đồng thời có tính đến các yếu tố san sẻ cộng đồng giữa những người tham gia BHXH . Chế độ thai sản : Chế độ này giúp cho lao động nữ có được trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc được vì sinh con . Hơn nữa việc quy định thời gian nghỉ đã tính đến yếu tố điều kiện và môi trường lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao động khác nhau . Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp : Thực tiễn triển khai chế độ này ở nước ta trong những năm vừa qua đã góp phần không nhỏ đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp . Đồng thời chế độ này còn quy định rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với các trường hợp xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp . Ba chế độ này để hình thành nên nguồn quỹ bảo hiểm đều là do người sử dụng lao động đóng góp . Sở dĩ như vậy là vì : - Những rủi ro xảy ra đối với người lao động hoàn toàn ngoài sự mong muốn của họ và phần lớn là mang tính khách quan vì lao động cho họ mà người lao động mới gặp rủi ro . - Hầu hết các rủi ro đều liên quan đến môi trường sản xuất kinh doanh trang thiết bị bảo hộ lao động, vệ sinh …đến máy móc thiết bị nhà xưởng công cụ lao động . - Thời gian làm việc dài hay ngắn, cao hay thấp hoàn toàn do người sử dụng lao động quy định . Nguồn quỹ dành cho 3 chế độ này là 5% trong 15% đóng góp của người sử dụng lao động được chi trả trong cả quá trình lao động . Vì vậy nguồn quỹ này có thể cân đối thu chi hàng năm . Cụ thể được thể hiện như sau : Bảng 8 Tình hình thu quỹ BHXH ngắn hạn 1997- 2002 ( Chế độ ốmđau, thai sản, tai nạn lao động – Bệnh nghề nghiệp ) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Thu (Tỷ đồng ) 1,567 1,632 1,794 2,430 2,953 3,125 ( Nguồn BHXH Ba Đình ) Trong nguồn quỹ BHXH Ba Đình không phân rõ mức thu quỹ BHXH ngắn hạn nhưng dành ra 5% trong 15% phần đóng góp của người sử dụng lao động để chi trả cho các chế độ ngắn hạn ( ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ) . Vì vậy số thu quỹ BHXH hàng năm tăng theo thu quỹ BHXH cụ thể là : Năm 1997 múc thu là 1,567 tỷ đồng đến năm 2002 mức thu đạt là :3,125 tỷ đồng tăng 1,358 tỷ đồng so với năm 1997 . Việc chi trả các chế độ này được thực hiện theo nguyên tắc có đóng có hưởng, đóng đến đâu hưởng đến đó . 3.2 Tình hình thu quỹ BHXH dài hạn 1997 -2002 ( Chế độ hưu trí và tử tuất ) Chế độ hưu trí : Đây là chế độ cơ bản nhất của Việt Nam . Mục đích chi chế độ này là bảo đảm cuộc sống của người lao động khi về già mất nguồn thu nhập . Trách nhiệm đóng Bảo hiểm hưu trí phụ thuộc cả về người lao động và người sử dụng lao động . Sở dĩ như vậy là vì : - Người lao động khi còn trẻ tuổi đang trong quá trình lao động chính họ là người tạo ra lợi nhuận cho các doanh nghiệp cho nên các doanh nghiệp phải có trách nhiệm với họ khi họ hết tuổi lao động để họ tiếp tục và duy trì cuộc sống . - Người lao động phải đóng góp vì người lao động cũng có những giai đoạn già và chết . Cho nên bản thân anh ta phải đóng góp và như vậy họ đã đóng góp cho chính mình . - Các thế hệ già trẻ luôn kế tiếp nhau cho nên việc quy định cả hai bên đóng góp thực chất mang tính luân hồi luân chuyển từ chế độ này sang chế độ khác . b. Chế độ tử tuất : Là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất . Chế độ này giúp cho người lao động tham gia BHXH chết được nhận tiền mai táng phí bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu và thân nhân người lao động có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chết . Khi xây dựng chế độ này đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết . Cả hai chế độ này đều được thực hiện ngoài quá trình lao động quan hệ phân phối mang tính chất hoàn trả, lợi ích hưởng thụ tương ứng với nghĩa vụ đóng góp .Cũng như các chế độ ngắn hạn nguồn quỹ BHXH Ba Đình cũng không thu riêng quỹ của 2 chế độ này mà nguồn thu để cơ cấu nên quỹ BHXH của 2 chế độ này là 15% trong đó người lao động góp 5% và người sử dụng lao động góp 10% cụ thể như sau : Bảng 9 : Tình hình thu quỹ BHXH dài hạn 1997 - 2002 ( Chế độ hưu trí và tử tuất ) Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Thu ( tỷ đồng) 29,790 31,013 34,076 45,727 56,102 59,375 ( Nguồn BHXH Ba Đình ) Qua bảng trên ta thấy mức thu để dành cho 2 chế độ này quá bé so với số tiền chi ra, bởi số người đươch hưởng của 2 chế độ này khá đông . Nhưng việc chi trả BHXH hàng tháng vẫn được đảm bảo an toàn tuyệt đối đúng kỳ, đủ số, đúng chế độ chính sách, đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước . Cụ thể chi cho 2 chế độ này được thể hiện cụ thể như sau : Bảng 10 : Tình hình chi quỹ BHXH dài hạn 1997 -2002 Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Chi (Tỷ đồng) 76,589 85,254 95,340 116,428 149,367 157,435 ( Nguồn BHXH Ba Đình ) Qua bảng trên ta thấy số chi riêng cho 2 chế độ này qua lớn so với mức chi năm 1997 gấp 2,5 lần, đến năm 2002 mức chi tăng gấp 3,1 lần so với mức thu . Nguyên nhân do số lượng người lao động về hưu ngày càng đông và do sự điều chỉnh mức lương tối thiểu của nhà nước từ năm 1997 là 144.000 đồng năm 2002 là : 210.000 đồng nên mức chi cho chế độ hưu trí cũng tăng theo. Tuy nhiên trong 6 năm qua BHXH Ba Đình không để xảy ra trường hợp nào làm thất thoát, sai phạm trong việc chi trả chế độ BHXH . Uỷ ban nhân dân 12 phường, lãnh đạo các ban ngành của phường cùng với sự cố gắng của đội ngũ cán bộ BHXH quận trong công tác chi trả lương hưu và trợ cấp đã đảm bảo nhanh chóng, thuận lợi, đúng kỳ, đủ số . Tóm lại tình hình thu quỹ BHXH trong 6 năm qua BHXH quận Ba Đình đã đạt được nhiều kết quả được BHXH Thành phố đánh giá là một trong những quận hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Trong suốt 6 năm ban lãnh đạo và các cán bộ BHXH Ba Đình luôn cố gắng, vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ mà BHXH Thành phố giao cho . Số tiền BHXH phải thu luôn nộp đúng thời hạn cho BHXH Thành phố, số đơn vị nợ đọng giảm dần hàng năm . Đồng thời số tiền thu được luôn tăng dần làm cho nguồn quỹ BHXH toàn thành phố tăng góp phần đảm bảo cuộc sống cho người lao động.Thực tế đã chứng minh mức sống của người về hưu ở quận Ba Đình khá cao trung bình 1.100.000 đồng một người chủ yếu là lương các cán bộ của Đảng, Nhà nước và quân đội. Điều này cũng cho thấy mặt bằng đời sống của nhân dân trong quận Ba Đình tương đối ổn định . Bảo hiểm xã hội đã thực hiện thu quỹ BHXH theo đúng nguyên tắc của ngành mình, các cán bộ luôn thực hiện theo đúng nghiệp vụ của mình là : - Lập kế hoạch thu BHXH hàng quý, hàng năm . - Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH và phiếu điều chỉnh mức đóng BHXH hàng tháng . - Kiểm tra phiếu điều chỉnh tăng, giảm hàng tháng bảng đối chiếu kết quả đóng BHXH do đơn vị gửi lên . - Vào sổ theo dõi kết quả thu BHXH đến từng người lao động, từng cơ quan đơn vị hàng tháng . - Thông báo kịp thời đến các đơn vị nợ tiền BHXH - Xác định mức đóng, thời gian đóng BHXH của từng người lao động khi thưch hiện chế độ BHXH hoặc di chuyển nơi làm việc . - Báo cáo kết quả thu BHXH theo quy định của BHXH thành phố Hà Nội. Do làm đúng và tốt các công tác trên nên BHXH Ba Đình luôn luôn đạt được những thành quả đáng ghi nhận đồng thời nguồn quỹ được quản lý thống nhất dân chủ, công khai và được sử dụng theo nguyên tắc cân đối thu chi, an toàn và phát triển thể hiện rõ ràng tính cộng đồng xã hội của chính sách BHXH là có sự chia sẻ rủi ro . Trong các chế độ BHXH ở mức độ khác nhau, chế độ BHXH ngắn hạn (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp) chia sẻ rủi ro nhiều , chế độ hưu trí và tử tuất chia sẻ rủi ro ít . BHXH quận Ba Đình luôn có kế hoạch tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động trong quá trình tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH một cách dễ dàng đầy đủ và thuận lợi . Đạt được kết quả trên là nhờ có sự quan tâm của BHXH Thành phố, ban lãnh đạo BHXH quận Ba Đình chỉ đạo và theo dõi sát xao tình hình thu BHXH từ đó có những biện pháp cụ thể kịp thời trong công tác thu BHXH và sự nhiệt tình trách nhiệm của toàn thể các cán bộ trong cơ quan BHXH Ba Đình . Những tồn tại trong quá trình thu BHXH ở Bảo hiểm xã hội Ba Đình . Tồn tại từ phía người tham gia BHXH Như phần trên đã phân tích quản lý đối tượng tham gia là công việc rất phức tạp .Sở dĩ như vậy là vì đối tượng tham gia BHXH bao gồm cả những người lao động làm việc trong và ngoài quốc doanh. Những đối tượng thuộc dạng tự nguyện cơ qua không quản lý hết được, nhưng đối tượng thuộc diện bắt buộc mặc dù BHXH Ba Đình đã quản lý chặt chẽ nhưng vẫn còn một số đơn vị đối tượng chưa tham gia. Số này phần lớn thuộc các đơn vị, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và khối ngoài công lập . Ba Đình là một quận nằm ở trung tâm thành phố nên tập trung rất nhiều doanh nghiệp, công ty TNHH, công ty liên doanh… các doanh nghiệp công ty này lúc mới thành lập chưa tham gia mua BHXH năm 1997 ( Bảng 5 ) và sau 6 năm mới có 135 đơn vị tham gia ( Bảng 6) . Nguyên nhân là : - Do kẻ hở pháp luật quy định trong Điều 144 khoản 2 của Bộ luật lao động quy định: Đối tượng thu BHXH không áp dụng đối với người lao động hợp đồng dưới 3 tháng . Do vậy một số doanh nghiệp đã lợi dụng kẻ hở này trốn tránh không đóng BHXH cho người lao động bằng cách ký hợp đồng lao động chỉ 3 tháng một. Bởi các chủ sử dụng lao động không muốn mất đi 15% tổng quỹ lương để nộp BHXH cho người lao động cho dù 15% tổng quỹ lương là số tiền đã được hạch toán vào giá thành sản phẩm . Dĩ nhiên nếu không nộp BHXH cho người lao động thì 15% lương ấy xem như là số tiền thu nhập của người sử dụng lao động . Mặt khác đối với các đơn vị ngoài quốc doanh BHXH Ba Đình không có quyền thanh tra hay kiểm tra và sử phạt đối với những đơn vị hoặc cá nhân có hành vi vi phạm về quản lý lao động . Nếu bị phát hiện vi phạm quyền tham giá BHXH của người lao động đơn vị chỉ bị cơ quan có thẩm quyền sử phạt hành chính ở mức rất thấp ( 400.000 đồng) . Do thực trạng công ty “ma” có nhiều ở nước ta nghĩa là doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh nhưng thực tế không hoạt động hoặc hoạt động không có hiệu quả nên BHXH Ba Đình không thu được tiền đóng BHXH của các đơn vị này . Do bản thân người lao động cả trong và ngoài đơn vị ngoài quốc doanh kém hiểu biết về nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH . Vì vậy họ không đề đạt các chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho mình một phần vì họ sợ khi mới tìm việc nên không dám đòi hỏi yêu cầu cho bản thân trong điều kiện sự dư cung quá lớn về lao động , một phần vì một số người vẫn còn nặng nề về nếp sống quan liêu bao cấp muốn hưởng BHXH nhưng không muốn đóng mặc dù số tiền đóng hàng tháng là không lớn . Do việc phối hợp giữa cơ cơ quan nhà nước trong việc triển khai và kiểm tra, giám sát thực hiện chưa đồng bộ và sâu sát, các văn bản nhà nước quy định chế tài còn lỏng lẻo thiếu tính cưỡng chế thiếu tính khả thi . Do điều kiện kinh tế thị trường hiện nay rất nhiều doanh nghiệp mọc lên cạnh tranh với nhau vì vậy việc kinh doanh gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh cũng như tìm được khách hàng ổn định như tình trạng nộp chậm tiền BHXH hàng tháng vẫn còn . Đối với các trường hợp này BHXH quận Ba Đình đã nhiều lần gửi công văn thông báo nợ, cử cán bộ trực tiếp đến đơn vị nhưng vẫn tồn tại . 4.2. Tồn tại từ phía cơ quan . Trong những năm qua BHXH Ba Đình luôn đạt kết quả cao trong công tác thu quỹ BHXH . Tuy nhiên vẫn chưa hoàn thành kế hoạch 100% là do tồn tại một số nguyên nhân chủ quan sau : Do kế hoạch thu BHXH thành phố giao cao hơn so với khả năng thực tế mà BHXH quận Ba Đình có thể đạt được nếu cộng cả số tiền của các đơn vị nợ năm 2001 và các năm trở về trước BHXH Ba Đình phải thu thì phần trăm đạt được chỉ ở mức 99,5% . Ba Đình là một quận tập trung nhiều thành phần kinh tế, nhiều dân cư, ngày càng nhiều các doanh nghiệp tư nhân, công ty thương mại cổ phần ngoài quốc doanh thành lập. Nên công tác thu BHXH gặp nhiều khó khăn vì BHXH ít người bên nghiệp vụ thu. Một người phải đảm nhận quá nhiều đơn vị nên trường hợp thu thiếu, nợ đọng là không thể không xảy ra mặc dù cơ quan đã cố gắng khắc phục nhiều. Do công tác cấp sổ BHXH về danh sách số liệu và các biểu theo dõi đóng BHXH của giai đoạn 1994 -1995 ghi chép thiếu, nhầm lẫn, không chính xác không thống nhất nên việc ghi sổ BHXH gặp nhiều khó khăn phức tạp vừa làm vừa chỉnh có đơn vị phải đổi lại sổ BHXH. Sự chỉ đạo của BHXH thành phố kỳ đầu chưa kịp thời hướng dẫn ghi chép các tiêu thức chưa thống nhất. Do đội ngũ cán bộ trẻ mới ra trường thiếu kinh nghiệm thực tế giải quyết công việc còn lúng túng thiếu xót, khối lượng đơn vị cơ sở đông và số lao động nhiều nên công tác cấp sổ BHXH của quận Ba Đình còn kéo dài mức độ hoàn thành chưa cao so với khả năng hiện có. Chương III Một số kiến nghị và giải pháp nhằm làm tăng thu ở BHXH Quận Ba Đình I. Mục tiêu chiến lược phát triển của BHXH BA Đình Trên đà phát triển kinh tế như hiện nay nhu cầu được BHXH đã mở rộng hơn tới phần lớn nếu không nói là toàn xã hội. Do vậy Ngân sách Nhà nước không thể đảm bảo một phần lớn trong nguồn chi cho BHXH. Hơn nữa chủ trương tại văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX có ghi: “Từng bước mở rộng vững chắc cho hệ thống bảo hiểm và an sinh hội tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân”. Vì thế cùng với BHXH thành phố, BHXH quận Ba Đình đã hoạch định mục tiêu phát triển nghành BHXH trong các năm tới như sau: Năm tới BHXH Ba Đình củng cố công tác thu BHXH phấn đấu hoàn thành kế hoạch hàng năm từ 70 - 75 tỷ đồng đạt 90% - 100% kế hoạch được giao, duy trì tốt nề nếp của công tác chi trả đảm bảo an toàn chế độ, chính sách và nguyên tắc quản lí tài chính của nhà nước với mức chi trả hàng năm từ 160- 180 tỷ đồng. Cụ thể từng công việc sau: Mở rộng đối tượng tham gia: Việt Nam đang đẩy mạnh mọi nỗ lực đồng bộ hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn từ nay đến năm 2010. Theo đó Việt Nam phấn đấu thực hiện CNH-HĐH đất nước, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỷ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất đồng bộ phù hợp với lực lương sản xuất, giữ vững an ninh chính trị, dan giầu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Trong bối cảnh trên, Việt Nam cũng phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân GDP sẽ tăng từ 8-10 lần so với năm 1990. Kinh tế phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, đồng thời thu nhập của người lao động cũng được cải thiện và nâng cao, điều này đặc biệt quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH . BHXH Ba Đình sẽ cố gắng thu hút được tất cả mọi đối tượng lao động thuộc các thành phần kinh tế tham gia. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH là khâu mở đầu rất quan trọng trong đó chủ yếu là tăng được nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và đảm bảo được an toàn xã hội, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH trước tiên phải nhằm mở rộng các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, sau đó triển khai và mở rộng loại hình BHXH tự nguyện, tiến tới áp dụng BHXH bắt buộc cho tất cả mọi người lao động, coi đó là một phương thức đảm bảo công bằng và an toàn xã hội. * Trước tiên đối với loại hình BHXH bắt buộc trong thời gian tới sẽ mở rộng hơn đối với một số đối tượng đã tham gia BHXH hiện có như: - Người lao động làm việc trong các đơn vị quốc doanh có 10 lao động trở lên. - Người lao động làm việc trong các hợp tác xã có quan hệ hợp đồng lao động. - Người lao động trong các tổ chức bán công, dân lập có thuê lao động trong các ngành giáo dục, văn hoá, du lịch. - Người lao động trong các hộ gia đình, làng nghề có thuê lao động. * Còn đối với BHXH tự nguyện bao gồm các đối tượng sau: Người lao động làm việc trong các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài do Nhà nước quản lí, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Người lao động tự do khác. Thực hiện mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong mục tiêu chiến lược phát triển ngành BHXH đến năm 2010, BHXH Ba Đình sẽ phấn đấu thu hút được khoảng hơn 1 triệu người tham gia BHXH tự nguyện. đặc biệt là cùng với BHXH thành phố hoàn thiện bổ sung chính sách BHXH bắt buộc gồm 6 chế độ: chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất và chế độ BHXH thất nghiệp. Hoàn thành song công tác cấp sổ BHXH đối với số lao động cũ và cấp thường xuyên kịp thời đối với những trường hợp lao động mới. Dứt điểm cấp song sổ BHXH với những trường hợp do vướng mắc. Hoàn thiện tổ chức bộ máy, xây dưng đội ngũ cán bộ đủ năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ. Tổ chức học tập bồi dưỡng nâng cao hiểu biết và nắm vững chuyên môn và tinh thông nghiệp vụ bằng phương thức bồi dưỡng tại chỗ và gửi đi bồi dưỡng ở những lớp do ngành mở, tăng cường và củng cố công tác quản lí đối tượng, di biến động hàng năm. Sắp xếp rà soát lại hồ sơ nhằm phục vụ tốt cho việc khai thác sử dụng được thuận tiện nhanh chóng. Cải thiện cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho ngành BHXH đầu tư xây dựng trang bị đủ cơ sở vật chất kỷ thuật hiện đại, từng bước phát triển hệ thống thông tincho ngành. Nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công chức viên chức nhà nước trên cỏ sở phân phối thu nhập hợp lí, công bằng làm cho thu nhập phải vừa động lực vừa là mục tiêu phấn đấu của cán bộ công nhân viên chức. Làm tốt công tác tuyên truyền về BHXH trên địa bàn quận với sự tham gia hưởng ứng của đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, phấn đấu xây dựng cơ quan đoàn kết, kỷ luật trong sạch và vững mạnh với đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực. II. Một số giải pháp nhằm làm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở quận Ba đình. Căn cứ vào thực trạng của công tác thu BHXH ở quận Ba Đình thấy rằng để hoàn thiện công tác này cần phải hoàn thiện các nội dung cụ thể. Em xin nêu ra những giải pháp sau: Về đối tượng tham gia Hạn chế lớn nhất trong công tác quản lí đối tượng tham gia BHXH là không quản lí được đầy đủ người lao động tham gia BHXH thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do đó để nâng cao được hiệu quả công tác quản lí thu, phải tiến hành nânng cao hiệu quả công tác quản lí đối tượng tham gia ở khu vực này. Muốn xây dựng được những giải pháp cụ thể, có chiều sâu trước mắt cần giải quyết một số vấn đề cụ thể, đó là cần xác định rõ đối tượng tham gia BHXH trong khu vực ngoài quốc doanh là đơn vị tham gia BHXH bắt buộc hay không bắt buộc. Theo quy định trong Luật lao động, Luật doanh nghiệp, Điều lệ BHXH và các văn bản pháp luật khác. Tiếp đó phối hợp với các cơ quan quản lí có liên quan ở các phường thực hiện thống kê đầy đủ số đơn vị sử dụng lao động và số lượng người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Đối với hình thức bắt buộc: Mở rộng thêm cho các lao động trong các doanh nghiệp dưới 10 lao động, lao động tại hợp tác xã...để giảm rủi ro mất hoặc giảm thu nhập của người lao động, đồng thời nâng cao trách nhiệm của người lao động với những người lao động. Đối với hình thức BHXH tự nguyện: áp dụng cho các lao động nông thôn và những người lao động độc lập. Cần có nhiều loại hình bảo hiểm tự nguyện để nhân dân lựa chọn phù hợp với khả năng đóng góp tuỳ thuộc vào mức thu nhập của mỗi người. Về lâu dài cần áp dụng bảo hiểm bắt buộc cho tất cả mội người lao động, coi đó là một phương thức bảo đảm an toàn xã hội và thực hiện công bằng xã hội. Về công tác cấp BHXH Như trong chương II đã phân tích công tác cấp sổ BHXH là một khâu quan trọng mang tính chuyên ngành đồng thời là bước chuyển đổi từ BHXH thông qua Ngân sách nhà nước sang BHXH theo quỹ BHXH thu được. Nếu công tác này làm tốt thì quản lí đơn vị, đối tượng, quản lí chế độ, chính sách BHXH sẽ dễ dàng hơn. Từ đó công tác thu và thu BHXH đạt kết quả cao hơn. Vì vậy cần sớm nghiên cứu và đưa vào sử dụngcông nghệ quản lí mới để thay thế cho phương pháp thủ công hiện nay. Bản thân các cán bộ cấp phát sổ BHXH ở cơ quan cần học hỏi kinh nghiệm thực tế tránh tình trạng phát thiếu sổ hoặc làm chậm sổ. Đồng thời phải làm cho các đơn vị nhận thức được hiệu quả của công tác cấp sổ, từ đó họ mới nhiệt tình phối hợp công tác cấp sổ với cơ quan. 3.Về công tác thu tiền BHXH Công tác thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động cũng gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với các đơn vị ngoài quốc doanh. Đối với các đơn vị ngoài quốc doanh việc thu BHXH của cơ quan BHXH Ba Đình thực hiện rất vất vả, hiệu quả không cao. ở một chừng mực nào đó kết quả thu BHXH ở doanh nghiệp phản ánh khá rõ năng lực tổ chức thực hiện, ý thức trách nhiệm của cán bộ chuyên quản lý thu BHXH, bởi vì thu BHXH đối với doanh nghiệp là một vấn đề khá hóc búa hoàn toàn không đơn giản. Hiện nay vẫn chưa có các quy định giao chỉ tiêu thu BHXH khu vực ngoài quốc doanh thành chỉ tiêu pháp lệnh, bắt buộc phải hoàn thành. Vì thế để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này các cán bộ thu BHXH cần phải tranh thủ tích cực tối đa sự ủng hộ của các cấp Đảng, Chính quyền địa phương và các ngành có liên quan, đồng thời tăng cường bám sát các đơn vị sử dụng lao động và để phổ biến tuyên truyền chính sách BHXH cũng như trách nhiệm và quyền lợi, từ đó khéo léo động viên các đối tượng tham gia BHXH và tích cực đóng BHXH đầy đủ để hoàn thành trách nhiệm của họ. Cùng với sự nỗ lực trong việc đẩy mạnh quản lý thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh, quản lý thu BHXH thuộc các khu vực còn lại theo quy định cũng luôn phải được quan tâm theo dõi. Để thực hiện công tác BHXH Ba Đình cần phải tổ chức, điều tra, thống kê, tổng hợp nhằm nắm chắc số liệu cần thiết về các đối tượng tham gia, cũng như số tiền BHXH phải nộp cho họ. Trên cơ sở đó sẽ kịp thời giải quyết được những vấn đề vướng mắc để đề xuất ngay những giải pháp, hạn chế tối đa, trong quá trình tổ chức thực hiện. Một hạn chế nữa trong quá trình thu BHXH là vấn đề nợ đọng tiền BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Trên thực tế, BHXH Ba Đình đang có quá nhiều các đơn vị sản xuất nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh thậm chí cả doanh nghiệp nhà nước cũng vi phạm quy chế nộp BHXH, trốn tránh nghĩa vụ nộp BHXH cho người lao động. Số nợ đọng ngày nhiều và hiện tại vẫn chưa có giải pháp khắc phục kịp thời. Tất nhiên không thể bỏ qua những nỗ lực thu BHXH của hệ thống quản lý thu BHXH Ba Đình trong những năm vừa qua luôn luôn quan tâm đến vấn đề thu hồi công nợ, từng bước làm giảm mức độ chiếm dụng, rút ngắn thời gian chiếm dụng. Để hoạt động này thực hiện có hiệu quả hơn thì cần phải nghiên cứu để đề ra chuẩn mực và biện pháp tiến hành đối với việc đánh giá mức độ công nợ và đánh giá kết quả công tác thu tác động vào làm giảm sự phát sinh tiền nợ BHXH. Các hành vi phạm nghĩa vụ nộp BHXH cần phải được sử lí nghiêm minh kiên quyết. Có thể phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nộp BHXH như: Thanh tra lao động,Thanh tra nhà nước, các tổ chức công quyền... để tăng cường kiểm tra giám sát đôn đốc việc kê khai lao động, quỹ tiền lương thực tế và đóng nộp BHXH giải quyết tình trạng nợ đọng kéo dài, để chính sách BHXH ngày càng ưu việt hơn. Khắc phục tình trạng tiêu cực trong quản lý tiền thu BHXH cần phải kiên quyết không để bất kỳ cán bộ thu nào được thu bằng tiền mặt, không được sử dụng tiền thu BHXH vào bất kỳ một công việc gì, định kỳ theo quy định phải chuyển hết số tiền thu được về BHXH Việt Nam. 4. Về một số vấn đề khác có liên quan Công tác thu BHXH muốn có kết quả cao cần phải chú ý tập trung giải quyết các vấn đề sau: 4.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích các chế độ, chính sách và quyền lợi và trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia BHXH và đóng BHXH đầy đủ kịp thời. Trước hết phải đưa công tác tuyên truyền vận động ,nâng cao sự hiểu biết và ý thức chấp hành của luật pháp về BHXH thông qua các kênh thông tin tuyên truyền bằng cách gặp trực tiếp đối tượng để nói cho họ rõ về nghĩa vụ và quyền lợi tham gia BHXH. Trong đó kể cả hoạt động tham gia nghiệp vụ và hướng dẫn giải thích rõ với cả những trường hợp cụ thể. 4.2 Tăng cường cử cán bộ đi cơ sở để thực hiện công tác tại cơ sở như: Đối chiếu sổ sách, chứng từ và các đơn vị thực hiện đóng BHXH đủ, đúng kỳ. Hàng tuần, hàng tháng ra các thông báo đến các đơn vị. 4.3 Thông qua việc cấp sổ để xác định mức thu đúng , thu đủ và thu kịp thời cũng như việc thanh toán hai chế độ: ốm đau, thai sản cho các đơn vị thuân tiện, nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc quản lý tài chính của nhà nước và các chế độ BHXH. 4.4 Đề xuất với quận uỷ, UBND quận và ngành đưa nội dung công tác BHXH vào công tác thi đua hàng năm có chế độ khuyến khích khen thưởng đối với những đơn vị cá nhân thành tích tốt trong công tác quản lý thu BHXH. Xây dựng đào tạo đội ngũ cán bộ đủ khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao. Với mục tiêu xây dựng đội ngủ cán bộ công chức của BHXH Ba Đình có phẩm chất năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ cơ cấu, đảm bảo được sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Trong thời gian tới để công tác thu BHXH ngày càng thu được kết quả cao hơn cần xem xét một số ván đề sau: - Thực hiện việc tập huấn đào tạo, đào tạo lại nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác quản lý thu BHXH , từng bước cho các cán bộ trẻ đi học bổ túc nghiệp vụ tài chính kế toán ở các trung tâm nhằm nâng cao nghiệp vụ, trình độ chuyên môn, nâng cao hiệu quả làm việc của họ. Đặc biệt là việc áp dụng công nghệ tin học vào quá trình thu BHXH. Vì vậy cần phải có đội ngũ thu BHXH thông thạo tin học giúp quá trình quản lí thu tốt hơn. - Rà soát sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức của ngành sao cho phù hợp với năng lực chuyên môn, nhiệm vụ được giao. 4.5 Đẩy mạnh công tác tham gia kiểm soát tài chính đối với quỹ BHXH . Tăng cường công tác thanh tra kiểm soát hoạt động quản lí và thực hiện thu chi để từ đó tìm ra các sai phạm từ người lao động, từ người sử dụng lao động và bản thân các công chức trong ngành để có các biện pháp xử lý kịp thời. Phải tăng cường quản lí chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng tham gia BHXH của từng đối tượng thuộc diện đang hưởng các chế độ BHXH nhằm hạn chế phòng tránh hiện trạng tiêu cực (làm sai, làm giả…) gây thất thoát cho quỹ BHXH. Với khối lượng công việc không nhỏ và yêu cầu phải đảm bảo tính chính xác trong quản lý tài chính quỹ BHXH đòi hỏi phải được ứng dụng công nghệ thông tin vào hệ thống sổ sách, biểu mẫu, kế toán tổng hợp, thống kê phân tích và dự báo…để từ đó tạo ra phong cách làm việc có khoa học, đảm bảo được sự bảo mật, an toàn tài chính tiết kiệm thời gian, đảm bảo được tính chính xác trong công việc tính toán . Phấn đấu thực hiện nối mạng cho BHXH Thành phố nói chung và BHXH Ba Đình nói riêng nhằm mục đích trao đổi thông tin kịp thời tạo điều kiện quản lý có hiệu quả hơn việc thực hiện những chính sách chế độ BHXH cho người lao động. Hơn nữa ứng dụng hệ thống thông tin sẽ giúp cho việc đơn giản hoá khâu lưu trữ hoá hồ sơ số liệu một cách an toàn và lâu dài. Tóm lại, công tác thu BHXH muốn đạt kết quả cao phải sử dụng mọi khả năng biện pháp cùng với sự nỗ lực của cán bộ công chức cơ quan đoàn kết một lòng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ chỉ tiêu kế hoạch thu hàng năm được giao. III .Một số kiến nghị Kiến nghị đối với cơ quan Nhà nước Tạo hành lang pháp lý thuận lợi về BHXH Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường pháp lý cho hoạt động BHXH nói chung và lĩnh vực quản lý quỹ BHXH nói riêng. Cho đến thời điểm này Nhà nước đã hình thành được hệ thống pháp lý đấy đủ về BHXH cũng như về quản lý tài chính BHXH.Thế nhưng trong thực tiễn sinh động và phức tạp, một số văn bản pháp quy đã ban hành không còn phù hợp nữa. Để tránh tình trạng chính các văn bản gây trở ngại cho việc thực hiện, trong thời gian tới cần phải sắp xếp và rà soát lại toàn bộ các văn bản về BHXH từ trước đến nay, đánh giá khách quan hiệu quả của các văn bản đó trong thực tiễn thực hiện để từ đó tìm ra dấu hiệu, những điểm còn thiếu xót để sửa đổi bổ sung và hoàn thiện nhằm phù hợp nhất với điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay và đồng thời là cơ sở để đóng góp hình thành Luật BHXH . Luật BHXH phải được chính phủ thông qua và sửa đổi dựa trên các nguyên tắc sau: Nguyên tắc 1: Quyền lợi được hưởng tương xứng với nghĩa vụ đóng góp có một phần đIều tiết đẻ đảm bảo tính cộng đồng xã hội, chia sẻ rủi ro. Nguyên tắc 2: Mức hưởng phải được xác định dựa trên cơ sở những căn cứ về thời gian đóng góp, mức độ đóng góp, tuổi đời và tình trạng sức khoẻ của người lao động. Nguyên tắc 3: Quỹ BHXH phải được người lao động và người sử dụng lao động đóng góp là chủ yếu và phải được đầu tư tăng trưởng quỹ. Luật BHXH không quy định đối tượng áp dụng đối với tất cả mọi người lao động trong xã hội bởi vì các đối tượng này có quan hệ, tính chất lao động khác nhau, cơ chế tạo ra thu không giống nhau . Do đó khi xây dựng các quy định điều chỉnh các đối tượng tham gia BHXH phải chú ý đến tính chất, đặc điểm hoạt động của từng đối tượng để thiết lập mối quan hệ giữa đóng góp và thụ hưởng tương xứng phù hợp. Mức đóng góp BHXH 20% đã phù hợp chưa, trong thời gian tới có phải điều chỉnh không? Để làm được điều này cần phải tiến hành tính toán, dự báo các giá trị tương lai của các khoản thu, chi BHXH trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc cân đối thu - chi . 1.2 Phân cấp quản lý rành mạch và phù hợp với chức năng nhiệm vụ cần hoàn thành . Đề nghị Chính phủ cần tăng cường sự điều hành đối với hoạt động BHXH, xác định rõ quyền hạn của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động BHXH cũng như trong quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện tránh tình trạng những hậu quả xấu không biết quy trách nhiệm cho ai cho cơ quan này . Các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về BHXH (Bộ Tài chính, Bộ lao động thương binh xã hội) sẽ có nhiệm vụ trình Chính phủ, Thủ tướng và các văn bản đã xây dựng hoặc tự ban hành các văn bản pháp quy về BHXH theo thẩm quyền . Bên cạnh đó các cơ quan này cũng phải thực hiện việc thi hành của BHXH Việt Nam về các văn bản pháp quy này . Nếu có vướng mắc cần sửa đổi trong văn bản cũng như trong thực tiễn thực hiện các cơ quan này có quyền kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng chính phủ để sửa đổi bổ sung theo thẩm quyền . Đề nghị Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ cho BHXH Việt Nam được thực hiện và thanh tra xử phạt đối với hành vi vi phạm về thực hiện các chế độ về BHXH, về trách nhiệm thu nộp, chi trả các chế độ BHXH đối với người sử dụng lao động và người lao động có vi phạm . Nâng mức phạt bằng tiền cao hơn gấp từ 5 - 10 lần so với quy định hiện hành trong Nghị định 38/ CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao động đối với chính sách BHXH. Thực hiện phạt tiền đối với các đơn vị chậm nộp tiền BHXH ( Kể cả trường hợp kiểm tra phát hiện phải truy thu BHXH ) đối với các đơn vị sử dụng lao động gấp 2 lần so với lãi xuất của NHTM cùng thời hạn vay . Thực hiện nhờ thu qua hệ thống Ngân hàng và kho bạc mà không cần sự đồng ý của các đơn vị sử dụng lao động khi họ cố tình chậm nộp BHXH . Kiến nghị với BHXH Việt Nam Hiện nay tài chính BHXH Việt Nam được đánh giá là đang ổn định. Tuy nhiên sự ổn định này chỉ trong ngắn hạn do chế độ BHXH vẫn còn mới với sự tăng lên rõ rệt về số lượng người tham gia đóng BHXH do cơ cấu nhân khẩu và sự bao cấp của Nhà nước cho người nghỉ hưu trước ngày 1/01/1995. Mặt khác số tiền chi trả cho chế độ hưu trí chiếm hơn 80 % tổng số tiền chi trả mỗi năm mà Tài chính BHXH Việt Nam là tổng hoà các cơ quan BHXH các cấp từ trung ương đến địa phương. Vì vậy để tài chính BHXH Việt Nam nói chung và tài chính BHXH các cấp ổn định và phát triển thì BHXH Việt Nam cần phải thực hiện các vấn đề sau : - Kiện toàn hội đồng quản lý BHXH Việt Nam theo hướng thành phần hội đồng quản lý gồm đại diện chuyên trách của nhà nước, đại diện người sử dụng lao động và đại diện người lao động nhiệm kỳ 4 năm bầu lại một lần. Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của cơ quan BHXH Việt Nam . - Thành lập ban kiểm soát trực thuộc hội đồng quản lý để giúp hội đồng quản lý kiểm tra giám sát hoạt động của cơ quan BHXH tham mưu giúp hội đồng quản lý trong việc thẩm định quyết toán tài chính hàng năm của BHXH Việt Nam. - Thành lập công ty tài chính BHXH trực thuộc hội đồng quản lý để thực hiện nhiệm vụ đầu tư sinh lời trên cơ sở thu BHXH nhàn rỗi nhằm mục đích không ngừng tăng trưởng quỹ.Thực chất đây chính là lĩnh vực đầu tư quỹ BHXH Việt Nam. Hiện nay hoạt động quỹ BHXH thường tập trung vào một số vấn đề chủ yếu : Gửi tiền vào Ngân hàng, mua trái phiếu, cổ phiếu, đầu tư vào bất động sản … Thời gian tới đề nghị BHXH Việt Nam xin phép Chính phủ để đầu tư cổ phiếu nhưng phải kèm theo sự bảo lãnh đặc biệt. Các khâu trên nếu BHXH Việt Nam làm tốt thì quỹ BHXH không những ổn định mà còn tăng trưởng. Có như vậy quỹ BHXH các quận trong thành phố nói chung và BHXH Ba Đình nói riêng cũng ổn định và phát triển. Để nguồn quỹ BHXH tăng lên thì BHXH Việt Nam cũng như BHXH các cấp cần phải thực hiện các vấn đề sau: * Thành lập các quỹ theo từng chế độ hoặc nhóm chế độ gồm: - Quỹ ốm đau, thai sản - Quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp - Quỹ hưu trí và tử tuất - Quỹ Bảo hiểm tự nguyện Về tổ chức bộ máy: Thành lập 2 cơ quan sự nghiệp BHXH độc lập - Cơ quan BHXH đối với các cán bộ, công chức và lực lượng vũ trang - Cơ quan BHXH đối với các doanh nghiệp hợp tác xã, lao động tự do * Về mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động. Mức đóng góp BHXH hiện tại của người sử dụng lao động là 15%, của người lao động là 5%. Mức đóng góp này BHXH Việt Nam nên khẩn trương tăng lên tương ứng là 16% và 6% cùng với tăng số đóng góp này kèm theo sự mở rộng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp cụ thể: Người lao động 16% quỹ lương trong đó: - Chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức: 3% - Chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp: 1% - Chế độ hưu trí và tử tuất: 10% - Chế độ Bảo hiểm thất nghiệp: 2% Người lao động đóng 6% tiền lương trong đó: - Chế độ hưu trí, tử tuất: 5% - Chế độ bảo hiểm: 1% Thời gian tới đề nghị BHXH Việt Nam từng bước tăng mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động làm cho nó là nguồn tài chính chủ yếu hính thành quỹ BHXH, cùng với nguồn lãi thu được từ hoạt động đầu tư, quỹ luôn luôn đảm bảo đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu chi tiêu nhằm giảm dần sự bù đắp của NSNN và tiến đến quỹ cân bằng thu chi mà không cần tới sự hỗ trợ của NSNN . Ngoài kiến nghị trên em còn có kiến nghị đối với BHXH Việt Nam là phải tăng cường sự hội nhập và hợp tác quốc tế. Để hoàn thiện phương thức quản lý tài chính và BHXH và đặc biệt là tăng công tác thu BHXH yêu cầu học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới là không thể thiếu. Tiếp thu kinh nghiệm chọn lọc và phân tích để áp dụng vào điều kiện cụ thể nước ta trên các lĩnh vực: - Trao đổi kinh nghiệm của ngành. - Đào tạo đội ngũ cán bộ và quản lý - Gia nhập các liên hội nhằm hỗ trợ nhau trong các lĩnh vực cần quan tâm như : Phương tiện kỹ thuật, tài chính thông qua các chương trình như viện trợ, cho vay sẽ làm cho BHXH Việt Nam gắn liền với BHXH các nước. Đó là mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2010, là những mục tiêu mà chúng ta phấn đấu hoàn thiện mọi mặt ngành BHXH ở Việt Nam. Để thực hiện được điều đó không chỉ cần đến những nổ lực của bản thân ngành BHXH mà còn rất cần sự phối hợp chặt chẽ của các ban ngành liên quan và của nhà nước. Do đó Nhà nước và các cấp quản lý liên quan cần tạo điều kiện cho hệ thống BHXH Việt Nam theo kịp thời đại. 3. Kiến nghị với cơ quan BHXH Ba Đình Trên cơ sở phân tích thực trạng, phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả của BHXH quận Ba Đình. Để góp phần thúc đẩy hoạt động BHXH trong giai đoạn tới em xin có một số kiến nghị sau: Ba Đình là một quận đông dân và có mức sống cao vì vậy bảo hiểm xã hội cần làm tích cực khâu tuyên truyền khuyến khích mọi người lao động đóng BHXH ở mức cao, nhưng tránh lợi dụng kẽ hở chi đóng bảo hiểm ở mức cao để được hưởng mức cao theo ý đồ cá nhân . Bảo hiểm xã hội Ba Đình phải có chế tài với cơ chế chặt chẽ và hiệu quả để đáp ứng đòi hỏi thực tée của người lao động tham gia BHXH. Phải có cơ chế cân đối tài chính rõ ràng để quỹ BHXH đảm bảo phát triển ổn định lâu dài. Nghĩa là nguồn quỹ này phải được định kỳ phân tích tài chính trên cơ sở thu thập các số liệu về tỷ lệ đóng BHXH theo nguyên tắc đóng hưởng, tỷ lệ nhân khẩu học, số người được hưởng BHXH hiện hành phân theo các loại trợ cấp theo tuổi, giới tính để có thể quản lý tài chính đặc biệt là nguồn quỹ dài hạn. Cần áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ tin học vào trong quản lý nghiệp vụ sự nghiệp BHXH như : Quản lý đối tượng tham gia và hưởng BHXH, quản lý thu chi BHXH, quản lý tài chính thống kê kế toán BHXH . Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị cơ bản nhằm thúc đẩy hoạt động thu BHXH ở BHXH quận Ba Đình . Mặc dù các biện pháp chưa phải là tối ưu nhất nhưng em mong rằng sẽ đóng góp được một phần nào đó trong quá trình thu BHXH những năm tới . Kết luận Chuyên đề bảo hiểm xã hội thực trạng và giải pháp đã đưa ra những vấn đề chung nhất về BHXH . Thông qua việc khái quát đặc điểm tình hình về địa lý, kinh tế, xã hội cũng như sự hình thành, vận động và phát triển của một lãnh thổ hành chính mới – Quận Ba Đình . Trong đó, em đã đi sâu vào việc phân tích đánh gía toàn bộ các mặt của công tác thu BHXH nêu rõ đượcc việc đã làm được, những việc chưa làm được trong 6 năm qua và đưa những vấn đề còn bất cập trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan chủ quan ảnh hưởng trực tiếp đên mặt công tác : Thu – chi, quản lý chế độ, quản lý đối tượng và việc triển khai BHXH bắt buộc đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh . Trên cơ sở phương hướng công tác BHXH quận Ba Đình ( 2001 -2005 ) em đã đưa ra một số biện pháp tổ chức thực hiện, nhằm giúp cho công tác thu BHXH quận Ba Đình hoạt động có hiệu quả hơn đáp ứng được những bức xúc yêu cầu của thực tế đã và đang đặt ra đối với ngành BHXH nói chung và BHXH quận Ba Đình nói riêng . mục lục Trang Lời mở đầu 1 ChươngI : Lý luận chung về BHXH và cơ chế thu BHXH I. Một số nội dung chính về BHXH 3 1. Một số khái niệm về BHXH 3 2. Bản chất và vai trò của BHXH 4 3. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH 7 4. Các chế độ của BHXH 8 II. Một số nội dung chính về tài chính BHXH 9 1. Khái quát chung về tài chính BHXH 9 2. Phân loại quỹ BHXH 10 III. Quản lý tài chính BHXH 11 1. Quản lý chế độ thu BHXH 12 2. Quản lý chế độ chi BHXH 16 Chương II: Thực trạng thu BHXH ở BHXH quận Ba Đình I. Vài nét về cơ quan BHXH Ba Đình 18 1. Quá trình hình thành và phát triển 18 2. Cơ cấu tổ chức của BHXH Ba Đình 19 3. Tình hình hoạt động của cơ quan BHXH Ba Đình 20 II. Tình hình thu quỹ BHXH ở BHXH Ba Đình 23 1. Quản lý đối tượng tham gia 24 2. Quản lý quỹ lương của đơn vị tham gia 28 3. Mức thu BHXH của từng chế độ giai đoạn 1997- 2002 36 4. Những tồn tại trong quá trình thu BHXH ở BHXH Ba Đình 41 Chương III : Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng thu BHXH ở BHXH Ba Đình I. Mục tiêu chiến lược phát triển 45 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH ở quận Ba Đình 47 1. Về đối tượng tham gia 48 2. Về công tác cấp sổ BHXH 48 3. Về công tác thu tiền BHXH 49 4. Một số vấn đề khác có liên quan 50 III. Một số kiến nghị 52 1. Kiến nghị với cơ quan Nhà nước 52 2. Kiến nghị với cơ quan BHXH Việt Nam 54 3. Kiến nghị với cơ quan BHXH Ba Đình 57 Kết luận 59 Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Bảo hiểm – Trường Đại học kinh tế quốc dân 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm – Trường Đại học KTQD 3. Tạp chí BHXH 4. Hướng dẫn ngiệp vụ thu BHXH 5. Hỏi đáp BHXH 6. Báo cáo tài chính năm 1997 – BHXH Ba Đình Báo cáo tài chính năm 2002 – BHXH Luật BHXH 10. Nghị đinh 28/ CP, 45/ CP TTCP về BHXH Kí hiệu viết tắt BHXH : Bảo hiểm xã hội NSNN : Ngân sách Nhà Nước TCBHXH : Tài chính BHXH HCSN : Hành chính sự nghiệp DN : Doanh nghiệp NQD : Ngoài quốc doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33612.doc