Trong tình hình nước ta hiện nay, vấn đề cổ phần hoá đang đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lí luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế Nhà Nước và chuyển nền kinh têa hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà Nước. Sau 9 năm thực hiện cổ phần hoá chúng ta đã thu được một số thành tựu nhất định tuy rằng chưa đúng với mục tiêu kế hoạch đề ra, các DNNN sau khi được cổ phần hoá hầu hết đều kinh doanh có lãi, đời sống người lao động được cải thiện, gánh nặng ngân sách được giảm bớt.
Tuy nhiên do quá trình cổ phần hoá đang diễn ra chậm nên thiết nhgĩ còn có nhiều vấn đề ohải được các cấp các ngành nghên cứu sâu thêm góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá đạt được kết quả mong nuốn.
Bài viết của em chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản của quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta với mục đích góp phần rất nhỏ trong việc xây dựng quan điểm chỉ đạo cho công tác cổ phần hoá các DNNN đang được tiến hành trong 9 năm qua.
47 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1374 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số vấn đề cơ bản của quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển hoá toàn bộ khu vực Nhà Nước thành khu vực tư nhân. Cách làm này đến nay chưa quốc gia nào thực hiện được( với một số ngành như năng lượng, hạt nhân thì Nhà Nước vẫn phải đứng ra chịu trách nhiệm chính). Hai là xoá bỏ quyền sở hữu Nhà Nước trong một số DNNN hoặc lĩnh vực cần thiết. Cách làm này còn được rất nhiều nước thực hiện.
Bên cạnh 4 phương pháp trên ta có thể tham khảo thêm một quan điểm khác về cổ phần hoá do Ngân hàng Thế giới phổ biến năm 1998 gồm:
Bán cổ phần cho tư nhân.
Bán cổ phần cho công chúng.
Bán các tài sản của Chính Phủ hoặc doanh nghiệp.
Đầu tư nhân mới các DNNN.
Cho thuê các hợp đồng quản lý.
- Đó là một số phương pháp cổ phần hoá tư nhân hoá theo một số quan điểm khác nhau . Việc áp dụng phương pháp nào để tiến hành cổ phần hoá sẽ tuỳ thuộc vào đặc điểm lịch sử , truyền thống và trình độ phát triển của mỗi nước mà vận dụng từ đó định ra cơ chế thích hợp để thực hiện.
2. Một số kinh nghiệm cổ phần hoá ở các nước.
2.1 Quá trình cổ phần hoá ở nước Tư bản phát triển.
Trong thập kỉ 80 , các nước Tư bản phát triển, đặc biệt là ở tây Âu, cổ phần hoá được chú ý như là một quá trình làm giảm bớt sự can thiệp trực tiếp của Nhà Nước vào các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường hỗn hợp.
Chính sách cổ phần bao chùm ở các nước này dựa trên quan điểm cho rằng việc tổ chức đời sống kinh tế của xã hội tuân theo các quy luật của thị trường, thương mại hoá sản xuất,cạnh tranh bình đẳng sẽ coa hiệu quả hơn là tuân theo các quan hệ chỉ huy tập chung và thể chế hành chính.
Việc cổ phần hoá ở các nước phát triển không phải là để xoá bỏ những chức năng đặc biệt về kinh tế mà chỉ có khu vực kinh tế Nhà Nước mới đảm nhận mà là nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vưcj này. Do đó chính phủ mỗi nước đã lựa chọn phương án cổ phần hoá sao cho không làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà Nước, mà trái lại củng cố cho xứng đáng với vị trí quan trọng của nó trong nền kinh tế nhằm thực hiện một loạt các chức năng kinh tế vĩ mô vì lợi ích toàn xã hội.
Xét về quy mô, sau khi tiến hành cổ phần hoá, khu vực kinh tế Nhà Nước ở các nước công nghiệp phát triển có sự thu hẹp xét theo các chỉ số về tỉ lệ việc làm, tỉ trọng đồng tư bản cố định và thu nhập quốc dân. Tuy nhiên, sự suy giảm này không làm thay đổi vai trò của khu vực kinh tế Nhà Nước trong những ngành những lĩnh vực quan trọng đối với nền kinh tế, nó vẫn giữ những ảnh hưởng quyết định tới những ngành thuộc cơ sở hạ tầng: năng lượng, giao thông vận tải, bưu điện, truyền hình, viễn thông, công nghiệp nặng( luyện kim đóng tầu, khai thác và chế biến dầu mỏ), các ngành khoa học kĩ thuật cao (hàng không, nhà máy điện nguyên tử).
Quá trình cổ phần hoá ở các nước này được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bán cổ phiếucủa các công ty quốc doanh hoặc các DNNN qua các sở giao dịch Chứng Khoán,bán đấu giá có giới hạn người mua, hoặc trực tiếp cho những người mua được lựa chọn một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp.
Quá trình cổ phần hoá ở các nước phát triển đã mang lại một kết quả hết sức điển hình là hình thành hàng loạt các công ty cổ phần hỗn hợp Nhà Nước- tư nhân,trong đó một số lĩnh vực Nhà Nước giữ cổ phần khống chế,còn một số lĩnh vực khác Nhà Nước chỉ giữ ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của chúng.
Ví dụ:
Chính Phủ Tây Ban Nha bán 38% trong số 94% cổ phần của mình trong công ty “ GASI-ELECTRICSIDAD” do đó vốn Nhà Nước trong công ty chỉ còn 54%
Chính Phủ đã dùng số tiền thu được do cổ phần há các công ty quốc doanh không chỉ để giảm thâm hụt ngân sách, mà còn dùng để đầu tư mua cổ phần của các công ty tư nhân trên Thị trường Chứng Khoán, nhằm đảm bảo cho mình nhữnh khoản thu nhập bổ sung, thâm nhập và mở rộng quyền chi phối của mình trong những lĩnh vực cần được kiểm soát và chống độc quyền.
Thực hiện chính sách cổ phần hoá đã cho phép Nhà Nước giảm bớt gánh nặng tài trợ ngân sách nhưng vẫn duy trì được khả năng kiểm soát của mình, vì các công ty quốc doanh sau khi cổ phần hoá hình thành dạng công ty cổ phần hỗn hợp đã chuyển sang sử dụng các nguồn vốn khác thay vì nhận từ ngân sách Nhà Nước như trước đây. Các nguồn vốn đó là: các ngân hàng tư nhân, các nhà đầu tư tư nhân, các cơ quan mua cổ phiếu… và Nhà Nước vẫn nắm giữ phần lớn trong các công ty nên Nhà Nước vẫn có khả năng kiểm soát.
Nét đặc của quá trình cổ phần hoá ở các nước phát triển là hình thành công ty cổ phần hỗn hợp Nhà Nước- tư nhânhoạt động trên cơ sở thị trường và luật pháp Nhà Nước,cạnh tranh bình đẳng với các khu vực tư nhân để giành vị trí cao chứ không phải có được vị trí độc quyền do Nhà Nước “ ban cho”.
Có thể nói thông qua quá trình cổ phần hoá, sự hợp tác và xâm nhập lẫn nhau giữa khu vực kinh tế Nhà Nước và khu vực kinh tế tư nhân kể cả ở các công ty xuyên quốc gia đang hoạt động trên thị trường thế giới là một trong những con đường nhàm nâmg cao hiệu quả của nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển hiện nay.
2.2 Quá trình cổ phần hoá ở các nướcđang phát triển.
Việc thực hiện cổ phần hoá ở các nước đang phát triển( trong khu vực Châu á cũng như khu vực Đông Nam á) là cổ phần hoá các DNNN trong các ngành nghề thuộc các lĩnh vực mà Nhà Nước xét thấy không cần phải nắm giữ và duy trì sự độc quyền. Vì thé Nhà Nước muốn rút vốn ra và chuyển giao lại khu vực tư nhân nhằm thực sự cạnh tranh công bằng và đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của khu vực kinh tế Nhà Nước. Một mục tiêu nữa đó là cổ phần hoá nhằm phát triển Thị trường Chứng Khoán trong nước, thể hiện đặc biệt nổi bật ở các nước: Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Thái Lan…
Đài Loan với nền kinh tế có thể coi là đã trưởng thành, việc mở rộng sự tự do của nền kinh tế tư nhân đòi hỏi Nhà Nước phải có những chính sách phù hợp. Trong những năm 80 Chính Phủ Đài Loan đã ban hành hàng loạt các chính sách và biện pháp để thực hiện cổ phần hoá một số DNNN làm ăn phi hiệu quả trong nhiều năm. Năm1984 Chính Phủ đã xây dựng chương trình đổi mới quản lý DNNN. Năm 1987, một số DNNN thuộc ngành công nghiệp được cổ phần hoá, đến năm1989 các doanh nghiệp thuộc ngành nông nghiệp cũng được cổ phần hoá và tư nhân hoá. Đi liền với chính sách ổn định giá cả trong nông nghiệp, các chính sách giải quyết vấn đề lao động và việc làm có sự điều tiết của Nhà trong các DNNN được cổ phầm hoácũng được ban hành. Cho đến năm 1995 ở Đài Loan đã có khoảng một phần hai số DNNN được tiến hầnh cổ phần hoá.
3.Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam.
3.1 Tính phổ biến của quá trình cổ phần hoá.
Sự triển khai có tính chất toàn cầu, quá trình này tạo ra một tương quan hợp lý giữa sở hữu Nhà Nước và sở hữu tư nhân, giữa sự điều tiết của Nhà Nước và của thị trường. Do vậy tiến hành cổ phần hoá một số DNNN ở Việt Nam là một vấn đề không thể bỏ qua, một đòi hỏi khách quan để nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà Nước hoạt độnh có hiệu quả hơn và khai thác tối đa các đông lực của thị trường.
3.2 Tính đặc thù của quá trình cổ phần hoá.
Đó là sự phản ánh các sắc thái khác nhau về mục tiêu, cách thức tổ chức, bước đi và biện pháp cụ thể do những điều kiện về chính trị, kinh tế xã hội của mỗi nước, cũng như quan niệm về xây dựng và phát triển nền kinh tế của mỗi Chính Phủ quy định. ở nước ta không thể không chú ý đến tính đặc thù về các điều kiện quyết định quá trình nàyđể có sự sàng lọc kinh nghệm của các nước và chuẩn bị kĩ càng các điều kiện vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam.
3.3 Tính chiến lược của quá trình cổ phần hoá.
Cổ phần hoá được coi là một bộ phận của quá trình cải cách toàn bộ nền kinh tế. Do đó đòi hỏi phải được suy xét và hành động mang tính chiến lược cao khi xác định mục tiêu về cơ cấu và tương quan giữa các lĩnh vực và khu vực kinh tế để dịch chuyển, phân bổ các nguồn lực và quyền lực cho các nhóm người sở hữu và quản lý khác nhau. ở với quy mô và tính quan trọng của chương trình cổ phần hoá thì Nhà Nước phải suy sét ở tầm chiến lược trong quá trình đổi mới toàn diệnđể phát triển nền kinh tế. Nhà Nước phải thành lập một cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo và giải quyết toàn bộ những vấn đề về cổ phần hoá.
3.4 Cổ phần hoá là một quá trình.
ở Việt Nam trong hoàn cảnh thiếu rất nhiều điều kiện quan trọng để tiến hành cổ phần hoá thì việc quán triệt quan điểm quá trình trong cổ phần hoálà hết sức cần thiết để chống những tư tưởng và biểu hiện nóng vội, chủ quan duy ý chí, muốn hoàn thành công việc này trong thời gian ngắn. .
3.5 Quá trình cổ phần hoá cần có một môi trường pháp lý cần thiết.
Để thực hiện cổ phần hoá thì Nhà Nước phải tạo ra một môi trường pháp lý cần thiết. Đó là một bộ luật quan trọng có ý nghĩa như lànhững điều kiện để ổn định và xác lập Kinh tế Vĩ mô tạo ra những khuôn khổ pháp lý cho sự chuyển đổi và hoạt động của các doanh nghiệp được cổ phần hoá.
PHẦN II: THỰC TRẠNG TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở VIỆT NAM
I.TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở VIỆT NAM.
1.Tính tất yếu của việc cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
Trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế, những năm gần đây nền kinh tế kế hoạch tập chung ỏ nước ta đã từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường như một đòi hỏi tất yếu của sự phát triển. Trong điều kiện cơ chế quản lý thay đổi, khi hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành yếu tố sống còn của mỗi doanh nghiệp thì các doanh thuộc khu vực kinh tế Nhà Nước đã bộc lộ đầy đủ những yếu kém, lâm vào tình trạng sa sút khủng hoảng. Làm thế nào để cấu trúc lại sở hữu Nhà Nước và cải cách khu vực kinh tế Nhà Nướcnhằm nâng cao hiêụ quả và vai trò của nó theo tinh thần của các nghị quyết Trung Ương 6 và 7 của Đảng. Một trong những giải pháp có tính chiến lược để giải quyết những vấn đề nàylà tiến hành cổ phần hoá một số DNNN nhằm đa dạng hoá các hình thức sở hữu, đưa yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là một giải pháp có tính phổ biếnđể cải cách khu vực kinh tế Nhà Nước ở hầu hết các nước trên thế giới.
Vì thế việc tiến hành cổ phần hoá một số DNNN được coi là một tất yếuđể nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh củakhu vực kinh tế Nhà Nước từ đó tạo cơ sở quan trọng để phát triển nền kinh tế.
2.Thực chất của việc cổ phần hoá các DNNN ở nước ta.
Về vấn đề này hiện nay có 2 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng thực chất cổ phần hoá là tư nhân hoá, loại ý kiến thứ hai cho rằng cổ phần hoá thực chất là quá trình xã hội hoá DNNN.
Về ý kiến thứ nhất, nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cổ phần hoá các DNNN, xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội của mỗi nước trong từng thời kì khác nhau, những nguyên nhân thường là:
+ Do thay đổi về chính trị-xã hội dẫn đến sự thay đổi về chế độ sở hữu liệu sản xuất- từ công hữu chuyển sang tư hữu- vì thế cổ phần hoá doanh nghiệp là một bộ phận của chủ trương tư nhân hoá nền kinh tế.
+ Do khủng, lạm phát, thâm hụt lớn phải cổ phần hoá để thu hồi vốn cho Nhà Nước và thu hút thêm vốn đầu tư hoặc để giảm bớt gánh nặng cho Nhà Nước.
+ Để thu hút thêm vốn đầu tư, tranh thủ công nghệ và phương pháp quản lý tiên tiến từ các nguồn trong và ngoài nước để xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường.
Chủ trương cổ phần hoá ở nước ta lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay. Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa(XHCN). Đó là sự chuyển hướng chiến lược kinh tế xã hội của nước ta đó cũng là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích, nội dung và phương thức cổ phần hoá các DNNN. Cần thấy rằng thực chất cổ phần hoá ở nước ta(khác hẳn với cổ phần mà các nước trên thế giơi đã tiến hành) là nhằm cơ cấu lại các DNNN cho hợp lývà hiệu quả, còn việcchuyển đổi sở hữu của Nhà Nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiệnquan trọng để thực hiện mục đích trên.
Sự khác nhau cơ bản giữa cổ phần hoá các DNNN ở nước ta với qúa trình tư nhân hoá của các nước trên thế giới:
- Cổ phần hoá các DNNN ở nước ta, tỉ trọng cổ phiếu phát ra là do Nhà Nước quyết định nên không sợ rằng chủ trương cổ phần hoá rốt cuộc là tư nhân hoátoàn bộ khu vực kinh tế Nhà Nước làm mất định hướng XHCN.
- Thực chất việc tư nhân hoá các DNNN là việc bán một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dâncho tư nhân. Còn cổ phần hoá ở nước ta là bán một phần hoặc toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất trong một số DNNN cho các tổ chức hoặc tư nhân, tức là chuyển từ sở hữu toàn dân sang sở hữu hỗn hợp.
- Mục đích của tư nhân hoá là tăng cường khu vực kinh tế tư nhân, cồn cổ phần hoá các DNNN là nhằm bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợpvới đường lối xây dựng nền kinh tế mà Đảng và Nhà Nướcđã đề ra.
Về loại ý kiến thứ hai, vấn đề đặt ra là cổ phần hoá DNNN có phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất thuộc sở hữu toàn dân hay không?
Chúng ta vẫn hiểu xã hội hoá tư liệu sản xuất thực chất là công hữu hoá tư liệu sản xuất dưới 2 hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, còn cổ phần hoá các DNNN thực chất là chuyển tài sản từ sở hữu toàn dân sang sở hữu hỗn hợp nhưng không phải là xã hội hoá tư liệu sản xuất vì trong các công ty cổ phần: tồn tại duy nhất chế độ phân phối theo lượng vốn đóng góp, chế độ sở hữu là chế độ sở hữu hỗn hợp chứ không phải tập thể sở hữu, Nhà Nước nhường một phần hoặc toàn bộ quyền quyết định cho các chủ sở hữu khác.Vì thế quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta không phải là quá trình xã hội hoá .
3. Mục tiêu cổ phần hoá DNNN ở nước ta.
3.1 Chuyển một phầm sở hữu Nhà Nước sang sở hữu hỗn hợp.
Thực chất là chuyển hình thái kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà Nước toàn phần trong doanh nghiệp thànhhình thái kinh doanh công ty cổ phần hỗn hợp: Nhà Nước và tư nhân, hoặc công ty cổ phần tư nhân. Mục tiêu này xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế thị trường phải có các hình thức sở hữu khác nhau tồn tại. Nó cũng xuất phát từ yêu cầu một nền kinh tế không quốc doanh hoá tràn lanmà chỉ duy trì các DNNN(100% vốn)trên các lĩnh vực và các ngành then chốt trong nền kinh tế.
Khi chuyển DNNN sang công ty cổ phần và xoá bỏ các cấp chủ quản dưới mọi hình thứcviệc xác lập quyền tự chủ kinh doanh, tách quyền quản lý Nhà Nước và quản lý kinh doanh là dương nhiên thực hiện được.Và cũng chính điều đó đưa lại một khả năng mới là việc xác lập bộ máy quản lý và bổ nhiệm ngườivaò các chức vụ quản lý kinh doanh do các cổ đông quyết định. Nhờ đó nâng cao hiệu qủa hoạt động cử các công ty.
3.2 Huy động vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Sự thay đổi cơ cấu sở hữu trong cổ phần hoá các DNNN cũng có ý nghĩa thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong xã hội vào doanh nghiệp Đây là mục tiêu cần thiết, tuy nhiên việc thực hiện ở nước ta gặp rất nhiều khó khăn và cẳn trở. Trên thực tế các nhà đầu tư chỉ bỏ vốn góp cổ phần theo sự lựa chọn của họ đối với các doanh nghiệp kinh doanh có lãi, có triển vọng phát triển. Do vậy để thu hút được vốn từ các thành phần kinh tế, chúng ta cần lựa chọn kĩ lưỡng các doanh nghiệp và xác định bước đi cụ thể trong giai đoạn làm thí điểm cổ phần hoá.
3.3 Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Việc chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần đã tách biệt rõ ràng quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất của doanh nghiệp, quyền sở hữu và quyền kinh doanh, hành vi của chính quyền và doanh nghiệp được hợp lý hoá một cách rõ nét. Sự can thiệp trực tiếp của các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh củadoanh nghiếpẽ giảm đêns mức thấp nhất. Thông qua việc mua cổ phần người lao động mới có điều kiệnđểthực hiện thực tế quyền làm chủ đích thực của mình. Với tư cách là một cổ đông họ tham gia cùnh các cổ đông khác quyết định chiến lượcphát triển của công ty, tham gia quản lý, phân chia lợi nhuận, sát nhập, giải thể công ty, lựa chọn hội đồng quản trị…
Đây là mục tiêu mang tính khái quát chung, vì vậy cần phải nghiên cứu kĩ đặc điểm của nền kinh tế quốc dân và của từng loại DNNN để định ra mục tiêu cụ thể sát hợp với từng DNNN dự định cổ phần hoá. Trong từng giai đoạn từng thời kì có thể điều chỉnh thứ tự ưu tiên của các mục tiêucho phù hợp vơí yêu cầu và khả năng thực hiện.
II. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ MỘT SỐ DNNN Ở VIỆT NAM.
1.Số lượng DNNN đã được cổ phần hoá đến 31/5/2001.
Tính đến ngày 31/5/2001, cả nước đẫ cổ phần hoá được 683 doanh nghiệp, giao bán được 52 doanh nghiệp bằng 11.5% tổng số DNNN hiện có. Trong đó có 120 doanh nghiệp được cổ phần hoá trước năm 1999, 250 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 1999, 250 doanh nghiệp được cổ phần hoá trong năm 2000 và 5 tháng đầu năm 2001 có 63 DNNN đẫ được cổ phần hoá. Trong số các DNNN được cổ phần hoá thì có 60 doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá làm ăn thua lỗ triền miên: công ty sứ Bát Tràng, công ty chè Bảo Lộc…Số còn lại sản xuất kinh doanh rất không ổn định khi có lãi khi thì thua lỗ. Nếu tính chung thì tại các đơn vị này vẫn có lãi, nhưng có lãi rất thấp,lãi ở đây là tính trên số vốn Nhà Nước chưa được đánh giá lại. Trong số các DNNN đã cổ phần hoá, số doanh nghệp có vốn Nhà Nước dưới 1 tỉ đồng chiếm 35%, loại từ 1 đến 5 tỉ chiếm 38.5%, loại từ 5 đến 10 tỉ chiếm 20.4%, loại trên 10 tỉ chiếm 6.1%. Hiện tại Nhà Nước có cổ phần ở 367 doanh nghiệp đã cổ phần hoáchiếm 59.2%. Số công ty mà Nhà Nước chiếm trên 50%vốn điều lệ có 49 đơn vị chiếm 8%, trong đó Nhà Nước giữ cổ phần cao nhất ở công ty cổ phần in và bao bì Hải Phòng, thấp nhất ở công tydịch vụ thương mại Hà Nội.
Về cơ cấu ngành nghề các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá thuộc lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông, 38% thuộc lĩnh vực thương mại và dịch vụ, 5% thuộc lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp và thuỷ sản.
Trong các DNNN được cổ phần hoá, hình thức bán một phần giá trị doanh nghiệp là hình thức được lựa chọn nhiều hơn( 42.48%)và các hình thức chuyển toàn bộ DNNN thành công ty cổ phần( Nhà Nước không giữ lại cổ phần) chiếm 31.52%. Thực tế cho thấy hình thức bán một phần giá trị doanh nghiệp rồi huy động thêm vốn của người lao động và các cổ đông ngoài doanh nghiệp ưu tiên lựa chọn vì hình thức này đạt tốt hơn 2 mục tiêu huy động vốn và tạo động lực. Hình thức chuyển toàn bộ DNNN thành công ty cổ phaanf chủ yếu là bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp.
Hầu hết các DNNN sau khi cổ phần hoá đều hoạt động có hiệu quả hơn. Trên kết quả sơ bộ của trên 200 công ty cổ phần hoạt dộng trên 1 năm cho thấy doanh thu tăng 43%, lợi nhuận tăng trên 100%, nộp ngân sách tăng 18%, năng suất lao động tăng 5%, thu nhập tăng 22%. Một số doanh nghiệp cổ phần hoá có doanh thu tăng rất cao như:
Đại lý liên hiệp vận chuyển: từ 16.6 tỉ đồng lên 225 tỉ đồng.
Công ty bông Bạch Tuyết: từ 55 tỉ đồng lên 86.6 tỉ đồng.
Công ty cao su Sài Gòn: từ 2.3 tỉ đồng lên 23 tỉ đồng.
Tại một số công ty cổ phần người lao động có mức thu nhập tăng cao:
Công ty bông Bạch Tuyết: từ 2.8 triệu đồng/ 1người/ 1tháng lên 3.3 triệu/ 1người/ 1tháng.
Công ty vận tải ô tô Lâm Đồng: từ 130 000 đồng/1người/1tháng lên 654 000 đồng/1người/1tháng.
2. Đánh giá tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở Việt Nam.
Qua 9 năm thực hiện chương trình cổ phần hoá các DNNN ta có thể tổng hợp chung về số lượng các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá như sau:
Năm
Số DNNN đã cổ phần hoá
Số DNNN dự kiến được CPH
Tỉ lệ so với kế hoạch( %)
1992- 1995
5
10
50
1996- 1998
115
200
57.5
1999
250
400
62.5
2000
250
798
31.3
31/5/2001
63
-
-
Từ bảng nhận xét trên ta có thể rút ra một nhận xét chung là tiến trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta diễn ra chậm, số lượng các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá còn rất ít so với kế hoạch đặt ra của Đảng và Nhà Nước ta.
Trên thực tế so với kế hoạch đưa ra của từng năm, từng giai đoạn thì chúng ta mới chỉ thực hiện được ở mức rất khiêm tốn. Trong kế hoạch của Đảng và của Nhà Nước ta thì chương trình cổ phần hoá bao gồm trong nó cả các tổng công ty 90 và tổng công ty 91, gồm 74 tổng công ty 90 và 17 tổng công ty 91 với 1150 doanh nghiệp thành viên, nhưng chúng ta chưa tập chung vào việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc 2 loại công ty này, trong năm 2000 số doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91 được cổ phần Hoá chỉ chiếm 4%, sốdoanh nghiệp phải giải thể phá sản chiếm 0.3%.
Từ thực trạng của công tác cổ phần hoá các DNNN ở nước ta qua các giai đoạn tiến hành nhìn chung tiến trình cổ phần hoá của ta là quá chậm. Có những giai doạn tăng trưởng tưởng chừng như tốc độ cổ phần hoá đang tăng lên và cứ theo đà đó thì nước ta có thể sớm hoàn thành việc sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà Nước. Nhưng sang đến năm 2000 và 5 tháng đầu năm 2001 tốc độ này lại giảm xuống nghiêm trọng. Vậy ta thử tìm nguyên nhân của tình trạng trên là do đâu.
III. NGUYÊN NHÂN LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở VIỆT NAM.
1. Những vướng mắc trong nhận thức tư tưởng.
1.1 Các cán bộ quản lý luôn có tâm lý lo sợ về tương lai phát triển đất nước
Cụ thể là:
Chệch hướng XHCN.
Tụt hậu so với sự phát triển chung.
Tệ nận tham nhũng của một số cán bộ quản lý.
Vì thế các cán bộ cao cấp còn rất rè rặt trong việc chỉ đạo công tác cổ phần hoá. Cũng chính vì tệ nạn tham nhũng đang phát triển tương đối rộng khắpnên các nhà lãnh đạo muốn giữ “ thế thủ”, họ không hăng hái trong công tác này, theo họ thì cổ phần hoá sẽ làm nền kinh tế bị chệch hướng XHCN nhưng cũng có thể do họ biết rằng khi chuyển sang công ty cổ phần thì họ sẽ không thể thu lợi nhiều cho bản thân.
Đối với cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp.
Những người này đều do Nhà Nước bổ nhiệm, do vậy khi chuyển sang công ty cổ phần thì họ đều lo rằng sau khi cổ phần hoá thì mình có còn “ chỗ ngồi” hay không , họ phải đối phó với nguy cơ không giữ được cương vị lãnh đạo trước đại hội đồng cổ đông vì thế họ không hề muốn doanh nghiệp mình được cổ phần hoá.
1.2 Đối với người lao động.
Do chưa nhận thức đầy đủ lợi ích của cổ phần hoá nên họ e ngại sau khi
Cổ phần hoá họ sẽ mất việc làm, hoặc nếu không mất việc làm thì lương sẽ thấp đi, bên cạnh đó là tâm lý an phận, không muốn sự thay đổi nên họ không “ mặn mà” lắm với cổ phần hoá.
2. Cơ chế chính sách về cổ phần hoá chưa hoàn chỉnh và thống nhất.
Mặc dù Chính Phủ đã ban hành số 44/CP để tạo động lực thúc đẩy cổ phần hoá bằng khuyến khích rõ rệt hơn nhưng quá trình triển khai trong thực tế lại nảy sinh những vấn đề mới:
2.1 Định giá tài sản.
Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp chưa thống nhất và nó đang là một vấn đề nan giải, chưa có một định hướng rõ nét căn bản, mọi phương pháp định giá chỉ mang tính tạm thời. Tài sản của doanh nghiệp được mua sắm vào những thời gian khác nhau với trình độ công nghệ và giá cả khác nhau, vì thế mức độ sử dụng trong sản xuất cũng khác nhau, không những thế ở nhiều doanh nghiệp sổ sách kế toán không đầy đủ và rõ ràng, vì vậy khi nmuốn định giá tài sản họ cũng không có thông tinthị trường để định giá. Vì thế thời gian xác định giá trị dioanh nghiệp thường kéo dài và có sự khác biệt ý kiến giữa thành viên của hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp và đại diện của doanh nghiệp dẫn tới làm chậm tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
2.2 Chính sách ưu đãi đối với người lao động.
Các chính sách ưu đãi đối với người lao động khi đưa ra đã nảy sinh những vấn đề chính sách không sát với thực tế.
Ví dụ như tiêu chuẩn xác định lao ddộng nghèo được xác định trong phạm vi cả nướcvới giá ưu đãi nhỏ hơn 30% so với giá bán ra, nhưng lại không tính tới mặt bằng giá sinh hoạt ở các vùng khác nhau là khác nhau, ở nhiều nơi người lao động cũng không thể mua nổi cổ phần ưu đãi vì nó vượt quá khả năng tài chính thực tế của họ, vì thế việc bán cổ phần sẽ gặp nhiều khó khăn làm cho tiến độ sẽ bị chậm lại.
Ngoài ra, việc quy định các cán bộ không được mua cổ phần quá mức bình quânchung của người lao động nhằm bảo đảm sự bình đẳng trong doanh nghiệp cũng làm giảm lòng tin của người lao động vào chủ trương cổ phần hoá ( vì khi cán bộ lãnh đạo không “ dám” mau nhiều cổ phần thì người lao động dù có vốn cũng không dám mua vì họ e ngại rằng việc cổ phần hoá là không đáng tin cậy)
2.3 Tính bắt buộc trong công tác cổ phần hoá.
Việc để các doanh nghiệp tự nguyện tiến hành cổ phần hoá cũng sẽ làm tiến trình cổ phần hoá vì các cán bộ lãnh đạo cũng như người lao động trongdoanh nghiệp lo sợ rằng sau khi cổ phần hoá thì quyền lợi của họ sẽ bị giảm đi làm cho sự mong muốn cổ phần hoá bị giảm theo vì thế nếu trông vào sự tự giác của họ thì rât khó đạt được kết quả mong muốn, Nhà Nước cần có chính sách để buộc một số DNNN phải tiến hành cổ phần hoá.
3. Những khó khăn liên quan đến tổ chức quá trình cổ phần hoá.
Nhà Nước chỉ chủ trương cổ phần hoá một số DNNN và vẫn giữ lại các DNNN khác. Việc lựa chọn DNNN để chuyển thành công ty cổ phần được thực hiện trên cơ sở phương án sắp xếp lại đổi mới quản lý DNNN. Trong thực tế việc doanh nghiệp tự nguyện đăng kí cổ phần hoá sẽ dẫn tới sự chậm chễ vì doanh nghiệp có tư tưởng chờ đợi, còn việc cơ quan chủ quản ra quyết định buộc doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá thì vấp phải sự phản ứng của doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa quyết tâm và chưa có ý định cổ phần hoá.
Mặt khác, tại doanh nghiệp cán bộ quản lý cùng lúc phải thực hiện 2 công việc: duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và thực hiện công việc liên quan đến cổ phần hoá doanh nghiệp. Trong khi sự giúp đỡ của các cơ quan quản lý hữu quan chưa thường xuyên và chưa chặt chẽ.
4. Những khó khăn trong kĩ thuật soạn thảo hồ sơ cổ phần hoá.
Trong hồ sơ chuyển DNNN thành công ty cổ phần gồm có: phương án kinh doanh và điều lệ công ty cổ phần. Việc soạn thảo phương án kinh doanh sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp và điều lệ công ty( về tổ chức và hoạt động) được coi là quan trọng bậc nhất. Những tài liệu này quy định những nội dung cơ bản về đường lối, phương hướng phát triển, tổ chức và hoạt động của công ty trong tương laiviệc xây dựng phương án kinh doanh cho một vài năm trước mắt ( sau cổ phần hoá) gặp rât snhiều khó khăn do thiếu những thông tin dự báo cần thiết vì thế nó được soạn thảo rất sơ sài và ít có giá trị thực tế.
Kể từ 1/1/2000 Luật doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực, trong đó có những điều khoản quy định về tổ chức hoạt động của công ty cổ phần, vì thế các công ty cổ phần sẽ phải chỉnh lý lại bản điều lệ mẫu cho phù hợp với Luật doanh nghiệp. Sự ra đời chậm chễ của Luật doanh nghiệp cũng có thể gây nên những khó khăn nhất định cho các doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá.
5.Thị trường Chứng Khoán hoạt động chưa có hiệu quả.
Việc ra đời của Thị trường Chứng Khoán đánh đấu một bước phát triển mới của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở nước ta, tạo ra một kênh huy độnh vốn cho sự phát triển nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá.
Qua các phiên giao dịch chứng khoán ta thấy một số khó khăn:
Số lượng cổ phiếu bán ra ít trong khi yêu cầu về số lượng cổ phiếu cần mua vào thì nhiều.
Giá cổ phiếu bị hạn chế ở mức trần.
Số công ty tham gia niêm yết cổ phiếu ít.
Đến nay mới chỉ có 7 công ty cổ phần tham gia niêm yết cổ phiếu trên Thị trường Chứng Khoán như vậy là quá ít. Chính vì hiểu biết của nhà đầu tư còn thấp cộng với yếu tố tâm lý “ chờ xem” làm cho hiệu quả hoạt động của Thị trường Chứng khoán thấp, nên không thúc đẩy được tiến độ cổ phần hoá nhanh lên. Vì nếu tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp mình họ sợ không bán được cổ phần, các nhà đầu tư thì e ngại rằng vốn của họ sẽ “chết” cùng với doanh nghiệp. Mà nếu tiến đọ cổ phần hoá diễn ra chậm thì trên Thị trường Chứng Khoán sẽ càng ít hành hoá từ đó “vòng luẩn quẩn” sẽ lặp lại và tiến trình cổ phần hoá sẽ vẫn diễn ra chậm chạp.
Ngoài những nguyên nhân trên, thì thói quen giữ tiền chứ không hùn vốn để kinh doanh của người dân, hay việc chuyển DNNN( thường là các doanh nghiệp đang kinh doanh thua lỗ) thành công ty cổ phần sẽ gây tâm lý không tốt đối với người dân cũng làm chậm tiến trình cổ phần hóa.
Trên cơ sở xem xét những nguyên nhân vì sao tiến trình cổ phần hoá lại diễn ra chậm từ đó có thể đưa ra các giải pháp khắc phục những kghó khăn đó để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các DNNN, hoàn thành kế hoạch đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế Nhà Nước.
PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ CÁC DNNN Ở NƯỚC TA
I.GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ MỘT SỐ DNNN Ở NƯỚC TA.
Dựa trên đề án tổng thể sắp xếp các DNNN trong thời gian tới được trình Thủ tướng Chính Phủ xem xét phê duyệt ta thấy số doanh nghiệp cần được đổi mới trong thời gian tới:
2001
2002
Tổng
2003-2005
Tổng số
733
749
1482
1000
1. Theo quy mô doanh nghiệp
- > 10 tỉ
68
94
162
100
- 1 - 10 tỉ
415
366
781
900
- < 1tỉ
250
289
539
-
2. Theo hình thức sắp xếp.
- Sát nhập, hợp nhất
107
94
201
-
- Cổ phần hoá
345
374
719
-
- Giao bán, khoán, cho thuê
133
126
259
-
- Giải thể, phá sản
132
141
273
-
- Chuyển thành đvị sự nghiệp
13
14
27
-
Để đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá cần phải thực hiện một số giải pháp sau đây:
1.Quán triệt sâu sắc chủ trương,chính sách và giải pháp đổi mới cácDNNN.
Trước hết cần triển khai tổ chức thực hiện lộ trình đã nêu của Chính Phủ một cách kiên quyết ngay trong năm 2001 . Đồng thời cần làm cho nhân dân và đặc biệt là người lao trong các DNNN hiểu rõ mục tiêu đổi mới và phát triển DNNN là nhằm làm cho khu vực kinh tế Nhà Nước ngày càng mạnh hơn, có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn, đảm bảo cho thu nhập của người lao động bằng việc tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và các chính sách hỗ trợ của Nhà Nước. Người lao động và chủ đầu tư nhờ đó mà có cơ hội làm chủ thật sựcủa doanh nghiệp thông qua việc mua cổ phần. Hơn nữa, cần làm cho mọi người hiểu rằng cổ phần hoá DNNN là xuất phát từ yêu cầu phát triển doanh nghiệp, nhằm huy động thêm vốn cả trong và ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề , hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng thêm khả năng cạnh tranh, tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và tăng thu nhập cho người lao động. Đa dạng hoá là hình thức chủ yếu, quan trọng hàng đầu, có nội dung, bản chất, cách làm khác hẳn với các nước khác trên thế giới. Đó chính là hình thức chuyển một bộ phận hoặc toàn bộ DNNN thành công ty cổ phần để nhiều người sở hữu doanh nghiệp theo tỉ lệ cổ phần của mình. Chỉ có cơ sở nhận thức sâu sắc như vậy mới có thể hành động thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan hoạch định chính sách, chỉ đạo đến cơ sở thực hiện. Trên nền tảng chương trình quốc gia, các bộ, ngành, địa phương, các tổng công ty 91 cần phải thực hiện bằng được chương trình cổ phần hoá, chuyển đổi sở hữu, đổi mới quản lý DNNN.
2. Hoàn thiện việc xác định giá trị doanh nghiệp và giải quyết những tồn đọng về tài chính.
Các DNNN khi tiến hành cổ phần hoá đều phải xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp( là giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua và người bán đều có thể chấp nhận được) sao cho phù hợp với các nguyên tắc của thị trường. Trong khi xác định giá trị các tài sản trong doanh nghiệp phải bảo đảm không gây thất thoát tài sản Nhà Nước đồng thời cũng phải bảo đảm thuận lợi cho công ty cổ phần hoạt đọng có hiệu quả.
Trước hết, cần phân loại tài sản Nhà Nước đã đầu tư cho doanh nghiệp để có phương án xử lý thích hợp, công ty cổ phần nhận những tài sản phù hợp với phương án kinh doanh mới. Nhà Nước sẽ điều động chuyển sang cho doanh nghiệp khác hoặc tổ chức bán đấu giá những tài sản còn lạiđể thu hồi vốn chứ không ép buộc công ty cổ phần phải nhận lại toàn bộ tài sản Nhà Nước hiện có tại doanh nghiệp.
Với những tài sản mà doanh nghiệp đi vay vốn tự đầu tư và đã hoàn trả hết thì nên chia làm 2 phần: một phần hoàn trả Nhà Nước, một phần tính cho người lao động vì họ là những người đã lao động để tạo ra tài sản, còn Nhà Nước là người đứng ra đại diện vay vốntạo điều kiện cho họ làm việc, vì vậy họ xứng đáng được hưởng một phần tài sản đó coi đó là phần Nhà Nước khuyên khích sự tích cực, chủ động của tập thể người lao động trong doanh nghiệp.
Phải xác định những tồn đọng tài chính của doanh nghiệp mà công ty cổ phần sẽ kế thừa một cách hợp lý, hợp tình. Nừu không giải quyết được những món nợ đó thì việc chuyển đổi doanh nghiẹp sẽ gặp rất nhiều khó khăn do các cổ đông sẽ không ai mua cổ phần của một công ty nợ chồng nợ chất cả.Còn về những khoản nợ mà doanh nghiệp cho vay thì những khoản nào đòi được thì đòi, những khoản nào khó đòi thì có thể xoá bỏ,ngoài ra cả những khoản lỗ phát sinh do những nguyên nhân khách quan gây nên: lạm phát, do thay đổi tỉ giá hối đoái…cũng có thể xoá bỏ.
Đổi mới tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp nhằm thu hút những chuyên gia thực sự có năng lực vào việc đánh giá tài sản và đề cao vai trò của người đại diện doanh nghiệp trong việc xác định giá trị doanh nghiệp, mở rộng chế độ phân cấp trong việc quyết định giá trị doanh nghiệp theo nguyên tắc: cơ quan thành lập (thành lập lại) DNNN có quyền quyết định giá trị doanh nghiẹp khi chuyển đổi hình thức sở hữu, không kể giá trị ở mức nào. Tức là người đại diện cho Nhà Nước tại doanh nghiệp hoặc được cử xuống doanh nghiệp để xúc tiến việc chuyển đổi hình thức sở hữu áp đặt ra giá trị của doanh nghiệp để xúc tiến việc chuyển doanh nghiệp Nhà Nước thành công ty cổ phần nhanh chóng hơn.
3. Hoàn thiện cơ chế chính sách về cổ phần hoá DNNN.
Chính sách về cổ phần hoá các DNNN cần dược hoàn thiện để chúng phù hợp với Luật doanh nghiệp theo các hướng sau:
Bỏ quy định về hạn chế mức mua cổ phần lần đầu và mức mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, theo đó không được mua quá mức bình quâncủa các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp. Điều đó nhằm khuyến khích việc huy động vốn và vai trò tích cực của giám đốc doanh nghiệp để làm cho mọi người đều quan tâm và hưởng ứng chủ chương này.
Thay đổi phương pháp định giá doanh nghiệp theo hội đồng hoặc theo kiểu hành chính chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan như hiện nay sang hình thức đấu giá thịnh hành trong nền kinh tế thị trường. Trong giai đoạn trước mắt cơ chế hiện hành nên được điều chỉnh như sau:
Đối với DNNN có vốn Nhà Nước trên sổ sách kế toán trên 10 tỉ đồng ; bộ trưởng, chủ tịch uỷ ban nhân dân(UBND) tỉnh, hội đồng quản trị tổng công ty 91 được giao nhiệm vụ quyết định toàn bộ giá trị doanh nghiệp như quy định tại nghị định số 44/1998/NĐ-CP để nâng cao trách nhiệm của họ trong vấn đề này và khắc phục tình trạng quyết định một cách hình thức như hiện nay.
Đối với DNNN có vốn Nhà Nước nhỏ hơn 30% số vốn ghi trong sổ sách thì bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, hội đồng quản trị tổng công ty 91 phải giải quyết giá trị doanh nghiệp. Điều đó nhằm xoá bỏ các thủ tục hành chính rườm rà thông qua bộ Tài chính như hiện nay.
Ban hành những hướng dẫn về việc sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá DNNN cũng như việc sử dụng tiền bán cổ phần đối với doanh nghệp cổ phần hoá và lợi tức cổ phần của phần vốn Nhà Nước tại DNNN đã cổ phần hoáđể có thể huy động nhanh chóng và có hệu quả nhất khoản tiền vay và khắc phục tình trạng tồn đọng hiện nay tại kho bạc Nhà Nước.
Nâng tỉ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi ở những DNNN để thu hẹp phần chênh lệch được mua ưu đãi giữa các doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà Nước và ít vốn Nhà Nước. Đối với DNNN có mức vốn tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp thì tỉ lệ cổ phần được mua ưu đãi sẽ tăng từ 30% lên 50% giá trị phần vốn Nhà Nước tại doanh nghiệp. Đối với nguồn vốn tự tích luỹ, hoặc có được do doanh nghiệp tự đi vay và đã được thanh toán bằng vốn tự có của doanh nghiệp thì tỉ lệ này cũng sẽ là 70%.
Khẩn trương ban hành chính sách ưu đãi để nhà cung cấp nguyên liệu được phép mua cổ phần của nhà máy chế biến được cổ phần hoá, nhằm gắn lợi ích với trách nhiệm của nhà cung cấp. Điều đó sẽ đảm bảo một cơ sở nguyên liệu vững chắc cho ngành chế biến, vì lúc đó nhà cung cấp sẽ cung cấp nguyên liệu có chất lượng cao, giá thành hạ và bảo đảm khối lượng nguyên liệu ổn định.
Ban hành các chính sách để chấm dứt tình trạng bất bình đẳng trong quan hệ với các tổ chức tín dụng, giữa các DNNN với các doanh nghiệp đã cổ phần hoá . Đồng thời ban hành quy chế hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng và các tổ chức đoàn thể khác trong các công ty cổ phần.
Tăng cường công tác quản lý đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, đặc biệt là trên các mặt như định hướng, chiến lược, quy hoạch, phát triển theo ngành kinh tế, kĩ thuật và trên địa bàn lãnh thổ, tài chính và thuế, quản lý phần vốn Nhà Nước trong công ty cổ phần.
4. Tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng đồng bộ hơn cho tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần.
Đòi hỏi sự đồng bộ của hệ thống văn bản pháp quy ngay trong điều kiện hiện nay là điều không thực tế. Việc vội vã ban hành những văn bản pháp quy không hợp lý để rồi ngay trong thời gian ngắn điều chỉnh hoặc thay bằng văn bản khác sẽ tạo ra sự bất định trong môi trường kinh doanh.
Trong vấn đề phức tạp này cần chú ý 2 điểm sau đây:
Thứ nhất, về nguyên tắc, DNNN chuyển thành công ty cổ phần phải hoạt động theo luật công ty, theo tính chất của công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu. Trong khi đó luật DNNN lại quy định: “ luật này áp dụng với DNNN dưới hình thức doanh nghiệp độc lập, tổng công ty, DNNN thành viên của tổng công ty và quản lý phần vốn Nhà Nước đầu tư ở các DNNN. Theo đó công ty cổ phần sẽ là đối tượng điều chỉnh của cả luật DNNN và luật công ty, các doanh nghiệp kiểu này không dễ hoạt động trong điều kiện đó.
Thứ hai, trong luật công ty đã quy định những điều khoản chung về việc công ty cổ phần phát hành cổ phiếu. Nhìn chung, phát hành cổ phiếu là một công việc mới mẻ và hết sức phức tạp, bởi vậy Nhà Nước cần sớm ban hành quy chế phát hành cổ phiếu, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần hoạt động có hiệu quả, có thể huy động thêm vốn để phát triển sản xuất kinh doanh.
5.Tạo sự kích thích mạnh hơn bằng những ưu đãi về kinh tế.
Nghị định số28-1996/NĐ-CP đã giành cả chương III để đề cập những ưu đãi đối với doanh nghiệp và công nhân viên chức trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Tuy nhiên một số khoản trong đó cũng là những ưu đãi chung các doanh nghệp khác hoặc không thể coi là ưu đãi theo đúng nghĩa của nó. để thực sự tạo kích thích cao trong việc thực hiện cổ phần hoá cần có nhiều ưu đãi thoả đáng hơn.
Thứ nhất cần quy định bộ sung một số ưu đãi với doanh nghiệp:
Cho phép tách số tài sản không còn giá trị sử dụng và những tài sản không phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh ra khỏi giá trị doanh nghiệp nhằm trợ giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng tài chính trong quá trình hoạt động. Những tài sản này sẽ được chuyển giao lại cho Nhà Nước để xử lý cho phù hợp với pháp luật hiện hành. Cho phép doanh nghiệp được hưởng ưu đãi cao hơn về thuế so với quy định của nghị định 26- CP, thời hạn miễn giảm thuế có thể là 3- 5 năm chứ không phải là 2 năm như hiện nay.
Thứ hai, chú ý thoả đáng hơn những ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp:
Về cổ phần Nhà Nước cấp cho người lao động trong doanh nghiệp, chỉ nên quy định theo tổng giá trị doanh nghiệp, không cần quy định mức giá tuyệt đối khống chế như nghị định 28- CP đã xác định. Để khắc phục tình trạng chênh lệch quá đángvề mức cổ phần
Nhà Nước cấp giữa các doanh nghiệp, có thể quy định tỉ lệ này theo tính chất ngành nghề hoặc theo vùng.
Về quyền thừa kế loại cổ phần này, cần nới lỏng điều kiện giàng buộc cho phù hợp với thực tế và bảo đảm thấu tình đạt lý trongthái độ đối xử với người có công xây dựng doanh nghiệp, người nhận thừa kế chỉ cần bảo đảm về mặt pháp lý là vợ( chồng ), con, người đó không nhất thiết phải làm trong doanh nghiệp.
6.Tăng cường chỉ đạo đối với công tác cổ phần hoá.
Củng cố hệ thống tổ chức chỉ đạothực hiện bằng cách kiện toàn các ban đổi mới doanh nghiệp từ trung ương đến các tỉnh, thành phố thuộc trung ương, các tổng công ty 91. Các ban này phải là cơ quan giúp Chính Phủ, bộ, ngành địa phương, tổng công ty 91 triển khai thực hiện tốt lộ trình đổi mới và phát triển DNNN.
Gắn chặt trách nhiệm của Bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, hội đồng quản trị tổng công ty 91với nhiệm vụ đổi mới và phát triển DNNN, nhiệm vụ cổ phần hoá và thực hiện chức năng quản lý hành chính trong phạm vi cả nước, ngành, địa phương được phân công theo quy định của pháp luật. Có chế độ khen thưởng với những nơi, những người làm tốt và xử phạt những người không hoàn thành nhiệm vụ.
Hình thành bộ máy giúp Chính Phủ về đổi mới quản lý doanh nghiệp gồm từ nghiên cứu hoạch định chính sách, xây dựng chương trình kế hoạch và tổ chức chỉ đạo thực hiện trong cuộc sống.
Đến nay đổi mới quản lý DNNN đã bước sang giai đoạn mới thể hiện sự biến đổi về chất trong đường lối chỉ đạo phát triển doanh nghệp nói chung và DNNN nói riêng, với lộ trình và mục tiêu rõ ràng, hiệu quả kinh tế phải đạt được.Vì vậy bộ máy giúp việc cần tăng cường cả về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm lẫn những điều kiện đảm bảo toàn thành chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm đó.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY NHANH TIẾN ĐỘ CỔ PHẦN HOÁ MỘT SỐ DNNN Ở VIỆT NAM
1. Giải quyết tốt vấn đề lao động và việc làm tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá.
Khi thực hiện cổ phần hoá DNNN, phương án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh hiệu quả phải được chú trọng nhằm sử dụng tốt hơn vốn đầu tư của chủ sở hữu, duy trì và thu hút thêm lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu. Đối với người lao động tự nguyện thôi việc, doanh nghiệp có thể giải quyết chính sách thôi việc cho họ theo quy định hiện hành, sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp cổ phần hoá doanh nghiệp để bổ xung. Số lao động dôi dư khi chuyển đổi hình thức sở hữu sẽ được quỹ này hỗ trợ đào tạo và đào tạo lại để có thể tiếp tục làm việc tại doanh nghiệp đó hoặc tìm việc làm mới ở nơi khác. Vì vậy cần nghiên cứu để sửa đổi các quy định của luật lao động theo hướng cho phép áp dụng chế độ trợ cấp mất việc cho một số lao động dôi dư tại thời điểm tiến hành cổ phần hoá DNNN.
2. Cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tạo điều kiện cho vốn lưu chuyển linh động hơn.
Chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức các công ty trách nhiệm hữu hạn( TNHH) nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mạnh dạn mua cổ phần. Việc cổ phần hoá các công ty TNHH thành công ty cổ phần đang là một xu thế tất yếu khách quan, đồng thời cũng là một giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương chính sách của Nhà Nước. Cần tiếp tục cải thiện không ngừng môi trường đầu tư theo hướng thông thoáng và hấp dẫn hơn nữa đối với các nhà đầu tư.
Để khuyến khích việc tiến hành cổ phần hoá các công ty TNHH cần phải tạo cơ sở pháp lý và lựa chọn một số cơ sở tiêu biểu để tiến hành thí điểm cổ phần hoá. Đây được coi là một hướng để giải quyết các nhu cầu đa dạng hoá các kênh thu hút vốn đâù tư và hình thức đầu tư trên Thị trường Chứng Khoán.
3. Tiến hành cổ phần hoá một số doanh nghiệp trong lĩnh vực thuộc độc quyền Nhà Nước để nâng cao tính cạnh tranh trong nền kinh tế.
Với 17 tổng công ty 91 và 74 tổng công ty 90 gồm 1150 thành viên đã nắm giữ trong tay một phần tương đối lớn trong số hơn 6000 DNNN và chiếm giữ các ngành, nghề độc quyền như: bưu điện, điện lực, nước, than, khí đốt… giữ vị trí then chốt nhất chi phối những nguồn lực phát triển quan trọng nhát của nên kinh tế. Những DNNN có mức lãi trước thuế cao nhất đồng thời cũng có cấp độ độc quyền cao nhất, được bao trùm lên cả một lĩnh vực kinh doanh và áp dụng một loại giá cả khá cao so với mặt bằng chung của thế giới mà tiêu biểu là giá cước viễn thông.
Việc Nhà Nước tiến hành cổ phần hoá một số DNNN thuộc các lĩnh vực độc quyền trên sẽ làm tăng tính cạnh tranh trong nền kinh tếtừ đó làm tiền đề cho nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN phát huy tốt các chức năng của nó từ đó sẽ thúc đẩy nênd kinh tế phát triển nhằm đạt tới mục tiêu mà Đảng và Nhà Nước ta đã đề ra.
Ngoài ra việc xây dựng luật cạnh tranh và luật chống độc quyền cũng là hết sức cần thiết nó góp phần tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh cho mọi thành phần kinh tế mà Nhà Nước đã thừa nhận.
4. Nhà Nước cần có những chính sách bắt buộc một số DNNN phải tiến hành cổ phần hoá.
Đối với bản thân các cán bộ, công nhân viên chức trong doanh nghiệp, chính sách cổ phần hoá vẫn chỉ là một chủ trương nêu ra, chưa có tính bắt buộc đối với các bộ, ngành, địa phương và các DNNN phải thực hiện, cho nên việc doanh nghiệp thực hiện cũng được mà không thực hiện thì cũng chẳng sao. Các cán bộ ngành, địa phương thì không chỉ định doanh nghiệp nào phải tiến hành cổ phần hoá mà chỉ thụ động ngồi chờ doanh nghiệp tự nguyện đăng kí cổ phần hoá.Trong khi đó các cán bộ lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp do lo sợ bị mất quyền lợi sau khi cổ phần hoá doanh nghiệp nên họ cũng không “mặn mà” lắm với chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp mình. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình cổ phần hoá.
Để khắc phục tình trạng này Nhà Nước cần ban hành một số chính sách bắt buộc một số DNNN phải tiến hành cổ phần hoá, đặc biệt là với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Ngoài ra cần nghiên cứu việc giới hạn thời gian để doanh nghiệp thực hiện xong chương trình cổ phần hoá để tránh tình trạng “ chây ì”, an phận của các cán bộ lãnh đạo và người lao động trong doanh nghiệp.
5. Nhà Nước nên tiến hành cổ phần hoá nhiều hơn đối với những DNNN làm ăn có lãi.
Hầu hết các DNNN đã cổ phần hoá cho đến thời điểm hiện nay trước khi cổ phần hoá thì đều là những doanh nghiệp có hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, làm ăn thua lỗ đời sống người lao động trong doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì thế đã làm giảm lòng tin của các cổ đông vào sự thành công của chương trình cổ phần hoá, họ sợ rằng sau khi cổ phần hoá thì doanh nghiệp vẫn chỉ làm ăn thua lỗ mà thôi và như thế vốn cuả họ sẽ bị chìm luôn với doanh nghiệp.
Việc Nhà Nước tiến hành cổ phần hoá cả các doanh nghệp đang kinh doanh có hiệu quả sẽ giúp những người có vốn thấy rằng thành công của cổ phần hoá là tất yếu. Ngay cả các doanh nghiệp dang kinh doanh có lãi mà cũng tiến hành cổ phần hoá thì có nghĩa doanh nghiệp đang nhìn thấy một tương lai tươi sáng ở phía trước, chứ sau khi cổ phần hoá mà thua lỗ thì không bao giờ họ chịu tiến hành cổ phần hoá. Từ đó lòng tin của các chủ đầu tư vào thành công của chương trình cổ phần hoá sẽ tăng lên và họ sẽ tích cực tham gia mua cổ phần của doanh nghiệp hơn làm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp.
6. Nghiên cứu cơ chế chính sách bán cổ phần cho người Việt Nam ở nước ngoài và cả người nước ngoài.
Đây là 2 nguồn cung cấp những nguồn ngoại tệ rất lớn ở Việt Nam. Những người này có tiềm lực về tài chính , họ lại khá am hiểu về cổ phần hoá, đơn giản vì họ đã trải qua quá trình cổ phần hoá ở các nước, mặt khác vốn kiến thức của họ lại rất cao. Trong bối cảnh tiến trình cổ phần hoá của nước ta diễn ra chậm thì việc bán cổ phần cho họ cũng là một giải pháp có thể chấp nhận được. Tất nhiên việc bán cổ phần cho họ thì Nhà Nước cần có những chính sách cụ thể để làm giảm những thiệt hại mà những người này có thể mang lại cho nền kinh tế và cho cả chế độ chính trị của nước ta.
Bán cổ phần cho người nước ngoài chúng ta phải đối mặt với nguy cơ bị thôn tính về kinh tế, từ đây sễ dẫn tới nguy cơ chệch hướng XHCN.Đòi hỏi Nhà
Nước phải có những chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu tới mức thấp nhất. Chúng ta có thể hạn chế số cổ phần mà một công ty , tổ chức , người nước ngoài được mua từ đó giảm tỉ lệ quyết định của họ trong hội đồng quản trị cũng như trong đại hội cổ đông.
KẾT LUẬN
Trong tình hình nước ta hiện nay, vấn đề cổ phần hoá đang đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lí luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế Nhà Nước và chuyển nền kinh têa hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà Nước. Sau 9 năm thực hiện cổ phần hoá chúng ta đã thu được một số thành tựu nhất định tuy rằng chưa đúng với mục tiêu kế hoạch đề ra, các DNNN sau khi được cổ phần hoá hầu hết đều kinh doanh có lãi, đời sống người lao động được cải thiện, gánh nặng ngân sách được giảm bớt.
Tuy nhiên do quá trình cổ phần hoá đang diễn ra chậm nên thiết nhgĩ còn có nhiều vấn đề ohải được các cấp các ngành nghên cứu sâu thêm góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá đạt được kết quả mong nuốn.
Bài viết của em chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản của quá trình cổ phần hoá các DNNN ở nước ta với mục đích góp phần rất nhỏ trong việc xây dựng quan điểm chỉ đạo cho công tác cổ phần hoá các DNNN đang được tiến hành trong 9 năm qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phạm quang Huấn- Nhìn lại 9 năm thực hiện cổ phần hoá DNNN: Tạp chí quản lý Nhà Nước.
Nguyễn Sơn- Về một số giải pháp thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá DNNN: Thị trường tài chính số 6/1998.
Phạm ngọc Giao- Cổ phần hoá là con đường tất yếu để doanh nghiệp phát triển: Lao động xã hội số tháng 8/1998.
Phạm quang Huấn- Một số biện pháp cần làm để thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN: Thị trường tài chính tiền tệ số 3/1998.
DNNN trong tiến trình đổi mới: Thông tin tài chính số 1+2/1998.
DNNN sau 10 năm đổi mới những vấn đề đặt ra: tạp chí kinh tế phát triển số 21/1998.
Nguyễn hải Thập- Cổ phần hoá các DNNN những khó khăn cần khắc phục: Tạp chí xây dựng số 10/1998.
Vũ Lục- Quy trình cổ phần hoá DNNN: tạp chí tài chính doanh nghiệp số tháng 3/1998.
Võ văn Đức- Thử tìm nguyên nhân và giải pháp đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá DNNN: Tạp chí nghiên cứu lí luận số 6/1998.
Đặng cẩm Thuý- Nhận thức đúng về cổ phần hoá một số DNNN:Văn Hóa số 2/1998.
Phạm hùng Nghị- Cổ phần hoá thiếu động lực:Thời báo kinh tế Việt Nam số 68/1999.
Nguyễn anh Thi- Cổ phần hoá vì sao còn chậm: Thời báo kinh tế Việt Nam số 52/1999.
Bắc Hải- Cổ phần hoá khá thành công: Thời báo kinh tế Việt Nam số 30/1999.
Nguyễn ngọc Quang- Cổ phần hoá DNNN giải pháp chiến lược đổi mới khu vực kinh tế Nhà Nước: Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 202.
Nguyễn ái Đoàn- Mục tiêu và điều kiện cổ phần hoá DNNN:Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 209.
GS.TS Phan văn Tiệm- Cổ phần hoá một bộ phận DNNN để nâng cao vai trò chủ đạo của hệ thống DNNN: Tạp chí tài chính.
PGS.PTS Nguyễn kế Tuấn- Cổ phần hoá DNNN mục tiêu, thực trạng và kiến nghị: Tạp chí kinh tế và phát triển.
Trang thị Tuyết- Nên nhận thức thế nào về cổ phần hoá DNNN?:Tạp chí lao đông xã hội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0744.doc